CHƯƠNG IV.
SỰ PHÔI THAI VÀ HOÀN THÀNH CỦA THUYẾT NHƯ LAI TẠNG
1. Pháp pháp bình đẳng và sự sự vô ngại
Thuyết Như lai tạng (tathāgatagarbha) không phải là kế thừa trực tiếp dòng pháp của
Phật giáo nguyên thỉ, mà là kế thừa từ Đại thừa sơ kỳ, thích ứng với thế tục,
đã có sự phát triển độc đáo – không chung với Đại thừa. Kinh điển Đại thừa của
Sơ kỳ, có thể xem
Bát-nhã,
Hoa nghiêm là hai dòng lớn. Kinh
Bát-nhã
và kinh
Hoa nghiêm mà hiện còn đều là bộ lớn, đây là truyền ra không ngừng,
rồi được tổ chức tập hợp trở lại làm một bộ. Trong sự phát triển rồi thứ tự
biên tập ra, sự truyền ra của kinh
Bát-nhã sớm hơn một chút, nhưng cả
hai đều ảnh hưởng lẫn nhau, mà lại biểu hiện ra phong cách độc đáo đặc biệt.
Điều mà kinh
Bát-nhã nói, là đạo Bồ-tát. Đạo
Bồ-tát là sự đều không trụ nơi nào của bát-nhã (prajñā) làm chủ đạo, chú
trọng vào sự ngộ nhập ‘chánh
pháp’. Trong pháp quán như thật của bát-nhã, tất cả pháp – cảnh, hành,
quả, tất
cả người – Thanh văn, Bích-chi Phật, Bồ-tát, Như lai, đều như huyễn, như
hóa, bổn
tánh là vắng lặng. Chân như (tathatā), pháp giới (dharmadhātu), thật tế
(bhūtakoṭi) mà đại biểu cho nội dung của sự tự chứng ấy, cũng không lìa
như huyễn,
như hóa, bổn tánh là vắng lặng. Kinh
Bát-nhã là lấy bổn tánh không làm cửa,
dẫn dắt người thực hành, thấu qua hí luận của phân biệt về danh, tướng, cũng
chính là đã siêu thoát khỏi ngữ ngôn và tư duy, chứng hiện thực về ‘tịch diệt
hí luận’ (nhưng Bồ-tát nhẫn mà không chứng, để khỏi rơi vào Nhị thừa). Trong sự
chứng hiện thực, thì nói hay làm gì cũng là không phù hợp với nó. Đã siêu việt
tánh thời gian và không gian, cho nên không có trước sau, không có trong ngoài,
bỉ thử; không có sanh hay diệt của thể, dơ hay sạch của chất, tăng hay giảm của
lượng để có thể diễn tả được. Không có đối lập – ‘hai’ (cũng sẽ không có mâu
thuẫn), cũng không có thay đổi, đã biểu hiện đầy đủ đặc tánh của pháp quán sâu
sắc của Đại thừa.
Đức Thích tôn dùng phương tiện để thuyết pháp, nói
pháp thế gian và xuất thế gian, hữu vi và vô vi, sanh tử và niết-bàn, thiết lập
nên môn lý luận tương đối (không phải là tương đối, mà là không có pháp nào có
thể diễn tả được), khiến cho con người xả bỏ hữu vi để nhập vào vô vi, xả bỏ
sanh tử để được niết-bàn. Hàng đệ tử Phật vào đời sau, y theo danh, tướng để
thiết lập, rơi vào chỗ có sự tranh luận của tương đối: đối lập giữa thế gian và
xuất thế gian, tùy thuận thế tục nên có trở ngại cho sự chứng hiện thực về thắng
nghĩa. Kinh
Bát-nhã dùng tất cả tánh đều là Không để làm cửa, đã đạt đến
tất cả đều không có hai, không có phân biệt – như, thế gian và xuất thế gian, hữu
vi và vô vi, sanh tử và niết-bàn, ở trong như, pháp giới, thật tế (của chứng hiện
thực về thắng nghĩa), không có hai, không có phân biệt, đã phát triển lý niệm về
tất cả vốn là không, tất cả đều là như, tất cả đều bình đẳng.
“Bát-nhã ba-la-mật có khả năng diệt trừ các tà
kiến, phiền não, hí luận, đưa vào trong cái Không rốt ráo.”1
Trung luận nói: “Thật tướng của các pháp, dứt tâm hành, ngữ ngôn, không
sanh cũng không diệt, tịch diệt, như niết-bàn.(a)”2 Sự tự chứng về tịch diệt của hí luận,
thì không thể nói là không có, cũng không thể nói là có, khái niệm ‘có’, ‘không
có’ của thế tục đều không thể biểu thị sự chứng hiện thực về sự tịch diệt hí luận.
Gọi đó là không (śūnyatā) cũng chỉ là giả danh thiết lập nên,3
chỉ cần con người không có trụ và chấp trước vào nơi nào mà thôi. Nhưng trong sự
khai triển pháp môn bát-nhã, dần dần diễn biến thành 2 dòng bất đồng:
1. Vào lúc chứng hiện thực, tất cả hí luận, tất
cả tướng huyễn đều không hiện tiền, như Thanh biện (Bhavya) dẫn kinh
Bát-nhã nói: “Con mắt tuệ đều
không thấy gì.”4 Đây là nghĩa gốc của
pháp môn bát-nhã, như Du-già sư không cho rằng tánh viên thành thật là Không,
mà ở trong căn bản trí chứng được chân như – thấy chân thật về đạo, cũng vẫn là
tất cả tướng huyễn mà nương vào cái khác [y tha huyễn tướng] bị tiêu diệt nên
không hiện tiền.
2. Theo truyền thuyết của Tây tạng thì có 2 tông,
ngoài ‘không trụ một nơi nào một cách cùng tột nhất’ của sự đối với cảnh hiện
tiền mà chấm dứt hí luận (như trên đã nói trên) ra, còn có ‘lý thành như huyễn’(b) của sự khởi trong hiện thực và không
tịch không có chướng ngại.5
Hai tông này, trong Phật học Trung quốc, chính
là chứng chân không và trung đạo. Trong pháp môn bát-nhã, hai tông này là phát
triển theo thứ tự mà được thành tựu, có thể dẫn kinh để chứng minh điều đó, như
kinh
Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật(I) do
Cưu-ma-la-thập dịch, nói:
“Vị Bồ-tát có huệ nhãn thì không suy nghĩ như vầy:
có pháp đó hoặc là hữu vi, hoặc là vô vi, hoặc là thế gian, hoặc là xuất thế
gian, hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Vị Bồ-tát có huệ nhãn này, cũng không có
pháp nào là không thấy, không có pháp nào là không nghe, không có pháp nào là
không biết, không có pháp nào là không nhân thức.”(c)
Huệ nhãn (prajñā-cakṣus) là chứng bát-nhã trong hiện thực. Tiết đầu
tiên mà kinh trên đã nói, là không nghĩ nhớ đến tất cả pháp, tiết sau là không
có pháp nào là không biết. Kinh văn dùng một từ ‘cũng’, đó là huệ nhãn không thấy
tất cả mà lại không có gì là không thấy, chính là thấy trung đạo theo như các học
giả Trung quốc đã nói. Bản do Huyền trang dịch, cùng với kinh
Ma-ha Bát-nhã
ở trên tương đương, là kinh
Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa(II) nói:
“Các Bồ-tát ma-ha-tát mà đắc được huệ nhãn thì
có pháp nào hoặc là hữu vi, hoặc là vô vi; không thấy có pháp nào hoặc là hữu lậu,
hoặc là vô lậu,… Bồ-tát ma-ha-tát mà đắc được huệ nhãn ấy, đối với tất cả pháp đều
chẳng phải thấy chẳng phải không thấy, chẳng phải nghe chẳng phải không nghe,
chẳng phải biết chẳng phải không biết, chẳng phải nhận thức chẳng phải không nhận
thức.”
‘Chẳng phải thấy chẳng phải không thấy’ của phần
đầu, ý nghĩa vẫn là không thấy tất cả, chỉ là tiến thêm một bước nói: không thấy
cũng không thể nắm bắt mà thôi. ‘Không gì là không thấy,… không gì là không nhận
thức’, kỳ thật đó là Phật nhãn (buddhacakṣus), đây là điểm chung của các dịch bản.6 Đem ‘không gì là không thấy’ của Phật
nhãn, làm đức dụng của huệ nhãn, kinh
Ma-ha Bát-nhã làm như thế, kinh
Phóng
quang Bát-nhã, kinh
Quang tán Bát-nhã thuộc cổ dịch,7 luận
Đại trí độ dựa vào bản kinh
này (bản 22.000 bài tụng) cũng như thế. Luận
Đại trí độ(III) nói:
“Huệ nhãn của chư Phật chiếu soi đến thật tánh của
các pháp, đến tận cùng bờ mé của chúng, bởi vậy nên không có pháp nào mà không
thấy, không có pháp nào mà không nghe, không có pháp nào mà không biết, không
có pháp nào là không nhận thức.”
“Hỏi: Phật dùng Phật nhãn nên không pháp nào là
không biết, chứ chẳng phải là dùng huệ nhãn, nay vì sao nói rằng huệ nhãn thì
không có pháp nào là không biết? Đáp: Khi thành Phật thì huệ nhãn đổi tên thành
Phật nhãn. … Khi thành Phật thì nó [huệ nhãn] mất tên gốc của nó, chỉ gọi là Phật
nhãn.”
‘Không có pháp nào là không biết’ là thuộc về Phật
nhãn, vì sao cũng xem như là nội dung của huệ nhãn?
Trí luận giải thích
rằng: ‘Khi thành Phật thì huệ nhãn đổi tên thành Phật nhãn’, cho thấy huệ nhãn
và Phật nhãn chỉ là khác biệt về danh tự, khác biệt về độ cạn sâu, mà không phải
là bất đồng về thể tánh. Khi Bồ-tát thông đạt được pháp tánh, thì Phật nhãn
chính là huệ nhãn; nếu như thông đạt được một cách sáng suốt rốt ráo, thì sẽ họi
là Phật nhãn. Điều này như kinh
Thập địa đã nói, từ Sơ địa đến Thập địa,
đều gọi giống nhau là trí nhất thiết trí [nhất thiết trí trí]. Theo sự phát triển
của pháp môn bát-nhã (đến sau này), thì huệ nhãn từ sự không thấy tất cả pháp,
đạt đến chỗ không thấy gì mà không gì là không thấy. Trình tự diễn tiến này, đã
trở thành căn nguyên tư tưởng của chân không và trung đạo của giới Phật giáo
Trung quốc.
