CHƯƠNG 3
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THUYẾT TÂM TÁNH BỔN TỊNH
1.
Thuyết tâm tịnh
của Kinh Luận thuộc Thanh văn
Thuyết Như lai tạng (tathāgatagarbha), khởi đầu không có liên quan với
thuyết tâm
tánh vốn thanh tịnh (cittaprakṛtiviśuddhi), nhưng trong quá trình lưu
truyền của thuyết
Như lai tạng, trong thân của chúng sanh có cái Như lai tạng thanh tịnh,
cùng với
thuyết ‘tâm tánh vốn thanh tịnh, bị khách trần làm nhiễm ô’, có ý nghĩa
tương tợ,
cho nên ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’ cũng trở thành nội dung quan trọng của
Như
lai tạng học. Nhưng thuyết tâm thanh tịnh của Tảo kỳ, ý nghĩa ở đâu
trong Phật
pháp? Cùng với nội dung của thuyết Như lai tạng thanh tịnh là khác hay
tương đồng?
Nếu như thật sự vì hiểu rõ Phật pháp mà nghiên cứu nó, thì khi nghiên
cứu về
nguồn gốc của tư tưởng Như lai tạng, không thể không chú ý thêm về nó
một cách
sâu sắc! Không thể do vì tôn trọng thuyết Như lai tạng, đã khám phá ra
tâm tánh
vốn thanh tịnh là của Phật giáo nguyên thỉ, rồi cho rằng đó là nguyên
gốc do Phật
thuyết, rồi lấy làm thỏa mãn được vậy!
‘Tâm tánh vốn thanh tịnh’ là có liên quan đến định
(samādhi), định
học cũng được gọi là tâm (citta) học. Tu định ấy thì phải rời xa 5 cái,
cái (āvaraṇa) là ý nghĩa của che lấp. năm cái gồm tham, sân,
v.v., có tác dụng che lấp, khiến cho tâm không thể được lắng trong an
tĩnh,
sáng suốt. Thuyết 5 cái có liên quan đến định ấy, đã làm phát sanh ra tư
tưởng
tâm thanh tịnh. Kinh
Tạp A-hàm(I)
nói:
“Vị tỳ-kheo mà tinh tấn hướng đến tâm thanh tịnh,
thì sự trói buộc của phiền não thô, các nghiệp ác bất thiện, các loại ác tà kiến,
sẽ dần đoạn trừ, làm cho tiêu diệt; như đãi vàng sống kia phải thải bỏ khối đá
cứng rắn.
Lại nữa, vị tỳ-kheo mà tinh tấn hướng đến tâm
thanh tịnh trừ bỏ theo thứ tự các loại cấu thô, dục giác, nhuế giác, hại giác;
(a) như loại vàng sống kia, trừ bỏ lần lượt
cát sỏi.
Lại nữa, vị tỳ-kheo mà tinh tấn hướng đến tâm
thanh tịnh, thứ đến trừ bỏ dơ bẩn, đó là giác về thôn làng, giác về con người,
giác về sanh lên trời, tư duy trừ diệt hết những thứ ấy; như loại vàng sống
kia, trừ bỏ cáu bẩn thô, cát nhỏ, đất đen đi.
Lại nữa, vị tỳ-kheo mà tinh tấn hướng đến tâm
thanh tịnh có giác về pháp thiện, thì tư duy trừ diệt nó, khiến tâm thanh tịnh;
giống như vàng sống, (dùng lửa tôi luyện), trừ khử những cáu bẩn có mà màu sắc
tương tợ như vàng, khiến cho nó thuần tịnh.
…Lại nữa, tỳ-kheo đắc được các tam-muội, không
có nắm giữ về thực hành chúng, đắc được sự tịch tịnh tuyệt diệu thù thắng, đặc
được đạo tịch tĩnh an lạc, nhất tâm nhất ý, trừ bỏ hết các hữu lậu; như vị thầy
luyện vàng, đệ tử của thầy luện vàng, đào luyện vàng sống, khiến cho nó được nhẹ,
mềm, không bị đứt gãy, sáng bóng, bền dẻo, tùy ý (làm các trang sức…) .”
Kinh này, tạng Pāli biên tập vào
Tăng chi bộ.
1 Vàng sống (quặng vàng) được đào luyện bởi
thợ vàng, dần dần được tinh khiết, có thể tạo thành các loại trang sức, tỉ dụ
cho vị tỳ-kheo mà tu định (tịnh tâm), diệt trừ hết dần dần các phiền não, đắc
được tứ thiền, sáu loại thần thông, tự tại. Bản chất của vàng sống là thuần tịnh,
chỉ là bị lai tạp các tạp chất, sự tôi luyện chỉ là trừ khử các tạp chất ấy,
khiến cho chất vàng thuần tịnh ấy được hiển hiện ra. Cái tỉ dụ luyện vàng ấy,
còn có phương pháp tăng lửa, rưới nước, không tăng lửa, không rưới nước, tỉ dụ
cho ‘tư duy về tướng chỉ [an tĩnh, không động]’, ‘tư duy về tướng cử [hoạt động]’,
‘tư duy về tướng xả [không phải tĩnh, không phải động] – ba tướng, của sự tu định;
2 thí dụ việc trừ bỏ sắt, đồng, thiếc,
chì, bạc – 5 loại gỉ (cáu bẩn), nên khiến nó thuần chất vàng bóng sáng, có thể
sử dụng được.
3
Ngoài thí dụ luyện vàng này ra, có có dụ về nước:
tham, sân, hôn trầm, trạo hối, nghi – 5 cái, che lấp tâm, như trong bát nước có
các sắc màu vàng, đỏ, v.v., đun sôi cho bốc hơi, rêu xanh che phủ, gió thổi dậy
song, bùn đen dơ bẩn; khi đã lìa bỏ được 5 cái thì tâm được an trụ, mới có thể
hiểu rõ nghĩa lý của kinh điển, biện tài vô ngại.
4
Tánh của nước vốn là trong sạch, nếu như lìa bỏ được nhân tố loạn động, nhơ uế,
thì nó có thể phản chiếu được hình ảnh, giống như lìa 5 cái thì tâm được trong
sạch, có thể dẫn đến phát sanh sự hiểu biết vậy. Còn có 5 thí dụ nữa, gồm: gội
đầu, rửa thân, giặt áo, mài gương, luyện kim, (v.v.), tỉ dụ cho sự tu Phật,
Pháp, Tăng, giới, thiên tùy niệm, có khả năng khiến tâm lìa nhiễm ô để được
thanh tịnh.
5 Loại thí dụ thông tục
này đều có khả năng dẫn đến phát sanh ra thuyết ‘tâm vôn thanh tịnh’.
Trong phẩm Một pháp
(II)
của
Tăng chi bộ nói như thế này:
“Này các tỳ-kheo! Tâm này vô cùng sáng suốt, mà
bị khách tùy phiền não làm cho tạp nhiễm, kẻ vô văn dị sanh không hiểu đúng như
thật, Ta nói đó là vì kẻ vô văn dị sanh không có tu tâm.”
“Này các tỳ-kheo! Tâm này vô cùng sáng suốt, mà
giải thoát khỏi khách tùy phiền não bởi hàng Thánh đệ tử có nghe [học] nên có
thể hiểu đúng như thật, Ta nói đó là vì hàng Thánh đệ tử có nghe [học] có tu
tâm.”
Đây là thuyết tâm sáng suốt thanh tịnh được nói
rõ ràng trong kinh
A-hàm. Tâm là vô cùng sáng suốt (pabhassara), tùy phiền não (upakkilesa) mà khiến tâm bị tạp nhiễm ấy, là ‘khách’, có
thể thấy là nó thuộc lực bên ngoài, nên không phải là trong tâm thể có những
phiền não này. Tâm thanh tịnh mà phát sanh quan hệ với khách trền phiền não, là
lý luận quan trọng của thuyết Như lai tạng, không thể không nói là có nguồn gốc
trong kinh
A-hàm được ư!
‘Tâm tánh vốn thanh tịnh’, ở trong bộ phái Phật
giáo, là được kế thừa truyền bá của hai hệ thống lớn là Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Phân biệt bộ (Vibhajyavādin ).
Dị bộ tông luân luận(III)
nói:
“Đại chúng bộ, Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ,
Kê dận bộ có chủ trương giống với tông phái chính của họ,… tâm tánh vốn thanh tịnh,
bị khách tùy phiền não làm cho tạp nhiễm, nên nói là bất tịnh.”
Thuyết tâm là thanh tịnh của Đại chúng bộ, trong
Tùy tướng luận đã từng giải thích: “Như các bộ phái gồm Tăng-kỳ, v.v.,
nói: tâm tánh của chúng sanh vốn thanh tịnh, bị khách trần làm ô nhiễm. Tịnh tức
là 3 căn thiện; chúng sanh sanh tử từ vô thỉ đến ngày nay có khách trần, tức là
phiền não, phiền não tức là các phiền não như tùy miên, v.v., tùy miên phiền
não tức là 3 căn bất thiện.”
