Lá thư thứ nhất
Gia Định thành, ngày …… tháng …… năm 1789
Bao nhiêu năm bôn tẩu ở nước Xiêm La, ta nhận thấy Phật Giáo ởđó phát triển rất đặc biệt và khác hơn quê hương của mình nhiều lắm. Có lẽđây là do phong tục, tập quán cũng như hệ phái truyền thừa mà có chăng?
Ví dụ mỗi sớm mai, chư Tăng thường đi vào xóm làng, phố thị để khất thực. Khi đi xin, ai cho cái gì thì nhận cái ấy. Sau khi đầy bình bát lại về chùa. Các tín chủ đa phần là người nữ; ít thấy người nam dâng cúng lễ vật. Họ trịnh trọng dâng hai tay nào cơm, nào xôi, nào thức ăn, cá mắm vào trong bình bát của chư Tăng rồi xá 3 xá. Đặc biệt là người nữ không được phép nhìn nhà Sư và nhà Sư cũng không cho áo cà-sa dính vào người nữ, dầu vô tình hay cố ý.
Những vật dâng cúng phải qua một vật cách trở, không bao giờ người nữ được phép trao tận tay cho chư Sư. Đây cũng là một chuyện lạ mà ở quê hương mình không có. Đa phần họđi khất thực vào buổi sáng, trước khi mặt trời ló dạng và họ về chùa tụng kinh, sau đó mới dùng cơm. Phần còn lại họ để cho buổi trưa vì buổi chiều chư Tăng không dùng. Đây cũng là điều khác biệt với Phật Giáo Đàng Trong của chúng ta nữa. Ta thấy những nhà Sư lớn hay đi trước, các nhà Sư ít tuổi họđi sau. Họ đi thong thả, thẳng bước, không nhìn qua lại hai bên đường, kể cả những người con gái đẹp. Không biết trong tâm họ như thế nào; nhưng bên ngoài, dáng đi của họ có vẻ trịnh trọng lắm. Những năm tháng như thếở quê người, ta cũng đã nhiều lần cho người đem phẩm vật dâng cúng cho chư Tăng; nhưng ta ít thân hành ra làm việc ấy. Vì người mà ta mong chờ để dâng cúng phẩm vật, không phải là những Sư kia. Ta ước gì trong những nhà Sưđi khất thực vào mỗi buổi sớm mai ấy có vị Thầy mà ta thường tưởng nhớ đến...
Những chiếc y vàng ấy vừa khuất dạng cũng là lúc mà tâm tư ta nhớ nghĩ bông lung về một vị Thầy, Thầy ấy rất đẹp trai, tướng hảo quang minh; dáng đi, điệu đứng, cách ăn nói hay khi thuyết pháp v.v... tim ta lại đập mạnh, chẳng biết tại sao như vậy. Có lẽđây là nợ trần tiền kiếp chăng? Chắc phải mà cũng không phải. Vì ta là Quận nương Công chúa, sinh ra tuy chưa chính thức ở nội cung trong triều đình; nhưng nếu nay mai Hoàng huynh ta xưng Đế, thì ta cũng là người “cành vàng lá ngọc” làm sao có thểđem so sánh với những người “khất sĩ” kia được? Vả lại họ là người không có gia đình, không danh gia vọng tộc, không một tấc đất trong tay, không ảnh hưởng với quần chúng. Tất cả đều không. Tại sao ta lại lấy cái có để đi so sánh với cái không như vậy? Có phải ta vô lý chăng? Một điều ta hơi lo sợ; nếu mẹ ta và anh ta biết được thì liệu rằng chuyện nầy sẽ ra sao? Ai có thể giúp ta đây?
Quận Chúa
(Thư không gởi.)
Lá thư thứ hai
Gia Định, đêm thức trắng …… tháng …… năm 1789
Bây giờ thân ta đang ở tại chùa Khải Tường nầy mà tâm ta như chới với giữa dòng nước xiết cuộn trôi. Ta như chiếc lá giữa dòng, không chốn nương thân. Mẹ ta nay tuổi đã lớn, có bao giờ nghĩ đến thời son trẻ như ta trong hiện tại chăng? Còn Chúa Thượng vẫn mãi lo việc dân việc nước, có khi nào nghĩ đến việc phòng không, chiếc bóng của ta chăng? Tất cả là những câu hỏi mà chưa có câu trả lời và không biết ai là người trong hiện tại hiểu được tâm trạng của ta đây?
Nhìn đến chị ta là Thái Trưởng Công Chúa ta đâm ghen lây với hạnh phúc ấy. Nhưng hạnh phúc đó có thật chăng? Hay cũng chỉ là sựđánh lừa nhãn quan của chúng ta. Tất cả mọi việc, mọi vật trong thế gian nầy trôi qua nhanh quá. Đúng như người xưa đã nói: “Thời gian trôi qua nhanh như bóng ngựa con trước cửa sổ”. Ta đang ở tuổi thanh xuân mà phải giam mình trong 4 vách tường của chùa Khải Tường như thế nầy thì làm sao có nhơn tình nào lui tới thăm hỏi được. Hằng ngày ta chỉ được nghe kinh, rồi cơm nước, rồi trang điểm, thêu thùa và học thêm những kinh thi khác. Nhìn vị Thầy nào ta cũng thấy nghiêm nghị. Ngay cả Thầy giảng kinh. Nhưng tại sao ta chẳng biết, mỗi lần nhìn lên thấy nét mặt trầm tư, hiền hòa của Thượng Tọa Thiệt Thành-Liễu Đạt là tâm ta có cái gì xao xuyến. Đôi khi ta không muốn cho những ý nghĩ ngông cuồng ấy trỗi dậy trong tâm tư của một cô gái được sanh ra trong chốn hoàng gia; nhưng bao giờ cũng thế, khi một ý nghĩ thiện lướt nhanh qua tâm ta, một ý nghĩ bất thiện lại chợt đến. Ta cố giấu thật kỹ và chôn chặt mối tình vương giả nầy vào trong tận đáy lòng của mình, quyết không cho một ai biết cả. Chỉ để một mình ta nhớ thương một người đang đối diện với mình mà chả dám nói nên lời.
Thế mà mẹ ta vẫn biết. Có thể là kinh nghiệm của bà chăng? Dĩ nhiên là bà đã không thương yêu một người như ta đang thương yêu thì làm sao hiểu được lòng dạ của ta chứ? Bà cũng đã có tuổi xuân xanh như ta, tuy phải theo chồng và lo cho con cái khi bôn ba nơi xứ người và nhất là việc trốn nạn Tây Sơn; nhưng bà đã có một người chồng can đảm. Đó là cha ta. Nhờ vậy mà mới có được người con trai Nguyễn Ánh ngày nay. Anh ta cũng đã noi gương cha ta để giành giang sơn Đại Việt về một mối để gầy dựng lại cơ đồ. Còn ta, chẳng ai hiểu ta cả. Nếu có cũng chỉ nghe những lời trách móc của mẹ ta mà thôi.
- Sao ta thấy con gái bỏăn, bỏ học trong nhiều ngày thế? Mẹ chỉ thấy con vui khi nghe Thượng Tọa Liễu Đạt giảng kinh mà thôi? Hay là ý con muốn mang trên mình chiếc áo giải thoát? Điều ấy mẹ chẳng muốn. Vì lẽ dòng họ của chúng ta là dòng họ trâm anh thế phiệt mà, làm sao có thể sống một cuộc đời tương chao đạm bạc như những vị tu hành được. Nhưng con cũng không nên có ý ngộ nghĩnh là muốn đi xuất gia để được làm nam nhi ở kiếp sau chăng?
-Mô Phật! Lạy mẹ! Mẹ cũng đã hiểu con; nhưng chỉ mới hiểu được một phần nhỏ thôi. Mẹ chưa hiểu hết được tâm trạng của con trong hiện tại đâu. Có lẽ mẹ chẳng là con; nên làm sao mẹ có thể hiểu tâm trạng của con trong hiện tại được mẹ nhỉ?
Thế nhưng một thời gian sau, ta cũng được mẹ ta để ý và kêu vào phòng riêng để dặn dò và bà đã dùng lời lẽ của một bà Thái Hậu để khuyên ta:
Con ơi! Như con biết đó. Từ xưa đến nay các bậc quân vương đều là những người cầm cân nảy mực, sống đúng với cương vị là chủ của thần dân và quê hương đất nước nầy. Còn triều đình gồm bá quan văn võ, giúp nhà vua cai dân trị nước để sống một đời sống an cư lạc nghiệp, trên thuận dưới hòa. Trong khi đó Hoàng Tộc của chúng ta là những người có công gầy dựng nên nghiệp Đế để tiếp nối những chiến công hiển hách của các bậc tiền nhân đã xây dựng nên non sông nầy. Chúng ta được thừa hưởng huyết thống đó và chúng ta nên cố lưu truyền.
Nếu có Hoàng thân quốc thích nào đó của chúng ta sau khi làm quan, về hưu muốn vui thú điền viên thì cũng có thể vào chùa để ngâm thơ, vịnh nguyệt, uống trà cùng với các vị chân tu; nhưng cũng ít có vương tôn, công tử nào lụy thế phải vào nương náu ở cửa chùa cả. Dĩ nhiên là có; nhưng ít lắm. Còn ởđây, con là con gái “cành vàng lá ngọc” của mẹ. Con sao sớm chán đời thế ! Những buổi học thêu thùa con không ham, mà con chỉ muốn tham gia những buổi giảng kinh, thuyết pháp của Thượng Tọa Liễu Đạt là sao? Có phải con muốn làm một Ni Cô hay con muốn hộ trì Tam Bảo một cách đắc lực. Việc hộ trì Tam Bảo chắc không có gì khó, nếu Hoàng huynh của con dựng được nghiệp đế nay mai, khi chúng ta trở về lại Kinh Đô Phú Xuân thì con tha hồ mà tạo phước. Việc ấy mẹ không cấm; nhưng mẹ không muốn con trở thành một người xuất gia...
Hú vía! Mẹ ta chỉ hiểu lờ mờ về việc tình của ta thôi. Không biết là ta có nên đem việc nầy nói cho chị ta là Thái Trưởng Công Chúa Long Thành nghe chăng? Khi nghe xong, không biết chị ta có giúp được gì cho ta không nữa?
Đã nhiều đêm như thế, Hoàng Cô cứ thức giấc trở mình không làm sao ngủ yên được. Thỉnh thoảng lại ngủ quên. Có lúc nghe đến câu kinh buổi sáng mà các Chú Tiểu trong chùa khởi đầu tụng trong bài thần chú Thủ Lăng Nghiêm ta mới thực sự tỉnh mộng.
“Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập
Như nhứt chúng sanh vị thành Phật
Chung bất ư thử thủ Nê Hoàn
Đại Hùng Đại Lực Đại Từ Bi ...”
Như có thật thế chăng? Trong đời ác năm trược nầy Ngài xin vào trước. Đó là Ngài A Nan, chứ còn Liễu Đạt của ta có phải vậy không? Ông ta có bao giờ thệ nguyện là nếu còn một chúng sanh nào chưa thành Phật thì ông vẫn chưa thành. Vậy còn ta đây đang khổ sở, không biết bao giờ ông ta mới thành được. Như vậy Niết Bàn còn xa lắm.
Quận Chúa
(Thư không gởi)
Lá thư thứ ba
Gia Định ngày …… tháng …… năm 1790
Suy nghĩ bao nhiêu đêm dài như thế mà cũng chẳng có câu trả lời. Một hôm ta mạnh dạn đem việc nầy ra tâm sự với Thái Trưởng Công Chúa Long Thành là chị ruột của ta và chị cả Hoàng Huynh nữa. Ta nghĩ rằng chị mình có thể chia xẻ với mình tình yêu khó nói nầy.
Ta mở lời rằng:
Đại Tỷ có biết chăng! Trời sinh vạn vật, sinh ra đủ thứ chúng sanh, kể cả các loài cầm thú, con nào cũng có đôi có bạn; nhưng sao em lại lẻ loi một mình như thế nầy, không biết kiếp trước em đã làm nên tội tình gì?
Đại Tỷ cho biết: Ai trong chúng ta cũng vì nhân duyên nghiệp lực mà thành tựu thân nầy. Còn cha mẹ chỉ là chất xúc tác thôi. Khi sinh ra đâu ai đã biết yêu; nhưng khi lớn lên rồi cái ái, cái ân tự nhiên nó đến. Những việc nầy nó giống như những hạt giống đã gieo lâu ngày trong tiềm thức; nay mới có cơ duyên trỗi dậy. Còn duyên em hẩm hiu. Hạt mầm yêu thương chưa đến. Có lẽ đến chậm, chứ không phải là không đến đâu. Muội muội hãy rán chờ xem.
Nhưng Đại Tỷ nầy! Muội hỏi thật. Nếu muội lỡ yêu một người xuất gia thì sao?
Ấy chết! Sao muội lại nói như thế. Muội có nghe Thầy mình giảng về ý nghĩa của 2 chữ xuất gia chăng? Thứ nhất là xuất thế tục gia. Nghĩa là người xuất gia phải ra khỏi nhà thế tục. Nhà thế tục là ngôi nhà nơi đó có vợ chồng chung sống với nhau, rồi do ân ái kết ràng mà sanh con đẻ cái. Cũng từ ngôi nhà nầy sinh ra đủ loại cho đời; ân cũng có mà oán thù cũng không thiếu. Như muội thấy đó! Chúng ta và 3 anh em nhà Nguyễn Tây Sơn đâu có oán thù gì; nhưng chỉ do Ngai vàng là chỗ quyền quý, ai cũng muốn chiếm giữ; cho nên đã khiến cho dòng họ ta xấc bấc xang bang trong bao nhiêu năm rồi; cho đến nay vẫn chưa hềổn định...
Nếu xuất gia là phải ra khỏi ngôi nhà tranh chấp ấy. Một người bình thường, có tâm trên cầu Phật đạo, dưới cứu khổ chúng sanh, họ muốn ra khỏi ngôi nhà nầy. Khi ra được rồi và bước vào hàng ngũ xuất gia là quý biết dường nào. Tại sao muội muội đã chẳng khuyên được một người đi xuất gia mà còn có ý lôi kéo một người đã bước ra khỏi vòng danh lợi, tranh chấp thế trần trở về lại chốn trần ai tục lụy làm gì?
Bước tiếp theo là xuất phiền não gia. Có nghĩa là người xuất gia phải rời khỏi cái phiền não nầy. Cái nhà mà chúng ta đang ởđó sáng nó vui, trưa nó buồn, chiều lại ghét, tối cầu hòa, ngày mốt nóng giận, ngày kia hăm dọa v.v... Do vậy quá phiền não đi. Muội thấy đó, đa phần người ta yêu nhau, rồi thương nhau; nhưng người ta quên kính mến nhau như buổi ban đầu mới gặp gỡ cho nên nó mới sinh ra não phiền như vậy.
Vả lại người đàn ông nào trên đời nầy cũng vậy. Họ chỉ có khuynh hướng chiếm hữu mà thôi. Khi đã chiếm đoạt được rồi, họ “có mới nới cũ”. Còn bọn con gái của chúng ta luôn có khuynh hướng nương tựa. Vợ cho rằng chồng là chỗ nương tựa tốt nhất; nhưng một khi đã không được là chỗ nương tựa rồi, lại cắn xé với nhau, đòi bỏ bê nhau. Vậy những đứa con sinh ra ai lo lắng? Cho nên em đã nghe Thầy Liễu Đạt giảng rồi đó. Đúng là “oan oan tương báo”. Ghét nhau quá chừng mà phải cam lòng sống với nhau cho đến trọn đời. Rõ thật là khổ.
Nhưng em bảo em thương hay yêu một người xuất gia nào đó, chị thấy em lầm lạc và tội lỗi lắm rồi. Vì ít ra người xuất gia ấy chưa thành Phật, thành Thánh thì cũng đã thành người có ý thức trong xã hội trong cuộc sống rồi. Đó là chưa nói người xuất gia ấy còn giúp đời giúp đạo ở nhiều phương diện khác nữa.
Bước cuối cùng quan trọng của người xuất gia là phải ra khỏi 3 cõi. Đó là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Dục giới là cõi dục nầy. Như muội thấy đó! Cái gì chúng ta cũng muốn hết. Tiền cũng muốn, tình cũng muốn, ăn, ngủ, danh vọng, địa vị v.v... có ai không muốn đâu? Nhưng muốn bao nhiêu thì đủ? Có lẽ kẻ nào biết đủ thì mới tự dừng. Còn kẻ nào không biết đủ thì bao nhiêu cũng chưa đủ vậy.
Cõi sắc cũng thế thôi. Nơi đó người ta hưởng phước lạc vô tận; nhưng ai cũng sợ mất và lo bảo thủ cho cái hạnh phúc của mình. Cõi vô sắc tuy có tuổi thọ hơn cõi người và nơi ấy muốn gì có nấy; nhưng khi phước báu đã hết rồi, phải đọa trở lại làm người, có khi còn phải làm thân lừa hay lạc đà để đền trả nợ xưa nữa.
Xem ra như vậy 3 cõi chẳng có nơi nào sung sướng. Cho nên người xuất gia họ muốn thoát khỏi sanh tử luân hồi, họ quyết một lòng phủi sạch nợ trần duyên để nhẹ gánh tang bồng nơi cõi giải thoát. Ởđây ai đời Muội đã chẳng giúp gì cho người xuất gia cả, mà còn muốn lôi kéo họ trở lại với cảnh trần duyên, tục lụy là sao? Điều nầy thật ra Đại Tỷ chẳng hiểu gì cả, mà nếu có hiểu ra sự thật vị Thầy đó là ai, thì liệu Đại Tỷ có giúp được gì cho muội muội chăng? Tốt nhất là hãy quên đi ý nghĩấy.
Đó là ý kiến của Thái Trưởng Công Chúa Long Thành. Khi nghe thì Quận Chúa nầy cảm thấy có lý. Cái lý của chịấy hay cái lý của Phật Đạo. Điều ấy đã được Đức Phật dạy từ lâu và bao nhiêu kinh điển nghe qua, đọc qua ta cũng cảm được như vậy; nhưng khi hỏi lại quả tim của mình thì rõ ràng là lỗi nhịp. Tim trả lời không, chứ không trả lời có. Tim quả quyết rằng không thể âm thầm chịu đựng một mình được, mà phải nói rõ nỗi lòng của mình cho người khác nghe. Nhưng tình yêu mà nói được cho người khác nghe thì còn gì là tình yêu nữa. Thật là khó nói quá. Nhưng trong đám nô tỳ nầy ai là người hiểu mình đây? Mà nếu có hiểu cho ta đi nữa thì liệu chúng có giúp được gì cho ta chăng? Hay chúng lại đi bêu xấu câu chuyện nầy giữa chốn cung môn là một nàng Tiên đang yêu một người cùi hủi.
Cuối cùng ta nghĩ ra một cách là chỉ có mẹ ta, vốn phận đàn bà, là người có thể hiểu ta và giúp được ta.
Nếu lỡ ra, bà không giúp được ta thì bà cũng không nỡ nào đem chuyện trong cung cấm ra bên ngoài để bàn tán xôn xao với bàn dân thiên hạ.
Quận Chúa
(Bức thư không gởi)
Bức thư thứ tư
Gia Định, ngày …… tháng …….. năm 1790
Hoàng Mẫu kính thương,
Mẹ có biết rằng con gái của mẹ giờ nầy khốn khổ ra sao không? Tại sao yêu một người mà mình không được quyền yêu thương nhỉ? Đó là vận số, vận người hay vận trời, thưa mẹ?
Mẹ có biết rằng: trong bao nhiêu đêm dài nằm tá túc nơi chùa Khải Tường nầy, lòng con chỉ vấn vương có một người. Đó là Thầy Trụ Trì chùa nầy. Thầy Liễu Đạt đó mẹ. Có khi nào mẹ mở cánh cửa cho con bước qua được chăng? Gia đình, hoàng phái, danh gia vọng tộc giờ đây đối với con không có ý nghĩa gì nữa. Xin mẹ tha tội cho đứa con bất hiếu nầy mà mở lượng hải hà ...
Mẹ có biết chăng, tuổi thanh xuân là tuổi đầy nhựa sống, tuổi đáng yêu và tuổi được yêu; nhưng ai xuôi khiến cho con phải ở trong chùa nầy để ngày đêm gặp gỡ người ấy mà vẫn không nói lên được một lời yêu thương, một điều mình muốn nói hở mẹ?
Mẹơi! Mẹ có biết rằng khi mẹ còn trẻ như con giờ nầy chắc quả tim của mẹ cũng đã từng rung động trước người mình yêu; nhưng giờ nầy tại sao mẹ không hiểu con hở mẹ? Thưa mẹ! Yêu và thương một người xuất gia có tội lỗi sao? Họ cũng đang thương chúng sanh đó. Con đây cũng là một chúng sanh đang ngụp lặn trong cõi trần, không lẽ con không được yêu thương sao? Còn mẹ thì sao, xin cho con biết? Lẽ ra con trực tiếp thưa ý kiến nầy lên mẹ; nhưng con nhờ chị con Long Thành trao tay đến mẹ để mẹ biết ý của con, giúp con; nếu không con sẽ chết mất và mẹ con ta biết đến bao giờ mới có cơ hội gặp nhau nữa nơi cõi Diêm Phù nầy? Con kính mong mẹ hiểu được tâm trạng của đứa con gái bất hiếu nầy.
Sau khi nhờ Thái Trưởng Công Chúa Long Thành trao bức thư viết tay không niêm nầy cho mẹ mình, ta cảm thấy nhẹ nhỏm; nhưng cũng rất lo âu. Vì bà là một bậc mẫu nghi trong thiên hạ, tánh tình nghiêm khắc; lại là một Phật Tử thuần thành, biết lo lắng hộ trì Tam Bảo, nhất là 2 ngôi chùa Từ Ân; nơi Hoàng Huynh ta đang đóng quân và chùa Khải Tường, nơi nội cung của Hoàng Huynh đang ở. Chắc rằng ta sẽ bị quở; nhưng dẫu sao đi nữa ta cũng đã nói được những điều gì muốn nói. Vì để việc nầy ấp ủ trong lòng cả mấy năm nay, chẳng biết nói với ai cả. Vừa rồi mới nói cho chị cả nghe thì chị cũng đem đạo đức ra giảng. Nếu nói cho Hoàng Huynh, Hoàng Huynh làm sao hiểu được tấm lòng của người con gái ở lứa tuổi dậy thì. Nay chỉ còn có Hoàng Mẫu, ta tin rằng mẹ ta sẽ tha thứ cho ta về việc nầy.