Bên cạnh đó dẫn đến một ý kiến bất đồng, như
kinh
Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật(IV)
nói:
“Khi Bồ-tát đắc được a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề
vì chúng sanh mà nói rằng sắc đi đến [thú] không;(d) nói thọ, tưởng, hành, thức đều đi đến
không, tất cả pháp đều đi đến không, không đến không đi. Vì sao vậy? Vì tánh
không của sắc không đến không đi; tánh không của thọ, tưởng, hành, thức không đến
không đi, cho đến tánh không của tất cả các pháp đều không đến không đi, tất cả
pháp đều đi đến không, chúng không vượt qua [thoát khỏi] sự đi đến này.(e) Tất cả pháp đều đi đến vô tướng, đi đến
vô tác, đi đến vô khởi, đi đến vô sanh, đi đến vô sở hữu, đi đến [chỗ như] mộng,
đi đến vô lượng, đi đến vô biên, đi đến vô ngã, đi đến tịch diệt, đi đến niết-bàn,
đi đến chỗ không quay trở lại,(f) đi đến
chỗ không đi: tất cả pháp không vượt quá [thoát khỏi] sự đi đến này.”
Thú, có nghĩa la quay về hoàn toàn. Tìm cầu tướng
rốt ráo [tận cùng] của tất cả pháp, thì tất cả pháp không có pháp nào không phải
là không, không có pháp nào không phải là vô sanh, vô ngã, tịch diệt, niết-bàn
(‘không quay trở lại’, ‘không đi đến’ ở đoạn cuối là nói tổng quát rằng không
có sự đi và không có sự không đi). Đây chỉ là, tất cả pháp cuối cùng đều quay về
không, không ra ngoài như; không có gì sánh hơn cái sâu xa này, cho nên nói
‘không vượt quá sự đi đến này’, hoặc dịch là ‘không thể siêu việt qua cái sự đi
đến như vậy’. Điều này cùng với ‘pháp tướng sâu xa’, ‘ý nghĩa sâu sắc’ mà kinh
Bát-nhã
nói, là hoàn toàn phù hợp. Cùng tương được với đoạn kinh văn của
Tiểu phẩm
này, kinh
Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật(V)
nói:
“Vì chúng sanh mà nói sắc đi đến không; nói thọ,
tưởng, hành, thức đi đến không, cho đến nói nhất thiết chủng trí đi đến không.
… Tất cả pháp đi đến không, không vượt quá sự đi đến này. Vì sao vậy? Ở trong
Không, đi đến hay không đi đến đều không thể nắm bắt.”
“Tất cả pháp đều đi đến vô tướng,… đi đến vô
tác,… đi đến vô khởi,… đi đến vô sở hữu, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng
sạch…”
“Tất cả pháp đi đến [chỗ như] mộng,… đi đến [chỗ
như] huyễn, đi đến [chỗ như] tiếng vang, đi đến [như] ảnh, đi đến [chỗ như]
hóa…”
“Tất cả pháp đều đi đến vô lượng vô biên,… đi đến
không cho đi cũng không giữ lại,… đi đến không đưa lên không hạ xuống,… đi đến
không đến không đi,… đi đến không đi vào không đi ra, không kết hợp không tan
rã, không níu giữ không đoạn tuyệt…”
“Tất cả pháp đi đến ngã, chúng sanh, thọ mạng,
người, khởi, khiến cho khởi, làm, khiến cho làm, cái biết, cái thấy…”
“Tất cả pháp đi đến hữu thường,… đi đến vui, tịnh,
ngã,… đi đến vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã…”
“Tất cả pháp đi đến sự ham muốn,… đi đến sự sân
hận, sự ngu si, sự kiến [chấp]…”
“Tất cả pháp đi đến như,… siêu việt pháp tánh,
thật tế, tánh không thể nghĩ lường,… đi đến bình đẳng,… đi đến tướng bất động…”
“Tất cả pháp đi đến sắc,… đi đến thọ, tưởng,
hành, thức,… 12 nhập, 18 giới…”
“Tất cả pháp đi đến đàn-ba-la-mật,… đi đến
thi-la,… đi đến sằn-đề,… đi đến tỳ-lê-da,… đi đến thiền-na, đi đến bát-nhã
ba-la-mật…”
“Tất cả pháp đi đến cái Không bên trong,… đi đến
cái Không bên ngoài,… đi đến cái Không bên trong-ngoài,… cho đến tất cả pháp đều
đi đến cái Không của pháp không có và cái không của pháp có…”
“Tất cả pháp đi đến bốn niệm xứ, cho đến tám
Thánh đạo phần…”
“Tất cả pháp đi đến mười lực của Phật, cho đến
nhất thiết chủng trí…”
“Tất cả pháp đi đến quả Tu-đà-hoàn, quả
Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, đạo A-la-hán, đạo Bích-chi Phật,… đi đến A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề…”
“Tất cả pháp đi đến Tu-đà-hoàn, cho đến Phật,
không vượt qua sự đi đến này. Vì sao vậy? Vì trong giai đoạn từ Tu-đà-hoàn cho
đến Phật, đi đến hay không đi đến đều không thể nắm bắt.”
Những điều mà
Tiểu phẩm Bát-nhã nói, chỉ
là tất cả pháp đi đến chỗ như mộng, như huyễn, niết-bàn của bổn tánh không tịch
– ‘chỗ sâu xa nhất’. Những điều mà kinh
Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật nói, có
2 đoạn lớn; đắc được tất cả pháp đi đến không, đến tất cả pháp đi đến chỗ bình
đẳng, đi đến chỗ bất động, trên mặt đại thể thì cùng với kinh
Tiểu phẩm
phù hợp với nhau. Đoạn lớn ở dưới: tất cả pháp đi đến sắc,… thức, đến tất cả
pháp đi đến Phật, luận
Đại trí độ(VI)
giải thích rằng:
“Các pháp như sắc, v.v., cũng vậy, cuối cùng đều
quay về không. Vì cái tướng rốt ráo của các pháp chắc chắn là không, nên các thứ
còn lại đều là hư vọng. … 16 tên gọi gồm ngã, v.v., đều nhân vì 5 chúng [uẩn]
hòa hợp, có giả tên gọi này mà không có pháp thật. … Như 4 pháp gồm thường (lạc,
ngã, tịnh), v.v., đều không thể nắm bắt, bởi vì do điên đảo. Các pháp như sắc,
v.v., cũng như vậy.”
Các pháp
như uẩn - gồm sắc, v.v., xứ, giới; các pháp thực hành gồm 6 độ, 18 không, 37 phẩm,
v.v.; các pháp thuộc về quả gồm quả Tu-đà-hoàn, v.v.; các người gồm tu-đà-hoàn,
Phật, v.v., tất cả đều không có cái gì chẳng phải là tên gọi giả được đặt bày
nên, ‘cuối cùng đều quay về không’. Cho nên kinh nói tất cả pháp đi đến sắc,
cho đến đi đến Phật, đều lấy ‘vì rốt ráo đều không thể nắm bắt’, để trình bày rằng
không có sự đi đến và chẳng phải là sự đi đến để có thể diễn tả được. Tất cả
pháp đi đến tất cả pháp, kỳ thật là tất cả pháp đều đi đến tất cả pháp tánh – rốt
ráo đều không thể nắm bắt (không, như). Nhưng mà, câu kinh văn ‘tất cả pháp đi
đến tất cả pháp’, có thể được hiểu ngầm là: tất cả pháp và tất cả pháp, không
có dính mắc, không có chướng ngại, cùng với tư tưởng ‘liên hệ với nhau, nhập
vào nhau’ của
Hoa nghiêm, hợp thành một dòng.
Kinh
Hoa nghiêm cũng là tuyên thuyết về Bồ-tát
hành, vị thứ tu hành – 10 trụ, 10 hành, 10 hồi hướng, 10 địa, mà Phật học Trung
quốc đã nói, chính là y cứ vào sự biên tập thành theo thứ tự của kinh
Hoa
nghiêm, mà được công nhận là thứ tự địa vị của Bồ-tát hành. Nhưng
Bát-nhã
chú trọng vào sự tự mình tu hành và giáo hóa kẻ khác của Bồ-tát, ‘sự tiến tu mà
lấy ‘không đắc điều gì [vô sở đắc] làm phương tiện’, nhưng
Hoa nghiêm là
lấy quả đức sâu xa của Như lai làm trọng. Kinh
Đâu-sa thuộc cổ dịch là bộ
phận nhỏ của bộ lớn
Hoa nghiêm. Kinh
Tam-mạn-đà-bạt-đà-la Bồ-tát
nói đến bát-nhã ba-la-mật, kinh
Đâu-sa-đà-tỳ-la.8 Đâu-sa-đà-tỳ-la (Tathāgatapiṭaka), dịch nghĩa là Như lai (khiếp) tạng. Làm hiện
rõ ra quả đức sâu xa của Như lai, ở trong bộ lớn kinh
Hoa nghiêm, như phẩm
Thế gian tịnh nhãn, phẩm Lô-xá-na Phật của bản dịch đời Tấn, chính là sáu phẩm
đầu của bản dịch đời Đường. Trong Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika), thân vô lậu của Như lai, đã trải qua là ‘sắc
thân không có bờ mé’, ‘lượng tưởi thọ không có bờ mé’, ‘oai đức không có bờ
mé’, ‘dùng một âm thuyết tất cả pháp’, ‘trong một niệm mà biết tất cả pháp’. Đồng
thời, trong 10 phương có vô lượng thế giới, trong hiện tại có vô số Phật. Nói
theo nguyên tắc, những điều này đều cùng với điều mà kinh
Hoa nghiêm
đã
nói là tương đồng. Thừa nhận những niềm tin này, trong sự ngộ giải về
bình đẳng
tịch diệt, dùng quan niệm thẩm mỹ của tín ngưỡng, nghệ thuật, thần bí,
đem quả
đức sâu xa của Như lai, tác dụng to lớn của sự lợi ích vô tận cho chúng
sanh,
đã biểu đạt ra đầy đủ, trở thành Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocanabuddha),
Hoa tạng trang nghiêm thế giới hải
(kusuma-tala-garbha-vyūhālaṃkāra-lokadhātu-samudra) trang nghiêm kỳ vĩ.