6 Theo
Tùy
tướng luận nói: Đại chúng bộ, v.v, cho rằng tâm là vốn thanh tịnh. Ba căn
thiện và ba căn bất thiện – giống như tùy miên, là không tương ưng với tâm, tương
tợ như gieo trồng, luyện tập các công năng thiện hay ác vậy. Dựa vào 3 căn bất
thiện nên khởi phiền não, dựa vào 3 căn thiện nên khởi lên các pháp thiện như
niềm tin, trí, v.v. Đại chúng bộ là chỉ lập nên 2 tánh là thiện và ác, tâm
không phải là pháp tâm sở thiện hay bất thiện, chẳng qua tùy miên bất thiện và
tâm sở bất thiện là có thể lìa và diệt được, cho nên chúng khế hợp với thiện
căn (và tâm sở thiện), mà được gọi là ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’.
Phân biệt thuyết bộ thuộc bản địa Ấn độ, như Hóa
địa bộ (Mahīśāsaka),
v.v., Luận sư của Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) gọi họ là ‘những người thuộc Phân biệt luận’. Như luận
A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa(IV) nói:
“Có người chấp rằng tâm tánh vốn thanh tịnh, như
những người thuộc Phân biệt luận. Họ nói bổn tánh của tâm là thanh tịnh, vì bị
khách trần phiền não làm cho nhiễm ô, nên tướng của nó không thanh tịnh. … Họ
nói cái nhiễm ô ấy không làm nhiễm ô được tâm, thể của nó [tâm] không thay đổi.
Nghĩa là nếu khi sự tương ưng với phiền não chưa được cắt đứt, thì gọi đó là
tâm nhiễm ô; nếu khi sự tương ưng với phiền não đã bị cắt đứt, thì gọi đó là
tâm không nhiễm ô. Như cái đồ đựng bằng đồng, v.v., khi chưa trừ bỏ dơ bẩn, thì
gọi đó là đồ đựng có dơ bẩn, v.v., nếu trừ bỏ dơ bẩn rồi, thì gọi là đồ đựng
không có dơ bẩn, v.v.: tâm cũng như thế.”
Thuyết tâm tịnh của những người thuộc Phân biệt
luận, luận
A-tỳ-đạt-ma Thuận chánh lý(V)
cũng nói:
“Những người thuộc Phân biệt luận nói như thế
này: duy chỉ có từ chính tâm mà có tham này mà nay được giải thoát, như đồ đựng
có dơ bẩn, sau đó trừ bỏ dơ bẩn ấy; như phả-chi-ca
(b) do để chỗ có màu sắc khác nhau nên có sắc khác
nhau sanh ra. Như vậy tâm thanh tịnh này do bị tham, v.v, làm cho ô nhiễm, nên
gọi là có tham, v.v, sau đó trở lại được giải thoát. Thánh giáo cũng nói bổn
tánh của tâm là thanh tịnh, có lúc bị khách trần phiền não làm cho ô nhiễm.”
Tâm tánh vốn thanh tịnh của những người thuộc
Phân biệt luận, vào lúc trước khi chưa đoạn được phiền não, là tánh thì tịnh mà
tướng thì nhiễm; tuy có tướng nhiễm ô, mà thể tánh của tâm thì không thay đổi.
Từ chủ trương của những người thuộc Phân biệt luận ấy mà diễn đạt lại thì, tâm
có nhiễm ô và tâm không nhiễm ô không phải là có hai loại tâm bất đồng, nên là
‘một tâm’ mà ‘thể của nó không có khác nhau’, chỉ là khác nhau ở sự tương ưng với
phiền não bị đoạn trừ và chưa được đoạn trừ. Có nhiễm ô là bởi khách trần làm
nhiễm ô, là lực bên ngoài, còn tâm mà thể của nó không có khác ấy, bổn tánh là
thanh tịnh. Quan điểm của ‘những người thuộc nhất tâm tương tục luận’ và ‘những
người thuộc phân biệt luận’ mà luận
Đại tỳ-bà-sa đã nói đến, là nhất trí
với nhau, như quyển 22
(VI) của
luận này nói:
“Có người chấp rằng chỉ có một tâm, như những
người thuộc Nhất tâm tương tục luận. Họ nói như thế này: có tâm có tùy miên, có
tâm không có tùy miên, nhưng tánh của nó thì không khác nhau. Khi Thánh đạo hiện
tiền, thì trái với phiền não, nhưng không trái ới tâm tánh; vì đối trị phiền
não, chẳng phải là vì đối trị tâm. Như giặt áo, lau kính, luyện vàng, v.v., các
thứ đồ vật, chúng trái với cái dơ bẩn, v.v, nhưng không trái với áo, v.v., Thánh
đạo cũng như vậy. Lại nữ, ở trong thân này, nếu trước khi Thánh đạo chưa hiện
tiền, vì phiền não chưa bị đoạn trừ, nên tâm có tùy miên. Khi Thánh đạo hiện tiền,
vì phiền não đã được đoạn trừ, nên tâm không có tùy miên. Tâm này tuy có khác
nhau khi có tùy miên hay không có tùy miên, nhưng tánh của nó vẫn là một. Như
áo, kính, vàng, v.v., khi chưa được giặt, lau chùi, tôi luyện, v.v., thì gọi là
chiếc áo có bị dơ, v.v. Nếu đã được giặt, lau chùi, tôi luyện rồi, thì gọi là
chiếc áo không có bị dơ, v.v. Có hay không có bị dơ, thì thời gian tuy có khác
mà tánh thì không có sai biệt, tâm cũng như vậy.”
Cái thí dụ mà những người thuộc Nhất tâm tương tục
nêu ra, là trích từ phẩm Ba pháp của
Tăng chi bộ. ‘Chỉ có một tâm’; ‘mà
tánh là một’; ‘mà tánh không khác, tâm cũng như vậy’, cùng với ‘thể của nó không
khác nhau’ của những người thuộc Phân biệt luận, là hoàn toàn nhất trí. Trong
luận
Thành thật, có ‘Nhất tâm luận’ của ‘tâm tương tục [cittasantāna]’.
7
Luận
Đại tỳ-bà-sa còn có nói đến “những người thuộc Nhất giác luận.”
8 Như vậy, có thể không thuộc vào cùng một
bộ, nhưng là ‘những người thuộc Tâm tánh bổn tịnh luận’ mà giống nhau phần lớn
và chỉ khác chút ít.
‘Tâm tánh vốn thanh tịnh’ là được chủ trương bởi
hệ Đại chúng bộ và Phân biệt thuyết bộ. Luận
Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm, là bộ
luận gần với chủ trương của Phân biệt thuyết bộ, trích dẫn giáo thuyết ‘tâm
tánh thanh tịnh, bị khách trần làm nhiễm ô’, cũng phù hợp với điều mà
Tăng
chi bộ đã nói.
9 Nhưng
trong Thuyết nhất thiết hữu bộ thì không có kinh nào nói ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’,
và cũng đã phủ định lý luận ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’, như luận
A-tỳ-đạt-ma
Thuận chánh lý(VII) nói:
“Những người thuộc Phân biệt luận nói như thế
này… Thánh giáo cũng nói bổn tánh của tâm là thanh tịnh, có lúc bị khách trần
phiền não làm ô nhiễm. … Cho nên không nên nói bổn tánh của tâm là thanh tịnh, có
lúc bị khách trần phiền não làm ô nhiễm. Nếu bảo thủ cái tin ngu muội ấy, không
dám, chẳng phế bỏ lời này chẳng phải kinh nói, thì nên biết rằng vì kinh này trái
với chánh lý, nên chẳng phải là kinh nói liễu nghĩa.”
Kinh
A-hàm do các bộ phái truyền tụng đã
có thêm bớt không ít. Trong kinh mà do những người thuộc Phân biệt luận truyền
tụng có thuyết ‘tâm tánh vốn thanh tịnh, bị khách trền làm nhiễm ô’, mà trong
kinh của Thuyết nhất thiết hữu bộ thì không có. Trong tín ngưỡng truyền thống của
tôn giáo, kinh văn của tôn phái mình mà phải do người khác bác bỏ thì thật
không dễ dàng chấp nhận, cho nên chỉ có thể luận đoán là ‘chẳng phải nói liễu
nghĩa’, theo chánh lý mà giải thích và thông hiểu.
Tóm lại, đối với Thuyết nhất thiết hữu bộ (và Độc
tử bộ, Kinh bộ), thì đây là ‘chẳng phải kinh nói’, ‘chẳng phải là nói liễu
nghĩa’. Nhưng mà, thuyết ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’, ở trong Phật pháp, là liễu
nghĩa hay không liễu nghĩa, nói theo phương tiện hay nói theo rốt ráo, nếu như
dùng lý luận của chính tông phái mình để làm tiêu chuẩn, thì không thể được người
khác chấp nhận vậy!