Suy nghĩ như vậy ta ngủ thiếp đi lúc nào chẳng biết. Có lẽ hôm ấy ta có một giấc ngủ ngon giấc lạ lùng và trong mơ: Chàng là Hoàng Tử, ta là Công Chúa cỡi ngựa phi thiên; chứ không là người trụ trì chùa Khải Tường nầy nữa. Nếu có sự thay lông đổi cánh như thế, quả là trời đất chí công, không phụ lòng người có tình mà làm sao bị tình phụ được.
Ta mong có ngày được mẹ ta gọi và chỉ bảo những điều cần làm để khỏi phải thiệt thòi phận nữ nhi non kém.
Quận Chúa
Bức thứ thứ năm
Gia Định thành, ngày …… tháng …… năm 1791
Khi người Thứ phi họ Trần (sau nầy là Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu) sanh được một Thái Tử tại chùa Khải Tường nầy đặt tên là Nguyễn Phước Đảm, thì Hoàng Huynh ta hớn hở vui ca. Ngay cả trong triều và ngoài nội cũng thế. Ai ai cũng vui vẻ vì đã có Hoàng Tử nối ngôi. Bởi vì Hoàng Huynh ta đang trung hưng triều Nguyễn sau bao nhiêu năm lặn lội ở xứ người; nay mới về lại quê hương, chưa có thì giờ nhiều để lo cho mình, cho dân và cho nước. Nay Thứ phi họ Trần đã cho chào đời một đứa cháu kháu khỉnh như vậy, ta cũng vui lây và chắc là Mẫu hoàng của ta cũng vui đáo để. Vì bà chính thức sau nầy nếu anh ta lên ngôi, sẽ được phong lên Thái Hậu.
Một hôm trời đẹp ta dạo chơi ngoài sân chùa bỗng nhiên gặp một Chú Tiểu đang quét lá đa gần đó. Ta lân la lại gần để hỏi Chú Tiểu vì sao chú lại đi tu. Ta đang trông đợi một câu trả lời tốt đẹp. Chú lại bảo rằng: Vì ghét những người con gái; nên chú mới đi tu. Sau khi nghe câu ấy rồi, ta tự nghĩ: Không lẽđàn ông nào, hay người xuất gia nam nào cũng như thế hay sao? Có lẽ chú Tiểu đang bị người yêu phản bội, nên mới vào chùa nầy vậy. Nhưng dẫu sao đi nữa, đây cũng là một cách nhìn của một người con trai mới lớn khi bị phụ tình. Sau khi ta hỏi kỹ lại thì không phải vậy. Lý do đơn thuần là bị mẹ chú ấy đã đi theo người đàn ông khác, bỏ chú lại cho cha chú nuôi tự thuở nằm nôi đến bây giờ. Nên chú không có thiện cảm với đàn bà, con gái là vậy. Sau đó ta gạn hỏi chú: “Nếu một người đàn ông bạc tình, phụ rẻ người con gái thì sao?”. Ban đầu chú ấy có vẻ lúng túng; nhưng sau đó chú chững chạc trả lời rằng: “Thì tìm một người đàn ông khác tốt hơn”.
Câu trả lời thật là đơn giản; nhưng trong tim ta trong thuởấy chỉ có một người mà thôi. Đó là Thượng Tọa Trụ Trì chùa Khải Tường nầy. Dưới mắt ta, Thầy cái gì cũng đẹp hết. Người đâu mà có duyên đến thế. Đẹp trai như vậy mà bỏ cha, bỏ mẹ để đi tu làm gì, để chôn đời mình vào nơi Thiền Môn cô quạnh nầy. Tại sao Thầy ấy không mở rộng hai mắt ra để nhìn thấy ta đang thương yêu người ấy và tại sao người ấy chẳng mở quả tim ra để đón nhận trái tim bé nhỏ của ta vào lòng Thầy...
Trong khi ta đang vớ vẩn nghĩ quanh như vậy thì thấy Thầy ấy đi lại gần kề và chính ta lại lúng túng. Bình thường ta đang mơ tưởng người nầy, đang muốn nói chuyện tình với người nầy; hôm nay đây gặp nhau là một cơ hội; nhưng sao ta run quá. Đoạn Thầy ấy mở lời trước rằng:
-Chắc Tiểu Thưđang ngắm cảnh vườn chùa? Không biết có loài hoa nào làm cho Tiểu Thưưa thích chăng?
-Có chứ, nhất là loài hoa hồng.
-Thế sao? Bần Tăng thì lại khác, chỉ quý trọng loài hoa sen thôi.
-Vì sao vậy?
-Vì lẽ hoa sen là hoa bất nhiễm trần. Đã bao lần Tiểu Thưđã nghe tôi giảng tại chánh điện chùa nầy. Chắc Tiểu Thư còn nhớ? Hoa sen có 5 đặc tánh hiếm hoi, mà ít có hoa nào có.
Đặc tánh thứ nhất là: Cư trần bất nhiễm trần. Nghĩa là hoa nầy thoát ra và lớn lên từ chốn bùn nhơ, đất cát; nhưng không vì cái hôi tanh của bùn mà hoa sen không đua sắc thắm. Điều nầy tượng trưng cho sự thanh khiết của Bồ Tát khi vào đời để độ sanh, các Ngài tuy sống chung với bao nhiêu nỗi đắng cay tục lụy của đời; nhưng giới hạnh của các Ngài vẫn tỏa khắp muôn phương; hương giới đức nầy thơm hơn cả loài hoa tinh khiết ấy. Cho nên nói rằng không nhiễm trần là vậy.
Còn đặc tánh thứ hai thưa Thầy?
Đó là: nhân quả đồng thời. Nghĩa là nhân và quả cùng lúc xuất hiện. Không có một loài hoa nào khi ra hoa cùng lúc với quả cả. Đấy Tiểu Thư thấy nơi gương sen luôn luôn ẩn hiện những hạt sen, mặc dầu hoa sen vẫn đang nở. Có những loại nhân gây ra trong đời nầy mà vào nhiều thời vị lai khác nhau, quả mới đến; nhưng ngược lại cũng có nhiều lúc gây nhân trong hiện tại và cái quảấy xảy ra trong hiện tại nữa. Ví dụ như cái nhân là ta đánh một tiếng trống và cái quả là tiếng trống ấy dội lại.
Còn điều thứ ba chắc Thầy không quên?
Đúng thế! Kế tiếp là: nhân quả dị thời. Nghĩa là nhân và quả khác nhau không tương ưng cùng một lúc. Tiểu Thư xem, khi hoa sen mọc, lá và hoa riêng biệt không chung trên một cành như bao nhiêu loài hoa khác. Bất cứ là loài hoa nào, khi ra hoa cũng nằm trên cành của một thân cây, chứ không ra hoa tách biệt riêng như loài hoa sen.
Đặc tính thứ tư là hoa sen không phải là loài hoa để trang sức. Hoa sen chỉ để cúng Phật. Ởđây như Tiểu Thư thấy đó, trong vườn chùa nầy, bây giờ tuy là chốn thị thành; nhưng Tổ khai sơn và Thầy tôi cũng đã cho trồng một hồ sen nơi tượng Quan Thế Âm Bồ Tát để cho khách trần; nếu ai có cơ duyên đến vãng cảnh chùa thì xem hoa để quên đi sự thế và tự chiêm nghiệm về cuộc đời của mình vậy.
Đặc tính thứ năm cuối cùng của hoa sen là loài hoa quân tử; không phải là loài hoa để cho ong bướm chập chùng bay liệng để hút nhụy hoa, như những loài hoa khác. Dầu hiếm quý như Hải Đường, Hoa Thung, Hoa Mộc Lan đi nữa thì ong bướm vẫn tìm cách chui vào đó để hút nhụy. Còn những loài hoa hồng, hoa thược dược, hoa phong lan, hoa cúc, hoa sứ v.v... những loài hoa như vậy ong bướm đâu có nể nang gì. Chỉ riêng có loài hoa sen, không lả lơi trước gió, cho nên ong bướm không dám vào.
Thầy Liễu Đạt đang giảng giải liên miên về ý nghĩa của hoa sen, ta nghe như ngọt lịm cả môi, cả cổ mình khi được đối diện một mình với Thầy ấy. Dễ gì có cơ hội như ngày hôm ấy. Ta mới vừa mở miệng định hỏi tiếp Thầy ấy thì có nô tỳ chạy ra gọi ta. Vì bảo rằng có lệnh gọi gấp của Hoàng Mẫu. Do vậy tim ta đang đập rộn ràng lại còn nhồi máu cơ tim nhiều hơn nữa. Mẹ ta chỉ ta ngồi vào một chiếc đôn gần đó trong phòng của bà và với vẻ mặt dịu dàng, lẫn nghiêm khắc bà hỏi ta rằng:
Con gái yêu của mẹ. Con có biết câu chuyện Ngài A Nan và Ma Đăng Già chăng?
Thưa mẹ! Con có biết.
Nhưng tại sao con lại dám yêu một Thầy, mà Thầy ấy theo anh con, nay mai sẽ được phong Tăng Cang và trụ trì chùa Linh Mụ, nếu anh con đã được làm Vua và xưng Đế hiệu.
Nhưng thưa mẹ, Ma Đăng Già là Ma Đăng Già. Còn con là con của mẹ kia mà.
Ma nào cũng là ma cả. Ma là một sự quyến rũ. Tiếng Phạn gọi là Mara; trong danh từ Phật Học gọi là Ma nữ; còn con là ma gì đó, có phải ma chướng chăng? Thôi con ngồi đây để mẹ kể tỉ mỉ cho con nghe về việc nầy để con phải hồi tâm lại.
“Vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài có 10 vị Đại Đệ Tử và ngoài ra còn 1.250 vị xuất gia nữa. Trong đó Ngài A Nan là người thông minh, đẹp trai, tài giỏi chắc chắn hơn Thầy Liễu Đạt của mình ởđây rất nhiều. Thế rồi một ngày nọ Thầy đi vào làng khất thực, đã bị mẹ con Ma Đăng Già dụ dỗ vào phòng dâm. Ngài A Nan không muốn phạm giới; nhưng tâm dâm hẩy hừng của mẹ con Ma Đăng Già qua thần chú bùa yêu, Ngài A Nan trở nên lú lẫn. May mà Đức Phật hay kịp nên mới cho Ngài Mục Kiền Liên và Ngài Xá Lợi Phất mang thần chú Thủ Lăng Nghiêm đến hàng ma và sau đó nhiếp phục cả mẹ con Ma Đăng Già về dưới chân Phật. Khi đến trước Phật rồi, mẹ con bà ta xấu hổ lí nhí trả lời những câu hỏi của Đức Phật đặt ra.
-Tại sao mẹ con ngươi lại bắt Đệ Tử của ta?
-Bởi vì Ngài A Nan quá đẹp trai.
- Cái gì đẹp?
-Bạch Thế Tôn! Con mắt của Ngài đẹp quá. Quả thật trong thế gian nầy không có người con trai nào có được hai con mắt xanh đẹp lóng lánh như thế. Do vậy mà con yêu con mắt của Ngài.
-Ồ! Tưởng gì lạ chứ 2 con mắt ấy nếu cả 2 hay 3 ngày sau khi thức dậy không đánh răng, rửa mặt thì 2 con mắt toàn là ghèn, đâu có gì là đẹp.
- Con thấy miệng của A Nan quá đẹp.
-Miệng của A Nan nếu cả tuần không đánh răng, không súc miệng, không chăm sóc thì miệng ấy hôi lắm khi nói ra, ai đứng gần đó, chắc cũng chẳng muốn nghe.
-Vậy thì con yêu hai lỗ tai và chiếc mũi của A Nan.
-Tai ấy và mũi ấy nếu cả tuần không hoáy tai, không lấy cứt mũi ra thì đâu có gì là đẹp, là quý, là thơm tho đâu?
-Vậy thì con yêu toàn thân của A Nan. Vì A Nan quá đẹp trai, làm cho mẹ con của con bị choáng váng.
Đức Phật từ tốn bảo rằng:
-Nếu một mai đây A Nan chết, thân tứ đại nầy đâu có cái gì vĩnh viễn? Cái gì là không khí thì trả về cho gió. Cái gì hơi nóng thì trả về cho lửa. Rồi những thứ thuộc về nước, thuộc về đất... thì tất cả đều phải trả lại cho đời, để nuôi cỏ cây, chẳng có cái gì tồn tại mãi mãi trên đời nầy đâu, mà các ngươi cho là đẹp.
Đó là chưa kể, nếu A Nan chết đi để cả 10 ngày không đem chôn thì cả thân hình kia, mà các ngươi cho là đẹp đẽ ấy nó sẽ tan rữa ra, giòi bọ bò đầy thể xác kia, có ai lại gần được với mùi hôi thối kia chăng?”.
Khi nghe xong những lời phân tích tỉ mỉ của Đức Phật rồi, cả hai mẹ con Ma Đăng Già đều hiểu lý vô thường, sanh diệt nên đều phát tâm quy y thọ giới, liền đó họ xuất gia, dự vào hàng Ni lưu thuở bây giờ và họđã chứng quả Nhập Lưu vào thuở cuối đời. Còn con của mẹ thì sao?
- Thưa mẹ! Con khác người ta
-Khác chỗ nào?
-Những chỗấy con không thể diễn tả bằng lời được. Chỉ có sự cảm nhận mà thôi.
-Đâu con thử nói cho mẹ nghe.
-Thưa mẹ! Con thấy Thầy ấy đẹp tuyệt vời. Người đâu mà làm cho con mê mệt. Không biết tại sao vậy mẹ?
-Thầy ấy có đẹp hơn Ngài A Nan như mẹđã kể cho con nghe chăng?
- Ngài A Nan con chưa gặp; nhưng chắc chắn là đẹp hơn nhiều. Vì ai ai ở chùa nầy cũng đều nói như vậy. Mẹ hãy mở cánh cửa lòng cho con đi. Con xin thề là suốt đời sẽ sống bên người ấy.
-Nhưng không được đâu con.
-Vì sao hử mẹ?
-Vì con là đệ tử của Thầy ấy và đã quy y với Thầy ấy. Pháp danh Bồ Tát giới của con là Tế Minh - Thiên Nhựt con không nhớ sao?
-Vậy, thưa mẹ, yêu là một cái tội?
- Yêu không là một tội; nhưng ở trường hợp nầy là một cái lỗi đó con.
-Lỗi gì, thưa mẹ?
-Lỗi đạo Thầy trò và đạo Thánh Hiền. Xưa nay chẳng có ai yêu nhau trái ngang như thế cả. Thầy ấy cũng là Thầy của mẹ, Thầy của chị con, của con và cháu con, Công Chúa Ngọc Anh nữa. Mẹ thấy Ngọc Anh hình như cũng muốn đi xuất gia thì phải. Tại sao con lại cản đường giải thoát của một người tu như Thượng Tọa Liễu Đạt trụ trì chùa Khải Tường nầy. Việc nầy mà nếu Hoàng Huynh con biết được, thì mẹ phải ăn nói làm sao với anh con đây?
-Con không biết; nhưng con vẫn yêu Thầy ấy.
-Nhưng liệu yêu một chiều có ích lợi gì đâu?
-Nếu con không lấy được Thầy ấy thì con sẽ ...
- Con nói sao?
-Con sẽ ...
- Con nên nhớ rằng: Con là con gái cưng của mẹ, đòi hỏi điều gì mẹ có thể giúp được; nhưng việc nầy thì nếu Tiên Đế còn sống, chắc là con chẳng toàn thây đâu đấy.
Rồi ngày tháng trôi qua ta cũng chẳng nguôi ngoa được; không cơm, bỏ cháo. Thân ta gầy gò thấy rõ. Mẹ ta lo lắng quá nên mới cho Ngự y vào. Sau khi bắt mạch, Ngự y bảo với mẹ ta rằng: Ta đâu có bịnh gì. Chỉ cần sự hiện diện của một người đàn ông, con trai nào đó là bệnh ta sẽ hết ngay.
Sau khi nghe xong mẫu hậu ta cười và bảo rằng đúng thế. Nhưng người ấy là ai? Bà cứ băn khoăn mãi; nhưng không lẽ để cho con gái của mình ốm o gầy mòn như vậy. Bà nghĩđã hết cách; nhưng chẳng có câu trả lời.
Một hôm rảnh rỗi Nguyễn Ánh không còn tập binh nơi chùa Đại Giác ở Biên Hòa nữa; nên về thăm mẹ và con vừa mới sinh. Khi gặp nhau, Thái Hậu Hiếu Khương hỏi:
-Sao lâu nay việc binh biến như thế nào đấy Hoàng Nhi?
- Thưa mẹ! Mọi việc đã có những tướng tài cáng đáng. Con tin rằng: Gió sẽ thuận chiều. Nhưng việc binh biến đang xảy ra nhiều chuyện bất ngờ, chẳng biết tính sao cho đặng?
-Chuyện gì mà mẹ thấy con lo âu quá Hoàng Nhi?
- Thưa mẹởĐàng Ngoài Trịnh Sâm đang lợi dụng kẽ hở của quân ta chưa được củng cố và Quang Trung cũng vừa qua đời. Mấy năm nay con lo chỉnh đốn quân sự tại Miền Nam nầy. Phía Bắc của Đàng Trong như Quảng Nam, Thừa Thiên không ai trông ngó, cai quản; cho nên hắn ta có ý muốn vượt sông Gianh để đến chiếm Phú Xuân. Xin mẫu hậu đừng tiết lộ tin nầy ra bên ngoài sớm.
-Ta cũng nghi như vậy; nhưng hôm nay ta có một việc cần kiếp muốn hỏi đến ý kiến của con về việc nhà chứ không phải việc nước.
- Thưa mẹ cứ tự nhiên.
-Như con thấy đó. Đúng là Hoàng Thiên hữu mục. Con mắt trời ấy đã rọi chiếu cho dòng tộc nhà Nguyễn chúng ta vẫn còn cơ hội để trở lại với Ngai vàng; nên Nguyễn Huệ mới chết sớm như thế và nhờ nội tình của anh em họ tham quý phụ bần; cho nên mới chia rẽ lẫn nhau. Nhờđó mà ta rảnh tay phía Bình Định. Vả lại vợ con cũng mới cho ra đời một Hoàng Tử kháu khỉnh. Từ đó ta hy vọng rằng Đế nghiệp nhà Nguyễn vẫn còn có cơ hội để làm chủ thiên hạ và giang sơn gấm vóc nầy lâu dài hơn nữa ...
-Nhưng thưa mẹ! Chuyện đó đâu phải là chuyện riêng của gia đình mình?
. Ta muốn nói với Hoàng Nhi một việc khác.
. Thưa mẹ! Đó là việc gì?
-Việc hơi lôi thôi, dài dòng; nhưng nói tóm gọn là em gái thứ tư của con đang thương thầm yêu trộm Thượng Tọa trụ trì chùa Khải Tường nầy. Con tính sao đây?
- Thưa mẹ! Con đâu có ngờ.
-Việc ấy đã ra nông nỗi nầy thì gia phong ta phải xử sự như thế nào đây. Dĩ nhiên lỗi không phải tại Thầy ấy. Có lẽ cho đến nay Thầy ấy vẫn chưa biết chuyện nầy. Vì chưa ai cho Thầy ấy rõ cả. Tuy nhiên con phải giúp mẹ về việc nầy.
-Thưa mẹ! Con sẽ dâng ý kiến nầy đến mẹ sau. Bây giờ việc binh cần gấp. Xin giã từ mẫu hậu.
Rồi một hôm có một Thượng Tọa, ta trông giống như Thầy Liễu Đạt đến bên cạnh giường bệnh của ta khuyên ta đủ điều. Ban đầu ta lầm tưởng, đó là Thầy Liễu Đạt; nhưng đây chỉ là kế sách của mẹ ta, thông qua Hoàng Huynh ta chỉ muốn làm cho ta hết bịnh và sau đó chuyện sẽ hạ hồi phân giải.
Dầu sao đi nữa thì ta cũng cảm ơn vị Thầy bất đắc dĩấy. Qua chiếc áo nhà tu, đã khiến ta đỡ nhung nhớ người mà mình đang yêu. Ban đầu trên giường bịnh, gặp Thầy ấy ta định thổ lộ hết tâm cang của mình; nhưng khi nhìn kỹ lại, ta thấy rằng không phải Thầy Liễu Đạt; nên ta kịp thời chận đứng được những nỗi niềm thương nhớ lâu nay, chỉ chực tuông trào ra nơi cửa miệng khi có cơ hội.
Thế rồi tỳ nữ, cung nhơn và nhất là mẹ ta, thấy ta đã hết bịnh, bà mừng thầm, vì đã gạt được ta; nhưng chắc chắn một điều là, mẹ ta sinh ta ra, chứ không thể đẻ lòng ta được. Ai biết cho ta lúc nầy đây? Ởđâu và ai có thể giúp ta trong cơn nhất sanh thập tử nầy?
Rồi một hôm ta nằm mộng thấy một Ông Tiên thật đẹp lão. Râu dài, tóc bạc. Tay chống gậy trúc dẫn ta vào rừng hái thuốc trường sinh đem về dâng lên cho mẹ. Mẹ ta được thuốc nhưng chẳng chịu uống. Bà bảo rằng khi nào con gái của bà biết nghe lời thì bà mới uống. Ta vì chữ hiếu nên đã hứa đỡ cho mẹ vui là con chỉ mong cho mẹ được sống lâu trăm tuổi. Mẹ hãy dùng thuốc ấy đi. Còn chuyện của con, nay mai chắc sẽ có Bồ Tát mách bảo.
Mẹ ta chẳng hài lòng. Vì bà cho rằng: Bồ Tát vào đời để cứu độ chúng sanh; nhưng đa phần là giúp cho chúng sanh từ nơi vực sâu, thăng tiến cao lên nơi cửu phẩm; chứđâu có vị Bồ Tát nào mà hứa giúp cho người đang ở địa vị làm người, đi vào địa ngục đâu.
Dĩ nhiên là mẹ ta có lý; nên ta phải vâng lời bà. Từ đó bà mới chịu uống thuốc trường sinh. Sau đó vị Tiên kia tan biến vào trong giấc mộng tiếp.
Mộng và thực, ta chẳng biết cái nào là hư, cái nào là ngụy. Vẫn có những nhà đoán tướng, điềm mộng ấy; nhưng sao ta chỉ thấy họ xem tâm lý và từ tướng của người đối diện, họđoán già, đón non; chứđâu có hay ho gì, mà nhiều người nữđã tin vào tướng số.