Dùng điều này làm lý tưởng
của sự tin tưởng, hiểu biết rồi tu chứng, sau đó giải thích rõ địa vị
trải qua
của Bồ-tát đến thành Phật. Vô sanh, không, không sanh không diệt, tịch
tĩnh,
không hai, không khác – tánh bình đẳng tịch diệt của tất cả pháp mà
Bát-nhã
đã trình bày, kinh
Hoa nghiêm là tương đồng với nó.
Thông thường cho rằng kinh
Hoa nghiêm là nói
theo diệu hữu, nhưng so với Đại thừa hậu kỳ, phê phán tất cả pháp đều là không
mà nói riêng về cái chẳng phải không, đều không tương đồng. Các pháp đều bình đẳng
với nhau, chính như điều mà kinh
Duy-ma-cật sở thuyết đã nói: “[Chân] như
là phải hai, không đổi khác”(g)
(không có phân biệt, không có biến đổi): “Tất cả chúng sanh đều như, tất cả
pháp cũng đều như, các vị Hiền thánh cũng đều như, cho đến Di-lặc cũng là như.(h)”9
Sự bình đẳng theo thắng nghĩa của các pháp, như khi nói đến sự tướng – phàm
Thánh, đạo quả, sanh tử, niết-bàn, thì tất cả đều là sự đặt bày theo thế tục,
cho nên tất cả là ‘duy chỉ là tên gọi, duy chỉ là sự biểu đạt, duy chỉ là sự giả
đặt nên’. Đây là pháp môn bát-nhã, tính thiện xảo của sự thâm nhập vào thắng
nghĩa nên không trái với thế tục vậy!
Đối với sự bình đẳng của các pháp, nếu như không
xem trọng tất cả pháp (của sự đặt bày theo thế tục), và sự không phải tức,
không phải ly của như (của sự chứng được thắng nghĩa trong hiện thực), mà nói
trực tiếp đến tính không có hai, không có khác của tất cả pháp, tự nhiên sẽ dẫn
đến phát sanh ra lý luận về ‘tương tức tương nhập’, ‘pháp pháp vô ngại’. Nếu
chúng sanh là như thế, Như lai cũng như thế, thì chúng sanh và Như lai là không
có hai, không có khác, vì vậy có thể ngầm hiểu rằng: chúng sanh không rời Như
lai, Như lai không lìa chúng sanh; chúng sanh tức là Như lai, Như lai tức là chúng
sanh. Đại chúng bộ nói Như lai có ‘sắc thân không có bờ mé’, cũng chính là thân
Phật trải khắp nên không nơi nào là không có. Đây là sự thật theo tín ngưỡng, đã
có chịu sự khơi mở của tư tưởng các pháp đều bình đẳng, liên hệ nhau, nhập vào
nhau, vì vậy Phật với Phật là tương tức tương nhập, bình đẳng không có ngăn ngại.
Cũng có thể ngầm hiểu ra rằng: Như lai trải khắp trong chúng sanh, (chúng sanh
trải khắp trong Như lai), Như lai và chúng sanh cũng tương tức tương nhập nên
bình đẳng không có ngăn ngại. Như vậy, thuyết Như lai tạng chủ trương trong
thân của chúng sanh có Như lai, trong pháp giới vô ngại của
Hoa nghiêm,
dùng hình thức tượng trưng, thí dụ, phát triển dần dần mà ra.
2. Thuyết Như lai tạng hàm súc trong kinh Hoa nghiêm
Tư tưởng Như lai tạng (tathāgata-garbha) xuất hiện tiềm ẩn trong kinh
Hoa nghiêm,
dùng thí dụ, tượng trưng để biểu thị ra. Trong kinh
Hoa nghiêm, chủ yếu
thì có ba nơi:
1. Phẩm Bảo vương Như lai tánh khởi: do Phật-đà-bạt-đà-la (Buddhabhadra) dịch vào đời nhà Tấn, là phẩm 32 của kinh
Hoa
nghiêm. Bản do Trúc Pháp hộ (Dharmarakṣa) dịch vào đời nhà Tấn, gọi là kinh
Như lai
hưng hiển. Phẩm 37 của kinh
Hoa nghiêm do Thật-xoa-nan-đà (Śikṣānanda) dịch vào đời nhà Đường, gọi là phẩm Như lai xuất
hiện. Bản Phạn văn cũng là ý nghĩa Như lai hưng khởi, xuất hiện. Bản dịch đời Tấn
gọi là ‘Như lai tánh khởi’, ‘tánh khởi’ đã được các học gia đời sau xem trọng.
Kinh
Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm(I)
(phẩm Như lai tánh khởi) nói:
“Trong thân của chúng sanh, không có chúng sanh nào mà không bao hàm đầy
đủ Như lai trí, nhưng vì chúng sanh điên đảo nên không biết được Như lai trí ấy;
nhưng mà sau khi trừ bỏ được sự điên đảo thì sẽ phát sanh ra trí biết hết thảy,
trí vô sư, trí không có chướng ngại. Này Phật tử! Ví như có một quyển kinh có
lượng lớn như (một) tam thiên đại thiên thế giới, lại nữa, trong quyển sách lớn
ấy có ghi chép đầy đủ [mọi thứ có] trong tam thiên đại thiên thế giới. … Mang
quyển kinh mà chép mọi thứ của tam thiên đại thiên thế giới ấy bỏ vào trong một
vi trần, rồi cũng bỏ vào tất cả vi trần như thế. … Này Phật tử! Trí huệ của Như
lai, trí tuệ vô tướng, trí tuệ vô ngại đều có đầy đủ trong thân của chúng sanh,
nhưng vì chúng sanh ngu si bị cái tưởng điên đảo che lấp nên không biết, không
thấy, không sanh tâm tin tưởng. Bấy giờ, Như lai dùng thiên nhãn thanh tịnh
không bị chướng ngại để quan sát tất cả chúng sanh, sau khi quán xong thì nói
như vầy: Kỳ lạ thay! Kỳ lạ thay! Vì sao Như lai có đầy đủ trí huệ ở trong thân
chúng sanhh mà chúng không biết, không thấy vậy! Ta sẽ dạy cho chúng sanh kia
giác ngộ Thánh đạo, ắt khiến chúng vĩnh viễn thoát khỏi sự trói buộc của cáu bẩn
điên đảo, thấy toàn vẹn được Như lai trí tuệ ở trong thân của chúng, cùng với
Phật không có khác nhau.”(a)
Quyển kinh mà chép mọi thứ của tam thiên đại thiên thế giới ấy bỏ vào
trong một vi trần, giống như trí huệ Như lai ở bên trong thân của chúng sanh; tất
cả vi trần đều như thế, chính là tất cả chúng sanh đều có trí huệ Như lai. Theo
Phật thuyết, trí huệ của Phật nhập vào khắp trong thân của tất cả chúng sanh;
theo chúng sanh nói, thì chúng sanh có đầy đủ trí huệ của Như lai. ‘Thân chúng
sanh’, theo luận
Bảo tánh đã dẫn, nguyên văn là sattva-citta-saṃtāna,
phải dịch là ‘tâm tương tục của chúng sanh’. Đoạn văn này, trong đoạn ‘tâm của
bậc Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác’ của phẩm Như lai tánh khởi, đã biểu thị
thuyết chúng sanh có đủ trí tuệ của Như lai, là trí đức của Như lai vốn có đầy
đủ của tâm chúng sanh. Đoạn kinh văn này, được xem là thuyết Như lai tạng, được
những học giả Như lai tạng của đời sau nhiều lần trích dẫn. Dịch giả của kinh
Như
lai tạng – Phật-đà-bạt-đà-la dịch là ‘Như lai tánh khởi’, lại nữa, ở cuối
phẩm này nói: “Pháp vi tế sâu xa như thế, trải qua vô lượng kiếp khó được nghe,
người có tinh tấn và trí huệ mới được nghe Như lai tạng,”1 đã nói rõ ràng đến ‘Như lai tạng’.
Nhưng bản dịch đời Đường tương đương với đoạn này, thì nói: “Pháp sâu xa vi tế
như thế, trải qua trăm nghìn vạn kiếp khó được nghe; người được điều phục bởi sự
tinh tấn và trí huệ mới nghe được ý nghĩa bí mật sâu sắc này.”2 Như lai tạng, theo bản dịch đời Tấn, là
Bí mật tạng, có thể từ chứng cứ gián tiếp để xác định điều ấy, như3 nói:
(1) Cái khuôn mẫu lớn [hồng phạm 洪範] như thế, chính là cái tạng mà bí mật của Như lai.” (2) “Tên của kinh này
là tạng pháp vi tế sâu xa của chư Phật.” (3) “Pháp môn này gọi là chỗ mà bí mật
của Như lai.”
Ba đoạn dịch bản khác nhau này, đều gọi pháp môn này là
‘Như lai bí mật tạng’, có thể thấy ‘Như lai tạng’ của bản dịch đời Tấn là Như
lai bí mật tạng – chỗ bí mật (guhya-sthāna), mà không phải là tạng (garba, tử
cung) của bào thai [thai tạng]. Thời gian mà phẩm Như lai tánh khởi này được
truyền bá ra hơi trễ, nên tư tưởng của nó cùng với thuyết Như lai tạng là gần
nhau, nhưng vẫn không có danh mục của ‘Như lai (thai) tạng’.