Bốn bộ kinh
A-hàm mà được biên tập thành ấy,
có một chuẩn mực phân biệt của cổ đại truyền lại, chính là căn cứ theo
đặc tính
mà bốn bộ ấy nói, có bốn loại tông thú [chủ trương] bất đồng. Như Tam
tạng Pháp
sư Giác âm (Buddhaghoṣa) của Xích đồng diệp bộ (Tāmraśāṭīya), Bồ-tát
Long thọ (Nāgārjuna) của Đại thừa sơ kỳ, thì có lời truyền lại giống
nhau, đó chính là: kinh
Trường A-hàm là ‘cát tường vui ý’, ‘thế giới tất-đàn’;
Trung A-hàm là ‘phá trừ do dự’, ‘đối trị tất-đàn’;
Tăng nhất A-hàm
–
Tăng chi bộ là ‘thỏa mãn mong cầu’, ‘mỗi mỗi vị nhân (sanh thiện) tất-đàn’;
Tạp A-hàm là ‘hiểu dương chân nghĩa’, ‘đệ nhất nghĩa tất-đàn’.
10 Tiến thêm bước nữa nói, kinh
Tạp
A-hàm của cổ truyền, thật sự là đã tổng hợp Tu-đa-la (sūtra), Kỳ-dạ
(geya), Ký thuyết (vyākaraṇa) – ba bộ phận mà thành. Căn cứ theo bốn
loại tông thú để nói, thì
Tu-đa-la là Tương ưng giáo của kết tập nguyên thỉ, như Tương ưng uẩn,
Tương ưng
xứ, v.v., là đệ nhất nghĩa tất-đàn. Kỳ-dạ là kệ tụng thuận theo thế tục,
khởi đầu
là ‘kết tập văn’ của tập hợp 10 kinh làm một tụng. Ký thuyết thì có Như
lai ký
thuyết, đệ tử ký thuyết, chư thiên ký thuyết. Chư thiên ký thuyết, sau
này cũng
gọi là Kỳ-dạ, chính là bộ phận ‘bát chúng kệ’, là thế giới tất-đàn. Đệ
tử ký
thuyết, như Xá-lợi-phất thuyết (Śāriputra), Mục-kiền-liên thuyết
(Mahāmaudgalyāyana), v.v., là đối trị tất-đàn. Như lai ký thuyết, như
chủ của làng xóm, Bà-tha xuất gia, v.v., là vì nhân sanh thiện tất-đàn.
11
Trong khi khảo luận về Thánh điển Nguyên thỉ, biết
được rằng
Tăng nhất A-hàm –
Tăng chi bộ, chủ yếu là dựa vào Như
lai ký thuyết (như nói ba niệm, bốn niệm, sáu niệm, bốn niềm tin không bị hủy
hoại, tâm từ, mười thiện, v.v.), trải qua ‘như thị ngữ’ (itivuttaka) nên được biên tập tăng thêm mà thành.
12 ‘Tâm tánh vốn thanh tịnh’ và các thí dụ
như luyện kim, v.v., tạng Pāli đều ở trong
Tăng chi bộ; Hán dịch kinh
Tạp
A-hàm, thí dụ luyện kim thuộc vào bộ phận Như lai ký thuyết. Nếu như khảo
luận không có sai lầm, vậy thì lời mà Như lai ký thuyết và
Tăng cho bộ
đã nói, ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’ và thí dụ luyện kim, v.v., đều là ‘mỗi mỗi vì
con người’ – có nghĩa là khơi mở để con người làm thiện; không phải là đệ nhất
nghĩa tất-đàn (nêu bày ý nghĩa chân thật), đương nhiên là ‘chẳng phải lời liễu
nghĩa’ vậy. Luận
Thành thật(VIII)
nói:
“Tâm tánh
không phải là vốn thanh tịnh, vì khách trần cho nên bất tịnh, nhưng Phật chúng
sanh mà bảo tâm là thường tại [trụ], cho nên nói rằng bị khách trần làm nhiễm ô
thì tâm bất tịnh. Lại nữa, Phật vì những chúng sanh giải đãi, nếu chúng nghe
tâm vốn bất tịnh, liền cho rằng tánh ấy khôn g thể cải đổi, thì không phát ra tịnh
tâm, cho nên nói rằng tâm vốn thanh tịnh.”
(c)
Tư tưởng của luận
Thành thật gần với Kinh
bộ (Sūtravādin). Luận
Thành thật không đồng ý với thuyết ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’, nhưng đối
với giáo thuyết của ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’, thì cho rằng đó là từ sự thích ứng
với từng căn cơ nên đặt bày ra giáo pháp – ý nghĩa là vì người khác mà đối trị,
rồi giải thích thêm.
Có một số người cho rằng tâm là thường tại (trụ);
trong Phật giáo Nguyên thỉ, cái tâm thông thường là tà kiến của kẻ ngu si. Nhằm
đối trị tà chấp của tâm thông thường này, cho nên nói tâm là có thể trở thành bất
tịnh. Có thể bất tịnh, có thể thấy rằng tâm là chẳng phải thường. Có một số người
tự biết được tâm mình bất tịnh, phiền não trùng trùng, cho nên theo thói giải
đãi, không thể phát tâm mạnh mẽ để tu hành. Nhằm khởi mở tâm lành cho những người
giải đãi này, cho nên nói: tự tâm xưa nay là thanh tịnh, tạm thời bị phiền não
làm nhiễm ô, vì sao không tự mình không cố gắng để phát tâm trong sạch vậy! Vì
sao lại vì chúng sanh mà nói đến Như lai tạng? Luận
Bảo tánh đã nêu ra 5
lý do,
(d) lý do thứ nhất chính là ‘bởi có tâm
khiếp nhược’,
13 với ‘vì người giải đãi’
[kusīdasattvā] của luận
Thành thật là phù hợp nhau; cũng cùng với ‘mỗi mỗi vị
nhân tất-đàn’ của
Tăng chi bộ phù hợp nhau, đây ắt hẳn chính là ý nghĩa
căn bản của chủ trương ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’.
Những luận giả có chủ trương ‘tâm tánh vốn thanh
tịnh’ đều không phải là từ trong sự luận cứu về nghĩa lý mà kết luận ra được
‘tâm là thanh tịnh’; cũng không phải giống như Đại thừa, mà lấy sự thể nghiệm từ
sự tu trì của chính mình làm y cứ. Những luận giả có chủ trương ‘tâm tánh vốn
thanh tịnh’ của cổ đại, chẳng hạn như những người thuộc Phân biệt luận, những
người thuộc ‘Nhất tâm tương tục luận’, chủ yếu là ứng dụng thí dụ theo thế tục,
dùng thí dụ để giải thích về ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’.
Như ở trên đã dẫn, những người thuộc ‘Nhất tâm
tương tục luận’ đã nêu ra các thí dụ như giặt áo, lau chùi gương, luyện kim,
v.v.; những người thuộc Phân biệt luận dùng các thí dụ như đồ chứa bằng đồng
(dơ hoặc đã trừ dơ rồi), mặt trời và mặt trăng do năm sự kiện mà bị che lấp, phả-chi-ca,
v.v. Những thí dụ này, như giặt áo, lau chùi gương, luyện kim, trừ bỏ cái dơ của
đồ đựng bằng đồng, đã tỉ dụ cho tánh vốn thanh tịnh, chỉ là nhiễm một số dơ bẩn
ở bên trên, có thể dùng phương pháp như giặt, lau chùi, v.v., để khôi phục lại
sự trong sạch của chúng; đây là giải thích sự chuyển đổi cái dơ bẩn để trong sạch
trở lại. Những thí dụ này, có ý nghĩa ‘chủ’ và ‘khách’ của tự thể và lực bên
ngoài. Mặt trời và mặt trăng do năm sự kiện mà bị che lấp, năm sự kiện là khói,
mây, bụi, sương mù, tay của la-hầu-la
(e)
che.
Tuy ý nghĩa của thí dụ là gần nhau, nhưng dùng sự
tương quan liên hệ giữa ánh sáng mặt trời và bóng tối, giải thích ‘sự tương ứng,
hỗn tạp lẫn nhau’ giữa tâm và phiền não,
14
có thể dẫn đến sanh ra lý luận về ‘đạo và phiền não là cùng ở chung’. Vật báu
phả-chi-ca (sphaṭika) là ‘óng ánh sáng rỡ’, cùng với các vật phẩm màu hồng, v.v., ở cùng một
chỗ, thì sẽ thành màu hồng, v.v. Thí dụ này, vốn là Số luận (Sāṃkhya) ngoại đạo dùng để tỉ dụ cho tự ngã và tính
giác.
15 Luận
Thuận chánh lý đã trích dẫn
thí dụ phả-chi-ca, kinh
Giải thâm mật, là kinh điển trọng yếu của Duy thức
học, đã sớm hơn một chút, cũng dùng để tỉ dụ cho sự nhiễm ô và thanh tịnh của
ba tánh.