Tại sao ta học Phật; nhưng Phật Pháp chỉ ngấm vào lòng. Còn tình yêu, ái ân đâu có ai dạy, ta cũng chẳng học bao giờ, tại sao ta lại thuộc nhiều bài ca sanh tử như vậy. Chẳng biết trước khi cha mẹ ta sinh ra ta, ta là ai vậy? Ta đến đây làm gì để làm khổ sở cho bọn cung nhân như thế nầy, mà có thể người khổ sở nhất vẫn là mẫu hậu của ta. Ai sinh con trai, con gái ra mà chẳng muốn môn đăng hộ đối, đẹp trai, đẹp gái đôi đường. Đằng nầy duyên tình của ta vẫn trái ngang, oan uổng. Kẻ yêu thì chẳng được yêu và người được yêu thì lại hờ hững...
Quận Chúa
(Thư không gởi).
Bức thư thứ sáu
Gia Định, ngày …… tháng……. năm 1796
Tại Biên Hòa nơi chùa Đại Giác, Hoàng Huynh đã cho khẩu lịnh tiến quân ra Bình Định, Quảng Nam rồi tiến chiếm Kinh Đô Huế. Vì lẽ nhân cơ hội bỏ trống thành trì nầy lâu năm; cho nên Trịnh Sâm đã cho quân ởĐàng Ngoài vượt qua sông Gianh vào Huế chiếm Kinh Đô mấy tháng nay.
Thuận Hóa vốn là nơi an bình mà bao đời Tổ Tiên của dòng tộc Họ Nguyễn đã có công gây dựng 238 năm nay, kể từ thời Chúa Nguyễn Hoàng (1558-1796) đến Hoàng Huynh của ta. Chứ không phải là giang sơn của họ Trịnh, nhân việc phò Lê mà xâm chiếm Đàng Trong nầy. Riêng ta cũng rất lo lắng. Vì lẽ Hoàng Huynh ta đang thời kỳ trung hưng binh thuyền đang thiếu thốn cũng phải cầu viện đến Tây Phương. Khi các nước Tây Phương giúp đỡ khí giới để chống lại quân Trịnh, chắc chắn phải có những điều kiện đi kèm theo sau nữa; nhưng thôi việc ấy sẽ hạ hồi phân giải.
Nhớ chuyện xưa thời nhà Trần, sau khi thắng giặc Nguyên Mông, các vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông vẫn trực tiếp triều cống phương Bắc. Có như vậy mới giữ gìn cho bờ cõi được an lành; không phải tốn nhiều sức để đối chọi lại với phương Bắc. Trong khi phương Nam cũng chưa hẳn đã yên. Vì Cao Miên vẫn muốn lấy lại đất cũ Thủy Chân Lạp, họ cho là của họ. Do vậy phải biết cách chọn lựa trong thế đứng nầy; nên Hoàng Huynh ta đã cầu viện xa như vậy. Nhưng Á Châu là dải đất màu mỡ của niềm tin vào Tôn Giáo, chắc gì chánh sách của các quốc gia nầy không bó buộc Hoàng Huynh ta phải tương nhượng một vài điều để cho các Giám Mục Tây Phương chính thức đặt chân lên đất nước mình để truyền đạo của họ.
Dĩ nhiên mỗi Tôn Giáo là một bông hoa thơm có nhiều hương sắc, đem ra cống hiến, giúp đỡ cho đời và làm cho đời được ngát thêm mùi vị. Nếu được như vậy thì phước báu cho dân tộc ta biết mấy. Dân tộc ta tuy nghèo nàn, lạc hậu về vật chất; nhưng văn hóa và Tôn Giáo vốn không nghèo. Bởi chúng ta đã có mấy ngàn năm văn hiến, chữ viết, phong tục, tập quán. Song hành với vận mệnh của Dân Tộc ta là Phật Giáo. Lúc nào Dân Tộc thịnh thì Phật Giáo thịnh, dân tộc suy thì Phật Giáo bị suy đồi theo. Cho nên ta có thể nói rằng Phật Giáo là hơi thở, là mạch sống của dân tộc ta vậy.
Ngay như những ngày đầu khởi nghĩa chống lại Tây Sơn và cả sau khi về lại bình định đất mới Hoàng Huynh ta cũng trú ngụ dưới các mái chùa. Chùa đúng là nơi che chở cho mọi người và mọi lúc; gian nguy khó khăn cũng như an bình thịnh trị vậy.
Chùa là văn hóa quê hương
Là nơi thể hiện tình thương giống nòi.
Điều ấy chắc không ai có thể chối cãi được. Trong khi đó văn minh, văn hóa của Tây Dương chỉ mới phát triển đây thôi, làm sao sánh được với nền văn hóa cổ truyền của Dân Tộc chúng ta được. Ta mong rằng Hoàng Huynh ta sáng suốt trong vấn đề nầy.
Điều đặc biệt là Ngọc Anh Công Chúa, cháu ta đã lo lắng cho phụ thân quá nhiều; cho nên đã phát lời Đại Nguyện tại chùa Đại Giác ở Biên Hòa trước khi Hoàng Huynh cho chiến thuyền hướng ra Bình Định và Huế rằng:
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quan Thê Âm Bồ Tát
Nam Mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát
Kính lạy chư Phật, chư Bồ Tát trong mười phương vô biên pháp giới.
Con là Ngọc Anh, con gái thứ 3 của Nguyễn Ánh. Lâu nay con đã chứng kiến sự khổ nhọc của phụ thân con và triều đình lưu vong của nhà Nguyễn. Hoàng Mẫu của chúng con tuy tuổi đã lớn; nhưng lúc nào cũng mong muốn cho cơ nghiệp của nhà Nguyễn sớm hồi phục lại nay mai để bà được an hưởng tuổi già. Chị con cũng thế, tuy khổ nhọc với phụ thân của con rày đây mai đó, nếu chồng, con có mệnh hệ nào thì thân gái dặm trường chẳng biết nơi đâu mà nương nhờ khi cơ nhở.
Nay trước Phật Đài trang nghiêm thanh tịnh nầy. Con xin phát nguyện rằng:
-Nếu phụ thân con thắng trận và chiếm lại được Phú Xuân thì con sẽ xuống tóc và trọn đời xuất gia tu học tại chùa nầy.
-Thứ đến để làm hưng long ngôi Tam Bảo trong cõi nầy, con xin nguyện rằng có bao nhiêu tư trang, của cải xin dâng cúng hết vào chùa, để chư Tăng lo trùng hưng Phật Pháp, khiến cho muôn họ được nhờ.
Trong khi cầu nguyện, con đã dốc hết lòng thành. Kính nguyện Đức Bổn Sư từ bi chứng minh gia hộ.
“Chúa Nguyễn Phước Thuần tức là chú ruột của ta đã phải bỏ kinh thành Phú Xuân vào ngày 29 tháng chạp năm Giáp Ngọ (31.1.1775) để chạy vào Gia Định. Còn Chúa Trịnh Sâm đã cùng với Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc đem quân vượt sông Linh Giang tiến vào xâm chiếm Đàng Trong. Ngày mùng 3 tháng giêng quân Trịnh đã chính thức chiếm đóng đô thành Phú Xuân của Chúa Nguyễn và tịch thâu nhiều tài sản quý giá, nhiều tiền của trong các dinh phủ và triều đình.
Trước đó năm Tân Mão (1771) trong khi quân Xiêm La đánh chiếm Hà Tiên, ba anh em Tây Sơn nổi lên chống lại Chúa Nguyễn ở Tây Sơn, phủ Qui Nhơn (Bình Định). Năm Quý Tỵ (1773), quân Tây Sơn chiếm được Phủ Qui Nhơn, sau đó tiến chiếm Quảng Ngãi và tiến quân đánh ra Quảng Nam. Chúa Nguyễn phải tung hết quân chủ lực vào Quảng Nam để chống lại Tây Sơn, quân lính còn lại phòng thủđô thành Phú Xuân rất yếu”. (Trích Lịch sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức, trang 218).
“Quân Trịnh chiếm cứ Thuận Hóa chưa được bao lâu, giữa năm Bính Ngọ (1786), trong khi Trấn Thủ Phạm Ngô Cầu đang hầu Kinh trong trai đàn ở chùa Thiên Mụ, hai đạo quân thủy bộ của nhà Tây Sơn bất ngờ cùng tiến đánh Phú Xuân. Khi hay tin, thành quân ởđèo Hải Vân bị Tây Sơn chiếm, Trấn Thủ Phạm Ngô Cầu vội vàng chạy về thành Phú Xuân cùng phó tướng Hoàng Đình Thể lo chống lại quân Tây Sơn. Nhưng trước sự tấn công như vũ bão của quân Tây Sơn, Trấn Thủ Phạm Ngô Cầu phải đầu hàng, phó tướng Hoàng Đình Thể không chống lại; nên tự sát trên mình voi”, (Sách đã dẫn trang 220).
Ba anh em Tây Sơn cũng đã khổ công nhọc sức để lấy được Ngai vàng và Nguyễn Huệ lên làm Vua lấy hiệu là Quang Trung, cai trị đất nước từ năm 1785 đến 1789. Cuối cùng rồi cũng ra đi, bỏ lại người vợ trẻ Ngọc Hân Công Chúa bơ vơ với ấu chúa Quang Toản thuở bây giờ. Ngôi báu, gươm vàng, vợ đẹp, con ngoan rồi cũng không qua lòng trời, vận nước. Trong thời gian trị vì 4 năm ấy Tây Sơn đã có công đánh bại quân Thanh, là một anh hùng của dân tộc; nhưng trong vấn đề nội loạn ở chốn triều ca tại Bình Định, cũng như về phương diện lịch sử dân tộc, hãy để lại trang sửấy cho lịch sử phán đoán về sau nầy.
Điều quan trọng mà ta muốn ghi lại nơi đây là ta cũng cảm thấy hổ thẹn với lòng. Trên đã không được Hoàng Mẫu đồng tình. Chị ta Thái Trưởng Công Chúa cũng vậy. Rồi cho đến Hoàng Huynh mình cũng như thế. Nay lại được tin Ngọc Anh Công Chúa vì vận nước mà xin thế phát quy y. Ta cảm động lắm, lại thêm xấu hổ nữa là khác. Tại sao cũng là phận nữ nhi thường tình, mà cháu ta làm được những hành động cao thượng như vậy, mà chỉ có riêng ta, chỉ lo cho tình riêng của mình; vả lại tình ấy đâu có đáng gì lúc nầy so với vận nước đang lâm nguy.
Suy nghĩ như vậy ta tỉnh táo hơn và hình như có một sức mạnh mầu nhiệm nào đó đã giúp ta gượng dậy, không cần phải ai xoa dịu ta cả. Có lẽđây là một sức mạnh vô hình chăng? Dầu ta có cầu khẩn Phật và Bồ Tát đó; nhưng có lẽ các Ngài vẫn còn lo cứu khổ những kẻ khác hơn ta nhiều; hoặc giả các Ngài muốn ta tự cứu ta trước. Điều thứ hai chắc có lý hơn chăng?
Kể từ khi nghe Ngọc Anh Công Chúa, cháu ta phát nguyện xuất gia đầu Phật để cứu giang sơn khi bị cảnh giày xéo như tơ vò, lòng ta lại có nhiều sự suy nghĩ khác nhau rằng: Không biết ta có thể bắt chước như cháu ta để có cơ hội gần gũi Thượng Tọa Liễu Đạt nhiều hơn chăng? Nhưng đôi khi ta cũng nghĩ: Đây là chùa Tăng thì có ai tế độ cho ta tu ở chùa Khải Tường nầy được.
Nếu được xuất gia ở chùa Đại Giác với Thiền Sư Phật Ý – Linh Nhạc (1725-1821) thì cũng tốt; nhưng khoảng cách giữa chùa Khải Tường và chùa Đại Giác vẫn còn xa; nhưng chắc gì ta được tự do qua lại giữa hai chùa như bây giờ. Thà rằng làm nữ cư sĩ còn có cơ hội để học đạo với Ngài Liễu Đạt. Nếu đã xuất gia thì phải theo giới luật của người đi tu, cầu đạo giải thoát.
Cháu ta vì hạnh nguyện; nên có thể sẽ an bình dưới ánh từ quang của Đức Phật và sẽ tu hành cho đến khi đại nguyện được viên thành và sẽ thành chánh quả. Điều ấy chắc Phụ Hoàng và Hoàng Mẫu của ta chắc hài lòng lắm. Còn ta chẳng khác nào một Công Chúa được cưng chiều mà đã chẳng làm nên một tích sự gì, quả là vô duyên thật.
Quận Chúa càng ngày càng bị tâm cang giày vò trong nhiều mối, chẳng biết nên gỡ mối nào trước, mối nào sau cả.
Quận Chúa
(Thư không gởi).
Bức thư thứ bảy
Gia Định, ngày …… tháng …… năm 1800
Cho đến năm nầy những tàn quân của Tây Sơn vẫn còn hoạt động rải rác tại các tỉnh phía bắc Đàng Trong như Quảng Nam, Thuận Hóa. Nhưng do lực yếu, thế cô, dân chúng chán ngán không còn ủng hộ quân Tây Sơn qua hào quang chiến thắng trận Đống Đa với quân Thanh thuở nào vào năm 1789 của Vua Quang Trung nữa; nên Hoàng Huynh ta có nhiều cơ hội để tuyên truyền trong dân chúng cũng như cho quân lính giúp đỡ lại nhà cửa cho dân, đặc biệt là những chùa chiền đã bị quân Tây Sơn tàn phá.
Hoàng Huynh ta khi còn tỵ nạn ở Thái Lan, ông đã thấy Phật Giáo tại Thái Lan phát triển như thế nào và cũng đã cho xây dựng mấy chùa tại Bangkok như: Phổ Phước, Khánh Vân và Cảnh Phước để bảo tồn văn hóa Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Vua Rama đệ nhất của Thái Lan cũng đã ngưỡng phục tài điều binh, khiển tướng của Hoàng Huynh ta, nhờđó dẹp được loạn quân Miến Điện cho Hoàng Gia Thái Lan, trước khi về lại xứ An Nam nầy. Từđó Vua Rama đệ nhất có cảm tình rất nhiều với quân binh tướng sĩ của anh ta. Vua Rama lại còn quý trọng Phật Giáo nước ta; nên đã cho thành lập một Tông phái riêng gọi là Anamikaya. Nghĩa là Tông An Nam. Đây là một Tông phái Phật Giáo Đại Thừa được tồn tại trong xứ Phật Giáo Tiểu Thừa ngay từ khi Hoàng Huynh ta cho xây dựng những ngôi chùa tại đất Thái để đền ơn Tổ Quốc.
Từ ý niệm hộ pháp, xây chùa của một bậc quân vương như thế, mẹ ta Hoàng Thái Hậu Hiếu Khương rất hài lòng và lúc nào cũng tâm đắc về việc làm của anh ta cho sơn hà xã tắc và cho Phật Pháp muôn đời.
Nay lại tiếp tục nghe những chiến thắng liên tục từ Phú Xuân gởi về, chính ta và cả cung nhân còn trú tại chùa Khải Tường nầy cũng vui lây và vui nhất là khi Hoàng Mẫu ta nghe được Hoàng Huynh của ta đã cho quân lính xây dựng lại những chùa chiền đã đổ nát do quân Tây Sơn đập phá.
Quân Tây Sơn đa phần cũng là Phật Tử; nhưng lý do tại sao khi họ chiếm được Phú Xuân rồi, các chùa chiền lớn như Thiên Mụ, Báo Quốc, Tây Thiên v.v... đều bị đập phá, những chuông vàng khánh bạc, đại hồng chung của tiên triều đã cúng dâng vào đó, bây giờ chẳng còn một kỷ niệm nào, mà chùa nào cũng trở thành đống tro tàn, vụn nát. Trông thấy thật đau lòng.
Có lẽ họ “giận cá chém thớt” chăng? Họ ghét quân của Nguyễn Vương đã làm cho họđiên đảo. Cho nên khi đã chiếm đoạt giang sơn về một mối rồi, họ trả thù cho bỏ ghét: nên mới thể hiện những hành động ấy. Vả lại muốn có đồng để đúc súng, đạn, khí giới; không có nơi nào chứa những loại nhạc khí được làm nên bằng đồng, nhiều hơn ở chùa. Do vậy khi đập chùa, tiện thể cho lấy luôn chuông đồng, khánh bạc.
Việc nầy có thể chỉ là ý kiến của ta suy nghĩ thôi. Nhưng ước gì, khi mỗi một triều đại lên cầm quyền của đất nước, dầu kẻ thắng hay người thua, đều nên tôn trọng giá trị văn hóa lịch sử của nước nhà nói chung và của Phật Giáo nói riêng, thì đâu có ra nông nỗi ấy. Thế hệ qua thế hệ, triều đại qua triều đại, cứ xây dựng riêng biệt với nhau; nhưng vẫn bổ túc cho nhau dưới cái nhìn của lịch sử thì hay biết mấy. Mong được như vậy.
Vào thời cuối năm 1800 đến đầu năm 1801 không biết bao nhiêu là tin vui dồn dập được trình tấu về từ Kinh thành Phú Xuân, trong đó có một lá thư riêng của Hoàng Huynh ta gởi cho Hoàng Mẫu.
Phú Xuân ngày.... tháng.... năm 1800
Bái lệnh Hoàng Mẫu
Hoàng Nhi kính lời vấn an sức khỏe của Hoàng Mẫu. Mãi lo chinh chiến với ngựa đường xa cùng ba quân tướng sĩ, con ít có thời gian để biên thư về thăm mẹ; nhưng nay thì mọi việc đã an bài. Con thiển nghĩ có vài ý kiến trình lên Hoàng Mẫu. Kinh mong Hoàng Mẫu xét soi.
Điều đầu tiên, con đã bàn với các quan cận thần sau khi bình định yên ổn trong năm nầy và năm tới; ít ra cũng vào năm 1802 con sẽ lên ngôi và xưng hiệu Hoàng Đế, lập Hoàng Hậu và tôn phong mẹ lên ngôi Thái Hậu của triều đình. Chắc hẳn mẹ cũng vui. Vì lẽ cho đến nay các Tiên Đế của chúng ta chỉ xưng Chúa ởĐàng Trong từ năm 1601 đến nay cũng đã 200 năm rồi, trải qua 9 đời Chúa. Vì lẽ chúng ta còn nể trọng lòng dân vẫn còn hoài Lê ởĐàng Ngoài. Tuy nhiên nay thì Vua Lê, Chúa Trịnh cũng không còn nữa. Chính con phải xưng Vương là lên ngôi Hoàng Đế để dễ trị vì và cũng để làm rạng danh cho Nguyễn Phước tộc của chúng ta đã dày công dựng nước và giữ nước. Chắc Hoàng Mẫu không chê con trai của Người là nông cạn.
Thứ đến các Chúa đời trước đã hộ trì Phật Pháp qua bao đời, nên chùa chiền tại Kinh Đô đã được xây dựng, tiêu biểu là chùa Thiên Mụ như là một ngôi Quốc Tự của cả nước, nhất là vào những năm 1695, 1696 bóng dáng của Thạch Liêm Hòa Thượng đã truyền giới cho Tăng Sĩ và các Quốc Chúa nơi đây; nhưng nay thì Thiên Mụ chẳng còn, tuy tiếng gà gáy sáng ban mai của làng Thọ Xương vẫn còn đó. Con tuy không có lòng tin Phật Pháp nhiều như các đấng Tiên Đế. Vì hoàn cảnh chạy loạn Tây Sơn và Trịnh Sâm hơn nửa đời người, nên với Phật Pháp con hiểu rất mơ hồ. Tuy nhiên việc căn bản sau khi xây dựng kinh thành Huế thì con sẽ cho trùng kiến lại Thiên Mụ tự như xưa. Đây là chốn dựa tâm linh của Hoàng Triều cũng như nhân dân trăm họ.
Cùng với việc nầy con sẽ thỉnh mời Thiền Sư TổẤn
-Mật Hoằng đang trụ trì chùa Đại Giác tại Đồng Nai, nơi đã che chở cho tộc Nguyễn của chúng ta trong thời chinh chiến ra Kinh để nhậm chức Trụ Trì Quốc Tự Linh Mụ. Đồng thời con học hạnh của Vua Thái Lan hay ban cho Giới đao, Độ điệp và con sẽ tấn phong Tăng Cang Hòa Thượng cho Ngài TổẤn - Mật Hoằng. Đây là ý nghĩa báo ân, cầu phước. Chắc Hoàng Mẫu không từ chối tấm lòng của con đối với Đạo như vậy.
Riêng việc tu học của Mẫu Hậu, nhà con và các Công Chúa, công nương ở trong triều, con và Bộ Lễ sẽ cung thỉnh Hòa Thượng TổẤn - Mật Hoằng vào cung để giảng Phật Pháp cho Mẹ và cung nhơn để vui với tuổi già. Chắc Mẹ không từ chối?
Còn các Tiên Đế của Triều Nguyễn từ thời Chúa Nguyễn Hoàng đến nay cũng đã 200 năm lịch sử rồi, lăng tẩm, mồ mả chôn cất rải rác nhiều nơi, con sẽ cho bốc mộ của các Tiên Đế về một nơi tại núi Ngự Bình để tạo thành một quần thể lăng tẩm của Gia Tiên để sớm có nơi thờ phụng và cúng tế Xuân Thu nhị kỳ và cũng là nơi con cháu Nguyễn Phước tộc có nơi chốn sum hợp vào những ngày Tết hay ngày giỗ kỵ.
Nay con tuổi cũng đã lớn rồi, theo các quan cận thần đề nghị, sau khi lên ngôi, trong khi lo xây dựng cung điện cũng phải lo xây dựng lăng tẩm cho mình tận trên núi cao để giữ long mạch của dòng họ mình và phò trì cho ngôi vị Đế Vương của dòng họ Nguyễn Tộc luôn được bền vững. Chắc Mẫu Hậu không cho là quá sớm.
Đêm đã khuya, sương đã thấm lạnh nơi hai bờ vai; khi nghe tiếng trống canh từng hồi giục giã, con mới biết rằng đã canh ba rồi. Cho phép Hoàng Nhi dừng bút nơi đây và xin Mẫu Hậu cùng cung nhơn nán lòng chờ đợi, sau khi cung điện xây xong, chính con sẽ thân chinh vào Nam để nghinh đón Mẫu Hậu và toàn thể cung nhơn về lại Kinh Đô để ca khúc khải hoàn.
Xin hẹn Hoàng Mẫu vào những năm tháng tới
Hoàng Nhi - Nguyễn Phước Ánh.
Sau khi Hoàng Cô đọc thư của Hoàng Huynh viết về cho Hiếu Khương Hoàng Thái Hậu nghe như vậy. Mẹ ta đã rõ đầu đuôi mọi câu chuyện mà Hoàng Huynh ta đã trình lên. Tuy nhiên điều ta chờ đợi không thấy Hoàng Huynh ta đề cập. Đó là ta muốn Hoàng Huynh ta phong chức Tăng Cang cho Thượng Tọa Thiệt Thành - Liễu Đạt; chứ không phải là Ngài TổẤn - Mật Hoằng đâu. Tại sao vậy?
