Ngẫu Ích đại sư dạy rằng: “Được vãng sinh hay chăng, toàn bộ Tín Nguyện có hay không, phẩm vị thấp hay cao, đều bởi hành trì sâu hoặc cạn. Nếu không Tín Nguyện, thì dù trì niệm câu hồng danh cho đến gió thổi không vào, mưa sa chẳng lọt, vững chắc như tường đồng vách sắt, cũng không được vãng sinh”.
Nếu Tín Nguyện bền chắc, thì khi lâm chung chỉ xưng danh hiệu mười niệm hay một niệm cũng được vãng sinh. Trái lại, việc hành trì tuy vững như vách sắt tường đồng mà Tín Nguyện yếu kém, thì kết quả chỉ hưởng được phước báo nhơn thiên mà thôi.
Như vậy, sự phát nguyện thật vô cùng cần thiết và quan trọng. Cho nên, đức Bổn sư cứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong kinh A-di-đà: “Lại nữa Xá-lợi-phất, chúng sinh được về cõi Cực lạc đều là hàng A-bệ Bạt-trí, trong ấy có rất nhiều bậc nhất sinh bổ xứ, số lượng rất đông, không thể dùng toán số mà tính biết được, chỉ có thể lấy số “vô lượng vô biên tăng kỳ” để nói mà thôi. “Xá-lợi-phất! Chúng sinh nghe rồi phải nên phát nguyện cầu sinh về cõi nước kia. Bởi tại sao? Vì được cùng các bậc thượng thiện nhân như thế, đồng họp một chỗ.”
“...Xá-lợi-phất! Ta thấy sự lợi ích đó, nên nói lời nầy: Nếu có chúng sinh nào nghe lời nói đây phải nên phát nguyện cầu sinh về quốc độ ấy”.
“...Xá-lợi-phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sinh về nước Phật A-di-đà, thì những người đó hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh, đều được không thối chuyển nơi quả vị vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở cõi nước kia. Cho nên, Xá-lợi-phất các thiện nam tử, thiện nữ nhân nếu có lòng tin thì phải nên phát nguyện cầu sinh về cõi nước kia...”.
Như trên đây, chúng con thấy đức Thích Ca mãi nhắc đi nhắc lại hai chữ “phát nguyện” lời và ý đều khẩn thiết. Cho đến phần kết thúc kinh A-di-đà, Ngài cũng vẫn đôi ba phen bảo chúng con phải phát nguyện cầu vãng sinh Cực lạc.
Tại sao như vậy? Vì nếu được về cõi Cực lạc sẽ được ở cảnh giới vô cùng mầu nhiệm trang nghiêm, được thân hình kim cương, đủ ba mươi hai tướng tốt, dứt hẳn nỗi khổ sinh gìa bịnh chết, được gần gũi chư Phật và chư đại Bồ-tát, được hội họp với các bậc thượng thiện nhân, được thần thông tam muội, không còn thoái chuyển nơi quả vị Vô thượng Bồ-đề.
Bởi trí tuệ của Phật nhìn thấy rất nhiều sự lợi ích như thế, nên Ngài mới vận lòng từ bi, vì cứu độ mọi loài hữu tình mà khuyên nên phát nguyện vãng sinh Cực lạc. Lòng bi mẫn của đức Thích Ca Thế Tôn thật là vô lượng, khiến chúng con hôm nay đọc lại lời giáo huấn tha thiết của Ngài, mà tâm tư không khỏi xúc động. Và y theo lời dạy của đức Bổn sư, đệ tử chúng con từ nay nhận thức rõ ràng rằng: “Niệm Phật thì phải phát nguyện, cầu vãng sinh thế giới Cực lạc”.
Chúng con cùng nhau chấp tay, quỳ xuống, một lòng cầu vãng sinh.
“Cúi lạy phương Tây, nơi cõi An lạc.
Tiếp dẫn chúng sinh Đại đạo sư.
Nay con phát nguyện nguyện vãng sinh.
Nhờ lượng từ bi thương nhiếp thọ”.