2. Phẩm Thập địa: thông thường gọi là kinh
Thập
địa; Trúc Pháp hộ dịch là kinh
Tiệm bị nhất thiết trí đức,
Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) dịch là kinh
Thập trụ. Trong phẩm này, cùng
với thuyết Như lai tạng gần nhau, có dụ về vàng và dụ về vật báu. Vàng – dụ về
việc luyện vàng, kinh
Tạp A-hàm đã nói đến rồi. dụ luyện vàng của phẩm
này được phân tán trong mười địa, mỗi một địa đều dùng vàng làm thí dụ, để tỉ dụ
cho “các công đức này, đều hồi hướng về tát-bà-nhã, chuyển thành sáng rỡ thêm,
tùy ý mà sử dụng;” “tất cả thiện căn đều chuyển thành ánh sáng thanh tịnh thù
thắng,” v.v.4 Dùng dụ luyện vàng để
trình bày thiện căn công đức của mỗi một địa, dần dà tăng lên sự thù thắng của
từng địa từng địa. Thiện căn công đức của Bồ-tát đương nhiên là dùng trí và đức
(của Bồ-tát) làm chủ, cho nên pháp môn này được gọi là ‘dần dần có đủ tất cả
trí đức’. Dụ viên ma-ni lớn quý báu, ở cuối phẩm Thập địa, như kinh
Đại
phương quảng Phật hoa nghiêm(II) nói:
“Ví như viên bảo châu ma-ni lớn có mười sự để
cho chúng sanh tất cả vật báu. Mười sự đó là những gì? 1. Được lấy ra từ biển lớn;
2. Người thợ khéo léo đẽo gọt; 3. Chuyển thành tinh diệu; 4. Trừ bỏ dơ bẩn; 5.
Dùng lửa để luyện; 6. Chúng các thứ báu để trang trí; 7. Xâu thành chuỗi báu;
8. Đặt trên cây trụ bằng lưu ly; 9. Ánh sáng chiếu khắp 4 phương; 10. Tùy ý của
vua mà tạo cơn mưa xuống các loại bảo vật. Vị Bồ-tát phát tâm tâm bồ-đề quý
báu, cũng có mười sự, mười công năng đó là những gì? 1. Vị mới phát tâm, bố thí
để ly được tâm keo kiết;… 10. Được chư Phật truyền trao cho chức vị của trí huệ,
làm được Phật sự cho các chúng sanh, dự vào số chư Phật.”
Viên ma-ni lớn quý báu được lấy ra từ trong biển,
trải qua sự tôi luyện cho đến khi treo lên một cây trụ cao, mưa xuống mọi vật
quý báu, giống như chúng sanh phát tâm bồ-đề rộng lớn, từ Sơ địa… đến Thập địa
rồi thành Phật. viên ngọc quý được lấy ra từ trong biển lớn vẫn cần phải tôi
luyện, nhưng thể tánh và công dụng [đức dụng] của viên ngọc quý sớm đã được
thành tựu rồi; cùng với vàng được lấy ra từ quặng, trải qua sự tôi luyện rồi được
chế thành các vật trang sức, mà tánh chất vàng là đã được thành tựu ở trong quặng
rồi, là giống nhau. Dùng dụ này để thí dụ cho tâm bồ-đề, tâm bồ-đề từ Sơ địa đến
Thập địa, rồi thành Phật, là từ phát khởi bồ-đề đến viên mãn bồ-đề (trí đức)
làm chủ, để giải thích sự lìa dơ bẩn cho đến sự thanh tịnh rốt ráo của bồ-đề,
phát sanh cái đức dụng lợi sanh vô biên. Trong phẩm này cũng không có nói đến
danh mục ‘Như lai tạng’, nhưng các học giả Như lai tạng xem thuyết chúng sanh vốn
có bồ-đề, cùng với thuyết Như lai tạng là đồng một nội dung.
3. Phẩm Lô-xá-na: phẩm Lô-xá-na của bản dịch đời
Tấn tương đương với phẩm 2-6 của bản dịch đời Đường. Thế giới của Phật Lô-xá-na
– Tỳ-lô-giá-na (Vairocana) được gọi là Hoa tạng trang nghiêm thế giới hải
(Kusuma-tala-garbha-vyūhālaṃkāra-lokadhātu-samudra), từ thế giới trụ ở trên hoa
sen mà có tên ấy, như kinh
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm5 (bản dịch đời Đường) nói:
1) “Trong biển Hương Thủy này có một hoa sen lớn
tên là Chủng chủng quang minh nhị hương tràng, Hoa tạng trang nghiêm thế giới hải
trụ ở trong hoa sen ấy.”
2) “Hoa nghiêm thế giới hải bình đẳng không
khác biệt với pháp giới, trang nghiêm rất thanh tịnh, an trú ở tại hư không.
Trong thế giới hải này có nhiều cõi nước khó nghĩ bàn được. …Các cõi nước nhiều
như vậy đều trụ ở trên hoa sen.”
Thế giới là trụ trên hoa sen này. Trong thế giới
ấy có Phật xuất hiện, có chúng Bồ-tát theo hầu, Phật và chúng Bồ-tát ấy lại ngồi
trên hoa sen. Phật và thế giới đều đều an trụ ở trên hoa sen, rốt cục có ý
nghĩa gì? Luận
Đại trí độ(III)
nói:
“Khi kiếp
tận thiêu cháy, tất cả đều không còn. Chúng sanh nhờ sức nhân duyên của phước đức
nên gió từ mười phương đến chống đỡ nhau, tiếp xúc nhau có thể duy trì đại thủy.
Trên nước có một nghìn đầu người, hai nghìn tay chân, gọi là Vi-nữu. Trong rún
của người này xuất ra nghìn hoa sen có cánh bằng sắc của vàng quí báu kỳ diệu,
ánh sáng của nó rất to lớn rực rỡ, giống như vạn mặt trời cùng chiếu một lượt.
Trong hoa có người ngồi kiết già, người này lại có vô lượng ánh sáng, gọi là
vua Phạm thiên. Trong tâm của vị vua Phạm thiên này sanh ra tám người con, tám
người con ấy sanh ra trời đất, nhân dân… Vị vua Phạm thiên này ngồi trên hoa
sen, do vậy chư Phật vì tùy thế tục nên ngồi kiết già trên hoa báu ấy.”
Trong rún của Vi-nữu (Viṣṇu) sanh ra hoa sen,
vua Phạm thiên (Brahman) ngồi trên hoa sen là thần thoại về sáng tạo của Ấn độ.
Thần thoại của sự sáng tạo ra trời đất, nhân dân này, cùng với truyền thuyết
trong chương 203, quyển 3 của trường ca
Ma-ha Bà-la-đa (Mahābhārata) gần
nhau. Cho nên, thế giới Hoa tạng trụ trên hoa sen, Phật và chư Bồ-tát ngồi trên
hoa sen đều chẳng qua là ‘tùy theo pháp thế tục’, trong khu vực văn hóa của thần
giáo tại Ấn độ, là nhằm thích ứng mới của tín ngưỡng thần giáo thích ứng. Từ sự
biểu trưng của hoa sen để nói, là có ý nghĩa tương đương. Hoa sen là thứ được
nhân loại rất tôn trọng, kinh
A-hàm và
Pháp cú đã từng dùng hoa
sen làm thí dụ. Trong các bộ phái Phật giáo, trang trí cho tháp (stūpa) và
chi-đề (caitya) cũng có làm hình hoa sen. Việc được xem trọng của hoa sen, có
hai điểm:
1) Hoa sen sanh trong bùn nhơ, nhưng không bị
sự ô nhiễm của bùn, hương thơm thanh khiết vi diệu.
A-hàm và
Pháp cú
dùng hoa sen làm thí dụ, tượng trưng cho sự không bị ô nhiễm bởi phiền não của
(ba thừa cùng chung) Thánh giả, sự cao thượng và thanh tịnh của phẩm đức. Nước
ta có thuyết yêu hoa sen của Chu Đôn Di, cũng chỉ là ý nghĩa này. Nếu dựa vào sự
không rời bùn nhơ mà sanh trưởng để nói, thì như vị Bồ-tát không rời sanh tử và
phiền não, như kinh
Duy-ma-cật đã nói.6
2) Hoa sen từ khi ngậm nụ đến nở ra, quả sen
đã sanh trưởng ở trong hoa rồi. Đợi đến khi cánh hoa roi rụng, quả sen (đài
sen) liền hiện ra hoàn toàn. Nói theo bình thường: ‘Hoa nghiêm’ là dùng ‘hoa có
nhân là vạn hạnh, trang sức Phật quả có vạn đức’. Hoa giống như là Bồ-tát hạnh,
quả sen giống như quả Phật. Khi Bồ-tát tu hành, quả Phật (bồ-đề) đã có sẵn ở
trong, đợi đến khi nhân được làm đầy đủ, cũng chính là viên mãn bồ-đề. Ý nghĩa
tượng trưng này là hoa sen nở nên Như lai xuất hiện, ngồi trên đài hoa sen.
Kinh
Hoa nghiêm và kinh
Pháp hoa xem trọng quả Phật, đều dùng hoa
sen làm thí dụ. Cho nên hoa tạng trang nghiêm thế giới hải, cho đến Phật và Bồ-tát
ngồi trên hoa sen mà phẩm Lô-xá-na đã hiển thị, đều ám chỉ ý nghĩa rằng bồ-đề vốn
đã có sẵn, đợi đến khi vạn hạnh viên mãn thì hiện ra quả Phật trang nghiêm. Hoa
sen nở ra, trong ấy có Như lai ngồi trên tòa sen, có bối cảnh thần thoại của
thông tục, sễ dàng được truyền bá trong Phật giáo; mà có tương tợ ý nghĩa của
thuyết Như lai tạng, nên cũng sẽ thích hợp với thông tục để lưu hành ra. ‘Hoa tạng
trang nghiêm thế giới hải’ của kinh
Hoa nghiêm truyền, trong bản dịch
sang Tạng văn thì có từ garbha, tức chữ (thai) tạng của Như lai tạng, quả sen ở
trong hoa, giống như ở trong thai. Nhưng theo bản truyền vào đời Đường thì
nguyên ngữ của Hoa tạng thế giới hải vẫn không có từ thai tạng (garbha).7
Tóm lại, dụ trong một vi trần có ba nghìn đại
thiên quyển kinh và dụ vàng, dụ bảo vật của kinh
Hoa nghiêm, đặc biệt là
ý nghĩa mà hoa tạng tượng trưng, dẫu chưa có đề cập đến từ Như lai tạng rõ
ràng, nhưng thuyết Như lai tạng quả thật đã đạt đến giai đoạn ‘miêu tả được
sinh động’.