16
Những luận giả chủ trương ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’
có phong cách học là chuyên dựa vào thí dụ để giải thích, khiến chúng ta liên
tưởng đến phong cách của kinh
Như lai tạng, kinh
Đại Bát-niết-bàn (phần
trước). Học phái Chánh lý (Nyāya) của cổ đại, lập nên thí dụ lượng (upamāna-pramāṇa), cho rằng thí dụ có khả năng thành lập nên
chánh lý. Trong luận lý học phát sanh sau, thí dụ lượng không có khả năng thành
lập nên chánh lý nên đã bị bỏ đi, nhưng cổ đại cho rằng nó có thể thành lập được,
cho nên một bộ phận kinh điển Phật giáo có ứng dụng nó rộng rãi.
Thành lập thí dụ của ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’
là thông tục, phù hợp với thường tình, ở trong quá trình phổ cập hóa của Phật
pháp, nó dễ dàng được mọi người tiếp nhận nên càng ngày được rạng rỡ lên. Nhưng
Phật pháp lập nên hai đế, dựa vào thế tục để dẫn dắt hướng đến thắng nghĩa; lập
nên bốn tất-đàn, làm phương tiện để dẫn dụ giáo hóa, nên lấy đệ nhất nghĩa tất-đàn
làm cao tột. Luận
Du-già sư địa lập nên bốn chân thật, ngoài sự ngộ nhập
chân thật ra, lập nên ‘thế gian cực thành chân thật’, ‘đạo lý cực thành chân thật’.
‘Đạo lý cực thành chân thật’ là từ sự quan sát nghiên cứu bằng trí sáng suốt mà
ra, cùng với ‘thế gian cực thành chân thật’ bất đồng.
17 Điều này giống như lý luận của khoa học,
cùng với hiểu thiết thông thường khác nhau vậy. Thuyết ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’
trước sau là dùng thí dụ thường thức làm y cứ, là bình dị gần gũi với mọi người,
nhưng quyết không phải là sâu sắc, triệt để vậy! Chính điều này cho nên các Luận
sư A-tỳ-đạt-ma phải nhắc nhiều lần rằng: ‘pháp thế tục khác, pháp Hiền thánh
khác’.
Tâm, ý, thức – thông thông được xem là cùng tên
mà thật tế khác nhau, cho nên tổng hợp làm một từ ‘tâm ý thức’. Trong sự ứng dụng
của kinh điển, dù chẳng nghiêm ngặt, nhưng lại cũng biểu thị ra được đặc tính của
mỗi một danh từ; điều này đối với các Luận sư A-tỳ-đạt-ma thuộc cổ đại, sớm đã
chú ý đến rồi. Thế thì, tâm của ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’ có ý nghĩa đặc thù gì
vậy? Nghĩa đặc biệt của tâm (citta), như các vị thầy xưa nói:
18
1. “Tâm là nghĩa của chủng tộc. … Họa vẽ nên các
sắc thái là nghiệp của tâm. … Làm tăng trưởng là nghiệp của tâm.”
2. “Tập hợp lại rồi khởi lên nên gọi là tâm. … Các
loại giới sai biệt như tịnh, bất tịnh nên gọi là tâm.”
(f)
Tăng trưởng, tập hợp lại rồi khởi lên, chủng tộc,
những ý nghĩa của ‘tâm’ này, đều là tích tập nhiều thứ, nhờ vào sự tích tập mà
có cái được sanh khởi ra. Thí dụ ‘họa vẽ’ cũng là ý nghĩa dùng các thứ sắc
thái, vẽ thành các bức tranh. Cho nên đối với sự thống nhất của nhiều loại, tâm
thì không tách rời nhiều loại ấy mà khởi lên, đều không biểu thị tánh đơn nhất.
Như trong ba loại tăng thượng học, gọi định học là tâm học. Do vì ‘định’ là giữ
cho tâm không bị động loạn, khiến quy sự tán loạn về sự bình tĩnh, ở trên một cảnh,
tâm trước và tâm sau nối tiếp không loạn, gọi là ‘tâm nhất cảnh tánh’
[cittaikāgratā], định cũng được gọi là ‘tâm’. Các học giả Duy thức
thuộc đời sau đã dùng tâm làm thức a-lại-da, nguyên nhân chính là: “Thức này,
vì tích tập sắc, thanh, hương, vị, xúc, v.v., rồi làm tăng trưởng;” “vì do các
pháp huân tập được tích tập thành chủng tử;” “do các pháp huân tập được tích tập
thành chủng tử.”
19 Do vì đặc tánh này, trừ
ra cái được gọi là thức, là cái có liên quan đến nhận thức,chấp thủ, cái được gọi
là ý, là cái dẫn đến làm phát sanh hành vi, phát sanh các thức, trong kinh đều
gọi chung là tâm, tâm là danh từ chung, danh từ khái quát.
Ở trong kinh, so với khởi ý và thức đến, thì ứng
dụng của tâm không nhỏ, nhưng đều là không phân tích gì thêm. Như tâm là tương
đối với thân, hành động của thân và hành động của tâm, cảm thọ của thân và cảm
thọ của tâm, tinh tấn thân và tinh tấn của tâm, an ổn nhẹ nhàng của thân và an ổn
nhẹ nhàng của tâm, viễn ly của thân và viễn ly của tâm, đều là tên gọi chung của
nội tâm. Do vì tâm là tên gọi chung, cho nên kinh
Tạp A-hàm(IX) nói:
“Này các tỳ-kheo! Tâm bị não loạn nên chúng sanh
bị não loạn, tâm thanh tịnh nên chúng sanh thanh tịnh. Này các tỳ-kheo! Ta
không thấy một loại nào mà có nhiều màu sắc như loài chim ban sắc, tâm còn phức
tạp hơn loại đó. Vì sao vậy? Vì tâm của loài súc sanh kia có loại nên sắc của
nó có nhiều loại.”
Não loạn của chúng sanh – tạp nhiễm và thanh tịnh,
là lấy tâm làm chủ đạo, nhân vì sự tạp nhiễm của tâm mà trở thành tạp nhiễm, tâm
ấy thanh tịnh nên trở thành thanh tịnh. Tâm thì có nhiều loại tâm, tất cả tác dụng
của nội tâm, đều có thể gọi là tâm. Như
Tương ưng bộ, v.v., lập nên 16
loại tâm (cái tâm mà tha tâm trí biết được): tâm có tham, tâm lìa tham, tâm có
sân, tâm lìa sân, tâm có si, tâm lìa si, tâm được nhiếp, tâm tán loạn, tâm rộng
lớn, tâm chẳng rộng lớn, tâm hữu thượng [chưa vô thượng], tâm vô thượng, tâm có
định, tâm bất định, tâm giải thoát, tâm không có giải thoát.
20
Sáu tâm trước của 16 tâm, có lẽ được tưởng tượng là: tâm có tham, tâm lìa tham,
v.v., dường như ở ngoài tham, sân, sir a, riêng có tồn tại tâm thể. Nhưng từ tâm
được nhiếp, tâm toán loạn, tâm rộng lớn, tâm chẳng sộng lớn, v.v., mà luận, thì
cái được gọi là tâm của 16 loại tâm ấy, rốt cuộc không ngoài tên gọi chung. Cho
nên tâm mà Thánh giáo đã nói, là biểu thị sự tập trung, tích tụ, tổng quát, là
thống nhất của nhiều loại, thuần thuộc về lập trường của Hiện tượng luận.
Tâm có ý nghĩa là thống nhất nhiều loại, cho nên
trong sự phát triển của Phật pháp, các giải thích của học giả, có khuynh hướng
về sự thống nhất của tâm.
1. Như ‘tâm vương’ của những Luận sư thuộc A-tỳ-đạt-ma
nói: Tâm người có vô số tác dụng, hoặc thiện, hoặc ác, hoặc thọ, hoặc tưởng, hoặc
tư, v.v., trong sự luận cứu phân tích, thì thọ, tưởng, v.v., được chia riêng
ra, gọi là ‘tâm sở hữu pháp’ do ‘từ tâm mà có’, ‘dựa vào tâm để khởi’. Ngoài
tâm sở ra, còn lại gọi là tâm (vương) – sáu thức. Sự chia riêng ra tâm làm ‘tâm
sở hữu pháp’, gần với tác dụng tổng giác [apperception]
của Tâm lý học hiện đại. Từ các loại tâm sở mà luận đến một tâm mà làm chỗ
nương tựa (một thức trong 6 thức), cũng sẽ bị hiểu nhầm là tác dụng tâm của tâm
thể. May mắn là các Luận sư A-tỳ-đạt-ma không nói như vậy, cho rằng tâm và tâm
sở là giống nhau, chỉ là sự sai biệt giữa cái biết về tướng tổng quát (là tâm)
và biết về các loại tướng riêng (là tâm sở).