Có thể Thầy Liễu Đạt còn trẻ chăng? Hay là anh ta muốn chia loan, rẽ phượng; không muốn cho ta gần gũi sớm hôm với Thượng Tọa Liễu Đạt đang trụ trì tại chùa Khải Tường nầy?
Hoặc giả Hoàng Huynh ta muốn trảơn chùa Đại Giác trước; nên mới thỉnh Ngài Trụ Trì TổẤn - Mật Hoằng tại đó ra kinh để được phong Tăng Cang làm Hòa Thượng và Trụ Trì chùa Thiên Mụ? Hay có còn lý do nào khác nữa chăng?
Hoặc giả Ngài TổẤn - Mật Hoằng mới có kinh nghiệm dạy cho cung nhơn. Vì Ngài đã lớn tuổi. Nhưng mấy năm nay kể từ năm 1789 đến nay 1800 đã hơn 10 năm rồi, khi Thượng Tọa Thiệt Thành - Liễu Đạt vừa Trụ Trì chùa Khải Tường, vừa Trụ Trì chùa Từ Ân mà cũng còn đủ thì giờ để giảng cho nội cung những kinh căn bản như: Di Đà, Pháp Hoa, Báo Ân Phụ Mẫu v.v... đâu có ai bảo rằng: còn quá trẻđâu? Vả lại Thầy ấy còn trẻ nên trong tiếng giảng pháp còn hùng hồn lắm; nếu già như Ngài TổẤn - Mật Hoằng thì làm sao giảng lớn tiếng trong Hoàng cung được. Vì tuổi già sức yếu, giọng thấp nữa. Thôi hãy chờ xem.
Quận Chúa.
Bức thư thứ tám
Gia Định thành, ngày .... tháng .... năm 1802
Năm nầy là năm kinh thành nhộn nhịp nhất. Nào là báo tin sẽ lên ngôi Hoàng Đế của Hoàng Huynh Nguyễn Phước Ánh vào ngày mồng một tháng năm năm Nhâm Tuất (1802), nào là thiết những trai đàn để cầu siêu cho chiến sĩ trận vong và lập trai đàn chúc thọ cho mẹ ta ...
Khi được tin ấy cả Hoàng triều đều vui mừng hớn hở. Riêng ta sẽ được cùng ra kinh đô với Thái Trưởng Công Chúa và Mẫu Hậu. Chắc chắn một điều là Thái Tử Đảm sẽ được đi với chị ta là Thuận Thiên Hoàng Hậu một xa giá hộ riêng. Còn Ngọc Anh Công Chúa, bây giờđã là một Ni Cô, đang tu ở chùa Đại Giác không biết là Công Chúa sẽ có mặt trong ngày trọng đại nầy không? Theo ta nghĩ: Nếu Công Chúa không dự lễ Đăng Quang thì dự Trai Đàn và Chúc Thọ tại chùa Linh Mụ cũng tốt thôi.
Sau mấy tháng đường bộ; lúc đi xe ngựa, lúc đi thuyền, đoàn người từ Gia Định ra Kinh không dưới 300 người, kể cả những người hộ giá. Cứ ngày đi đêm nghỉ. Trước khi đến một địa điểm nào, đã có quân tiền trạm lo cho mọi việc như thức ăn, chỗ nghỉ v.v... nên cả gia đình chẳng có ai lo lắng mấy. Chỉ có mẹ ta, Hiếu Khương Hoàng Thái Hậu tuổi cũng đã khá cao; nên thời gian nghỉ ngơi dành cho bà phải nhiều hơn những người trai trẻ khác.
Cuối cùng rồi đoàn hộ giá cũng đã đến Hoàng Cung. Phải nói là Hoàng Cung. Vì tất cả đều sơn màu vàng; màu vàng tượng trưng cho quyền lực của Vua Chúa. Ngay cả áo ngự Long bào của Vua mặc cũng bằng màu vàng. Ngày xưa màu vàng ấy chỉ dành độc quyền cho Vua và giới Tăng Sĩ; còn người bình dân thì không được mặc đến.
Chung quanh Hoàng Thành có đào hồ, đắp lũy. Bốn phía đều có 4 cửa thành và cửa Ngọ Môn chính giữa quay mặt ra dòng sông Hương thơ mộng vẫn đang âm thầm cuộn chảy, để nước trôi về Vỹ Dạ và xuôi ra biển cả mênh mông. Ôi! đẹp làm sao! Không biết tạo hóa đã sắp đặt từ lâu hay Mụ Bà Linh Thiêng đã báo hiệu từ khi Tổ Tiên ta lập nghiệp?
Hai bên Hoàng Thành có 2 cổ lầu; nơi ấy để trống canh báo hiệu khi Hoàng Đế lâm triều, hay có việc gì của quan quân trọng yếu. Giữa sân là chỗ chầu của các quan từ Cửu Phẩm, Bát Phẩm trở lên Đệ Nhứt Phẩm của Triều Đình. Vào thời ấy Hoàng Huynh ta chưa lập Quốc Sư như thời Lý; nhưng nếu Thiền Sư TổẤn – Mật Hoằng có vào nội cung để giảng pháp trong những ngày tháng tới thì Ngài không phải quỳ trước Vua. Vì đa phần Thái Hậu, Hoàng Hậu, cả ta và Thái Trưởng Công Chúa cũng là đệ tử quy y 5 giới của Ngài và cũng là người thọ Bồ Tát giới tại gia. Vả lại người xuất gia, kể từ thế kỷ thứ 4 bên Trung Quốc do Ngài Huệ Viễn, Tổ Sư của Tịnh Độ Tông đã tấu trình cho Vua thuởấy biết rằng: Người xuất gia không lạy Quân Vương và không lễ bái cha mẹ. Kể từđó đến nay, nước ta vẫn rập theo lệấy.
Ngay như khi ở Thái Lan, ta cũng đã chứng kiến, khi Vua Rama đệ nhất và Hoàng Hậu làm lễ dâng y cho Vua Sãi cũng như y Kathina sau mùa An Cư Kiết Hạ cho chư Tăng tại chùa Hoàng Cung Bangkok, Thái Lan, ta chỉ thấy Vua và Hoàng Hậu quỳ mọp trước tượng Phật và vị Vua Sãi để dâng y lên Ngài. Chứ ngược lại thì ta chưa thấy; nhưng dẫu sao đi nữa Vua cũng là một con người còn đủ cả hỷ, nộ, ái, ố, bi, ai, dục, lạc... Nhưng ta mong rằng những hình ảnh ấy một ngày nào đó sẽ được chứng kiến với Thượng Tọa Thiệt Thành – Liễu Đạt kia. Còn đây là Hòa Thượng TổẤn - Mật Hoằng ít có liên hệ với ta.
Ta quan sát chung quanh Hoàng thành, thấy không biết bao nhiêu là dãy nhà. Có dãy nhà tầng, có dãy nhà trệt. Ta được quan thị vệ hướng dẫn cho biết rằng: Đây là chỗ Vua ngự yến, đây là chỗ Vua uống trà, đây là chỗ Vua ngoạn cảnh, đây là chỗ Vua đọc sách, đây là chỗ Vua tiếp các tân khoa. Còn phần bên trong nầy là nội cung, biệt viện của Vua v.v...
Đúng là Vua, làm Vua cái gì cũng đứng trên thiên hạ. Do vậy mà ai cũng muốn chiếm chiếc Ngai vàng để làm vinh danh cho dòng họ mình cũng như thỏa chí hùng anh. Ở đời ai lại không muốn quyền cao, chức trọng; nhưng quyền ấy như thế nào và chức ấy ra sao mới là điều quan trọng. Đâu phải thấy lợi, người nào cũng ham cả sao?
Rồi ngày mồng một tháng năm năm Nhâm Tuất (1802) cũng đã đến. Tất cả trong ngoài Hoàng Thành được trang trí cờ hiệu của Vua, của nước và đủ loại lồng đèn với nhiều màu sắc thật là sặc sỡ và trang nghiêm. Dường như trong đời, ta chưa gặp lần nào. Kể từ lúc anh ta sinh ra cho đến nay chỉ toàn là chạy loạn. Nay mới có được những ngày thanh bình như vậy thật là hạnh phúc biết bao; nhưng ta còn mong được, nếu có Thượng Tọa Liễu Đạt cùng chứng kiến cảnh nầy với ta thì chắc rằng Thầy ấy cũng vui lây không ít...
Đầu tiên là những tiếng lệnh, rồi tiếng trống chầu ra lệnh cho bá quan văn võ trong sắc phục định sẵn của mình chuẩn bị. Nhiều đội múa lân và múa rồng đã tiến vào sân chầu với bao tiếng hoan hô, vỗ tay cổ vũ. Tiếp đó là múa lục cúng để dâng Vua và Hoàng Hậu cũng như triều đình. Các quan cửu phẩm đến nhất phẩm chúc tụng vạn tuế cho Vua xong, họ được ngồi bên dưới sát bệ rồng để tham dự chương trình Đăng Quang cùng Chúc Thọ.
Hôm ấy Hoàng Huynh ta đĩnh đạt quá. Trên đầu với một cái mão hình cung, trên ấy có chạm nhiều đá quý, vàng, bạc. Mặc Long Bào màu vàng, trên áo có đính cườm bằng con rồng xanh trông rất nổi. Hai chân đi hia cao cổ. Trông Hoàng Huynh ta bệ vệ vô cùng. Khi nào những tiếng trống chầu dứt, luôn luôn có những tiếng hô: Bệ Hạ vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!
Chị dâu ta, Hoàng Hậu Thuận Thiên hôm ấy đúng là một bậc mẫu nghi thiên hạ. Chân đi giày nạm giả ngọc, mình mặc áo Ngự Bào màu thiên thanh; trên áo có đính cườm bằng những con hạc màu trắng. Trông nổi bật lên với nước da vốn đã đẹp của chị. Trên đầu chị đội một Vương miện nạm ngọc trắng, sau khi Đức Vua Gia Long đã chính thức phong cho chị là Thuận Thiên Hoàng Hậu.
Bên cánh tay mặt của Vua là chiếc Ngai khiêm nhường hơn để cho mẹ ta ngồi. Đức Vua đã quỳ xuống, dâng lên Mẹ mình mấy lời Chúc Thọ và chính thức phong cho bà là Hiếu Khương Hoàng Thái Hậu vào ngày hôm ấy. Mẫu thân ta chỉ nói nhỏ mấy lời sau khi nhận quà và lời chúc tụng của Tân Vương.
Riêng Thái Tử hôm nay cũng oai vệ hơn trong bộ đồ mới của Hoàng cung dành cho Thái Tử. Thái Tử Nguyễn Phước Đảm mới có 12 tuổi và đã hiện ra tướng khôi ngô, thông minh, đĩnh đạt. Thái Tử ngồi dưới chân Vua và bên cạnh Hoàng Hậu Thuận Thiên, mẹ đẻ của mình.
Còn ta và những Công Chúa khác cũng được trang điểm, ăn mặc khác thường; nên ai ai cũng vui vẻ hân hoan khó tả. Sau lễ Đăng Quang lên ngôi Hoàng Đế với Đế Hiệu Gia Long năm thứ nhất. Bá quan văn võ triều đình đều được dự một yến tiệc linh đình; nhưng điều đặc biệt hôm đó chỉ toàn là đồ chay. Vì là ngày mồng một. Các quan lại không theo Đạo Phật ít vui hơn; nhưng Hoàng Mẫu của ta có lẽ là người vui nhất. Vì lẽ bà là một Phật Tử thuần thành, không muốn phạm vào giới sát sanh, hại vật. Vả lại để tạo phước đức về sau cho con mình cũng như cả Hoàng Tộc, ăn chay vẫn là điều nên thực hiện trong những ngày Sóc Vọng như vậy.
Nghỉ tại Hoàng Cung được gần nửa tháng thì cả Hoàng Thành đều chuẩn bị để lên chùa Thiên Mụ dự trai đàn cầu siêu cho các chiến sĩ trận vong. Vì nhà vua thương xót các biền binh bị bão chết, trong khi vận tải lương thực bằng đường biển vào năm ngoái đã chết, đồng thời cũng lập đàn tế lễ các chiến sĩ trận vong. Họ là những người đã vì non sông, đất nước nầy mà hy sinh. Có người còn phước, khi chết được toàn thây; nhưng cũng có lắm quân sĩ có tên mà không còn xác khi lâm trận giữa rừng; nhất là khi chống đối với quân Tây Sơn và quân của Trịnh Sâm.
Chủ trì buổi lễ trai đàn bạt độ hôm ấy là Ngài Hòa Thượng Đạo Minh - Phổ Tịnh. Sau nầy mẹ ta Hiếu Khương Hoàng Thái Hậu cử về Trụ Trì chùa Thiên Thọ (sau được gọi là chùa Báo Quốc) ở Kinh đô Huế. Lúc ấy Ngài TổẤn - Mật Hoằng chưa đến Kinh Đô. Hiệp lực tụng kinh cầu nguyện có đông chư Tăng Ni tại kinh thành thuởấy.
Nhìn lên những bài vị được thiết lễở trai đàn nầy, ta thấy không những Linh Vị của những chiến sĩ trận vong mà còn có những Long Vị được bài trí như sau:
1. Phụng vì Chúa Tiên - Nguyễn Hoàng, cát cứ Thuận Quảng (1600-1613)
2. Phụng vì Chúa Sãi - Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635)
1. Phụng vì Chúa Hiền - Nguyễn Phước Tần (1648¬1687)
2. Phụng vì Chúa Nghĩa - Nguyễn Phước Trăn (1687-1691)
3. Phụng vì Minh Vương - Nguyễn Phước Châu (1691-1725) tức Cư sĩ Hưng Long – Thiên Túng Đạo Nhân.
4. Phụng vì Ninh Vương - Nguyễn Phước Trú (1725¬1738) tức Vân Truyền Đạo Nhân.
5. Phụng vì Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738¬1765)
6. Phụng vì Định Vương Nguyễn Phước Thuần (1765-1777)
7. Phụng vì Tân Chính Vương Nguyễn Phước Dưỡng (1777)
Ta cùng Thái Hậu, Hoàng Hậu và Đức Vua cũng như Thái Trưởng Công Chúa và Ngọc Anh Công Chúa đã quỳ thật lâu trước Long Vị của các bậc Tiên Đế để hồi tưởng lại những hành trạng của họ. Nếu không có bước đầu mở nước của Chúa Tiên - Nguyễn Hoàng thì dòng tộc nhà Nguyễn của chúng ta vẫn còn lao đao, lận đận nơi phía Bắc. Nếu không có Mụ Bà mách bảo cho chúa lập Kinh Đô ở nơi nầy thì năm nay Hoàng Huynh của ta cũng chẳng xưng được Đế hiệu là Gia Long như cách đây 2 tuần trước. Quả thật ngôi chùa nầy thật linh thiêng và đã có công giúp dân, giúp nước; cho nên Hoàng Triều phải có bổn phận hộ trì Tam Bảo cũng như chư Tăng đang cư trú tại đây.
Chính giữa là Điện Đại Hùng: gồm chánh đường 3 gian hai chái và tiền đường 5 gian hợp thành một tòa chánh điện rộng lớn.
Phía sau là Điện Di Lặc có 3 gian và phía sau nữa là điện Quan Âm cũng rộng 3 gian.
Trước Điện Đại Hùng, hai bên Đông và Tây mỗi bên có một điện Thập Vương. Trước nữa, mỗi bên có một nhà lôi gia. Ra phía trước nữa là nghi môn
Nghi môn là tòa nhà có gác, có 3 gian, nơi trước 3 cửa, có 6 tượng Kim Cang đắp nổi.
Trước nghi môn, phía bên trái có nhà lục giác để bia của Chúa Nguyễn Phước Châu (1715), phía bên phải có nhà lục giác để Đại Hồng Chung do Chúa Nguyễn Phước Châu (Chu) đúc năm 1710.
Phía sau cùng có Phương Trượng đường và các dãy liêu Đông, Tây của Tăng Chúng cũng như nhà Trù; nơi nấu nướng cung cấp thức ăn hằng ngày cho chư Tăng đang cư trú tại đó.
Phía sau gần mặt nước sông Hương có 8 trụ ngọ môn, xây cao vượt lên trên đường đi, ngay cả bên làng Kim Long và Thọ Xương cũng có thể nhìn thấy được.
Bốn phía xung quanh chùa có xây tường bằng gạch bao bọc, có 8 cửa lớn và nhỏ thông ra ngoài.
Sau khi lễ Phật, lễ Tiên Đế và chứng minh cho đàn tràng cầu siêu vào ngày rằm tháng 5 năm 1802 ấy, cả Hoàng Gia đều được thết đãi cơm chay tại chùa và sau đó cảđoàn tùy tùng đều hồi cung.
Trên đường về lại Nội Cung, Mẹ ta Hiếu Khương Hoàng Thái Hậu đã kể rằng: Sở dĩ chùa nầy gọi là Thiên Mụ hay Linh Mụ nguyên do khi Chúa Tiên từ Nghệ An vào lập quốc tại đây đã được một Mụ Bà mách bảo rằng: Khi nhà Chúa đi hết một tuần hương, ởđó có thể lập được kinh thành. Nơi nằm mộng ấy chính là chùa Linh Mụ mà chúng ta vừa dâng hương, lễ Phật và kinh thành ấy chính là Phú Xuân và nay Hoàng Đế Gia Long đã cho xây thành cung điện như chúng ta đang cư ngụ cả hơn nửa tháng nay.
Các con phải nhớđiều nầy. Dầu sống bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì, cũng không nên quên ơn Phật Pháp. Vì nếu không có Phật Pháp hướng dẫn cho các đời nhà Chúa của chúng ta, thì chúng ta không có được như ngày hôm nay đâu. Ơn ấy nên đền và oán thù nên xả. Nhất là đối với quân Tây Sơn. Dầu sao đi nữa họ cũng chỉ là những con người, muốn có được địa vị cao sang quyền quý như bao nhiêu kẻ khác, muốn Ngai vàng lọt vào tay họ...
Gia Long ngồi nghe Thái Hậu Hiếu Khương nói; có lúc ông gật đầu, mà cũng có lúc ra chiều suy nghĩ.
Quận Chúa.
Bức thứ thứ chín
Gia Định thành, ngày …… tháng ……. năm Gia Long thứ 3 (1804)
Đã hơn hai năm Gia Long thống nhất sơn hà, đặt tên nước là Đại Việt, không còn dùng chữ An Nam hay Đàng Trong hoặc Đàng Ngoài kể từ thế kỷ thứ 17 đến nay hay dùng nữa, mà là một dãy giang sơn gấm vóc từ Bắc chí Nam cả hơn 2.500 cây số. Đây là công lao của Tổ Tiên ta từ thời lập quốc,chứ không riêng gì thời Nguyễn trung hưng nầy.
Không biết đây là cái phước của Dân Tộc ta hay là cái họa. Bởi vì không có một triều đại nào khi mới lên ngôi mà không lo ân đền oán trả. Ví dụ như cuối triều nhà Lý. Vào năm 1225 Lý Chiêu Hoàng đã nhường ngôi cho Trần Cảnh rồi và Lý Huệ Tông, Vua cha của Lý Chiêu Hoàng đã đi xuất gia, để quên bớt sự đời. Ông ta có pháp hiệu là Thiền Sư Huệ Quang. Thế mà khi ông ngồi nhổ cỏ trước cổng chùa, Trần Thủ Độ đi ngang qua nói rằng:
“nhổ cỏ phải nhổ cho tận gốc”.
Ý của Trần Thủ Độ không muốn cho con cháu nhà Lý còn tồn tại trên cõi đời nầy nữa. Ngoài ra ông còn giáng Hoàng hậu mẹ của Lý Chiêu Hoàng xuống làm thứ dân, để ông dễ bề thao túng. Đó là bà Trần Thị Dung, cũng đã xênh xang áo mão một thời.
Đến khi Trần Cảnh lên ngôi (1225) lấy hiệu là Trần Thái Tông. Ông vua nầy sống bao nhiêu năm với Phật Kim Công Chúa, tức Lý Chiêu Hoàng nhưng không có con. Trần Thủ Độ thấy thế mới lấy làm lo, nên ép Trần Thái Tông phải lấy chị dâu của mình, tức vợ của Trần Liễu đang mang thai, để có người hậu duệ về sau nầy. Trần Thái Tông đau lòng quá nên mới bỏ ngôi vào núi Yên Tử để xin Quốc Sư Phù Vân xuất gia học đạo. Nhưng Ngài đã từ chối.
Cùng năm đó Hoàng Tử Lý Long Tường đã chán ngán cảnh dã tâm của Trần Thủ Độ; nên đã giong thuyền ra biển cả cùng với gia nhân họ Lý hơn mấy trăm người, vượt sóng to gió lớn, ghé được đến đảo quốc Đài Loan và một số khác trôi giạt lên bán đảo Triều Tiên. Họ tìm kế sinh nhai và an cư lạc nghiệp tại đó. Mãi cho đến bây giờ họ vẫn chưa có cơ hội trở lại nước nhà.
Còn ta và hoàng gia họ Nguyễn đúng là: “Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn”. Tức là: trời cao không phụ lòng người tốt; cho nên sau bao nhiêu năm nội chiến không thành, Hoàng Huynh ta phải bôn tẩu và trú đóng quân ở Xiêm quốc; nhưng có lẽ nhờ vận nước đẩy đưa và triều đình Nguyễn Huệ quá ngắn ngủi; nên cả gia trung ta mới có cơ hội trở lại quê hương mình để “mài gươm phục quốc”. Đây là ân đức của tiền nhân để lại mà anh ta đã kế tục được sự nghiệp của Tiên Vương qua 200 năm dày công hãn mã. Tuy nhiên nếu Hoàng Huynh ta có những quân sư tài giỏi và đưa chủ quyền của quốc gia lên trên hết, thì phải vâng lời mẫu hậu ta dặn là: ân nên trả, oán nên tha. Nếu lấy oán báo oán thì oán oán sẽ chất chồng; chỉ có lấy ân báo oán, oán ấy mới diệt được. Đó là lời Phật dạy, không biết rằng Hoàng Huynh ta có thực hiện được không?