3. Tâm – bồ-đề tâm – bồ-đề - chúng sanh giới
Pháp môn Hoa nghiêm khởi lên từ phương Nam. Bộ phận tỳ kheo giữ gìn giáo
pháp của phương Nam lấy các thí dụ của kinh
Hoa nghiêm, v.v, để
tuyên
dương pháp môn ‘Như lai là thường, hằng và có tánh’; nên các giáo thuyết
[ra đời]
sau Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới (tathāgata-dhātu),
Phật tạng (buddha-garbha), Phật tánh (buddhadhātu), chúng sanh giới
(sattvadhātu), ngã (ātman), đã hình thành ‘chân ngã’ – một dòng lớn của
‘bất không Đại thừa’; là
xem trọng về quả đức của Như lai, và Phật tánh mà chúng sanh vốn có sẵn.
Nhân
duyên dẫn đến phát sanh ra thuyết Như lai tạng là có nhiều phương diện,
bồ-đề
và tâm bồ-đề (bodhicitta) là gần với thuyết Như lai tạng. Như phẩm Như
lai tánh khởi của kinh
Hoa
nghiêm, trong phần nói về ‘tâm của bậc Như lai Ứng chánh đẳng giác’ nói đến
trí huệ (tên gọi khác của bồ-đề) của Như lai ở trong tâm tương tục của chúng
sanh. Dụ vàng và dụ bảo vật của phẩm Thập địa, là tỉ dụ cho tâm bồ-đề, nhất thiết
trí trí (sarvajña-jñāna) thuộc mười địa. Phẩm Thăng Dạ-ma thiên cung nói: “Tâm như người họa sỹ,
vẽ nên các thế gian, năm uẩn từ đây sanh, không pháp nào chẳng tạo. Như tâm, Phật
cũng vậy; như Phật, chúng sanh đồng. …Nếu người muốn biết rõ, hết thảy Phật ba
đời, phải quán tánh pháp giới, thảy đều do tâm tạo.”1 Phẩm Thập địa nói: “Phàm có những gì
thuộc ba cõi đều duy chỉ là thuộc tâm.”2
Thuyết duy tâm của Hoa nghiêm đương nhiên là thuyết tâm tánh vốn thanh tịnh.
Nói theo thông thường, bồ-đề - vô thượng bồ-đề, là quả trí của Như lai.
Trong pháp Thanh văn, theo sự thành tựu do tu tập mà nói, thì cho rằng bồ-đề là
pháp hữu vi. Trong Đại thừa, bồ-đề là siêu việt tính tương đối của thời gian và
không gian, như kinh
Duy-ma-cật sở thuyết nói: “Bồ-đề ấy không thể dùng
thân mà đắc được, không thể dùng tâm mà đắc được;” “bởi vì theo thói quen văn tự
của thế tục nên nói có ba đời, chẳng phải nói bồ-đề có từ quá khứ đến hiện tại.”3 Tâm bồ-đề mà Đại thừa nói ấy, là tâm
mong cầu đắc được bồ-đề của Phật; phát tâm bồ-đề chỉ là nguyện vọng trên cầu Phật
đạo (bồ-đề). Luận đến hành vị của Bồ-tát, thuyết thập trụ so với thuyết thập địa
gồm Hoan hỉ, v.v., phải có sớm hơn. Trụ đầu tiên của thập trụ gọi là Phát tâm
trụ, như kinh
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm(I) nói:
“Những gì là trụ sơ phát tâm của Bồ-tát ma-ha-tát? Vị Bồ-tát này thấy 32
tướng, 80 vẻ đẹp, dung sắc tuyệt diệu đầy đủ của Phật, nên sanh lòng tôn trọng
cho là khó gặp được; hoặc nhìn thấy thần thông biến hóa; hoặc nghe thuyết pháp;
hoặc nghe được lời dạy dỗ; hoặc thấy chúng sanh chịu vô lượng khổ; hoặc nghe
Như lai giảng thuyết rộng rãi Phật pháp; phát tâm bồ-đề, cầu nhất thiết trí, thẳng
tiến không thoái lui.”
Phát tâm bồ-đề của trụ sơ phát tâm là nguyện cầu nhất thiết trí, kiên định
bất di. Trong phần trùng tụng nói rộng về phát tâm, đều nói như thế này: “Thảy
muốn…, Bồ-tát nhân đây sơ phát tâm.” Phát thệ nguyện to lớn, chí cầu Phật đạo
là ý nghĩa nguyên thỉ của tâm bồ-đề. Trong sự khai triển của pháp Đại thừa, tâm
bồ-đề không chỉ là nguyện bồ-đề (đây là điều không thể thiếu), mà lại có một tầng
ý nghĩa sâu hơn, đó chính là ‘tự giác bồ-đề’, hiển lộ và phát ra ít phần bồ-đề
của Phật. Như
Tiểu phẩm Bát-nhã nói: “chính là tâm mà chẳng phải tâm, vì
tánh tướng của tâm vốn thanh tịnh,” vốn là nói rộng tâm bồ-đề.4 Đến thời
Đại phẩm Bát-nhã (như
ba phần đầu của kinh
Đại Bát-nhã) đã nêu ra ‘tâm bồ-đề’, ‘tâm vô đẳng đẳng’,
‘tâm quảng đại’, mà nói bổn tánh vốn thanh tịnh, cũng chính là tâm bồ-đề vốn
thanh tịnh.5 Tâm bồ-đề vốn thanh tịnh,
gọi là tâm bồ-đề theo thắng nghĩa; nên nguyện cầu tâm bồ-đề của nhất thiết trí,
bị gọi là tâm bồ-đề theo thế tục. Phẩm Thập địa nói rõ tâm bồ-đề theo thắng
nghĩa, cũng nói đại nguyện ‘mười tạng vô tận’. Tâm bồ-đề là (tâm có tánh tịnh,
cũng là) vốn có sự hiển lộ và phát ra của bồ-đề của Phật, lần lượt trong sáng
ra, cho nên dùng vàng và châu báu để nói thí dụ. Chỉ ra trực tiếp rằng trong
thân của chúng sanh có tánh Phật, là Như lai và thuyết Như lai tạng; trong địa
vị Bồ-tát vốn có sự hiển lộ và phát ra của bồ-đề, là bồ-đề và thuyết tâm bồ-đề.
Hai thuyết này có khuynh hướng cộng chung nhau, cho nên các học giả đời sau xem
là cùng một pháp môn để xử lý.
Thánh điển mà dùng bồ-đề, tâm bồ-đề làm chủ thì số lượng không ít, ở đây
chỉ nêu lược để làm thí dụ. Theo nội dung phẩm Thập địa của kinh
Hoa nghiêm,
do tăng thêm hay giảm bớt nên biên tập thành kinh riêng, như kinh
Trang
nghiêm bồ-đề tâm do ngài Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) dịch vào đời Diêu Tần, kinh
Đại phương quảng
Bồ-tát thập địa do Cát-ca-dạ (Kiṅkara) dịch vào đời Nguyên Ngụy. Bản
do Bồ-đề-lưu-chí (Bodhiruci) dịch vào đời Đường, được biên tập thành Vô
tận
Bồ-tát hội của kinh
Đại bảo tích (hội 45), đều cùng một nguyên bản mà bản
dịch khác nhau, tương đồng phần lớn mà khác nhau chút ít. Phẩm Đà-la-ni tối tịnh
địa của kinh
Kim quang minh do ngài Chân đế (Paramārtha) dịch vào đời Trần, cũng là cùng một nguyên bản
mà tổng quát thì có thêm bớt, chỉ thay đổi của tên người thôi vậy! Các bộ kinh
này, đầu tiên đều hỏi là ‘tâm bồ-đề là gì?’, quan hệ của tâm và bồ-đề; nói đến
bồ-đề, tâm, tát-đỏa (chúng sanh), tất cả pháp, đều là tên gọi giả được đặt bày
thành nên đều không thể nắm bắt. ‘Nếu đối với pháp mà không nắm bắt thì gọi là
đắc bồ-đề’, đây là tùy thuận với bát-nhã, tương ưng với bát-nhã. Từ sự không thể
thiết lập nên của bồ-đề, chẳng có ba đời, nên nói đến tâm, chúng sanh, tất cả
pháp.6 Kinh
Trang nghiêm bồ-đề tâm nói:
“Bồ-đề tức là tâm, tâm tức là chúng sanh, nếu có thể hiểu được như thế, thì đó
gọi là Bồ-tát tu tâm bồ-đề,”7 cùng với
‘tâm, Phật, chúng sanh – ba thứ không có sai biệt’ của kinh
Hoa nghiêm,
phù hợp nhau. Bồ-tát tu hành, lấy sự phát tâm bồ-đề làm đầu, mà phát tâm bồ-đề
cần phải từ thuyết bồ-đề mà ‘chẳng phải từ quá khứ đến hiện tại’ bắt đầu, điều
này cùng với thuyết Như lai tạng có khuynh hướng cộng chung nhau.
Phẩm Tự, phẩm Đà-la-ni tự tại vương Bồ-tát của kinh
Đại tập do
Đàm-vô-sấm (Dharmarakṣa, Dharmakṣema) dịch, bản do Trúc Pháp hộ (Dharmarakṣa) dịch gọi là kinh
Đại ai. Đây là bản
kinh mà luận
Bảo tánh lấy làm y cứ, trong cách nhìn và suy nghĩ của người
xưa, thì nó chí ít là có quan hệ mật thiết với thuyết Như lai tạng. Luận
Bảo
tánh dựa vào phẩm Tự, lập nên Phật bảo (Buddharatna), Pháp bảo
(Dharmaratna), Tăng bảo (Saṃgharatna) - Tam bảo tánh (Triratnagotra), mà
quy về Phật bảo; dựa vào phẩm Đà-la-ni tự
tại vương Bồ-tát, lập nên Như lai giới, bồ-đề, công đức của Như lai
(Tathāgata-guṇa), nghiệp của Như lai (Tathāgata-karman ). Rốt cục kinh
này nói những điều gì? Trong phẩm
Đà-la-ni tự tại vương Bồ-tát, đầu tiên nói về các hạnh to lớn của
Bồ-tát: 4 thứ
anh lạc dùng để trang nghiêm của Bồ-tát, 8 thứ ánh sáng của Bồ-tát, 16
đại bi của
Bồ-tát, 32 thiện nghiệp của Bồ-tát. Tiếp theo nói về quả đức của Như
lai: 16 đại
bi của Như lai, 32 thiện nghiệp của Như lai – 10 lực, 4 vô sở úy, 18
pháp bất
công của Phật. Lấy sự không ngừng thọ ký cho Bồ-tát làm nghiệp chân thật
của
Như lai. Thứ đến hàng phục ma; thuyết 8 loại đà-la-ni; đà-la-ni tên là
cây đuốc
báu. Bộ phận này của kinh
Đại tập được xem là thuyết Như lai tạng, có thể
nói đó là phương tiện của các Luận sư. Kinh trên nói: ‘không làm dứt chủng tánh
Tam bảo’, dựa vào nó để lập nên tánh Tam bảo. Kỳ thật, câu nói ‘không làm dứt
chủng tánh Tam bảo’ là lời được nhiều loại kinh Đại thừa đã nói; mà trong phẩm
Tự đề cập đến Phật, chúng Bồ-tát, pháp môn được nói trong ấy cũng là rất phổ biến.