2. Những ngững người thuộc Nhất tâm luận,
trích dẫn ‘tâm biến hành đi một mình’, mà cho rằng sáu thức khác nhau, chỉ là
sai biệt của một tâm.
3. Như những người thuộc Tâm tánh bổn tịnh
luận: Kinh trên nói: ‘tâm là vô cùng sáng suốt, bị khách trần làm nhiễm ô’,
theo thí dụ của thế tục, nên giải thích là ‘tánh tịnh mà tướng nhiễm’. Tâm là một
tâm nội tại, tạp nhiễm hoặc ly nhiễm, mà tâm thể thì thanh tịnh. Giới Phật giáo
nghiêng về sự thống nhất nội tại, là cùng tương ưng với tâm tình của thế gian.
Sự hiểu biết của người thông thường thảy đều như thế này: nói đến sự nối tiếp của
sanh tử, thì nghĩ đến một sự tồn tại của cái nhất quán thông từ chết trước và
sau sanh, nếu không thì không thể nói là kéo dài từ trước đến sau được.
Nói đến sự từ tạp nhiễm đến thanh tịnh,
từ trói buộc đến giải thoát, thì thiết tưởng là ắt có sự tồn tại mà nhất quán
thông giữa nhiễm và tịnh, nối kết giữa trói và mở. Đây là sự hiểu biết và nhận
thức của thế gian, là căn nguyên ý nghĩa của sự thành lập nên một tâm, hoặc thần
ngã. Tâm tịnh mà có phiền não, khi đã trừ bỏ phiền não rồi, thì tâm thanh tịnh
trở lại, ‘tâm’ chính là tự thể làm chỗ nương tựa mà nối kết giữa nhiễm và tịnh,
chính là giống như chiếc áo của chiếc áo mà đã được giặt, chiếc gương của chiếc
gương mà đã được lau chùi, vàng của vàng mà đã được tôi luyện. Dùng thí dụ của
thế tục mà ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’ được thành tập, quả thật là thích hợp với
kiến thức của thế gian thông thường, mà có tác dụng phong phú làm khơi mở cho
tâm con người hướng về thiện.
2. Thuyết tâm tánh bổn tịnh của Sơ kỳ Đại thừa
‘Tâm tánh
vốn thanh tịnh’, khởi đầu là từ sự kết tập và ghi chép là của
Tăng chi bộ,
về sau là được sự tuyên dương của các bộ phái như Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika),
Phân biệt thuyết bộ (Vibhajyavādin), trở thành một trong nhiều chủ đề được giới
Phật giáo tranh luận.
1 Khi Phật
giáo Đại thừa hưng khởi, đã sử dụng thuyết ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’ này. Đại
thừa trọng trí tuệ, như kinh
Bát-nhã, v.v., từ lập trường thể ngộ của
bát-nhã, đã cho ra nhiều giải thích độc đáo khác nhau. Thành lập vào trước Công
nguyên, được khảo sát và xác định là bộ phận ‘
Bát-nhã nguyên thỉ’,
2 đã từng nói đến vấn đề này, như kinh
Tiểu
phẩm Bát-nhã ba-la-mật(I)
nói:
“Khi Bồ-tát thực hành bát-nhã ba-la-mật thì cần
phải học như thế này: Không suy nghĩ về tâm Bồ-tát. Vì sao như vậy? Vì tâm là
chẳng phải tâm, tướng của tâm vốn thanh tịnh.”
(a)
“Bấy giờ,
Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: Có cái chẳng phải tâm này là tâm không? Tu-bồ-đề
nói với Xá-lợi-phất: Cái chẳng phải tâm mà là tâm ấy là có thể nắm bắt, hay cho
nó là có hay là không chăng? Xá-lợi-phất trả lời: Không được. Tu-bồ-đề nói với
Xá-lợi-phất: Nếu cái chẳng phải tâm mà là tâm ấy là không thể năm bắt, hay cho
nó là có hay là không, thì có nên nói là có tâm hay không có tâm được chăng?
(b)
“Xá-lợi-phất
nói: Có pháp gì chẳng phải là tâm? Tu-bồ-đề trả lời: Không hủy hoại, không phân
biệt.”
(c)
Các bản
kinh cùng loại với kinh này mà nói rộng hay lược khác nhau, thì có rất nhiều,
kinh mà do Huyền trang dịch thì có 5 bộ (5 phần đầu của kinh
Đại Bát-nhã).
Dù là bản Phạn, bản Hán dịch, v.v., trên mặt văn tự có thêm bớt một ít, mà dùng
‘bổn tánh là thanh tịnh’ để chứng minh thành ‘là tâm mà chẳng phải tâm’, là thực
chất không có sai khác. ‘Là tâm mà chẳng phải tâm’ (taccittamacittaṃ), đối với
trong bộ phái Phật giáo, có ý kiến cho rằng tâm nối tiếp hoặc tâm mà tương ưng
với phiền não, xưa nay đều là thanh tịnh, có thể nói là từ trên căn bản có phủ
định. ‘Chẳng phải tâm’ mà được kinh
Bát-nhã nói đó, có ý nghĩa là tâm
không, tâm không thể nắm bắt. Tâm tánh (cittatā) là tịch diệt không thể nắm bắt,
cho nên nói ‘bổn tánh của tâm là thanh tịnh’ (prakṛti-citta-prabhāsvaratā).
Tiếp theo,
dẫn đến phát sinh ra hai lớp vấn đáp: 1. ‘Là tâm mà chẳng phải tâm’, không cần
cho rằng có một cái tâm mà chẳng phải tâm (đây là tâm tư thường tình), nhân vì
đã rõ ràng ‘chẳng phải tâm’ thì không cần hỏi lại là có hay không có. ‘Chẳng phải
tâm’ là đã siêu việt khái niệm về có và không có, nên không thể nói là có hay
không có. 2. ‘Chẳng phải tâm – tâm không thể nắm bắt, là nói không bị hủy hoại
(avikāra), không phân biệt (avikalpa). Không có biến đổi (hoại), không có sai
biệt (3 phần đầu do Huyền trang dịch, nói là ‘không có hai, không có 2 phần’;
hoặc ‘không phân chia, không có khác’), chính là (chân) như (tathatā), không phải
giống như thế gian phân biệt cái tâm được phân biệt. Đối với ‘tâm tánh vốn
thanh tịnh’, kinh
Bát-nhã từ lập trường thể ngộ về thắng nghĩa (paramārtha),
điều chính quan điểm cho tâm là thanh tịnh, cho đến được hai phái Trung quán
(Mādhyamika) và Duy thức (Vijñānavādin) đời sau noi theo.
Kinh văn
mà đã được dẫn ở trên, so với các loại văn bản của kinh
Bát-nhã giống
như Tiểu phẩm, thì ‘tâm’ được nói ấy, có khác nhau giữa tâm Bồ-tát (bodhisattva-citta ),
tâm bồ-đề (bodhi-citta), như:
3
1. ‘Không
nghĩ là tâm Bồ-tát. (Vì sao vậy? Vì là tâm mà chẳng phải tâm, tưởng của tâm vốn
thanh tịnh).
2. ‘Tâm
không đang nghĩ là Bồ-tát’.
3. ‘Tâm ấy
không đang tự nghĩ ta là Bồ-tát’.
4. ‘Không
chấp trước đây là tâm Bồ-tát’.
5. ‘Vị Bồ-tát
ấy tuy học như vậy, nhưng không nên sanh tâm rằng ta học như vậy’.
6. ‘Không
đang nghĩ rằng ta biết ý đạo’.
7. ‘Không
chấp trước vào tâm đại bồ-đề’.
Trong sự
khai triển của Phật giáo Đại thừa, khởi đầu là ‘tâm Bồ-tát’, chậm hơn một chút
mới thành lập nên từ ngữ ‘tâm bồ-đề’.
4
Như 2. mà văn ở trên đã dẫn, kinh
Đạo hành Bát-nhã do Chi-lâu-ca-sấm (Lokarakṣa)
dịch vào đời Hậu Hán (thập niên 80 của thế kỷ 2 A.D.), là bản kinh
Bát-nhã
được dịch ra cổ nhất. 4. là phần thứ 5 của kinh
Đại Bát-nhã do Đường Huyền
trang dịch, thì văn tự rất ngắn gọn. Bản được dịch ra cổ nhất, và bản ngắn gọn
nhất, đều nói ‘Bồ-tát’ và ‘tâm’, cùng với kinh
Tiểu phẩm Bát-nhã do
Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) dịch, là nhất trí. Từ sự trước sau của văn nghĩa mà
nói, thì tu-bồ-đề (Subhūti) nói: Bồ-tát, tên gọi Bồ-tát là không thể nắm bắt;
bát-nhã, tên gọi bát-nhã là không thể năm bắt. Bồ-tát và bát-nhã đều không thể
năm bắt, nếu như nghe rồi mà có thể thể ngộ, không kinh không sợ, thì đó chính
là bát-nhã ba-la-mật mà Bồ-tát cần phải học.