Bẵng đi một thời gian, ta được tin Hoàng Huynh ta, ban thưởng cho những công thần đã có công với nước. Ban thưởng tiền tài, phẩm ngạch cho những người đã vì Chúa quên mình, trong đó có việc ban ân sắc tứ cho hai chùa Từ Ân và chùa Khải Tường ở Gia Định; nơi mà cả triều đình thu hẹp đã cậy nhờởđó từ nhiều năm nay và đồng thời cũng có ban Giới đao, Độ điệp và tấn phong Tăng Cang cho Ngài TổẤn - Mật Hoằng đang trụ trì chùa Đại Giác ở Biên Hòa ra làm Trụ Trì chùa Linh Mụ và giảng pháp cho nội cung.
Nhưng ta nghe tin chẳng lành là Hoàng Huynh ta đã cho đào mả của Quang Trung và Nguyễn Nhạc cho lính đi tiểu vào sọ người anh hùng một thuởấy. Ngoài ra ta còn nghe rằng Hoàng Huynh ta đã ra lệnh đem giết hết bề tôi của Nguyễn Huệ. Nếu quả thật đây là những tin tức đáng tin cậy thì Thái Hậu Hiếu Khương sẽđau buồn biết mấy và Hoàng Hậu Thuận Thiên, người đầu ấp tay gối với Hoàng Huynh của ta sẽ nghĩ như thế nào về tình người và nhân luân đạo lý nầy?
Còn ta, ta nghĩ rằng: Nếu Hoàng Huynh ta thực hiện như vậy thì đâu có khác gì Quân Sư Trần Thủ Độ đời nhà Trần. Ông ta cũng là nhà mưu lược và Cố vấn cho vua Trần Thái Tông; nhưng đồng thời ông ta cũng để lại một vết nhơ trong lịch sử nước nhà là chiếm vợ của vua làm vợ mình, bắt ép Trần Thái Tông làm chuyện thương luân bại lý. Không lẽ sau bao nhiêu năm chịu gian khổ với quê hương đất nước nầy để chiếm được Ngai vàng và rồi Hoàng Huynh ta cũng cư xử như thế sao? Điều nầy có phải do Phụ Thân ta vì mất quá sớm và Hoàng Huynh ta chỉ say men với súng đạn và quên đi tình người chăng? Lẽ ra mẹ ta tin Phật như thế, phải hướng dẫn anh ta trong lúc còn thơ, chứ bây giờ Ngai vàng đã nắm trong tay, có quyền sinh sát và ban ơn giáng họa cho mọi người thì ai có thể khuyên cản nổi. Ngoài ra một lũ nịnh thần cũng như các quan Thái Giám cũng đang kề cận nhà vua. Điều hay ít tâu mà chỉ tấu trình những điều nhàm gở, nhằm đánh thức cái ngã của một bậc nhân chủ và lôi họ vào con đường tự diệt. Dĩ nhiên là cũng có những tôi trung, hiền thần; nhưng người xưa thường nói: “Lời thật không thấu đến chín bệ” quả thật không sai trong trường hợp nầy.
Chỉ còn một mình mẹ ta, Hiếu Khương Hoàng Thái Hậu là có thể khuyên tân vương mà thôi. Nhưng bà trong hiện tại lại quá bận, đang lo chỉ huy cho nô tỳ, cung nữ thâu dọn y trang cũng như lo tu bổ lại những nơi hư hại của hai chùa Từ Ân và Khải Tường để ngày Thượng Kinh vào năm tới không phải lo toan nữa. Bà cũng lo đi dâng hương lễ Phật các chùa gần đó, nhằm cảm tạ thâm ân Trời Phật đã độ trì cho cả gia đình ta tai qua nạn khỏi, mới có được ngày hôm nay.
Chuyện ngoài Kinh cũng đã lọt vào tai Mẫu hậu, bà có đem chuyện nầy bàn với Thượng Tọa Thiệt Thành - Liễu Đạt nhân ngày rằm nọở chùa Khải Tường nầy; nhưng ta chưa biết thực hư ra sao. Dầu sao đi nữa thì ta cũng phải lo chuẩn bị phần mình trước khi lên đường ra Huế.
Quận Chúa.
Bức thư thứ mười
Gia Định thành, ngày …… tháng …… năm 1805 (Gia Long năm thứ 4)
Năm nầy là năm bận rộn nhất của nội cung triều Nguyễn. Vì lẽ Hoàng cung đã xây xong từ năm 1802 và tất cả những nhà phụ trong cung nội đều hoàn tất. Cho nên Vua Gia Long mới truyền lệnh cho tất cả cung nhơn phải di chuyển về Huế và lo tu bổ lại chùa Từ Ân cũng như chùa Khải Tường, giao trả lại cho Thiền Sư Thiệt Thành - Liễu Đạt.
Nội chừng ấy việc thôi, mọi người cũng đã phải lo toan không biết bao nhiêu chuyện. Những nô tỳ phải tất bật nhất; nào phải lo cơm nước, giặt giũ quần áo cho những bà Hoàng, rồi còn phải sắp xếp những hành trang ấy vào những rương kéo nữa. Ngoài ra còn phải phụ giúp những người làm công việc khác dọn dẹp sơn phết mới lại những ngôi nhà đã ở lâu nay. Kể từ năm 1789 đến 1805 là hơn 16 năm trường. Đây cũng là cơ hội nên tu bổ lại cho chùa để có bộ mặt mới. Trước khi lên đường ra Kinh, Thiền Sư Liễu Đạt không trực tiếp gặp ta, mà nhờ Thái Trưởng Công Chúa Long Thành là chị ruột ta khi về kinh đô rồi, cố gắng giúp đỡ trùng tu chùa Quốc Ân. Vì nơi đó Tổ Sư Nguyên Thiều đã xây dựng nên.
Thư viết rằng:
Kính gởi: Thái Trưởng Công Chúa Long Thành.
Đường xa vạn dặm mới đến được Kinh Đô và ngày khởi hành về Kinh chắc cũng sắp đến. Nay có mấy việc bần Tăng xin kính nhờ Công Chúa hoan hỷ lưu tâm. Trong đó có vấn đề trùng tu chùa Quốc Ân là quan trọng thứ nhất vậy. Đây là di tích đầu tiên Tổ Sư Nguyên Thiều khai sơn và đặt chân đến Phú Xuân vào năm 1683.
Tổ Sư Nguyên Thiều húy là Siêu Bạch, hiệu là Hoán Bích hay Hòa Thượng Thọ Tông, Ngài họ Tạ, quê ở huyện Trình Hương, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Sanh vào giờ Tuất, ngày 18 tháng 5 năm Mậu Tý; nhằm vào 19 giờ đến 21 giờ ngày 8 tháng 7 năm 1648 và viên tịch vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (20.11.1728) thuộc phái Thiền Lâm Tế, thế hệ thứ
33.
Năm Đinh Tỵ (1677) vào thời Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687) Thiền Sư Nguyên Thiều theo thuyền từ Trung Quốc đến phủ Qui Ninh (Qui Nhơn) lập chùa Thập Tháp Di Đà để hoằng dương Phật Pháp. Khoảng thời gian từ 1677-1683 Tổ Sư Nguyên Thiều thỉnh thoảng vân du hoằng hóa từ Qui Nhơn ra Thuận Hóa, ghé viếng Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) và vùng núi cửa biển Tư Dung.
Sở dĩ Thiền Sư không ra Thuận Hóa trước. Vì lẽ lúc ấy đang có ngài Minh Châu Hương Hải Thiền Sư thuộc Thiền Phái Trúc Lâm của vua Trần Nhân Tông đang hoạt động có ảnh hưởng mạnh với các Chúa Nguyễn. Chúa Hiền cùng một số triều thần của Chúa Nguyễn đều thọ giáo với Thiền Sư Minh Châu – Hương Hải. Nhưng sau vì bị một số người ganh tị gièm pha, Thiền Sư Hương Hải bị nghi là liên hệ với Gia Quận Công âm mưu trốn ra Đàng Ngoài theo Chúa Trịnh, nên Ngài bị Chúa Hiền bắt giam. Nhưng không có bằng chứng kết tội; nên Thiền Sư Hương Hải được thả ra. Tuy nhiên Chúa bắt phải vào Quảng Nam hoằng hóa. Ngài đã lập am tranh tại cù lao Phốở cửa Đại, Hội An để tu niệm và đặt tên cho thảo am nầy là Bảo Tạng. Ngài ởđó cho đến tháng 3 năm Nhâm Tuất (1682) dẫn 50 đệ tử dùng thuyền trốn ra Đàng Ngoài; đem theo nhiều kinh sách, tượng Phật và pháp khí.
Khi Thiền Sư Hương Hải đi rồi, kinh đô Phú Xuân như thiếu vắng các vị Thiền Sư đạo cao đức trọng; nên Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần mới cung thỉnh Thiền Sư Nguyên Thiều từ Qui Nhơn ra Thuận Hóa và dừng tích trượng ở xã Hà Trung thuộc vùng cửa biển Tư Dung, huyện Phú Lộc, Trấn Thuận Hóa (Thừa Thiên) lập chùa Phổ Thành, sau được gọi là chùa Hà Trung và đổi thành Vĩnh Ân. Cuối cùng là chùa Quốc Ân.
Vì sự kiện trên nên Chúa Hiền nghi rằng Thiền Phái Trúc Lâm theo Chúa Trịnh, Đàng Ngoài chống lại Chúa Nguyễn, Đàng Trong; nên buộc lòng Chúa Nguyễn phải nhờ Tổ Sư Nguyên Thiều của phái Thiền Lâm Tế ra Thuận Hóa lập chùa là lý do vậy. (Trích Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức, trang 126-128).
Từ năm 1683 đến 1805 hơn 100 năm ấy chắc chắn đã có bao lần trùng tu rồi; nhưng xét ra bần Tăng nầy có liên quan mật thiết với Thiền Phái Lâm Tế của Ngài Nguyên Thiều. Vì lẽ bần Tăng là đệ tử của Ngài Hòa Thượng Minh Vật - Nhứt Trí (? – 1786) đời thứ 34 và Ngài là đệ tử của Tô Sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch; kế thế trụ trì chùa Kim Cang ở Đồng Nai.
Ta khi trưởng thành, Thầy ta cho qua học đạo và y chỉ với Ngài Linh Nhạc - Phật Ý là đệ tử của Ngài Hòa Thượng Thành Đẳng – Minh Lượng (1686-1769) cũng y chỉ với Tổ Nguyên Thiều – Siêu Bạch ở chùa Hà Trung. Ngài Minh Lượng cũng người Trung Hoa di cư sang Đàng Trong cùng thời với Ngài Nguyên Thiều – Siêu Bạch; Ngài Minh Lượng lập nhà làm ăn sinh sống ở vùng đất Cây Cau tại đô thị Hội An, thuộc dinh Quảng Nam. Sau đó Ngài lập am tranh tu hành, lấy tên là Vạn Đức. Tiếp theo Ngài vào Đồng Nai Biên Hòa lập nên chùa Đại Giác và sau nầy truyền xuống cho Thầy y chỉ của bần Tăng là Hòa Thượng Thiền Sư Phật Ý – Linh Nhạc. Ngài Linh Nhạc - Phật Ý khai sơn chùa Từ Ân và chùa Khải Tường; nơi bần Tăng đang trụ trì. Tuy bần Tăng không phải là đệ tử quy y, thọ giới với Ngài Linh Nhạc, nhưng Ngài thương và lo lắng cho bần Tăng như đệ tử ruột của mình.
Tổ Sư Nguyên Thiều trở về Trung Quốc vào khoảng năm 1687-1691, thời Chúa Nguyễn cai trịởĐàng Trong. Tổ Sưđã mời được một số cao tăng qua Đàng Trong để lập đàn truyền giới cho chư Tăng cũng như cho các Chúa Nguyễn. Tổ Sư cũng đã gặp Hòa Thượng Thạch Liêm, một danh tăng phái Tào Động, hai vịđã từng là bạn đạo và có thời ở chung với nhau trong một chùa khi Tổ Nguyên Thiều còn ở Trung Quốc (1666-1677). Tổ Nguyên Thiều về Trung Quốc rước ít nhất là phải đủ tam sư thất chứng; tức là 10 vị trong một Đại Giới Đàn. Đàn Đầu Hòa Thượng, Yết Ma, Giáo Thọ A Xà Lê và 7 vị Tôn chứng sư. Đó là chưa kể những vị Dẫn Thỉnh, Duy Na, Duyệt Chúng ít nhất cũng trên dưới 20 vị.
Sau đó thì Chúa Nguyễn Phước Châu, tuy rất sùng mộ Đạo Phật; nhưng không tin tưởng người Hoa Kiều nữa. Vì có cuộc nổi loạn của A-Ban ở Bình Thuận; nên cử Ngài Nguyên Thiều ra trụ trì ở chùa Hà Trung và bắt đầu trọng dụng Thiền Sư Hưng Liên - Quả Hoằng thuộc Thiền Phái Tào Động. Vì Quốc Chúa trọng dụng Thiền Sư Hưng Liên - Quả Hoằng nên Chúa đã cử người sang Trung Hoa để thỉnh Hòa Thượng Thạch Liêm sang Đàng Trong để truyền giới. Ngày rằm tháng giêng năm Ất Hợi (1695) Hòa Thượng Thạch Liêm đã cùng với mấy chục Tăng Sĩ đến được Hội An bằng thuyền. Sau đó cả phái đoàn đã đến Phú Xuân và từ ngày mùng một đến ngày mùng tám tháng 4 năm Ất Hợi (1695) Đàn giới Tỳ Kheo và Bồ Tát đã mởở chùa Thiền Lâm có 1.400 giới tử và nhiều người trong Hoàng Tộc thọ giới.
Bởi vì giới đàn nầy do Hòa Thượng Thạch Liêm làm Đàn Đầu Hòa Thượng truyền trao quy giới. Cho nên đa số các giới tử đều thuộc về Tào Động Tông. Trước đó Hòa Thượng Thạch Liêm đã cùng với Quốc Chúa soạn ra lời cáo bạch (có lẽ vì lý do chính trị thuởấy) có ý chê trách phái Thiền Lâm Tế của Tổ Sư Nguyên Thiều đã truyền giới trước đó.
Tuy nhiên, dẫu sao đi nữa sau khi 2 phái đoàn đã rời khỏi Phú Xuân và Hội An rồi, thì một số chư tôn chứng sư còn ở lại với Phật Giáo Việt Nam gồm những Ngài như sau:
. Thiền Sư Giác Phong khai sơn chùa Hàm Long (tức chùa Báo Quốc ngày nay) ở Phú Xuân.
. Thiền Sư Từ Lâm khai sơn chùa Từ Lâm ở Phú Xuân.
. Thiền Sư Minh Hoằng - Tử Dung khai sơn chùa Ấn Tông (nay là chùa TừĐàm) ở Phú Xuân.
. Thiền Sư Minh Hải – Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh ở Hội An, Quảng Nam.
. Thiền Sư Hưng Liên - Quả Hoằng trụ trì chùa Tam Thai trên núi Ngũ Hành Sơn (Quảng Nam) và một số Thiền Sư thuộc phái Tào Động Tông.
Sở dĩ bần Tăng đã nêu lên 3 sự kiện của lịch sử bên trên là vì mong muốn cho Công Chúa rõ biết hết sự tình những việc có liên quan đến lịch sử trước đây 100 năm vậy. Khi Chúa Nguyễn trọng dụng Thiền Sư Minh Châu – Hương Hải thì phái thiền Trúc Lâm có chân đứng vững mạnh nơi chốn Kinh kỳ. Sau đó bị nghi ngờ theo Chúa Trịnh Đàng Ngoài; nên Thiền Sư phải vào Quảng Nam để ẩn tu, rồi tìm đường ra lại xứĐàng Ngoài. Đến khi Tổ Sư Nguyên Thiều được trọng dụng ở Kinh Đô thì chùa Thập Tháp Di Đà ở Bình Định mới được phép làm lễ Lạc Thành to lớn trong mấy ngày, có cả các quan của triều đình tham dự.
Rồi bước chân hoằng hóa của Tổ Sư có mặt tại chùa Quốc Ân năm 1683 thì ảnh hưởng của Thiền Phái Lâm Tế rất vững vàng tại Thuận Hóa; nhưng sau đó bị Chúa Hiền nghi ngờ thì Thiền Sư Nguyên Thiều phải vào Đồng Nai tỵ nạn và để trám vào chỗ trống vắng ấy Chúa Nguyễn Phước Chu tôn Thạch Liêm Hòa Thượng lên làm Thầy của mình, cũng như tái lập phái Thiền Tào Động trở lại. Như vậy lịch sử chỉ trải qua có một thời gian ngắn, mà chúng ta có thể thấy rõ được sự sinh hoạt của Phật Giáo lúc bấy giờ tại Kinh thành Phú Xuân là Trúc Lâm đi, Tào Động đến; Tào Động đi, Lâm Tế đến; khi Lâm tế không còn trọng dụng nữa thì Tào Động lại ngự chiếm địa vị độc tôn; nhưng như bây giờ Công Chúa thấy đó cả 100 năm nay Tào Động không phát triển mạnh tại Đàng Trong được nữa, có lẽ vì Thạch Liêm Hòa Thượng đã về lại Trung Hoa và chỉ còn Thiền Lâm Tế phát triển, mà ngôi chùa Quốc Ân rất xứng đáng với vị trí là TổĐình; nơi Tổ Sư Nguyên Thiều khai sơn phá thạch ra.
Khi được các Chúa trọng vọng có lẽ các Thiền Sư cũng chẳng huênh hoang tự đắc. Vì lẽ các Ngài đã rõ chuyện Sắc, Không của cuộc đời và nhân thế. Đến khi bị thất thế, bị gièm pha, nghi kỵ ... có lẽ các Ngài cũng không buồn. Vì xưa nay cuộc đời vẫn phù sanh mộng ảo như vậy rồi. Chỉ có một điều mà bần Tăng muốn thưa trình với Thái Trưởng Công Chúa ởđây là: Dẫu cho triều đại nào đi nữa, đường lối chính trị có thay đổi thế nào chăng nữa, thì ngôi chùa vẫn là ngôi chùa; nơi ấy che chở cả hồn dân tộc; chứ không hẳn chỉ để phù trì cho một triều đại mà thôi. Nhờ thế mà qua bao nhiêu sự hưng vong của lịch sử và sự thay đổi của nhiều chính thể, nhiều triều đại, ngôi chùa vẫn cao vút và vượt thẳng lên hơn chín tầng mây, không bị lệ thuộc bởi một ý niệm thiển cận nào chi phối cả.
Với bức thư nầy bần Tăng xin gởi hết tấm lòng của mình đến Công Chúa và mong rằng Công Chúa hãy trân quý hình ảnh của Tổ Sư Nguyên Thiều vào buổi bình minh của Phật Giáo xứĐàng Trong mà cố gắng hỗ trợ cho việc trùng tu chùa Quốc Ân sau khi Hoàng Đế Gia Long đã khánh thành Thiên Mụ tự.
Kính nguyện - bần Tăng Thiệt Thành - Liễu Đạt
Trụ trì chùa Từ Ân và Khải Tường nhị tự
Sau khi Thái Trưởng Công Chúa cho ta biết rõ hết sự tình, ta cũng tự nguyện dâng cúng vào đó 100 quan tiền, phụ lực với chị ta. Vì chịđã cúng vào đó 300 quan rồi. Số tiền ấy tuy lớn đó; nhưng vị trí của Tổ Sư Nguyên Thiều ở chốn Thần Kinh vẫn lớn hơn; nên ta phải cố gắng đóng góp vào.
Khi nghe Công Chúa Thái Trưởng Long Thành đọc xong lá thư nhắn gởi của Thượng Tọa Liễu Đạt, ta lại càng yêu mến Thầy nầy hơn nữa. Vì người đâu mà biết lo xa như vậy. Vả lại Thầy ấy rất làu thông kinh sử. Nếu không như vậy thì làm sao dẫn giải được những sự kiện tỉ mỉ và đối chiếu tuyệt vời như vậy. Giá mà lá thưấy gởi cho ta thì chắc rằng ta sẽ hỗ trợ nhiều hơn nữa...
Suy nghĩ vẩn vơ như thế rồi, ta tự thấy thẹn lòng. Bởi vì dẫu sao đi nữa Mẫu Hoàng ta vẫn còn đó và Công Chúa Thái Trưởng là chị ruột của ta, ta không thể qua mặt được. Nếu chỉ vì một chút tình riêng mà ngô nghê như vậy thì sẽ làm cho cảđám cung nữ cười rộ bây giờ. Ta không biết rằng trong đám cung nhơn ấy có ai biết rằng ta yêu thầm, trộm nhớ Thượng Tọa Thiệt Thành - Liễu Đạt chưa? Nếu họ biết thì sao nhỉ? Riêng mẫu hậu ta và chị ta đã rõ đầu đuôi câu chuyện; nên họ có vẻ gườm ta nhiều lần, khi ta có dịp tiếp xúc với Thầy ấy.
Ta chỉ mong sao cho Thầy Thiệt Thành - Liễu Đạt được làm Tăng Cang chùa Thiên Mụ và giảng dạy Phật Pháp trong hoàng cung; chứ không phải là Ngài TổẤn -Mật Hoằng như Hoàng Huynh của ta đã phong chức Tăng Cang cho Thầy ấy từ năm rồi. Bây giờ mọi việc phải chuẩn bị để chuyến hồi cung được tốt đẹp hơn.
Quận Chúa.
Bức thư thứ 11
Huế ngày …… tháng …… năm 1815 (Gia Long thứ 14)
Sau những năm chinh chiến điêu linh dân tình khốn khổ, lại thêm nạn nô dịch xây thành đắp lũy, dân chúng tại kinh thành Phú Xuân nói riêng và các nơi khác nói chung vẫn còn nghèo nàn lắm. Vì vậy cho nên Hiếu Khương Hoàng Thái Hậu mẹ ta, Thuận Thiên Hoàng Hậu chị dâu ta, Thái Trưởng Công Chúa và ta hay đưa ra những ý kiến với Hoàng Huynh ta là ngoài việc cầu nguyện làm lễ trai đàn cầu siêu cho những người đã chết; chúng ta nên đem gạo trong kho ra chẩn bần cho dân chúng. Vì có rất nhiều người nghèo phải cần đến sự giúp đỡ ấy. Cuối cùng rồi Hoàng Huynh ta cũng đồng ý và thường cử một số quan lại trực tiếp trông coi việc phát chẩn nầy cũng nhưđem theo một số trai tráng lực lưỡng để khuân vác những vật liệu nặng từ dưới thuyền lên bờ.
Giao thông lúc bấy giờ tiện nhất là đường thủy, cho nên Hoàng Đế đương triều đã cho thuyền đậu tại bến sông Hương, cho đem đồ cứu trợấy xuống và chờ cho có gió, giong buồm ra cửa Thuận An để xuôi Nam. Nếu đi đường bộ sẽ gặp nhiều thảo khấu và hổ, báo, heo rừng rất nguy hiểm. Vả lạ đường qua đèo Hải Vân ở vào đầu thế kỷ thứ 19 còn rất hoang sơ; không có một lực lượng nào có thể bảo toàn tánh mạng và lương thực cho một đoàn xa giá như thế để đi qua nơi đây cả. Cho nên giải pháp đi bằng thuyền là tiện nhất.