Nói hạnh Bồ-tát cùng với công đức của Phật, cũng không thể nói chúng cùng với
Như lai tạng có liên quan gì. Có gần giống một ít là 16 đại bi của Như lai đã
được nói đến ấy. Như lai khởi đại bi vì chúng sanh, là do vì sự không biết được
bồ-đề của chúng sanh. Kinh trên nói: bồ-đề là ‘không có căn, không có trụ,’
‘thanh tịnh vắng lặng,’ ‘tánh của tâm vốn thanh tịnh,’ ‘không thủ không xả’,
‘không có tưởng, không có duyên [vào cảnh…],’ ‘chẳng phải thuộc vào ba đời,’
‘không có thân, là vô vi,’ ‘không có phân biệt, không có cú nghĩa,’ ‘không thể
dùng thân để đắc, không thể dùng tâm để đắc,’ ‘không có chấp thủ, không có
duyên [vào cảnh…],’ ‘gọi nó là không,’ ‘đồng với hư không,’ ‘gọi là chân thật
cú,’ ‘chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài,’ ‘vô lậu, không có chấp thủ,’
‘thanh tịnh, vắng lặng, sáng chói, không có tranh giành’. Như kinh
Đại
phương đẳng Đại tập(II) nói:
“Vô thượng bồ-đề do Như lai đắc được là không có căn, không có trụ. Căn,
gọi là kiến chấp về ngã; trụ, gọi là bốn điên đảo. …Tất cả chúng sanh thảy đều
không có, không có căn, không có trụ. Vì muốn cho chúng sanh biết không có căn,
không có trụ nên khởi tâm đại bi, Như lai đối với những chúng sanh này, muốn
khiến cho chúng biết điều ấy nên diễn thuyết chánh pháp.” (15 đại bi còn lại,
thể lệ giống nhau)
Theo phẩm Đà-la-ni tự tại vương, có thể nói bổn lai của chúng sanh chính
là giống với bồ-đề. Bồ-đề không có căn, không có trụ; chúng sanh cũng không có
căn, không có trụ, dù chúng sanh không biết điều ấy, vì vậy Như lai khởi tâm đại
bi nhằm để thuyết pháp cho chúng sanh. Điều này cùng với lời cảm thán của kinh
Hoa
nghiêm: “Kỳ lạ thay! Kỳ lạ thay! Tại sao ở trong thân chúng sanh có đầy đủ
trí huệ của Như lai, mà chúng sanh không thấy, không biết,”(a) là cùng một quan điểm [ý cảnh]. Chúng
sanh không biết, không đạt được, Như lai vì điều này nên khởi lên tâm đại bi,
có 16 sự. Như ‘gọi nó là không,’ ‘đồng với hư không’ của bồ-đề, là khác với
thuyết Như lai tạng, nhưng gần với Bát-nhã, Hoa nghiêm.
Từ chỗ nói chi tiết về đức và nghiệp của Như lai trở về sau, có thí dụ về
viên ngọc quý, như kinh
Đại phương đẳng Đại tập(III) nói:
“Này thiện nam tử! Lời do chư Phật thuyết là từ sự quán sát thế giới của
chúng sanh và Phật, giải thoát niết-bàn đều là bình đẳng không có sai biệt. Sau
khi quán pháp giới đều là nhất vị rồi, Phật chuyển bánh xe của chánh pháp mà
không thể chuyển ấy.
“Này thiện nam tử! Ví như người thợ biết được chính xác viên ngọc thật, ở
trong núi báu tìm được một viên ngọc. Sau khi lấy được rồi, ngâm nước; sau khi
lấy ra khỏi nước ngâm, đặt vào trong nước tương giấm, từ trong giấm lấy ra rồi
đặt nó vào trong nước sữa đậu; ý chưa thỏa mãn, lại đặt vào trong rượu đắng;
sau khi lấy ra khỏi rượu đắng, đặt nó vào trong các loại thuốc; sau khi lấy nó
ra khỏi thuốc, dùng vải thưa lau chùi: đó gọi là viên ngọc lưu ly màu xanh chân
thật.
“Này thiện nam tử! Như lai cũng vậy. Vì biết chúng sanh giới không trong
sáng, không thanh tịnh, nên nói vô thường, khổ và lấy sự bất tịnh, nhằm phá bỏ
tâm tham muốn sanh tử của chúng sanh. Như lai tinh tấn không có dừng nghỉ, lại
diễn thuyết về không, vô tướng, (vô) nguyện, nhằm khiến [chúng sanh] hiểu rõ
chánh pháp của Phật. Như lai vẫn tinh tấn không dừng nghỉ, lại vì thuyết pháp,
khiến chúng không thoái tâm bồ-đề, biết pháp thuộc ba đời, thành tựu đạo bồ-đề.”
Đầu tiên, trong kinh nêu lên ‘pháp giới là một vị’ của chúng sanh, thế
giới, giải thoát, niết-bàn – sự bình đẳng nhất như của phàm-Thánh, y
(báo)-chánh (báo), được xem là ý nghĩa tột cùng của Phật pháp, về sau trình bày
thứ tự thuyết pháp của đức Như lai. Viên ngọc quý mà tìm được từ trong quặng ấy
như ‘chúng sanh giới không trong sáng, không thanh tịnh;’ trải qua sự tu tập sửa
đổi theo Phật pháp, thành tựu đạo bồ-đề, nhập vào cảnh giới của Phật, chính là
viên ngọc quý trong sáng thanh tịnh, là sự thanh tịnh do lìa các cáu bẩn của
chúng sanh giới. Thí dụ viên ngọc quý màu xanh ấy, không phải theo tâm bồ-đề để
nói, mà là trực tiếp từ chúng sanh giới để nói, đến khi thành tựu được đạo bồ-đề,
nhập vào cảnh giới của Như lai, thì hoàn toàn giống với thuyết Như lai tạng. Về
việc thuyết pháp của đức Như lai, chia làm ba giai đoạn: đầu tiên thuyết về vô
thường, khổ, vô ngã, là pháp Thanh văn (xem luận
Bảo tánh trích dẫn); thứ
đến thuyết về không, vô tướng, vô nguyện, khiến (Bồ-tát) hiểu rõ được ít phần
chánh pháp; cuối cùng thuyết pháp luân không thối chuyển, khiến cho đắc được ba
sự thanh tịnh, chứng nhập chánh pháp. Thứ tự này, cùng với ba thời giáo mà phẩm
Vô tự tánh tướng của kinh
Giải thâm mật8
đã nói, tuy về tổng quát có chỗ bất đồng, nhưng từ chỗ nói tất cả pháp đều là
không, vô tướng, vô nguyện trở lên, thì có giáo pháp sâu hơn một tầng, về đại
thể là nhất trí. Đây cũng là một loại hình của ba thời giáo. Từ dụ về viên lưu
ly màu xanh, có thể thấy ra rằng sự biên tập của phẩm Đà-la-ni tự tại vương Bồ-tát
là sau khi pháp môn Bát-nhã được thịnh hành.
Trong đoạn kinh văn vị hộ pháp hàng phục, có bộ phận tượng trưng cho
pháp môn Như lai tạng, như kinh
Đại phương đẳng Đại tập(IV) nói:
“Sau khi nghe lời
ấy rồi, Ma vương y theo lời dạy mà quán đúng như sự thật, thấy trong rốn của vị
ấy có một thế giới tên là Thủy vương quang, có đức Phật Thế tôn hiệu là Bảo
ưu-bát-la (Ratnotpala). Trong thế giới ấy có núi báu lớn, Như lai ở trong ấy,
ngồi kiết già, tuyên thuyết chánh pháp cho các Bồ-tát.”
Bồ-tát Chư pháp
thần thông vương tự nói ‘thân này của tôi thường trụ không biến đổi,’ thấy
trong rốn của vị ấy có thế giới cùng với Phật. ‘Bảo ưu-bát-la’, bản dịch đời Tấn
gọi là ‘lạc liên hoa thủ’. ‘Có núi báu lớn’, bản dịch đời Tấn nói là ‘lại có
hoa sen tên bảo trang nghiêm,’9 đây là
chỗ ngồi của Phật và Bồ-tát. Có liên quan đến thần thoại của Ấn độ, tượng trưng
trong thân của Chư pháp thần thông vương, có (trong hoa sen có Phật) vật báu –
Như lai tạng. Phẩm Đà-la-ni tự tại vương tuy không có danh từ Như lai tạng
nhưng nói đến bồ-đề, công đức, chúng sanh giới và thí trong thân có vật báu,
cho nên nhận được sự xem trọng của người làm ra luận
Bảo tánh.
4.