Tiếp theo
nói: Bồ-tát học như vậy, là không suy nghĩ (manyeta) – không chấp trước, không
cao mạn là tâm Bồ-tát. Văn ở trên từ Bồ-tát và bát-nhã – sự đều không thể nắm bắt
của ngã và pháp, chỉ ra rằng Bồ-tát cần phải học bát-nhã như vậy. Rồi sau đó,
khiến cho Bồ-tát quán lại chính tự tâm mình – cái tâm mà biết được ngã và pháp
đều không thể nắm bắt ấy, cũng là không thể nắm bắt nên không thể chấp trước
vào nó. Y theo quá trình tu hành mà nói, đầu tiên là nói đến sự không thể nắm bắt
của đối tượng được quán, thứ đến nói về sự không thể nắm bắt của chủ thể quán.
Nếu như đổi lại thành ‘tâm bồ-đề’, theo văn nghĩa ở trên, thì không tránh khỏi cảm
thấy đột nhiên vậy! Trong sự khai triển của Phật giáo Đại thừa, tâm bồ đề, tâm
bồ-đề được nhận được sự xem trọng của giới Phật giáo, tâm Bồ-tát cũng sẽ được
chuyển hóa thành tâm bồ-đề. Như 6. là kinh
Đại minh độ do Ngô Chi khiêm
(đầu thế kỷ 3 A.D.) dịch ra, nói ‘không đang nghĩ rằng ta biết ý đạo’, ý đạo là
cách dịch cổ của tâm bồ-đề. 7. là phần thứ 4 của kinh
Đại Bát-nhã
do Huyền trang dịch, dịch là ‘không chấp trước vào tâm đại bồ-đề’. Bản Phạn còn
lại hiện nay của kinh
Bát-nhã gồm 8000 bài tụng (Aṣṭasāhasrikāprajñā-pāramitā-sūtra)
cũng nói: ‘không nên chấp trước vào tâm bồ-đề’ (bodhicittena namanyeta); manyeta
có nghĩa là cao mạn.
Tiến thêm
một bước, đến thời Đại phẩm
Bát-nhã và kinh
Bát-nhã gồm 10.000 bài tụng
(tương đương 3 phần đầu do Huyền trang dịch), thì dẫn đến là ‘tâm bồ-đề’ (bodhicitta),
‘tâm vô đẳng đẳng’ (asamasamacitta), ‘tâm rộng lớn’ (udāracitta) – 3 tâm. Kinh
Đại phẩm
Bát-nhã do La-thập dịch, thì nói ‘đắc được tâm này’, ‘tâm vô đẳng
đẳng’, ‘tâm lớn’;
5 ‘đắc được
tâm này’ nhất định là chép nhầm của ‘tâm bồ-đề’. Như vậy, chính là quán cái bổn
tánh thanh tịnh của cái tâm năng quán, rồi diễn ra thành bổn tánh thanh tịnh của
tâm bồ-đề.
‘Sự thanh
tịnh’ (prabhāsvara) của tâm tánh vốn thanh tịnh, có nghĩa là ‘trong sáng’, là kế
thừa kinh
A-hàm nói mà có. Theo kinh
Bát-nhã nói, sự thanh tịnh không
hạn cục ở bổn tánh của tâm, mà là thông với tất cả pháp. Như Tiểu phẩm
Bát-nhã
nói: “Tất cả pháp vốn có tướng thanh tịnh.”
6
Sự thanh tịnh, kinh
Bát-nhã là diễn tả tướng sâu xa của các pháp; kinh
nói thế rất nhiều, như kinh
Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật-đa(II) nói:
“Vô tận,
vô lượng, không, vô tướng, vô tác, ô khởi, vô sanh, vô diệt, vô sở hữu, vô nhiễm,
niết-bàn mà Như lai đã nói ấy, đều chỉ là dùng danh tự làm phượng tiện để nói.”
(d)
Phần thứ 5
của kinh
Bát-nhã nói: “Vô lượng pháp môn như thế ấy, nghĩa của chúng thật
sự là không có khác nhau, đều là do Như lai dùng phương tiện để diễn thuyết.”
7 Vô nhiễm là tên gọi khác của thanh tịnh,
cho nên luận
Đại trí độ(III)
nói:
“Thật tướng
của các pháp là luôn luôn thanh tịnh. … Sự thanh tịnh ấy có các loại danh tự,
hoặc gọi là như, pháp tánh (giới), thật tế, hoặc gọi là bát-nhã ba-la-mật, hoặc
gọi là đạo (bồ-đề), hoặc gọi là vô sanh, vô diệt, không, vô tướng, vô tác, vô
tri, vô đắc, hoặc gọi là tất cánh không, v.v., vô lượng vô biên danh tự như vậy.”
Theo lời
mà Kinh, Luận đã nói, thì thanh tịnh, vô sanh, không, v.v., đều là ‘tên gọi
khác nhau mà cùng một bản chất’. Căn cứ theo cảnh của phương tiện mà nói, thì gọi
là (chân) như, pháp giới, thật tế, v.v. Căn cứ theo hành mà nói, thì gọi là
không, vô tướng, bát-nhã, v.v. Căn cứ theo quả mà nói, thì gọi là bồ-đề, niết-bàn,
v.v. Tuy có các loại danh tự, mà đều biểu thị nội dung thể ngộ về cái thắng
nghĩa kia. ‘Tâm tánh vốn thanh tịnh’ của kinh
Bát-nhã, có thể nói là nó
đã dẫn đến làm phát sanh ra quan điểm tự tánh là thanh tịnh của thuyết Như lai
tạng,
8 nhưng về phương pháp thì bất đồng. Kinh
Bát-nhã là pháp môn bình đẳng, quán tất cả pháp đều là ‘bổn tánh là
không’; nếu như nói ‘bổn tánh là không’, thì đó chính là bổn tánh của tất cả
pháp đều trong sạch. Như quyển 3 của kinh
Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật, khi
đã trình bày ‘là tâm mà chẳng phải tâm, vì tướng của tâm vốn thanh tịnh’, tiếp
theo liền nói:
“Xá-lợi-phất
lại hỏi Tu-bồ-đề: Nhưng tâm thì không hủy hoại, không phân biệt, sắc cũng không
hủy hoại, không phân biệt, cho đến Phật đạo (bồ-đề) cũng không hủy hoại, không
phân biệt chăng? Tu-bồ-đề trả lời: Nếu có thể biết rằng tướng (tánh) của tâm là
không hủy hoại, không phân biệt, thì Bồ-tát cũng có thể biết sắc, cho đến Phật
đạo cũng không hủy hoại, không phân biệt.”
‘Không hủy
hoại, không phân biệt, có nghĩa là ‘là tâm mà chẳng phải tướng tâm’. Trong quán
huệ của Bồ-tát, không chỉ là tâm, sắc,… bồ-đề của Phật, tất cả đều là không hủy
hoại, không phân biệt, cũng sẽ đều là bổn tánh thanh tịnh. Cho nên kinh Bát-nhã
nói: “Cái ngã không thể nắm bắt,… Phật không thể nắm bắt, vì đều rốt ráo thanh
tịnh.”
9 “Ngã không thể nắm bắt,… 5 loại mắt
không thể nắm bắt, vì đều rốt ráo thanh tịnh.”
10
Kinh
Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật(IV)
nói:
“Này Tu-bồ-đề!
Sắc trong sạch thì quả trong sạch, sắc trong sạch nên quả cũng trong sạch. Thọ,
tưởng, hành, thức trong sạch thì quả trong sạch; thọ, tưởng, hành, thức trong sạch
nên quả cũng trong sạch.”
“Này Tu-bồ-đề!
Sắc trong sạch thì tát-bà-nhã [nhất thiết trí] trong sạch, tát-bà-nhã trong sạch
nên sắc trong sạch. Này Tu-bồ-đề! Sắc trong sạch, tát-bà-nhã trong sạch, không
có hai, không có riêng biệt, không có khác nhau, không có hủy hoại [lẫn nhau].
Thọ, tưởng, hành thức trong sạch, thì tát-bà-nhã trong sạch, vì tát-bà-nhã
trong sạch nên thọ, tưởng, hành, thức trong sạch. Này Tu-bồ-đề! Tát-bà-nhã
trong sạch và thọ, tưởng, hành, thức trong sạch, là không có hai, không có
riêng biệt, không khác nhau, không có hủy hoại [lẫn nhau].