Đệ tử chúng con khắp vì bốn ơn ba cõi pháp giới chúng sinh cầu đạo Bồ-đề nhất thừa của Phật, chuyên tâm trì niệm, hồng danh đức Phật A-di-đà, nguyện sinh Tịnh độ.
Lại bởi chúng con, nghiệp nặng phước khinh, chướng sâu huệ cạn, nhiễm tâm dễ động, tịnh đức khó thành.
Nay đối Từ Tôn, kính gieo năm vóc, bày tỏ một lòng, chí thành sám hối.
Con và chúng sinh, khoáng kiếp đến nay, mê bản tịnh tâm, buông tham sân si, nhiễm dơ ba nghiệp, vô lượng vô biên, tội cấu đã gây vô lượng vô biên, nghiệp oan đã kết nguyện đều tiêu diệt.
Nguyện từ hôm nay, lập thệ nguyện sâu, xa lìa pháp ác, thề không còn tạo, siêng tu đạo thánh, thề chẳng biếng lui, thề thành Chánh giác, thề độ chúng sinh. Xin đức Từ Tôn, dùng nguyện từ bi, chứng biết lòng con, thương xót đến con, gia bị cho con. Nguyện khi thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, được thấy thân vàng A-di-đà Phật, được chơi cõi Tịnh, của đấng Đạo sư, được nhờ Từ Tôn, cam lộ rưới đầu, quang minh chiếu thể, tay xoa đảnh con, áo đắp thân con, khiến cho chúng con chướng cũ tự trừ, căn lành thêm lớn, mau tiêu phiền não, chóng phá vô minh, viên giác diệu tâm, sáng bừng mở rộng, tịch quang cảnh thật, thường được hiện tiền.
Đến lúc lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không tất cả bệnh khổ ách nạn, tâm dứt tất cả tham luyến mê hoặc, các căn vui đẹp, chánh niệm phân minh, xả báo an lành, như vào thiền định, Phật A-di-đà và Quán Thế Âm cùng Đại Thế Chí cùng chư Hiền Thánh, ánh lành tiếp dẫn, tay báu dắt dìu, lầu các tràng phan, nhạc trời hương lạ, Tây phương cảnh thật, bày hiện rõ ràng, khiến cho chúng sinh, kẻ thấy người nghe, mừng vui khen cảm, phát Bồ-đề tâm.
Bấy giờ thân con, ngồi đài kim cang, bay theo sau Phật, khoảng khảy ngón tay, sinh vào sen báu, nơi ao thất bảo, ở cõi Tây phương. Rồi khi hoa nở, thấy Phật Bồ-tát, nghe tiếng pháp mầu, chứng vô sinh Nhẫn, giây phút lại đi, thừa sự chư Phật. Nhờ ân thọ ký, được thọ ký xong, năm nhãn sáu thông, vô lượng trăm ngàn, môn đà ra ni, tất cả công đức, thảy đều thành tưụ. Từ đó về sau, không rời Cực lạc, trở lại Ta-bà, phân thân vô số, khắp cả mười phương, dùng sức thần thông, tự tại khó nghĩ, và các phương tiện, độ thoát chúng sinh, đều khiến lìa nhiễm, chứng được tịnh tâm, đồng sinh Tây phương, lên ngôi bất thoái.
Nguyện lớn như vậy, thế giới vô tận, chúng sinh vô tận, nghiệp và phiền não, thảy đều vô tận. Đại nguyện chúng con, cũng không cùng tận. Nay con lạy Phật phát nguyện tu trì, xin đem công đức, hồi thí hữu tình, bốn ơn khắp báo, ba cõi đều nhờ, pháp giới chúng sinh, đồng thành chủng trí.
Phát nguyện xong rồi, đệ tử chúng con xin đem cả tánh mạng mà quy y và đảnh lễ chư Phật:
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Đại Từ Bi Phụ A-di-đà Phật, vị Đạo sư tiếp dẫn vãng sinh Cực lạc.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát.
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ-tát.