Kinh Như lai tạng
Kế thừa phẩm Như lai tánh khởi của Hoa nghiêm, lấy Như lai tạng
(tathāgata-garbha) làm chủ đề, mà xuất hiện trong giới Phật giáo Đại thừa, là
kinh
Như lai tạng. Đây là đối với Phật giáo thời kỳ sau, Thí dụ tập có ảnh
hưởng rất sâu xa. Trong
Xuất Tam tạng ký tập của Tăng Hựu nói đến thời Tấn
Huệ đế (290-306 A.D.), Pháp Cự dịch ra kinh
Đại phương đẳng Như lai tạng;
Cựu lục gọi là kinh
Phật tạng phương đẳng.1 Sự truyền đến Trung quốc của kinh
Như
lai tạng, cùng với kinh
Như lai hưng hiển, kinh
Tiệm bị nhất thiết
trí đức thuộc bộ Hoa nghiêm, do Trúc Pháp hộ (Dharmarakṣa) dịch; kinh
Đại
úy thuộc bộ
Đại tập (phẩm Đà-la-ni tự tại vương Bồ-tát và cựu dịch của
phẩm Tự), v.v., là cùng thời. Có thể thấy, sự biên tập ra kinh
Như lai tạng,
phỏng đoán là cùng đồng thời với vài bộ kinh này, khả năng trễ hơn ít nhiều,
thành lập vào trước năm 250 A.D. Bản kinh mà do Pháp Cự dịch, đã bị mất, hiện
nay còn có kinh
Đại phương đẳng Như lai tạng của Phật-đà-bạt-đà-la
(Buddhabhadra) dịch vào đời Đông Tấn, kinh
Đại phương đẳng Như lai tạng
của Bất Không (Amoghavajra) dịch vào đời Đường. Truyền thuyết nói kinh này là
do đức Như lai thuyết sau khi thành đạo 10 năm, chứng tỏ so với Hoa nghiêm do
Phật thuyết lúc thành đạo phải trễ hơn nhiều vậy!
Mở đầu của kinh văn, Phật liền hiện thần biến, đã tượng trưng cho
pháp môn này, như kinh
Đại phương đẳng Như lai tạng(I) nói:
“Đức Thế tôn ở trên lầu chiên đàn, ngồi thẳng, ở trong định mà hiện
ra các thần biến: hoa sen có ngàn cánh, lớn như bánh xe, số của nó nhiều vô lượng,
sắc và hương đều đầy đủ mà chưa nở ra, bên trong tất cả hoa ấy đều có vị hóa Phật.
…Mỗi mỗi hoa sen đều phóng ra vô lượng ánh sáng, tất cả hoa sen đồng thời tươi tốt.
Do thần lực của Phật, trong khoảng khoảnh khắc, tất cả hoa ấy đều biến ra héo
úa. Ở bên trong các hoa ấy, tất cả hóa Phật đang ngồi kiết già, mỗi vị phóng ra
vô số trăm nghìn ánh sáng. …Thấy trăm ngàn ức vị Phật, ngồi ở bên trong của các
hoa sen kia.”
Vô số hoa sen mà do thần biến hiện ra ấy, trong hoa đều có vị hóa
Phật. Hoa nở rồi, lại tàn tạ, tất cả vị Phật ấy đều xuất hiện rõ ra, ngồi ở
trên hoa sen. Sự kiện này cùng tương đồng với ‘hoa tạng’ của kinh
Hoa nghiêm,
‘hoa tạng’ trong bản dịch đời Đường, gọi là ‘thai hoa’, chính là trước khi hoa
sen nở, ở bên trong hoa đã có quả sen rồi. Ý nghĩa mà loại thần biến này biểu
trưng chính là trong thân của chúng sanh có Phật, trải qua sự tu trì nên hiện
rõ ra. Nhằm khai thị ý nghĩa của loại thần biến này, nêu lên 9 thí dụ: 1, hoa
héo có Phật; 2, đàn ong vây quanh hút mật; 3, trong vỏ thóc có hạt gạo; 4, chỗ
dơ bẩn có vàng thật; 5, người nghèo có kho báu; 6, trong vỏ có quả; 7, bên
trong vật che đậy có bức tượng bằng vàng; 8, người phụ nữ bần tiện mang thai
Luân vương; 9, bên trong cái khuôn đúc có bức tượng bằng vàng. Trong chín loại
thí dụ này, hoa héo có Phật là Như lai ở trong ‘hoa tạng’, cũng chính gọi là dụ
căn bản của ‘Như lai tạng’. Ngoài ra, người phụ nữ bần tiện mang thai Luân
vương, rút ra từ kinh
Bảo tích.2
Dụ vàng và dụ vật báu của kinh
Thập địa, kinh này tổng cộng có 4 dụ: chỗ
dơ bẩn có vàng thật, người nghèo có kho báu, bên trong vật che đậy có bức tượng
bằng vàng, bên trong cái khuôn đúc có bức tượng bằng vàng, đều chỉ là biểu thị
Như lai vốn có sẵn, nhưng không có ý nghĩa tôi luyện mà kinh
Thập địa đã
nói. Các dụ ong mật, hạt gạo, quả, là các tỉ dụ chỉ riêng kinh này có. Chín loại
thí dụ này, các Luận sư đời sau – chủ của luận
Bảo tánh, giải thích là
Như lai tạng bị chín thứ phiền não làm ô nhiễm, nhưng ý nghĩa chung của 9 dụ
này là trong thân phiền não của chúng sanh có Như lai thanh tịnh. Rốt cục Như
lai (thai) tạng ở trong thân của chúng sanh là như thế nào? Như kinh
Đại
phương đẳng Như lai tạng(II)
nói:
“Tất cả chúng sanh dù ở trong các phiền não như tham dục, sân nhuế,
nhưng có trí của Như lai, mắt của Như lai, thân của Như lai, ngồi kiết già,
nghiễm nhiên bất động. …Có Như lai tạng luôn luôn không bị nhiễm ô, đầy đủ đức
tướng giống như Ta không khác.”
“Tri kiến, lực, vô sở úy của Như lai, có kho tàng pháp lớn ở bên
trong thân.”
“Như lai tạng kia mát mẻ không nóng bức, trí huệ lớn nhóm họp,
nê-hoàn diệu kỳ, vắng lặng, gọi là Như lai, Ứng cúng, Đẳng chánh giác.”
“Phật tạng ở trong thân, đầy đủ các tướng.”
Như lai tạng là tri kiến, lực, vô sở úy - trí huệ lớn nhóm họp của
Như lai ở bên trong bản thân chúng sanh, cũng chính là niết-bàn diệu kỳ, vắng lặng.
Nhưng theo đoạn một nói, Như lai tạng không chỉ là trí của Như lai, mà cũng là
thân của Như lai, mắt của Như lai (chúng sanh có đầy đủ), ngồi kiết già, cùng với
Phật không có khác gì cả. Chính như kinh
Lăng-già dẫn lời của kinh nói:
“Tự tánh của Như lai tạng là thanh tịnh, chuyển thành 32 tướng, nhập vào trong
thân của tất cả chúng sanh.”3 Như lai
tạng như vậy, cùng với tướng hảo trang nghiêm của Như lai giống nhau. Bên trong
thân của chúng sanh có Như lai tạng như vậy, nên chả trách trên hội Lăng-già đã
nêu ra điều nghi ngờ của những người thông thường: Như lai tạng như vậy không
phải chính là thần ngã của ngoại đạo ư?
Pháp môn hoa tạng của kinh
Hoa nghiêm là trùng trùng vô tận,
sự sự vô ngại, biểu hiện ra đức của Phật vĩ đại, trang nghiêm. Đây là điều ngưỡng
vọng của Bồ-tát, là lý tưởng để Bồ-tát tiến tu. Lô-xá-na – Tỳ-lô-xá-na
(Vairocana) là: “Trong vô lượng kiếp tu các công đức nhiều như biển cả, cúng dường
tất cả Phật trong mười phương, giáo hóa vô biên chúng sanh nhiều như biển cả,
Phật Lô-xá-na thành Chánh giác.”4 Đức của
Phật mà rộng lớn, viên mãn ấy, cần phải từ sự tự lợi và lợi tha trong vô lượng
kiếp nhiều như biển, trên mặt tư tưởng Phật giáo, thì vượt hơn nhu cầu tự lợi cấp
bách của Thanh văn, có giá trị bất hủ của nó vậy! Đức Phật có công đức viên mãn
như thế, tuy nhiều ít thích ứng với Thần giáo của Ấn độ, nhưng ‘trong vô lượng
kiếp tu các công đức nhiều như biển cả,’ tuy khâm phục kính ngưỡng tín thọ, mà
đắc được sự giác cuối cùng không dễ gì thành tựu được vậy!
Pháp môn Như lai tạng kế thừa ‘tất cả chúng sanh cùng có trí huệ và
đức tướng của Như lai,’ nhưng thông tục hóa cụ thể hơn, sử dụng một mạch 9 loại
thí dụ để nói thí dụ, khiến cho mọi người hiểu được Như lai có thân tướng trang
nghiêm, chính ở trong thân của mình, không rời thân mình mà luôn hiện hiện
thành thành, nên dễ dàng khuyến khích phát nguyện tinh tấn cầu mong tu trì.
Ấn
độ Phật giáo sử của Đa-lạp-na-tha (Tāranātha), thuộc Tây Tạng, nói: địa
phương Tỳ-thổ-da-na-kiệt-la (Vidyānagara) thuộc Nam Ấn độ, kệ tụng của kinh
Như
lai tạng, các nữ đồng tử kết hợp với nhau ngâm vịnh ca hát trong đô hội.5 Sự thông tục hóa, đại chúng hóa của Phật
giáo, quả thật có lực lượng không thể xem thường của thuyết Như lai tạng vậy!
1
Đại trí độ luận 71, T. 25, tr. 556b.
(a) Nivṛttam abhidhātavyaṃ nivṛttaś cittagocaraḥ | anutpannāniruddhā
hi nirvāṇam iva dharmatā ||7|| Pháp tánh thì không sanh, không diệt, giống như
là niết-bàn – chấm dứt ngôn ngữ, chấm dứt tâm hành.
2
Trung luận 3, T. 30, tr. 24a.
3 Trung luận 4, T. 30, tr. 33b.
4
Đại thừa Chưởng trân luận, q. hạ, T. 30, tr. 274c.