Kinh
Bát-nhã
là pháp môn bình đẳng thật tiễn, nói tất cả pháp vốn là không, tất cả pháp vốn
trong sạch, mà không phải là đặc biệt chú trọng đến tâm tánh vốn thanh tịnh. Cho
nên nói thanh tịnh, ngã và pháp, sắc và tâm, phàm và Thánh, đạo và quả, đều
không có một pháp nào mà không rốt ráo thanh tịnh. Đây là pháp môn bình đẳng
thuộc chánh quán của bát-nhã, là thật tiễn, hướng thượng. Tự tánh thanh tịnh của
Như lai tạng đã chỉ ra rằng chúng sanh vốn có sẵn tánh Như lai, là cái nhân để
thành Phật; hoặc lấy Như lai tạng làm nơi nương tựa, để xây dựng nên tất cả
pháp thuộc phàm, Thánh, ô nhiễm, thanh tịnh. Đây là trọng ở nơi tâm (hoặc) ngã,
trình bày, từ thượng hướng đến hạ (hoặc gọi đó là ‘môn hướng lùi’). Cho nên,
thuyết tâm tánh vốn thanh tịnh của kinh
Bát-nhã, có thể dẫn đến làm phát
sanh thuyết Như lai tạng, nhưng lại không phải là thuyết Như lai tạng.
Kinh
Bát-nhã
nói bổn tánh của tất cả pháp đều là không (prakṛtiśūnyatā), lại nói tất pháp rốt
ráo đều là không (atyantaśūnyatā); nói bổn tánh là thanh tịnh (prakṛtiviśuddha),
lại nói rốt ráo đều thanh tịnh (atyanta-viśuddha). Thanh tịnh và không, có gì bất
đồng về ý nghĩa chăng? Luận
Đại trí độ(V)
nói:
“Cái không
rốt ráo tức là sự thanh tịnh rốt ráo, bởi con người sợ cái không, cho nên nói
là thanh tịnh.”
Không và tịnh,
chỉ là danh tự khác nhau, mà nội dung là giống nhau. Cái không mà Phật pháp
nói, đi đến ‘chỗ vô cùng sâu xa’, thì người nghe dễ dàng tưởng tượng rằng cái
gì cũng không có. Ái có mà ác thì không, là tâm lý bình thường của chúng sanh,
cho nên ý nghĩa Không của Đại thừa thuộc về số ít, mà chẳng phải là thứ mà người
thông thường có thể tin tưởng và thọ trì được, nếu có tin tưởng và thọ trì thì
cũng dễ dàng bị sai lầm. Vì phương tiện để giáo hóa cho nên lại gọi nó là bổn
tánh thanh tịnh, sự thanh tịnh rốt ráo. Tuy nội dung vẫn là một, mà đối với người
nghe khi nghe thì dường như có sự tồn tại của cái thanh tịnh vi diệu, chỉ cần
có chỗ nương tựa, thì dễ tiếp thụ. Giải thích này của Long thọ, đối với thuyết
Không của Đại thừa sơ kỳ, mà diễn giải thành thuyết Hữu của Đại thừa hậu kỳ, đã
cống hiến một thứ giải thích hợp lý nhằm phù hợp căn cơ mà đặt ra giáo pháp
tương ứng.
Bộ loại của
kinh điển Đại thừa sơ kỳ là vô cùng nhiều, có liên quan đến thuyết tâm tánh vốn
thanh tịnh, đại để là khế hợp với kinh
Bát-nhã, thì như kinh
Những
câu hỏi của Phạm thiên Tư ích(VI)
nói:
“Ở tiền tế,
tất cả pháp đều thanh tịnh; ở hậu tế, tất cả pháp đều thanh tịnh; ở hiện tại, tất
cả pháp đều thanh tịnh. Đó là sự thanh tịnh rốt ráo ở cả 3 đời, không có thể
khiến cho nó không thanh tịnh, vì tánh của nó luôn luôn thanh tịnh, vì vậy nói
tánh của tất cả các pháp luôn luôn thanh tịnh.”
“Vì sao
nói tánh của các pháp là thanh tịnh? Nghĩa là, tất cả các pháp đều là tướng
không,… tướng không có tướng,… tướng vô tác,… vì vậy gọi là tánh luôn luôn
thanh tịnh. Bởi vì tướng luôn luôn thanh tịnh, nên biết tánh của sanh-tử tức là
tánh của niết-bàn, tánh của niết-bàn tức là tánh của tất cả pháp, vì vậy nói
tâm tánh luôn luôn thanh tịnh.”
“Ví như hư
không, nếu [cho rằng hư không] bị dơ bẩn, thì không có việc ấy xảy ra; tâm tánh
cũng như vậy, nếu [cho rằng tâm] bị dơ bẩn, thì không có việc ấy xảy ra. … Bởi
tướng của tâm thật tế không bị dơ bẩn, tánh của nó thường trong sáng, vì vậy
tâm được giải thoát.”
Kinh
Tư
ích khẳng định tất cả tánh – sự luôn luôn thanh tịnh của không, vô tướng,
vô tác, nói đến tâm tánh luôn luôn thanh tịnh. Nêu ra hư không làm thí dụ, tỉ dụ
cho tâm của phàm phu từ xưa đến nay không bị khách trần làm nhiễm ô. Đây là ở
trong lý niệm về tánh thanh tịnh của mỗi mỗi pháp, xiển minh khả năng của tâm
giải thoát (citta-vimukti). Nhân vì ‘giả sử cái dơ bẩn ấy, không thể thanh tịnh
trở lại’; tu hành mà có thể đạt thành tâm tịnh giải thoát, thì có thể nhận thấy
sự xưa nay vốn thanh tịnh của tâm tánh.
Kinh Đại
thừa sử dụng thuyết ‘tâm tánh vốn thanh tịnh’, là ứng dụng trên nhiều phương diện,
như tâm niệm xứ (citta-smṛtyupasthāna) mà kinh
Trì thế đã nói. Quán sự
sanh diệt của tâm, hư vọng, không có thật, “từ xưa đến nay, không sanh, không
khởi, tánh luôn luôn thanh tịnh, vì khách trần phiền não làm ô nhiễm nên có sự
phân biệt.” Từ sự thông đạt tâm không có tướng của tâm, “không phân biệt là tâm
hay chẳng phải tâm, nhưng khéo biết rằng tâm có tướng vô sanh.” “Không nắm bắt
tướng dơ của tâm, không nắm bắt tướng tịnh của tâm, nhưng khéo biết tâm này có
tướng luôn luôn thanh tịnh.”
11 Tâm
luôn luôn thanh tịnh, là siêu việt đối với dơ hay tịnh; không chấp trước vào tướng
dơ, tướng tịnh, mới là ý nghĩa vốn có của tâm tánh luôn luôn thanh tịnh mà kinh
đã nói.
12
Kinh
A-xà-thế vương là dùng sự
ngộ được tánh chất của tội lỗi vốn là không, nên sám hối để diệt trừ tội lỗi là
chủ đề. Dạy dỗ cách sám hối để trừ tội lỗi là giải thích tâm là không thể nắm bắt:
tâm không ở bên trong, không ở bên ngoài, không ở khoảng giữa; tâm thuộc thời
quá khứ thì đã diệt, tâm thuộc thời vị lai thì chưa đến, tâm thuộc thời hiện tại
thì không đình trú; tâm không có hình dáng, không có xứ sở, không đến, không
đi. Tâm giống như hư không, như khói, sương mù, v.v. - 5 sự kiện, không thể làm
cho hư không bị dơ bẩn, cho nên nói: “Vì tâm ấy vốn thanh tịnh, cũng không có
nhiễm ô, cũng không nhờ cái gì khác mà trở nên thanh tịnh.”
13
Như kinh
Đại tịnh pháp môn ứng dụng
giải thích phiền não tức là bồ-đề. Thông thường cho rằng tâm vốn thanh tịnh, mà
không biết tất cả pháp xưa nay vốn thanh tịnh, các phiền não như tham, sân, si,
v.v., cũng là xưa nay vốn thanh tịnh, cho nên nói: “Nếu có thể tư duy phân biệt
được rằng tham dục, sân nộ, ngu si, và các trần lao, thảy vốn đều thanh tịnh, thì
Bồ-tát cầu thành Phật đạo vậy.”
14
Từ vài kinh Đại thừa này mà xem xét,
thì tâm tánh vốn thanh tịnh, chỉ là tên gọi riêng của tâm không, không thể nắm
bắt, quyết không phải là nói: tâm có công đức thanh tịnh, trang nghiêm.
(I) Tạp A-hàm 7, T. 2, tr. 341c.
(a) Pāli: kāmavitakko
byāpādavitakko vihiṃsāvitakko – tầm (tư duy) về dục, tầm về sân, tầm về hại.
1 Tăng chi bộ, phẩm 3 pháp, Nam
truyền 17, tr. 416-421.
2 Tạp A-hàm kinh 47, T. 2, tr.
342a.
Tăng chi bộ, phẩm 3 pháp, Nam truyền 17, tr. 421-424.
3 Tăng chi bộ, phẩm 5 pháp, Nam
truyền 19, tr. 22-26.
Tương ưng bộ, Giác chi tương ưng, Nam truyền 16
thượng, tr. 285-287.
4 Tăng chi bộ, phẩm 5 pháp, Nam
truyền 19, tr. 320-327.
Tương ưng bộ, Giác chi tương ưng, Nam truyền 16 thượng,
tr. 324-331.