Thế rồi một ngày đẹp trời của mùa Xuân năm 1815 chúng ta đã xuống thuyền. Lộ trình là xuôi Nam vào Đà Nẵng, Non Nước, Hội An, Quảng Ngãi, Bình Định v.v... Nếu còn có thời gian và sức khỏe thì sẽ còn tiếp tục những chặng đường kế tiếp theo sau đó.
Sau mấy ngày phát chẩn tại cửa Hàn, đoàn thuyền của ta lại tiếp tục lên đường để đi viếng cảnh chùa Tam Thai và chùa Linh Ứng nằm trên núi Ngũ Hành Sơn gần biển. Đây cũng là một điều lạ của xứ sởĐàng Trong. Tự dưng gần biển khơi và ở giữa đồng bằng lại mọc lên 5 hòn núi. Người đời gọi là Ngũ Hành Sơn hay 5 ngọn gồm: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Ngọn nào cũng rất cao, có ý như thử thách với thiên nhiên cùng tuế nguyệt.
Tương truyền rằng ngày xưa Phật Bà Quan Âm đã dùng 5 ngón tay để chận Tề Thiên nơi nầy và sau đó Tề Thiên phát nguyện tiếp tục hộ trì Ngài Huyền Trang đi Thiên Trúc để thỉnh kinh thì Phật Bà đã dở bàn tay đã úp lên đầu Tề Thiên; tự nhiên nơi ấy hóa ra 5 hòn núi nầy.
Đó là giả thuyết và huyền thoại. Giả thuyết tức là nói một cách giả định. Còn huyền thoại tức là những câu chuyện kể về nghĩa đen. Dĩ nhiên là trên đường thỉnh kinh từ Trường An đến Ấn Độ thời Nhà Đường (thế kỷ thứ 7 đến thứ 9), Ngài Huyền Trang đi bộ qua hơn 100 nước; nhưng không có nước An Nam của chúng ta. Ngoài ra núi nầy có lẽ cũng đã hiện diện nơi nầy ít nhất là cũng 10.000 năm hay hơn nữa. Đất, núi, cát, biển đã trải qua những giai đoạn động đất lâu đời, mới tạo thành một cảnh thiên nhiên đẹp đẽ như thế. Vả lại từ thế kỷ thứ 10 trởđi, sau khi Ngô Quyền xưng vương (939) thì đất nầy vẫn còn thuộc đất Chiêm Thành, mà Chiêm Thành đa phần theo Ấn Độ Giáo, mà Ấn Độ Giáo thì có rất nhiều thần thoại. Mãi cho đến thế kỷ thứ 14 (1304) sau khi Vua Trần Nhân Tông từ bỏ Ngai vàng để đi xuất gia (1296) thì Huyền Trân Công Chúa mới về làm dâu xứ Chiêm Thành. Chế Mân dâng 2 Châu Ô và Châu Lý để làm sính lễ. Nếu không có Huyền Trân Công Chúa thì sẽ không có Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Nam ngày nay.
Chùa Tam Thai ở trên núi Tam Thai, phía Tây dãy Ngũ Hành Sơn, gần cửa biển Hội An (Dinh Quảng Nam); Thiền Sư Hưng Liên - Quả Hoằng (đệ tử của Hòa Thượng Thạch Liêm trụ trì chùa nầy đã trùng tu và kiến thiết thêm thành ngôi danh lam tráng lệ với nhiều thạch động đẹp. Hòa Thượng Thạch Liêm tả cảnh chùa Tam Thai như sau:
Thuyền vào đến cửa Hội An, viên Giám quan chỉ tay bảo rằng: “Đấy là núi Tam Thai, ngôi chùa trong ấy tức là Đạo Tràng của Quốc Sư Quả Hoằng. Núi ấy có nhiều động đá như cửa ngõ, như cửa sổ, làm đường hang, làm nhà, làm phòng, như hình chuồng bồ câu... hết thảy đều lung linh khoáng đãng, nằm ngồi được, ngồi gảy đàn, ngâm thơ được... mỗi lúc nói lên, có tiếng vang đáp họa lại (...).
Bỗng chốc đã thấy núi Tam Thai trước mắt, ngàn đồi quanh co đều là gò đất, chỉ có núi đá Tam Thai đứng cao chất ngất, hai ngọn núi lớn quay mặt ra biển, ngọn phía sau nhỏ hơn. Trên núi, có nhiều cây lớn hai ba vòng ôm, mọc từ trong hốc đá. Đi quanh theo mé núi, thấy đá có tảng đứng thẳng lên, có tảng trút ngược thòng xuống, có chỗ sâu lõm vào thành hang động, có chỗ dựng đứng như bức tượng đá, nhưng vẫn chưa thấy chùa đâu. Mới trông qua, tưởng đâu chỉ là núi thô sơ, chẳng có gì là kỳ thú.
Chúng tôi đi cách núi chừng non nửa dặm, thấy một Thầy Tăng đứng nhìn chăm chú, rồi chạy vội chui vào kẽ đá trong núi đi mất.
Trước núi có một ngọn đồi, trèo lên chừng trăm thước có ngôi chùa cổ, Sư trong chùa đánh chuông trống, mặc áo tràng ra rước vào lễ Phật. Vừa ngồi, đã thết đãi trà, cung đối tươm tất (...).
Núi ở phía trái chùa, quanh núi đều là cát trắng mịn, gò cao, đống thấp, gió thổi mặt cát gợn thành dợn sóng. Mặt trời rọi vào rêu đá, nơi đỏ, nơi đen. Trông ra bốn phía, núi cao chất ngất, chẳng có lối leo lên. Bỗng thấy giữa 2 vách đá có một đường hẻm, có những tảng đá trắng giống như ghế ngồi, trên đỉnh núi thường có nước rỉ xuống; nghỉ mát ở dưới, như ngồi trong đường hầm, gió mát lạnh, khiến người gối đá nằm chơi thiu thỉu buồn ngủ. Trèo lên hết hẻm đá, một vùng rộng rãi bằng phẳng, cây cối um tùm. Một ngôi đền cổ cất dựa vách đá không cao lắm, nhưng kiên cố, có thể chịu đựng lâu dài.
Đền do Quốc Sư Hóa Vương xây dựng trước đây vậy. Ra phía trước đền, một lối đi qua phía mặt, đến cuối đường rẽ qua phía trái, có hai bờ đất rất cao; cây cối dây leo chằng chịt. Cửa động tối mò, bước vào từng bậc thềm thấy sáng dần lên. Vào hết các bậc thềm thấy mặt trời sáng trưng, từ kẽ hở trên động dọi xuống. Động tròn lại bằng phẳng, có thể chứa hàng ngàn người. Phía trên có mấy khe hở, cành lá giao bóng chập chùng, khỉ vượn bò leo ở trên, cúi xuống dòm người, nạt đuổi cũng không chạy. Tăng nhân ởđây bảo rằng: Người ởđây ít, chúng đông từng bầy nên khinh lờn, không sợ vậy.
Có một dây mây già từ trên kẽđá thòng xuống tận đất, hình tròn bằng miệng chén, dài cả trăm thước, thẳng như dây cung, người Nhựt Bổn từng trả ngàn vàng đòi mua; nhưng không bán. Ta bình sinh du lịch khe động rất nhiều, thấy động nầy đẹp và thanh tịnh hơn hết, tiếc vì bố trí các tượng Phật, tượng Thần, tướng mạo ác tục, làm giảm giá trị của động rất nhiều.
Đến sườn núi có hai tảng đá dựng đứng như trụ cửa, đứng trong cửa nhìn ra, biển cả mênh mông, gió lùa vào rất mạnh, đứng giữa cửa mà muốn ngã cả người. Quanh co chuyển qua phía tay mặt, nơi an trú của Tăng Ni, lối quanh co u tịch, hoa rơi lất phất, đàn ong bay vù vù, đua nhau hút nhụy”.
Hòa Thượng Thạch Liên định đặt tên núi là “Hải Dũng Phong” và tên động là “Hoa Nghiêm Động”, khắc chữ và thơ vào đá; nhưng vì phải đi vào Hội An gấp, nên chưa thực hiện được.
Khi trên thuyền rời khỏi chùa, Hòa Thượng Thạch Liêm sáng tác bài thơ sau:
Bài trường ca viếng núi Tam Thai:
Rày ngọn gió Tây Nam đã thổi,
Ruổi hồng thuyền ra lối Hà Trung.
Đa tình chi mấy chúa công,
Bồi hồi chưa nỡ dứt lòng phân ly.
Bên cửa biển sơn kỳ thủy tú,
Cùng dạo xem cảnh thú khuê phong.
Thuyền về chỉ nẻo Việt Đông,
Nhìn theo đưa mắt muôn trùng xa xa.
Trên chóp núi “Vĩnh Hòa” sơn tự,
Cây xanh um mây tứ phía bao (...)
Có Tam Thai hùng vĩ danh sơn,
Thiếu chi tài tử văn nhơn,
Rượu tiên vui thuốc, thơ thần ca ngâm, (...)
Nay ta đặt Hoa Nghiêm tên động.
Đoản trường thiên “Hải Dũng” bia minh.
Tạc ghi nhơn sự sơn linh,
Tháng ngày mãi mãi để dành về sau.
Mộc Lan Tử, đồng du Cư Sĩ,
Thạch Hán Ông Lưu ký đôi lời,
Nam Bang để tiếng muôn đời.
Bài thơ vịnh Tam Thai
I. Nam minh một vũng dựng phan mây Chất ngất từng không khí biển xây
Quét sạch mưa mù lên bảo điện
Tỏa ra ánh sáng chiếu linh đài
Hoa rừng đưa khách, đường thông một
Khe núi chia dòng nước rẽ hai
Sơn thủy đuổi nhau, rồng nép bóng
Khói mây cửa động nửa phên gài
II. Sấm vang gió thét, sóng ào ào Đàn vượn bên khe, thót nhảy cao Mắt ngắm biển khơi xanh thăm thẳm Chân giày giậm cát trắng phau phau Dây mây ngàn trượng xuyên hang đá Nhũ xanh muôn nụ rũ động đào Cát nóng giữa truông, ngồi ngơi nghỉ Hơi thu nhuốm lạnh, lòng nao nao.
Ngoài ra Ngài Thạch Liêm cũng đã ghé thăm chùa Di Đà tại Hội An nữa. Đây là nơi khách thập phương đi đường biển qua lại giữa ngoại quốc (Trung Hoa, Nhật Bản...) và Đàng Trong đều nghỉ lại tại đây. Vì Hội An là một hải cảng buôn bán thịnh đạt; nơi tập họp của các thương gia ngoại quốc. Thẳng bờ sông, một con đường dài ba bốn dặm, gọi là đường cái lớn. Hai bên đường cái phố liền nhau khít rịt. Các chủ phố nầy phần đông là người Phúc Kiến, vẫn ăn mặc theo triều đại nhà Minh (dân nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh, sang thần phục Chúa Nguyễn vào năm 1644 khi nhà Thanh lật đổ nhà Minh tại Trung Quốc). Cuối đường là cầu Nhật Bản, tức Cẩm Phố. Bờ bên kia sông là Trà Nhiêu; nơi bến đậu của các tàu ngoại quốc, dân chúng đông đúc, cá tôm rau quả tập họp mua bán suốt ngày. Thuốc Bắc hay các món hàng ngoại quốc khác tìm mua ở Thuận Hóa không có thì phải vào Hội An mua mới có.
Hội An có 3 hướng Đông, Nam, Bắc đều giáp biển, chỉ có phía Tây là đường núi liên tiếp, thông Đô Thành Phú Xuân, Đông Kinh (Thăng Long) và vào Gia Định. Vì vậy cách phía Tây Hội An chừng 10 dặm có đặt một Dinh Phủ của Quan Trấn Thủ để phòng ngự.
Chùa Di Đà ở Hội An không biết xây dựng từ hồi nào, đến cuối thế kỷ thứ 17 (khoảng 1695) chùa đã bị hư cũ, Quốc Sư Quả Hoằng – Hưng Liên nhờ Hòa Thượng Thạch Liêm viết cho bài sớ để kêu gọi Phật Tử quyên góp trùng tu chùa Di Đà như sau:
Duy tâm Tịnh Độ, khắp xứ hiện hành,
Tự tánh Di Đà há hiểu đầy đủ.
Vô vi ắt nhờ hữu vi mới tỏ,
Chơn đế phải nương thế đế mới thành.
Lấp đá vá trời, khen Nữ Oa tài giỏi, Đem vàng cúng Phật,
Suy tôn Trưởng Giả thần thông. Kỳ công toàn cậy sức người làm, Việc thiện há khoanh tay ngồi ngó.
Nay nhân chùa Phật,
Dựng từ triều Đường. Chùa ở Hội An, thông nẻo tám châu ba quận. Tăng đến Đại Việt, trên đường biển qua lại như
mây.
Cửa tiếp vẫn mở ra,
Nơi am thiền ởđó. Phía Đông nhìn ra biển, minh hà liền Bột hải thần lâu.
Mười dặm cách phía Nam, hoa thảo nhuốm Chiêm Thành xuân sắc. Pha trà ngồi uống ngắm Ngải sơn, tha hồ Cao sĩ ngâm nga. Hái sen quanh Sa Chiểu dạo chơi, mặc sức Danh
hiền hội họp. Hải hồ ngừng bước, Phàm thánh ở chung.
Đạo Tràng mở tự ngày nào, Nhơn quả còn lưu hiện tại. Tuy linh đài không biến hoại,
Nhưng ngày tháng có đổi dời.
Thời xưa đổi, ngày nay xây, tượng Phật đương còn hình dáng khác, Ba ngày mưa, năm ngày gió, Phật điện xiêu đổ, nhà trai hư, Tượng Kim Cang bùn đất ố hoen, khó lấy tay không chống đỡ, Cốt Di Lặc gỗ cây mục nát, dễđem lời nói tô bồi.
Khói lạn, hương tàn, rêu cỏ mọc đầy trù thất,
Đông qua hạ lại, nắng mưa dầu dãi pháp thân,
Tai nghe cũng đã thương tâm,
Mắt thấy dễ không động niệm.
Nay có Quả Quốc Sư phát nguyện tu bổ,
Muốn cùng hảo tâm Hán hiệp lực đồng tâm.
Chớ bảo Tây Phương mười vạn dặm, ngoảnh mặt làm ngơ,
Tuy rằng khổ hải không bến bờ, quay đầu vượt khỏi.
Quan quyền dân giả, hãy mau nhờ bè pháp đưa qua,
Tín nữ, thiện nam, chớ chờ đến cùng đường mới trở lại.
Có sẵn tín tâm là Cực Lạc, Kịp thời quyên cúng ấy cơ duyên.
Sao cho đại diện sơn môn lạc thành mau chóng,
Tất cả Tăng phòng trù thất, mới mẻ sửa sang.
Biết một cây làm chẳng nên non,
Biết góp gió chung nhau làm bão.
Lòng lành vô lượng, vàng từ Tương Thủy tuông ra,
Công đức biết bao, của tợ phong lôi đem đến.
Trang nghiêm đã từng biết rõ,
Phước Thiện chẳng cần nói nhiều.
Hòa Thượng Thạch Liêm Thích Đại Sán viết sách “Hải Ngoại Ký Sự” khi lưu trú ởĐàng Trong (1695-1696) và in năm Kỷ Mão (1699). Sách nầy gồm 6 quyển. Hòa Thượng Thạch Liêm ghi chép về cuộc hành trình về việc hoằng hóa của Hòa Thượng ởĐàng Trong và các bài thơ sáng tác trong thời gian đó, đa số là các bài thơ vịnh các cảnh chùa và các cảnh núi sông xinh đẹp (Phần nầy trích trong bản dịch Hải Ngoại Ký Sự của Viện Đại Học Huế có sửa lại vài chỗ - Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức, từ trang 200 đến trang 207).
Đứng trước cảnh núi non hùng vĩ của Non và Nước như thế; nên Ngài Thạch Liêm Thích Đại Sán đã diễn tả chùa Tam Thai qua mấy bài thơ tả cảnh từ năm 1695 trong quyển Hải Ngoại Ký Sự cũng như kêu gọi đóng góp trùng tu chùa Di Đà tại Hội An, chúng ta thấy bùi ngùi xúc động. Hơn 100 năm sau. Mẫu Hậu ta cùng Hoàng Hậu, Thái Trưởng Công Chúa và ta đã đến đây năm Gia Long tứ 14 tức năm 1815 để ủy lạo dân nghèo khó trong các tỉnh Đàng Trong, thấy cảnh vật chung quanh đây không có gì thay đổi lắm, so với sự diễn tả của Hòa Thượng Thạch Liêm. Chỉ có Hội An là khác, mỗi ngày mỗi sầm uất hơn. Do vậy thành phố nầy không cần phải cứu trợ. Ngược lại ở phố Hội An ta và Hoàng Gia đã nhận thêm được sự viện trợ của Ngũ Bang nào gạo, nào đường và các sản phẩm Tây Dương khác nữa để tiếp tục cứu giúp cho các xứ từ Bình Định trở vào Nam.
Có đi xa kinh đô như thế ta mới thấy nhân tình trung quân ái quốc của người mình và ngay cả người Minh Hương nữa. Tuy họđã bỏ quê hương của họ, chỉ lo phò nhà Minh và không phục nhà Thanh; cho nên mới vào Hội An cũng như Bình Định và Hà Tiên từ những năm rất sớm (1644). Nếu lúc ấy các Chúa dòng họ Nguyễn Vương ta đóng cửa lòng từ không bao che tiếp đón họ thì họđã ra như thế nào rồi? Họ đến đây họ làm giàu cho quê hương đất nước của ta, mà còn giúp đỡ cho quê hương ta phát triển nữa. Ngoài ra khi Mạc Cửu đã được các Vua Cao Miên dâng đất Cà Mau, Tháp Mười, Đồng Nai v.v... Sau nầy Mạc Cửu vì nhớơn các Chúa Nguyễn đã giúp đỡ lúc ban đầu qua tỵ nạn; cho nên Mạc Cửu không muốn làm của riêng cho mình, mà dâng hết tất cả đất đai của Vua Miên dâng cho, đem dâng lại cho Chúa Nguyễn. Như vậy một cõi giang sơn đã về một mối là do tấm lòng từ của các Chúa mà có được vậy. Nhưng lòng từấy không phải tự nhiên mà có; nếu không nhờ Đạo Phật, hay nhờ các Thiền Sưđang hoằng hóa Phật Pháp tại Đàng Trong đã khai mở con đuờng phương tiện để giúp cho các Chúa Nguyễn thọ Bồ Tát giới và nhân duyên ấy đã làm đầy giọt nước, để các Chúa tiếp tục cứu vớt nhân sinh. Đây là ý kiến riêng của ta nhưng cũng phải cảm ơn các Ngài Thiền Sưđã hoạt động tại Đàng Trong từ thế kỷ thứ 17, 18 và tiếp theo sau nầy. Đồng thời Hoàng Tộc chúng ta phải tạơn những vị Thiền Sư Trung Hoa như Ngài Thạch Liêm Thích Đại Sán; Tổ Sư Nguyên Thiều; Tổ Sư Minh Hải – Pháp Bảo; Tổ Sư Minh Hoằng - Tử Dung; Tổ Sư Minh Lượng – Thành Đẳng. Nếu không có và không bị thay đổi triều đại ở Trung Hoa, thì Việt Nam ta không có được những bậc Chân Tăng đến hoằng hóa ở xứĐàng Trong nầy. Để rồi thế hệ thứ hai của Thiền Phái Lâm Tế như Ngài Liễu Quán - Thiệt Dinh
– Liên Hoa - Phật Ý v.v... Nếu không có thế hệ thứ nhất thì đã không có thế hệ thứ hai vậy.
Riêng chỉ tiếc về phái Thiền Tào Động do Hòa Thượng Thạch Liêm truyền qua Đàng Trong của chúng ta vào năm 1695 thì nay không còn mấy người theo như Tông Lâm Tế. Có lẽ Ngài truyền tâm thiền nầy cho Quốc Chúa và một số vị Quốc Sư và những vị nầy đa phần ở trong thượng tầng của xã hội; cho nên khó đi sâu vào được trong quần chúng dân giả chăng?
Ví dụ như Quốc Sư Hưng Liên - Quả Hoằng trụ trì chùa Tam Thai nầy; Ngài là người Trung Quốc đã sang Đàng Trong cùng thời với Ngài Thạch Liêm Hòa Thượng vào cuối thế kỷ thứ 17 (1633-1704). Sau đó Ngài Hưng Liên - Quả Hoằng y chỉ với Ngài Thạch Liêm phái Tào Động để được truyền pháp. Nhân việc Chúa Nguyễn không tin tưởng Phái Lâm Tế do Tổ Sư Nguyên Thiều nữa, Ngài Hưng Liên - Quả Hoằng qua sự giới thiệu của Thạch Liêm Hòa Thượng, Chúa Nguyễn Phước Châu mới trọng dụng người đại diện cho Phái Thiền Tào Động nầy tại Phú Xuân.
Thiền nầy được truyền cho Cư Sĩ Hưng Long (tức là Chúa Nguyễn Phước Chu) và nhà Chúa đã truyền lại cho Thiền Dương Hầu và cuối cùng là Thiền Sư Hưng Triệt và Giám Sinh Hoàng Thìn. Như vậy Thiền Tào Động đã thất truyền ởĐàng Trong nầy; nhưng dẫu sao đi nữa Quốc Chúa Nguyễn Phước Châu cũng đã hành xử như là một vị Thiền Sư khi cai dân trị nước. Đấy là nhờ tinh thần Thiền Tào Động mà Ngài Thạch Liêm Thích Đại Sán đã ban cho.
Ở Hội An ngày ấy đã dùng nhiều ngôn ngữ để trao đổi buôn bán với nhau như tiếng Trung Hoa gồm 5 Bang. Đó là tiếng Quảng Đông, Triều Châu, Phước Kiến, Hải Nam và tiếng Hẹ. Ngoài ra còn có tiếng Nhựt, tiếng Tây Ban Nha, BồĐào Nha, tiếng Hòa Lan v.v... Thỉnh thoảng ta có gặp những Cha Cố người Tây Dương và nhiều người Chà Và, có lẽ là người Ấn Độ. Họ không phải chỉ có tin tưởng vào Đạo Phật, mà còn tin vào các Đấng tạo hóa, thần linh khác.