(b)
Tib:མིང་བཏགས་པའང་གཉིས་ཏེ།སྣང་སྟོང་གཉིས་ཚོགས་དོན་དམ་བདེན་པར་འདོད་པ་སྒྱུ་
མ་རིགས་གྲུབ་ པ་དང་སྣང་
བ་ལ་སྤྲོས་པ་རྣམ་པར་བཅད་པ་ཙམ་དོན་དམ་བདེན་པར་འདོད་པ་རབ་ཏུ་མི་གནས་པར་སྨྲ་
བའོ། Folio 370, Side 1. ‘Cho rằng, trong thắng nghĩa đế,
dùng sự kết hợp của cả hai cái là hiện tượng và không, gọi đó là lý lẽ
để chứng
minh cho sự xem như huyễn; và cho rằng thắng nghĩa đế duy chỉ là sự cắt
đứt mọi
hí luận đối với cảnh đang hiển hiện, gọi là sự vô sở trụ cùng tột.’
5
Bồ-đề đạo thứa đệ quảng luận, Pháp Tôn dịch Hán, Hán tạng giáo lý
viện san bổn quyển 17, 27.
(I)
Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật
kinh 2, T. 8, tr. 227b-c.
(c) Tham khảo: bhagavān āha: yena śāriputra prajñācakṣuṣā samanvāgato
bodhisattvo mahāsattvo na kañcid dharmaṃ prajānāti, saṃskṛtaṃ vā asaṃskṛtaṃ vā
kuśalaṃ vā akuśalaṃ vā sāvadyaṃ vā anavadyaṃ vā sāsravaṃ vā anāsravaṃ vā saṃkleśaṃ
vā niṣkleśaṃ vā laukikaṃ vā lokottaraṃ vā saṃkliṣṭaṃ vā vyavadānaṃ vā, yena
prajñācakṣuṣā bodhisattvena mahāsattvena kaścid dharmo na dṛṣṭo na śruto na
mato na vijñātaḥ. idaṃ śāriputra bodhisattvasya mahāsattvasya pariśuddhaṃ
prajñācakṣuḥ.
Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā.
(II)
Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa
kinh 404 (phần thứ 2), T. 7, tr. 21c.
6
Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 8 (phần đầu), T. 5, tr. 44c; và q. 404 (phần
2), T. 7, tr. 22c; và q. 481 (phần 3), T. 7, tr. 443b.
Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật
kinh 2, T. 8, tr. 228a.
Phóng quang Bát-nhã ba-la-mật kinh 2, T. 8,
tr. 9b.
Quang tán Bát-nhã ba-la-mật kinh 2, T. 8, tr. 159b.
7
Phóng quang Bát-nhã ba-la-mật kinh 2, T. 8, tr. 9a.
Quang
tán Bát-nhã ba-la-mật kinh 2, T. 8, tr. 158c.
(III)
Đại trí độ luận 39, T. 25, tr. 348a-b.
(IV)
Tiểu phẩm Bát-nhã
ba-la-mật kinh 6, T. 8, tr. 561c.
(d) Đi đến không, nguyên Hán là sắc thú không
- 色趣空, Skt. ākāśagatikaṃ rupam, sắc lấy hư không
làm nơi trở về, hay sắc cuối cùng cũng trở về với bản chất của nó là không có
gì, như hư không vậy.
(e) Tham khảo: yā subhūte rūpasya śūnyatā, na sā āgacchati vā gacchati
vā / evaṃ vedanāyāḥ saṃjñāyāḥ saṃskārāṇām / yā subhūte vijñānasya śūnyatā, na
sā āgacchati vā gacchati vā / evameva subhūte yā sarvadharmāṇāṃ śūnyatā, na sā
āgacchati vā gacchati vā / tatkasya hetoḥ? śūnyatāgatikā hi subhūte sarvadharmāḥ
/ te tāṃ gatiṃ na vyativartante /
Aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā.
(f) Skt: anāgatikā hi subhūte sarvadharmāḥ /
như sđd trên.
(V)
Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật
kinh 115, T. 8, tr. 332c-333c.
(VI)
Đại trí độ luận 71, T. 25, tr. 560c.
8
Tam-mạn-đà-bạt-đà-la Bồ-tát kinh, T. 14, tr. 666c.
(g) Skt: na hi tathatā dvayaprabhāvitā
nānātvaprabhāvitā.
Vimalakīrti-nirdeśa.
(h) Skt: yā ca sarvasatvānāṃ tathatā, yā ca sarvadharmāṇāṃ
tathatā, seva maitreyasyāpi tathatā.
Vimalakīrtinirdeśa.
9
Duy-ma-cật sở thuyết kinh, q. thượng, T. 14, tr. 542b.
(I)
Đại phương quảng Phật
Hoa nghiêm kinh 35, T. 9, tr. 623c-624a.
(a)
Bảo
tánh luận dẫn đoạn kinh này, nguyên Skt là: Na sa kaścitsattvaḥ sattvanikāye saṃvidyate
yatra tathāgatajñānaṃ na sakalamanupraviṣṭam / api tu saṃjñāgrāhatastathāgatajñānaṃ
na prajñāyate / saṃjñāgrāha-vigamāt punaḥ sarvajñajñānaṃ svayaṃbhūjñānamasaṅgataḥ
prabhavati. tadyathāpi nāma bho jinaputra trisāhasramahāsahasralokadhātu-pramāṇaṃ
mahāpustaṃ bhavet / tasmin khalu punarmahāpuste trisāhasramahāsāhasralokadhātuḥ
sakalasamāpta ālikhito bhavet / … Tatkhālu punarmahāpustamekasmin paramāṇurajasi
prakṣiptaṃ bhavet / yathā caikaparamāṇurajasi tanmahāpustaṃ prakṣiptaṃ bhavet
tathānyeṣu sarvaparamāṇurajaḥsu tatpramāṇānyeva mahāpustānyabhyantarapraviṣṭāni
bhaveyuḥ / … Evameva bho jinaputra tathāgatajñānamapramāṇajñānaṃ sarvasattvopajīvyajñānaṃ
sarvasattvacittasaṃtāneṣu sakalamanupraviṣṭam / sarvāṇi ca tāni sattvacittasaṃtānānyapi
tathāgatajñānapramāṇāni / atha ca punaḥ saṃjñāgrāhavinivaddhā (
Rgv 24)
bālā na jānanti na prajānanti nānubhavanti na sākṣātkurvanti tathāgatajñānam /
tatastathāgato 'saṅgeṇa tathāgatajñānena sarvadharmadhātusattvabhavanāni
vyavalokyācāryasaṃjñī bhavati / aho bata ime sattvā yathāvat tathāgatajñānaṃ na
prajānanti / tathāgatajñānānupraviṣṭāśca / yannvahameṣā sattvānāmāryeṇa
mārgopadeśena sarvasaṃjñākṛtabandhanāpanayanaṃ kuryā yathā
svayamevāryamārgabalādhānena mahatīṃ saṃjñāgranthiṃ vinivartya tathāgatajñānaṃ
pratyabhijānīran / tathāgatasamatāṃ cānuprāpnuyaḥ / te tathāgatamārgopadeśena
sarvasaṃjñākṛtabandhanāni vyapanayanti / apanīteṣu ca sarvasaṃjñākṛtabandhaneṣu
tat tathāgatajñānama pramāṇaṃ bhavati sarvajagadupajīvyamiti /
Ratnagotravibhāgo
Mahāyānottaratantraśāstram.
1
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 36, T. 9, tr. 631a.
2
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52, T. 10, tr. 278c.
3 1,
Như lai hưng hiển kinh 4, t. 10, tr. 613a. 2,
Đại phương quảng
Phật hoa nghiêm kinh 36, T. 9, tr. 629c. 3,
Đại phương quảng Phật hoa
nghiêm kinh 52, T. 10, tr. 277b.
4
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 23, T. 9, tr. 547a;
và q. 25, tr. 559c.
(II)
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 27, T. 9,
tr. 575b.
5
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 8, T. 10, tr. 39b;
và q. 10, tr. 51b.
(III)
Đại trí độ luận 8, T. 25, tr. 116a.
6
Duy-ma-cật sở thuyết kinh, q. trung, T. 14, tr. 549b.
7
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh tùy sớ diễn nghĩa sao 26, T. 36,
tr. 199a.
1
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 19, T. 10, tr.
102a-b.
2
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 37, T. 10, tr. 194a.
3
Duy-ma-cật sở thuyết kinh, q. thượng, T. 14, tr. 542b; và q. trung, tr.
548c.
(I)
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 8, T. 8, tr. 445a.
4
Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 537b.
5
Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 408 (phần thứ hai), T. 7, tr. 44c.
6
Trang nghiêm bồ-đề tâm kinh, T. 10, tr. 961b-c.
Đại phương quảng Bồ-tát
thập địa kinh, T. 10, tr. 963b-c.
Đại bảo tích kinh 115, Vô tận huệ
Bồ-tát hội, T. 11, tr. 648a-b.
Hiệp bộ Kim quang minh kinh 3, T. 16, tr.
372c. Tham khảo:
Văn-thù sư-lợi vấn bồ-đề kinh, T. 14, tr. 481c; các bản
dị dịch đều giống nhau.
7
Trang nghiêm bồ-đề tâm kinh, T. 10, tr. 961b.
(II)
Đại phương đẳng Đại tập
kinh 2, T. 13, tr. 11b-13b.
(a) Skt: aho bata ime sattvā yathāvat tathāgatajñānaṃ na
prajānanti | tathāgata jñānānupraviṣṭāś ca
.
Ratnagotravibhāgo mahāyān-ottaratantra-śāstram.
(III)
Đại phương đẳng Đại tập
kinh 3, T. 13, tr. 21c.
8
Giải thâm mật kinh 2, T. 16, tr. 697a-b.
(IV)
Đại phương đẳng Đại tập kinh 4, T. 13, tr. 22b.
9
Đại úy kinh 6, T. 13, tr. 440b-c.
1
Xuất Tam tạng ký tập 2, T. 55, tr. 9c.
(I)
Đại
phương đẳng Như lai tạng kinh, T. 16, tr. 457a-b.
2
Đại Bảo tích kinh 112, Phổ minh Bồ-tát hội, T. 11, tr.
634b-c.
(II)
Đại
phương đẳng Như lai tạng kinh, T. 16, tr.
3
Lăng-già-a-bạt-đà-la bảo kinh 2, T. 16, tr. 489a.
4
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 2, T. 9, tr. 405c.
5 Đa-lạp-na-tha,
Ấn độ Phật giáo sử, Tự bổn Uyển nhã Nhật dịch, quyển
139.