5 Tăng chi bộ, phẩm 3 pháp, Nam
truyền 17, tr. 336-341.
(II) Tăng chi bộ, phẩm Một pháp, Nam
truyền 17, tr. 15.
(III)
Dị bộ tông luân
luận, T. 50, tr. 15b-c.
6 Tùy tướng luận, T. 32, tr.
163b.
(IV) A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 27, T. 27, tr. 140b-c.
(V) A-tỳ-đạt-ma Thuận chánh lý luận 72, T. 29, tr. 733a.
(b) Phả-chi-ca, 頗胝迦, Skt. spaṭikā: thủy
tinh.
(VI) Đại tỳ-bà-sa luận 22, T. 27, tr. 110a.
7 Thành thật luận 3, T. 32, tr. 258b.
8 A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 11, T. 27,
tr. 55b.
9 Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm luận 27, T. 28,
tr. 697b.
(VII) A-tỳ-đạt-ma Thuận chánh lý luận 72, T. 29, tr. 733a-b.
10 Xin xem tác phẩm của tôi:
Nguyên thỉ Phật giáo
Thánh điển chi tập thành, tr. 488-491.
11 Xin xem tác phẩm của tôi:
Nguyên thỉ Phật giáo
Thánh điển chi tập thành, tr. 676-683.
12 Xin xem tác phẩm của tôi:
Nguyên thỉ Phật giáo
Thánh điển chi tập thành, tr. 764-787.
(VIII) Thành thật luận 3, T. 32, tr. 258b.
(c)
Skt: ato
na cittaṃ prakṛtitaḥ pariśuddhamāgantukamalai-pariśuddhakam | kintu tathāgataḥ
cittaṃ nityaṃ sthāyīti vadatāṃ sattvānāṃ kṛta āha āgantukamalakliṣṭaṃ sat cittamapariśuddhamiti
| kiñca kusīdasattvā ye śṛṇvanti cittaṃ prakṛtito 'pariśuddhamiti |
Satyasiddhiśāstram,
30 cittasvabhāvavargaḥ.
(d) Skt: līnaṃ cittaṃ hīnasattveṣvavajñābhūtagrāho
bhūtadharmā-pavādaḥ / ātmasnehaścādhikaḥ pañca doṣā yeṣāṃ teṣāṃ tatprahāṇārtham-uktam
// 157 //
Ratnagotravibhāgo Mahāyānottaratantraśāstram. Tâm khiếp nhược,
tâm khinh mạn, sự chấp hư vọng, phỉ báng pháp chân thật, và ngã chấp – đó là 5
thứ sai lầm, vì lìa những sai lầm này nên nói.
13 Cứu cánh Nhất thừa Bảo tánh luận 4, T. 31,
tr. 840c.
Phật tánh luận
1, T. 31, tr. 787a.
(e) La-hầu-la, nói đủ là la-hầu-la-a-tu-la
(Rāhuasura).
14 A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 27, T. 27, tr.
141a.
15 Phản Bổn Hạnh Nam,
Tâm tánh luận triển khai
đích nhất đoạn diện, Ấn độ học Phật giáo học nghiên cứu, vol. 2, no. 1.
16 Giải thâm mật kinh 2, T. 16, tr. 693b.
17 Du-già sư địa luận 36, T. 30, tr. 486b.
18 (1)
A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận 72,
T. 27, tr. 371b. (2)
A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận 4, T. 29, tr. 21c.
(f)
Skt: cinotīti cittam. … citaṃ śubhāśubhairdhātubhiriti cittam.
Abhidharmakośa, Indriyanirdeśaḥ.
19 Giải thâm mật kinh 1, T. 16, tr. 692b
.
Nhiếp Đại thừa luận bổn, q. thượng, T. 31, tr. 134a.
Thành Duy thức luận
3, T. 31, tr. 13c.
(IX) Tạp A-hàm 10, T.
2, tr. 69c.
20 Tương ưng bộ, Thần túc tương
ưng, Nam truyền 16 hạ, tr. 114.
1 “Tâm tánh vốn thanh tịnh, tánh vốn bất tịnh”
là một trong 10 luận [đề] mà con người thích thú tranh luận, như
Thành thật
luận 2, T. 32, tr. 253c, 258b, đã nói.
2 Định luận của Nguyên thỉ Bát-nhã, xin xem tác phẩm của tôi:
Sơ kỳ Đại thừa
Phật giáo chi khởi nguyên dữ khai triển, tr. 627-638.
(I) Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1,
T. 8, tr. 537b.
(a) Skt: punaraparaṃ bhagavan bodhisattvena mahāsattvena
prajñāpāramitāyāṃ caratā prajñāpāramitāyāṃ bhāvayatā evaṃ śikṣitavyaṃ yathā
asau śikṣyamāṇastenāpi bodhicittena na manyeta / tatkasya hetoḥ? tathā hi -
taccittamacittam / prakṛtiścittasya prabhāsvarā //
Aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā.
(b) Skt: kiṃ punarāyuṣman subhūte asti
taccittaṃ yaccittamacittam? evamukte āyuṣmān subhūtirāyuṣmantaṃ
śāriputrametadavocat kiṃ punarāyuṣman śāriputra yā acittatā, tatra
acittatāyāmastitā vā nāstitā vā vidyate vā upalabhyate vā? śāriputra āha - na
hyetadāyuṣman subhūte / subhūtirāha - sacedāyuṣman śāriputra tatra
acittatāyāmastitā vā nāstitā vā na vidyate vā nopalabhyate vā, api nu te yukta
eṣa paryanuyogo bhavati yadāyuṣmān śāriputra evamāha - asti taccittaṃ
yaccittamacittamiti?
Aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā.
(c) Skt: kā punareṣā āyuṣman subhūte
acittatā? subhūtirāha - avikārā āyuṣman śāriputra avikalpā acittatā //
Aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā.
3 (1)
Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 537b. (2)
Đạo
hành Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 425c. (3)
Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật
sao kinh 1, T. 8, tr. 508c. (4)
Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 55 (phần
thứ 5), T. 7, tr. 866a. (5)
Phật mẫu xuất sanh tam pháp tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa
kinh 1, T. 8, tr. 587b. (6)
Đại minh độ kinh 1, T. 8, tr. 478c. (7)
Đại
Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 538 (phần thứ 4), T. 7, tr. 763c.
4 Tịnh Cốc Chánh Hùng,
Sơ kỳ Đại thừa Phật giáo chi thành lập quá trình,
tr. 65.
5 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 3, T. 8, tr. 233c.
6 Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 8, T. 8, tr. 574b.
Đạo
hành Bát-nhã ba-la-mật kinh 8, T. 8, tr. 465a.
(II) Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 7,
T. 8, tr. 566c.
(d) Tham khảo: abhilāpā ete subhūte
tathāgatenākhyātāḥ abhilapitāḥ - aprameyamiti vā, asaṃkhyeyamiti vā, akṣayamiti
vā, śūnyamiti vā, ānimittamiti vā, apraṇihitamiti vā, anabhisaṃskāra iti vā,
anutpāda iti vā, ajātiriti vā abhāva iti vā, virāga iti vā, nirodha iti vā,
nirvāṇamiti vā / deśanābhinirhāranirdeśa eṣa subhūte tathāgatenārhatā samyaksaṃbuddhenākhyātaḥ
//
Aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā.
7 Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 562 (phần thứ 5), T. 7, tr. 904b.
(III) Đại trí độ luận 63, T. 25, tr. 507a.
8 Lăng-già a-bạt-đa-la bảo kinh 2, T. 16, tr. 489b, nói: “Này Đại Huệ! Có khi
nói là không, vô tướng, vô nguyện, như, thật tế, pháp tánh, niết-bàn, lìa tự
tánh, chẳng sanh chẳng diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh niết-bàn, các từ ngữ
như thế để nói về Như lai tạng rồi, Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác vì dứt
trừ sự sợ hãi đối với mệnh đề ‘vô ngã’ của hàng phàm phu ngu si, nên nói [pháp]
môn Như lai tạng là cảnh giới lìa vọng tưởng, vô sở hữu.”
9 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 3, T. 8, tr. 238c.
10 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 6, T. 8,
tr. 260c-261a.
(IV) Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 3, T. 8,
tr. 551b.
(V) Đại trí độ luận 63, T. 25, tr. 508c.
(VI) Tư ích Phạm thiên sở vấn kinh 3, T. 15,
tr. 51b.
11 Trì thế kinh 3, T. 14, tr. 658c.
12 Đại trí độ luận 19, T. 25, tr.
203c-204a, quán tâm niệm xứ, chính là trích dẫn từ kinh
Trì thế.
13 A-xà-thế vương kinh, q. hạ, T. 15, tr. 401c, 403a-c.
Văn-thù-chi-lợi
phổ siêu tam-muội kinh, q. hạ, T. 15, tr. 421c-422a, 424b-425a.
14 Đại tịnh pháp môn kinh, T. 17, tr. 824a.