Hội An cũng là quê hương của người Chàm từ những thế kỷ trước. Do vậy dọc theo sông Thu Bồn nầy đi ngược về hướng thượng lưu chúng ta sẽ gặp được kinh đô của Chiêm Thành ở gần Trà Kiệu. Họ gọi là Thánh Địa Mỹ Sơn. Đây là một cố cung; giống như Thăng Long của chúng ta vậy. Cố cung nầy xây những tháp bằng gạch rất chắc chắn và trong nhiều ngôi tháp có thờ thần Shiva cũng như thần Visnu, là những vị thần chính của Ấn Độ Giáo. Riêng Ấn Giáo chỉ có người Chàm theo, còn dân Đại Việt của chúng ta đa phần theo Phật Giáo Đại Thừa.
Tại Hội An có món Mì Quảng thật là độc đáo. Người ta thường gọi là món cao lâu. Cao lâu có thể nói trại từ tiếng cao lầu. Vì món nầy là món ăn dân giả của người Đàng Trong thuởấy; nhưng đã được người Hoa, người Nhựt Bổn và người Tây Dương ưa thích; nên đã nổi tiếng từđó đến nay. Nếu ai đó đến Hội An mà không thưởng thức món nầy, quả là điều thiếu sót.
Ta và Mẫu hậu đã ngược xuôi bao nhiêu lần trên con đường cái lớn nầy để xem sự mua bán, trao đổi cũng như những sinh hoạt của họ. Quả thật kinh đô Huế mới lập gần 15 năm nay không được như Hội An nầy. Vì lẽở Hội An muốn mua mặt hàng nào cũng có. Còn ở Phú Xuân giao thông vẫn không tiện lợi mấy, kể cả đường bộ lẫn đường thủy.
Mới đó mà cũng đã hơn một tháng rời cung cấm rồi. Ta phải hồi cung cùng Mẫu hậu và Hoàng hậu Thuận Thiên. Còn Thái Trưởng Công Chúa cùng những quan chức khác tiếp tục xuôi thuyền về phía Quảng Ngãi và Bình Định để tiếp tục làm từ thiện.
Quận Chúa.
Bức thư thứ 12
Kinh Đô Huế, ngày …… tháng …… năm 1817 (Gia Long năm thứ 16)
Năm nay ta nhận được nhiều tin vui dồn dập. Tin mà ta hằng mong đợi lâu nay là Thầy Thiệt Thành – Liễu Đạt sẽ trở thành Tăng Cang và Trụ Trì chù Linh Mụ và sẽ giảng pháp tại Hoàng Cung. Đây là cơ hội để ta có thể gần gũi người. Vì điều ấy lâu nay ta vẫn hằng mong đợi.
Ta được biết Vua Gia Long sẽ chính thức làm lễ tấn phong Tân Trụ Trì chùa Thiên Mụ vào ngày rằm tháng tư năm Đinh Sửu, nhằm niên hiệu Gia Long thứ 16 (1817) để thay thế cho Hòa Thượng Tăng Cang TổẤn - Mật Hoằng. Vì năm ấy Ngài đã cao tuổi (82) và Ngài sẽ qua chùa Quốc Ân để trụ trì.
Cả triều đình ngày hôm ấy đều có mặt tại chùa Linh Mụ, ta thấy Hoàng Đế sau khi lễ Phật, lễ Tổđã đến điện Di Lặc phía sau chánh điện để chính thức làm lễ tấn phong Tân Trụ Trì Chùa Thiên Mụ, cấp Giới đao, Độ điệp cũng như ban y, áo, mão cho Tăng Cang Liễu Đạt.
Đức Vua giọng trầm hùng nói:
Trẫm từ xưa đến nay luôn nhớơn chư vị Tiền Hiền đã có công dựng nước và mở nước. Nếu không có những bậc Tiên Đế như Chúa Tiên Nguyễn Hoàng thì triều đại nhà Nguyễn ngày hôm nay cũng không có. Cho nên “ẩm thủy tư nguyên” là vậy.
Sau khi xây dựng Hoàng Cung, Trẫm cũng đã cho tái tạo lại Linh Mụ tự năm 1802 và năm nay 1817 là lần thứ 2 và nhân cơ hội nầy ta muốn đến đây để lễ tạ Tam Bảo đã gia hộ cho cá nhân ta cũng như cả Hoàng Gia được thoát khỏi bao cơn nguy biến và sơn hà xã tắc mới được bền vững như ngày hôm nay. Thêm vào đó các vị Đại Sưđã vì Pháp quên mình, dấn thân vào chốn hồng trần để cứu khổ độ mê. Nên Thiền Sư TổẤn - Mật Hoằng đã qua sự thỉnh cầu của ta mà làm Trụ Trì Quốc Tự Linh Mụ nầy từ năm 1804 đến nay cũng đã hơn 13 năm rồi. Năm nay Ngài đã trọng tuổi nên Trẫm muốn thỉnh Ngài về chùa Quốc Ân để trụ trì; nơi ấy vốn là chốn của Tổ Liễu Quán đã khai sơn ra.
Còn Thiền Sư Thiệt Thành - Liễu Đạt cũng đã có công rất nhiều trong việc chăm sóc cho Hoàng Gia tại hai chùa Từ Ân và Khải Tường từ năm 1789 đến 1805. Trong suốt thời gian đó, chính ta và các cung nhơn cũng như Tiểu Triều Đình nhà Nguyễn đã nhờ hai ngôi Tam Bảo nầy che chở mà ta còn tồn tại cho đến ngày nay. Sau khi lên ngôi Vua năm 1802 Trẫm định thi ân đáp nghĩa liền; nhưng ngặt nỗi triều đình còn mới mẻ quá, có không biết bao nhiêu chuyện phải làm. Cho nên dần dà mãi để cho đến ngày nay sau hơn 15 năm chờ đợi. Ngài Thiệt Thành
-Liễu Đạt đây quả là một vị Thầy xứng đáng trong cương vị Trụ Trì cả 2 chùa tại Gia Định thuởấy, mà nay cũng thật xứng đáng với ngôi vị Tăng Cang và Trụ Trì Chùa Linh Mụ nầy. Đồng thời ta cũng mong mỏi Ngài vào chốn Hoàng Cung để tiếp tục giảng kinh, thuyết pháp cho cung nội nghe, như lúc còn ở Sài Gòn, Gia Định vậy.
Đây là hai bộ pháp phục của triều đình ban tặng. Gồm một y cà-sa; một áo hậu 5 màu; một mão Quan Âm; một mão Tì Lư có hình 5 vị Phật; một bộ thiền cụ; một đôi hia và một đôi dép. Ngoài ra Bộ Lễ sẽ cấp cho Ngài lương hằng tháng để chi dùng.
Sau khi nghe Vua Gia Long tuyên bố những điều quyết định như vậy, người mừng nhất không phải là Thiền Sư Thiệt Thành – Liễu Đạt, mà là Quận Chúa, em ruột của nhà vua. Nhìn nét mặt của Quận Chúa, các cung nữ biết rằng bà là người hớn hở nhất.
Sau khi nhận được y, áo ban ra từ Vua Gia Long, Thiền Sư Liễu Đạt vào hậu liêu thay đổi bộ áo Cà-sa đi đường qua nhiều ngày từ Gia Định ra Kinh Đô vốn đã hoại sắc; đoạn bước vào Đại Điện Di Lặc xá Vua 2 xá và quay sang Hòa Thượng TổẤn - Mật Hoằng đảnh lễ 3 lễ rồi thưa.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngưỡng bạch Hòa Thượng
Cung kính Đức Vua và Hoàng Gia
Con là Thiệt Thành - Liễu Đạt, đệ tử của Hòa Thượng Minh Vật - Nhứt Tri ở chùa Kim Cang Đồng Nai. Con xuất gia tại chùa nầy và khi lớn lên, Thầy con muốn cho con học thêm nội điển cho nên đã gởi con lên chùa Đại Giác nơi Thiền Sư Linh Nhạc - Phật Ý kế thế trụ trì. Sau một thời gian con ởđây. Ngài Linh Nhạc - Phật Ý ra khai sơn chùa Từ Ân và chùa Khải Tường tại Gia Định. Ngài là Y chỉ Sư của con và Ngài nhận thấy con có khả năng lãnh chúng; cho nên cử con về làm Thủ Tọa 2 chùa nầy và cuối cùng là Trụ Trì từđó đến nay.
Đứng về phương diện Tông Môn Pháp Phái con thuộc Phái Lâm Tế Nguyên Thiều do Thầy con là Hòa Thượng Minh Vật - Nhứt Tri được đắc pháp trực tiếp với Sư Ông con là Tổ Sư Nguyên Thiều vốn đã đến Đồng Nai và khai sơn ra chùa Kim Cang vậy. Còn đứng về phương diện tu học, con Y chỉ với Hòa Thượng Linh Nhạc - Phật Ý; Ngài là đệ tử của Hòa Thượng Minh Lượng – Thành Đẳng. Tổ Minh Lượng sau đó ra Hội An sáng lập chùa Vạn Đức, tuy cũng thuộc Thiền Phái Lâm Tế có gốc gác bên Trung Hoa; nhưng khi đến Đại Việt chúng ta lại chia ra nhiều bài kệ khác nhau để truyền thừa.
Như vậy bản thân con có liên hệ đến 2 nơi. Đó là Bổn sư thế độ và Bổn sư y chỉ. Còn Ngài vốn là bậc danh Tăng ở chốn Sài Gòn Gia Định đã trụ trì chùa Đại Giác từ bao lâu nay và đã được Đức Vua cử ra Trụ Trì chùa Linh Mụ cũng như giảng pháp tại Hoàng Cung nầy. Đây là sự vinh hạnh cho những người Trung Hoa khi đến tỵ nạn trên quê hương Đại Việt và đã đóng góp phần tinh thần Phật Giáo không nhỏ cho vấn đề xây dựng quê hương mới nầy. Nay lại còn truyền pháp qua cho các thế hệ người Việt Nam để tiếp tục gìn giữ ngọn đèn Thiền ấy, quả là một điều diệu dụng vô song.
Lại được các Chúa Nguyễn và Đức Vua đương triều mến chuộng Phật Pháp; cho nên cơ ngơi Phật Giáo mới được dàn trải từ Nam ra Bắc như ngày hôm nay. Đã hơn 200 năm giang sơn chúng ta chia cắt tại sông Gianh; nay nhờ ân đức của Bệ Hạ mà nước nhà đã về một mối. Nay Bệ Hạ giao cho nhiệm vụ Trụ Trì Linh Mụ tự, bần Tăng thiết nghĩ là một việc làm chẳng phải đơn thuần. Do vậy cho bần Tăng thỉnh nguyện Ngài Tăng Cang TổẤn - Mật Hoằng tuy về chùa Quốc Ân làm trụ trì; nhưng xin cung thỉnh Ngài làm Giáo Thọ để chỉ bảo cho Tăng Chúng cũng như bần Tăng nầy trong khi còn bỡ ngỡ nơi chốn Kinh kỳ nầy.
Sau khi Hòa Thượng Thiệt Thành - Liễu Đạt cung kính dâng lời tác bạch lên Hòa Thượng TổẤn - Mật Hoằng như vậy. Đôi mắt Ngài nhắm nghiền lại và nói rằng:
Lão Tăng nay tuổi đã 82 rồi. Đây là cái tuổi Thượng Thọ, ở trong đời ít người có được. Nay nhờ ân Tam Bảo và sự gia ân của Thánh Thượng mà Lão Tăng nầy vẫn còn tiếp tục trụ thế ở đời; nhưng dẫu sao đi nữa, qua lời thỉnh cầu của Ngài là Tân Trụ Trì chùa Linh Mụ, Lão Tăng nầy không nỡ chối từ. Chúng ta là những người đều xuất phát ra đi từ chùa Đại Giác ở Gia Định. Ân Tam Bảo, tình nghĩa quê hương làm sao quên được, thôi để Lão Tăng nầy cố gắng.
Hoàng Đế Gia Long ngồi đó để nghe sự đối đáp của hai vị Cựu và Tân Trụ Trì chùa Linh Mụ, đoạn Vua phán rằng:
Trẫm nay tuổi cũng đã già, lên ngôi vua từ năm 1802 đến nay cũng đã 15 năm rồi. Còn con ta, Hoàng Tử Nguyễn Phước Đảm đó cũng đã 26 tuổi rồi; cái tuổi có thể sẽ kế nghiệp ngôi vua trong tương lai. Vậy Trẫm mong 2 vị Cựu và Tân Trụ Trì chùa Linh Mụ nầy đừng quên sự gởi gấm của Trẫm vậy. Nhớ năm xưa, hồi còn trung hưng cho nghiệp đế, Thái Tử Đảm đã ra đời tại chùa Khải Tường vào năm 1791. Ngày ấy Trẫm nầy không dám quên. Thuởấy Ngài Tân Trụ Trì Linh Mụ tự đây là đương kim Trụ Trì chùa Khải Tường ở Gia Định mà. Niềm vui của Trẫm là Thứ Phi họ Trần đã sinh được cho Trẫm một Hoàng nhi. Có như vậy mới có thể nối nghiệp của Tiên vương và hôm nay Hoàng Hậu Thuận Thiên cũng có mặt. Chắc là khanh muốn nói một điều gì?
Muôn tâu Thánh Thượng
Kính bạch Nhị vị Hòa Thượng, chư Tăng và Hoàng Gia.
Đúng như Bệ Hạ mới vừa dạy. Nếu không có mái chùa Từ Ân, Khải Tường và Đại Giác ở Gia Định, Biên Hòa che chở cho Hoàng Gia trong khi chạy nạn cũng như lúc trung hưng, thì tấm thân của thần thiếp cũng như của các cung nhơn đâu có bảo tồn được tánh mạng. Nay thì mọi việc đã an bài. Kính mong chư vị Hòa Thượng hãy tiếp tục hướng dẫn cho nội cung về vấn đề giáo lý nhà Phật cũng như chăm sóc đời sống tinh thần cho cả Hoŕng Gia.
Tiếng đáp lại: A Di Đà Phật vang rền trong Đại Điện Di Lặc. Sau đó Vua tuyên bố chấm dứt nghi lễ tấn phong và mọi người hôm ấy được đãi một tiệc chay thực là thịnh soạn.
Ngôi quốc tự Linh Mụ như mới hẳn ra. Vì lẽ kể từ hôm nay đã có một vị tân trụ trì.
Quận Chúa.
Bức thư thứ 13
Huế, ngày …… tháng …… năm 1820 (Gia Long năm thứ 19)
Cả Hoàng Cung đang ngập chìm trong khung cảnh thê lương ảm đạm của màu tang chế. Người buồn nhất là mẫu hậu ta. Nay Thái Hậu Hiếu Khương đã lớn tuổi mà còn phải chứng kiến cái mất mát vĩnh viễn của một người con, là đương kim Hoàng Đế đương triều.
Suốt cả cuộc đời người ấy vào sanh ra tử không biết bao nhiêu lần. Kể từ năm 1777 anh ta được cử làm Đại Nguyên Soái thống lĩnh quân lính để đánh dẹp quân Tây Sơn. Nhưng lực lượng của quân Tây Sơn quá mạnh khi chiếm Phú Xuân và sau đó lực quân của Nguyễn Vương phải xuôi Nam để tìm đường lánh nạn. Cả bầu đoàn, thê tử cũng phải dan díu theo sau. Vì lẽđã là chồng vợ, tôi hầu, phải luôn luôn cam kết là sống chết có nhau và vinh hoa cùng hưởng, khổ cực cùng chia. Ta nhớ lại những lúc ấy chỉ có những ngôi chùa và quý Thầy ở Gia Định, Cao Miên và Thái Lan là rộng lòng che chở, nghinh đón cho đám tàn quân ấy sống tại đó để chờ ngày dấy lại cơ nghiệp. Ngoài ra ta đã chẳng thấy ai đoái hoài với những người đã thất thế sa cơ.
Từ 1777 đến 1802 chiến chinh triền miên ở nước Đại Việt nầy, mặc dầu có 4 năm trị vì của Vua Quang Trung từ 1785-1789, dân chúng tạm an bình chút đỉnh; nhưng gia phả họ Nguyễn Phước đã gián đoạn trong mấy mươi năm như thế, mà anh ta Nguyễn Phước Ánh là chứng nhân của lịch sử. Nay nước nhà đã được độc lập, thống nhất từ Nam ra Bắc. Nơi nơi đều ca khúc khải hoàn. Thế mà trên ngôi vị đế vương ấy trị vì chưa được 20 năm, nay đã ra người thiên cổ. Đúng là vô thường vậy. Vô thường nầy ta đã học qua Thầy Thiệt Thành -Liễu Đạt ở Gia Định cũng như mới đây trong nội cung do Thầy ấy hướng dẫn; nhưng ta vẫn khó chấp nhận một sự thật như thế. Thầy dạy rằng: Vô thường có nhiều loại khác nhau; nhưng tựu chung có 4 việc. Đó là thân vô thường, tâm vô thường, hoàn cảnh vô thường và quốc độ vô thường.
Thân vô thường có nghĩa là thân nầy khi nhỏ được cha mẹ sinh ra, cho bú mớm, ẵm bồng... rồi trẻ thơ mới biết bò, biết đứng, biết đi, biết chạy. Ngày tháng trôi qua, đứa trẻấy đi vào trường để học cho biết chữ. Đến 18 tuổi thì tạm gọi là trưởng thành. Lúc còn bé thơ, con nhỏ không dám rời khỏi nửa bước với người mẹ; nhưng khi lớn khôn lên từng ngày, đứa trẻấy tự động rời tay mẹ để đi vào đời. Người mẹ lúc nào cũng thương con và lo cho con đủ điều; nhưng đa phần những con trẻấy chỉ hướng tới những khát vọng của tương lai, chứ ít khi đoái hoài lại quá khứ. Trừ phi bị vấp ngã trên đường đời đôi ba lần, người trai trẻấy mới nhớ lại mẹ cha và mong cha mẹ tiếp tục hỗ trợ cho mình. Đến tuổi thanh niên và trung niên người đàn ông hay người con gái ấy thâu góp hết tất cả mọi việc trên đời nầy vào 2 bàn tay, khối óc của mình và xem Trời còn thấp hơn nữa. Để đến một lúc nào đó tóc bạc hoa râm, răng đau, lưng mỏi... quay lưng nhìn lại thì mẹ cha không còn nữa, mà suốt cả một cuộc đời, chính mình cũng đã chẳng làm được một việc gì cho ra tích sự. Đây không phải thân vô thường sao?
Rồi tâm vô thường nữa. Tâm nầy theo Duy Thức học gọi là: “Tâm viên ý mã”; nghĩa là tâm của chúng ta nó giống như con khỉ chuyền cây và con ngựa không có cương. Khỉ là loài động vật chẳng ngồi yên, lại hay bắt chước, kể cả chuyện hay lẫn chuyện dở. Tâm của chúng sanh cũng như thế. Việc hay thì khó nhớ, trong khi đó việc dở không cần học cũng dễ bị huân tập vào chủng tử, rồi từđó mọc mầm, thành cây, không phải là cây giác ngộ, mà là độc tố để tiếp tục đầu độc cho đời. Khi con ngựa không có cương thì ngựa ấy rất khó khiến. Nó sẽ muốn chạy đâu thì chạy, không cần biết sự chống chọi của con người. Tâm của ta hay thay đổi thường xuyên như sáng thì thương, chiều thì ghét, tối thì buồn, lo; ngày mai lại yêu thương nói những lời dịu ngọt. Tâm như thế là tâm hay thay đổi; cho nên nói là tâm vô thường.
Sự thay đổi nầy không phải bây giờ mới có, mà nó đã bắt đầu từ khi con người đã mang vào tâm chữ dục. Cái gì cũng muốn cả; nhưng mấy khi mong muốn lại được đâu. Cho nên mới khổ. Khi gặp khổ rồi, mới than trời, trách đất cho số phận, cho tình duyên hẩm hiu v.v...
Hoàn cảnh vô thường là giai đoạn kế tiếp theo đó. Đâu có ai trong chúng ta có thể tự chọn cho mình một nghiệp khả dĩ để đi đầu thai. Riêng Bồ Tát thì vì nguyện lực đi vào đời, các Ngài có thể chọn lựa được. Còn chúng ta đa phần do nghiệp lực dẫn dắt; cho nên không thể làm chủ bởi chính mình. Do vậy gặp hoàn cảnh nào phải tự chịu hoàn cảnh ấy. Bởi vì đây chỉ là kết quả của những nghiệp bất thiện mà ta đã gieo trồng trong tâm thức của mình ở vào một thuở quá khứ xa xôi nào đó, nay mới có cơ hội nảy mầm, đâm chồi rồi ra lá hoa v.v...
Cuối cùng của vô thường là quốc độ. Trong kinh Pháp Hoa, Phật đã dạy rằng: “Ba cõi không yên, giống như ngôi nhà lửa”. Chúng ta đang sống trên ngôi nhà lửa ấy, mà nào ta có biết đâu. Ta mãi vui chơi với ngũ dục gồm: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, địa vi, ăn uống ngủ nghỉ v.v... Do vậy chẳng có lối ra.
Người Trung Hoa đâu có muốn rời quê hương của họ vào đầu thế kỷ thứ 17 khi mà họ không muốn đầu quân dưới nhà Thanh. Vì lẽ tâm họ chỉ muốn báo đền ơn nghĩa cho nhà Minh; nên họ mới chạy sang An Nam chúng ta tỵ nạn. Thuở ban đầu ấy có lẽ họ gặp khó khăn không ít về ngôn ngữ, phong tục, tập quán tại quê mình; nhưng dần dà rồi họ cũng quen đi. Bây giờ qua gần 200 năm họđã trở thành người Việt Nam, tuy họ vẫn còn hướng về quê cũ.
Tình huống của chúng ta cũng thế thôi. Vào cuối thế kỷ thứ 18, có ai trong chúng ta muốn bỏ giang sơn nầy để đi tỵ nạn tại Cam Bốt và Xiêm La đâu; nhưng vì hoàn cảnh đẩy đưa, mà quân binh, tướng sĩ, hoàng gia đã phải bao năm trường nằm gai nếm mật ở xứ người; nhưng may nhờ hồn thiêng sông núi; nhờ Đế Đạo Hà Xương; cho nên cơ ngơi nhà Nguyễn mới còn bền chắc. Nếu không, thì chúng ta cũng chẳng biết nương tựa vào đâu.
Nước Phù Nam, nước Lâm Ấp, nước Lục Chân Lạp, nước Thủy Chân Lạp là các nước có biên giới hẳn hoi ở phía Nam đất nước ta; nhưng trải qua các cuộc cưới gả, rồi lấn đất giành dân... những dân tộc nào sức yếu, thế cô phải chịu yểu mệnh. Ngay như Chiêm Thành là một Đại Quốc từ thế kỷ thứ 4, có biên cương từ Hà Tỉnh ở phía Bắc và giáp ranh Biên Hòa ở phía Nam; nhưng chỉ sau năm, sáu trăm năm đã không còn tên trên bản đồ nầy nữa.
Nhưng cũng phải thành thật nói rằng: Nếu không có 2 nàng Công Chúa Huyền Trân ở đời Trần và Ngọc Vạn con của Chúa Nguyễn Phước Nguyên thì hai Châu Ô, Châu Lý không phải của Đại Việt ngày nay và Sài Gòn, Gia Định nếu không có Ngọc Vạn Công Chúa đề nghị với con mình là vua của Cao Miên vào thế kỷ thứ 17 thì ta cũng đã chẳng có chùa Kim Cang ở Đồng Nai, chùa Đại Giác ở Biên Hòa, chùa Từ Ân và chùa Khải Tường ở Gia Định vậy. Đây là thế nước lòng dân. Tuy nhiên các dân tộc mà họ mất quê cha, đất tổ chắc là họ buồn lắm. Vì cây có cội, nước có nguồn mà.
Để giúp cho những linh hồn hay oan hồn ấy siêu thoát, Hoàng Huynh ta mỗi năm đều có làm những lễ Trai Đàn Bạt Độ tại chùa Linh Mụ và chẩn bần khắp nơi để xoa dịu những người đã bỏ quê hương lại sau lưng mình như vậy. Đây không phải là “quốc độ vô thường” là gì? Dĩ nhiên những lời Thầy Thiệt Thành - Liễu Đạt ta đều rõ hết; nhưng chấp nhận sự vô thường ấy, không phải là một chuyện dễ dàng. Hiếu Khương Hoàng Thái Hậu mẹ ta đang tụng kinh trong chiếc áo tang màu trắng. Chị dâu ta Thuận Thiên Hoàng Hậu đang đội dây rơm, mũ bạc trông thê thảm làm sao. Rồi Hoàng Thái Tử Nguyễn Phước Đảm cũng vậy. Áo mão cân đai của các quan bình thường trong triều nội, bây giờ thay vào đó là những dải lụa trắng tang thương, để tang cho một quân vương và cả triều đại nầy đều như thế.
Khắp Hoàn Thành và các công, tư sở trực thuộc đều treo cờ rũ trong nhiều ngày để cùng chịu cái đau buồn chung cả nước. Những lễ nghi Phật Giáo, lễ nghi Nho Giáo và lễ nghi Lão Giáo đã lần lượt tấu lên những khúc nhạc thật là buồn thảm, bi thương. Dĩ nhiên người mất rồi, không ai có thể sống dậy được; nhưng tục lệ vẫn là tục lệ. Rồi đây chị ta và cả các Cung phi sẽ có nhiều người ra làm nhà ở gần Lăng Mộ của Quân Vương để cư tang trong 27 tháng như vậy. Đây là cái tục lệ của chúng ta có tự ngàn xưa không thể bỏ.
Còn ta phận em gái chỉ chịu tang trong vòng một năm rồi sẽ làm lễ xả tang. Tuy nhiên ta không có chồng con lâu nay. Có lẽ phần ta cũng được xem như là con trai của dòng tộc họ Nguyễn; cho nên việc tang chế cũng không được loại trừ.
Sau ngày nhập Kim Quan của Tiên Đế vào lăng rồi. Thái Tử Nguyễn Phước Đảm đã lên ngôi lấy hiệu là Minh Mạng nguyên niên (1820), lúc bấy giờ cháu ta đã 31 tuổi. Còn ta đã vào tuổi 56 rồi.
Hoàng Cô.
Bức thư thứ 14
Huế, ngày …… tháng …… năm 1821 (Minh Mạng năm thứ 2)
Đã 13 lần viết thư, nói về tình cảm của ta đối với gia đình, thân tộc cũng như riêng đối với mẹ ta, chị ta và anh ta. Cũng như bao nhiêu lần thổ lộ tâm tư tình cảm của mình; nhưng mẹ ta và chị ta không đoái hoài đến. Hôm nay ta viết bức thư nầy như là một huyết lệ thư và gởi thẳng cho Liên Hoa Hòa Thượng. Ta sẽ can đảm làm việc đó.
Người ơi!
Người có biết chăng tâm hồn ta bị băng giá tự thuở nào không? Người có biết rằng ta đã khổ sở vì người qua bao nhiêu năm tháng, kể từ khi ta còn tuổi thanh xuân ở Gia Định. Cái tuổi lúc nào cũng mộng mơ, người có thấy được ta trong ánh mắt, lời nói và cử chỉ của ta đã đối đãi với người khi ta còn ở chùa Khải Tường chăng? Hay lúc nào Thầy cũng thấy ta là người gần gũi mà xa lạ. Nay ta tuổi đã ngoại lục tuần nhưng tấm chân tình ta yêu thương người vào những năm chinh chiến ở vào lứa tuổi thanh xuân vẫn còn nguyên vẹn. Bởi vì tình cảm ấy ta không san sẻ được cho ai cả.
Trong hàng xuất gia có lẽ Thầy là người đẹp trai nhất dưới mắt ta, người có vầng trán rộng và cao. Dưới đó là đôi chân mày quắc thước. Nếu Thầy không đi tu, chắc Thầy cũng sẽ là một tướng giỏi của triều đình; nhưng ởđây Thầy lại ẩn mình ở trong chùa để sớm kệ, chiều kinh giống hệt như một ông quan và lọng không bung ra mỗi khi đi kinh lý. Tánh tình Thầy nhu hòa, lời nói của Thầy thanh tao làm cho người nghe phải gợi nhớ làm sao. Nhất là những buổi giảng kinh Di Đà, Pháp Hoa tại chùa Khải Tường vào những năm 1789-1790 trởđi. Hồn ta như hớp trọn hết tất cả những lời Thầy. Ta nhìn ánh mắt Thầy, thấy thương Thầy vô hạn. Rồi ta tự đặt câu hỏi. Tại sao người đẹp như thế mà đi xuất gia nhỉ?
Ta nhớđã có lần người giải đáp cho ta rồi và cả Mẫu hậu của ta cũng đã khai thông cho ta qua lời dạy của Đức Phật về sắc đẹp của Ngài A Nan khi mẹ con Ma Đăng Già nhận định về Ngài nữa; nhưng không biết tại sao ta vẫn không buông tha Thầy được. Hình bóng Thầy lúc nào cũng ở trong tim ta. Không biết ta yêu Thầy có tội gì chăng? Theo mẹ ta bảo là không tội. Vì ai cũng có tình yêu cả. Thầy có tình yêu thương đồng loại và chúng sanh rộng lớn, cao thượng hơn. Còn ta chỉ có yêu riêng Thầy; nhưng theo Mẹ ta, ta yêu Thầy là có lỗi. Vì lẽ Thầy là người đã truyền quy giới cho ta. Do vậy ta đã cố âm thầm nơi chốn cung son để gặm nhấm mối tình chỉ một chiều nầy mà thôi.
Thật ra ta không phải là người đàn bà trắc nết, đã có lắm Vương tôn, Công tử và người giàu có dạm hỏi mình; nhưng ta đã một mực từ chối; trong tim mình chỉ để thờ hình bóng trái tim của một người. Đó là Thầy; một người con ở đất phương Nam, với ruộng đồng cò bay thẳng cánh, với nước da trắng trẻo của chốn quê dân giả; nhưng ởđó cũng toát lên được một vẻ đẹp siêu nhiên của một người trí thức có học.
Từ khi Thầy ở tại chùa Kim Cang Đồng Nai, rồi lên chùa Đại Giác y chỉ với Thiền Sư Linh Nhạc - Phật Ý. Chắc Thầy có những tháng ngày thật đẹp của tuổi thanh xuân tại đó? Người tu hành sớm hôm tương chao, dưa muối; nhưng sao ta thấy da dẻ của Thầy tươi đỏ, còn đẹp hơn những bậc công tửở chốn thị thành. Có lẽ tâm Thầy an lạc lắm chăng? Nhờđó mà cuộc đời của Thầy vẫn thong dong nay đây mai đó?
Ta để ý Thầy từ khi Thầy làm Thủ Tọa chùa Từ Ân và chùa Khải Tường kia. Lúc ấy Thầy đẹp người, đẹp dạ quá. Với dáng đi thong dong, cao ráo. Hình ảnh ấy đã đập vào tim mắt ta, làm cho ta thổn thức liên hồi. Rồi có những đêm rằm, mồng một ta ngồi nghe Thầy giảng kinh nơi chùa Khải Tường; nhưng ta đâu có nhớ gì được nhiều. Bởi vì lúc nào ta cũng muốn cùng Thầy làm sao để được cận kề, gần nhau để nói nhiều việc cho nhau nghe.
Nhưng Trời ơi! Y trang, vương miện, địa vị công nương... là hàng rào ngăn cản ta, ta không thể nào vượt qua nổi. Ngay cả như bức thư nầy như là huyết lệ thư để gởi cho Thầy, mà không biết rằng có thể gởi đến Thầy được chăng? Đã bao lần ta viết như vậy và ta cũng đã mạnh dạn như vậy trước khi trao tay người khác mang đi; nhưng rồi những bức thư như thế vẫn chẳng gởi bao giờ...
Đất Trời vạn vật có Xuân, Hạ, Thu, Đông. Còn ta cũng có yêu thương, hờn giận, buồn phiền, ghen ghét; nhưng với Thầy, ta thấy như chẳng có một cái gì dính mắc hết. Không biết nhờđâu và do đâu? Ai mà không thích đời sống phú quý, vinh hoa. Ai mà chẳng thích ngồi trên chốn cao sang, quyền quý. Nếu Thầy lấy được ta, Thầy sẽ có tất cả. Tất cảấy được chờ đợi đã bao lâu rồi. Có lẽ hơn 30 năm chăng? Nhưng sao Thầy vẫn hững hờ như thế?
Mới đây Thầy có giảng kinh Kim Cang tại nội cung, ta có nghe câu được câu mất rằng:
Người nào dùng hình tướng để thấy ta
Kẻ nào dùng âm thanh để cầu ta
Kẻấy hành tà đạo
Không bao giờ thấy được Như Lai.
Nhưng ởđây ta chưa muốn thấy Như Lai. Ta chỉ muốn thấy Thầy là hiện thân của xác thịt, Thầy là hình ảnh cứu khổ của đời ta, ta muốn Thầy thể hiện được điều ấy. Quan Âm thị hiện cứu khổ cuộc đời và con người còn ta là một người đang đau khổở chốn cùng cực kia; nhưng tại sao Thầy không ra tay tế độ? Tại sao Thầy đóng cửa từ bi như vậy?
Ta không là một Công Chúa lọ lem, muốn gặp một Hoàng Tử trong giấc mộng, mà ta là một con người bình thường, có quả tim biết yêu thương con người và đồng loại, ta không quên được hình hài của kẻ ta yêu. Ta cũng không thể chôn chặt được mối tình nầy vào dĩ vãng được. Vì càng khơi dậy, đống tro tàn của lửa yêu đương thời tuổi thanh xuân nó luôn hiện về mỗi đêm khi ta vừa chợp mắt.
Chưa có một đêm nào ta ngủ yên giấc cả. Bởi vì phòng ta vẫn trống không và bóng ta vẫn đơn lẻ, chưa có người nào ngự trị. Ta đang để chốn ấy cho chàng; ngay cả là một không gian vật chất, hay ngay cả trong quả tim ta. Ta chẳng biết mình đã lỗi đạo gì mà cho đến nay vẫn còn phòng không lẻ bóng. Tại sao ta phải yêu thương; một người, mà người ấy chẳng hề hở môi để nói được tiếng yêu thương ta? Có phải do hàng rào giới luật ngăn cấm? Hay hình ảnh từ bi của Đức Phật? Hoặc giả miệng đời, thị, phi, nhơn, nghĩa.
Theo ta, Thầy hãy vứt bỏ những thứấy, như những cái không to tướng kia, mà lâu nay Thầy đã thực hiện. Tim Thầy không rúng động chăng? Mắt Thầy không đổ lệ chăng? Khi thấy những chúng sanh khác còn đau khổ như Hoàng Cô nầy? Ta đã tìm mọi cách để nói với con tim của mình, là yêu như thế lại lỗi đạo Thầy trò, như mẹ của ta thường dạy; nhưng tâm ta nói mà con tim với nhịp đập nó không nghe lời. Nó bảo rằng hãy yêu thương cho được người ấy. Nhiều khi ta đã mệt mỏi, rụng rời, muốn buông xuôi tất cả để đi xuất gia như cháu Ngọc Anh; nhưng rồi ta cảm thấy chẳng an tâm. Vì làm như thế là dối mình, chứ không ích gì khi phải chôn chặt mối tình ở chốn Thiền Môn như thế.
Cháu Ngọc Anh đi tu, vì cháu ấy có Đại Nguyện, mong cho Hoàng Huynh ta thắng được quân Tây Sơn thì cháu ấy sẽ cắt tóc xuất gia. Còn ta yếu hèn quá, nhỏ hẹp quá. Nhiều lúc ta cũng tự giận lấy mình; nhưng ta không làm chủ được mình. Rõ ràng là bên tai ta, âm thanh giảng pháp của Thầy vẫn là âm thanh thật. Dưới mắt ta hình hài đẹp trai của Thầy vẫn là hình ảnh thật, chờn vờn trước mắt ta mỗi ngày khi qua lại nơi sân chùa Khải Tường và nay ở chốn Hoàng Cung nầy, ta vẫn thấy Thầy thật đó, đang ẩn mình dưới mảnh áo nâu sồng, chứ Thầy Liên Hoa đâu có giả gì đâu?
Như vậy dưới mắt của Đức Phật có lẽ ta là một người tà, không có tâm tìm cầu giáo nghĩa chính đáng của Đạo Phật. Còn riêng dưới mắt ta, ta vẫn cho là thật, có một con người bằng da, bằng thịt như thế. Ta tà đối với giáo pháp cao thượng của Đấng Thế Tôn; nhưng ta thực có với lòng ta, với những gì ta đã ôm ấp lâu nay trong quả tim nầy, muốn đem ra trình bày cho Thầy rõ.
Như Lai ở trước ta là hình hài của một Đức Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Còn Như Lai trong tâm tư tình cảm của ta là:
“Tim nầy ví xẻ làm đôi
Nửa dâng cho Phật, chao ôi còn nàng Lung linh dưới ánh trăng vàng
Như Lai Điều Ngự trên làn tóc em”.
Ngốc Tử
Tim nầy chỉ có 2 ngăn thôi. Một đã dâng cho Phật. Bởi vì người xuất gia phải đoạn lìa ân ái. Còn một nửa kia để cho máu chảy về tim, để được yêu và để được chết. Như vậy thì hình ảnh của ta có thể tồn tại trong nửa quả tim kia chăng?
Dưới ánh trăng thu, cảnh trời êm dịệu. Ởđó có hai ta. Anh là Như Lai, em là Điều Ngự, chúng ta sẽ gần gũi bên nhau như mái tóc xuân xanh ngày ấy chăng?
Ấy chết, Ta đã phạm thượng rồi! Như Lai, Điều Ngự là hình ảnh của bậc giác ngộ; chứ không phải là hình ảnh của hai người, của những người còn nằm bên bờ nầy của tử sanh trăn trở. Nếu con có gì sai quấy. Kính mong Ngài cho con sám hối.
Tình yêu là gì nhỉ? Tại sao ta phải đi yêu thương một người xuất gia không nhà, không cửa, không tình yêu riêng tư và nhiều khi gần như gỗđá. Không biết người ấy có sống chăng? Hay họ sống để chỉ mà sống! sống để trả nợđàn na thí chủ? Nhưng nhiều khi ta nghĩ lại, với vóc đẹp trai ấy, với cung cách ăn nói hay ho ấy, nếu ở đời, Thầy ấy vẫn có vợ con đầy đủ, đâu cần phải lánh mặt nơi chốn thiền môn như vậy để làm cho tim ta héo sầu trong bao nhiêu năm tháng?
Nếu đi tu mà làm cho người khác khổđau như thế, thì liệu sự xuất gia kia có ích đời, giúp đạo được chăng?
Nếu tu không được thì trở về đời như Tăng sĩ Thái Lan đâu có ai cấm.
Ta suy nghĩ vẩn vơ như thế. Đó chỉ là ý nghĩ nông cạn của ta thôi. Còn Thầy ấy có lối đi riêng. Ta thấy Thầy ấy đâu có khổ sở, chỉ có ta khổ sở là có. Ta khổ nên ta làm sao cho vơi đi nỗi khổ; cho nên khổ khổ chất chồng là vậy. Do đó trong những nỗi khổ của con người, Đức Phật có để cập đến “ái biệt ly khổ” là vậy. Yêu thương nhau mà chẳng được gần nhau như ta và Thầy Liên Hoa, đúng là một nỗi khổ; nhưng ta chẳng biết Thầy ấy có khổ chăng?
Nhiều lúc ta thấy Thầy ấy nóng tính, la lối chúng điệu trong chùa để thị uy, không biết đó có phải là một tính xấu chăng? Vì nếu con người còn nóng giận, tức vẫn còn thương ghét chứ? Nhưng tại sao chẳng thương ta nhỉ? Hay là:
Thương nhau trái ấu cũng tròn
Ghét nhau trái bồ hòn cũng méo
Thương và ghét là hai trạng thái tâm lý đối chọi nhau. Yêu và khổ cũng thế thôi. Khi thương yêu nhau thì cái xấu cũng sẽ trở thành cái tốt. Trái ấu là một loại củ có nhiều cạnh nhọn. Thế mà khi thương nhau, trái ấy cũng sẽ tròn lại, chẳng còn góc nào cả. Đến khi con người hết thương yêu nhau rồi thì trái bồ hòn tuy tròn quay đó, nó vẫn có thể tạo ra nhiều cạnh như thường. Vậy thì ta phải làm sao đây?
Ta suy nghĩ vẩn vơđã nhiều năm tháng; nếu không viết lên hết nỗi lòng của mình để gởi cho Thầy Liên Hoa thì Thầy ấy làm sao biết được tâm lý của ta đã trải dài trong đời mình hằng mấy chục năm nay. Ban đầu Hoàng Cô định nhờ nô tỳđem thư qua phòng khách cho Hòa Thượng Liên Hoa trước khi giảng kinh; nhưng ta thấy như thế bất tiện lắm. Thế là ta tìm cách khác. Hôm nay ta lên nghe pháp chậm hơn và tìm cách lẻn vào phòng khách và giấu thư nầy trong cặp của Thầy ấy, chắc Thầy sẽ đọc được và tâm ta lại an hơn.
Nói là làm; nhưng tim ta đập liên hồi khi lên nghe pháp sau khi đã hạ thủ một chiêu đưa thư ngoạn mục như vậy. Một Hoàng Cô gần 60 tuổi, đôi khi ta vẫn thấy non trẻ lạ thường.
Hoàng Cô
(Bức thưđã được gởi).
Bức thư thứ 15
Huế, ngày …… tháng …… năm 1822 (Minh Mạng năm thứ 3)
Khi cho được lá thư tay vào cặp sách của Thầy Liên Hoa, tâm ta nhẹ nhỏm; nhưng tim ta thì thấp thỏm lo âu. Chẳng biết rằng khi nhận được Thầy ấy có đọc chăng hay vứt vào thùng rác và Thầy ấy có cho rằng mình là người đàn bà lắm chuyện chăng? Đa phần thì trai tỏ tình với gái và con trai đưa thư trước. Còn ởđây thì ta ngược lại, không biết Thầy ấy có cho ta là sỗ sàng chăng?
Nhưng dẫu sao đi nữa ta đã làm liều, thì nên đánh gan liều tiếp tục để chờ đợi. Thế mà một tuần sau, một tháng sau, rồi 2 tháng, 3 tháng cho đến một năm chờ đợi, ta chẳng thấy Thầy ấy tỏ ra thái độ gì cả với ta. Thầy ấy không trách móc, không giận hờn ta, mà lúc nào cũng bình tâm để giảng kinh Kim Cang như thường lệ. Một hôm Thầy giảng đến đoạn
Tất cả các pháp hữu vi
Đều như mộng, như huyễn, nhưảo ảnh
Như sương mai, nhưđiện chớp
Nên quán và làm như vậy.
Đoạn nầy thì Thầy giảng quá hay và xuất thần. Ta như dừng lại tất cả những tâm tư tình cảm lâu nay đối với Thầy ấy; nhưng điều nầy ta không đợi chờở Thầy ấy. Điều mà ta đợi chờ là lá thư kia; nhưng tại sao mãi đến nay vẫn chưa được xem và chưa được phúc đáp?
Thế nào là pháp hữu vi? Thầy đưa tay về chỉ một bông hoa giấy cắm trên bàn và một bông hoa tươi đang ở trước mặt Ngài và hỏi một công nương ngồi gần đó.
Thưa Công nương! Hai loài hoa kia cái nào thật và cái nào giả?
Bạch Ngài: Hoa trước mặt Ngài là thật và hoa giấy kia là giả.
Liên Hoa Hòa Thượng nhoẻn miệng cười và bảo rằng:
Thật ra chẳng có cái nào gọi là thật cả. Vì Công nương cho hoa nầy thật; nhưng 5, 7 ngày sau hoa sẽ tàn. Còn hoa giấy kia cũng thế. Chừng nhiều lắm là một năm, hoa kia sẽ không còn hiện hữu trên thế gian nầy nữa. Cho nên Đức Phật nói rằng: Các pháp hữu vi tất cả đều không thật là vậy. Ngay cả thân người nầy, ta hay thường nói nó là của ta; nhưng thật ra không phải. Nếu nó là của ta thì ta phải làm chủ được nó chứ. Tại sao nó làm chủ ta. Bởi vì khi ta già, ta không thể cưỡng lại nỗi đau của thể xác. Như vậy cái gì là của ta?
Hôm ấy ta nghe mà cảm như Thầy ấy đã đọc thư của ta rồi và đang trả lời về sự chấp tướng của ta đó. Không biết có thật thế không? Lạy Phật chắc không là thế! Ta mong được như vậy.
Đã là pháp hữu vi thì đâu có gì là chắc thật. Nó như một giấc mộng, nhiều khi trong mơ màng ta cho là sẽ nắm bắt được; nhưng khi thức giấc dậy rồi, giấc mộng kia đã tan theo mây khói và tan loãng vào hư không. Đã không thật nhưng tại sao ta bám víu vào? Vì lẽ ta chấp giữ nó và cho nó là đúng, là có thật. Nhưng ở trên đời nầy đâu có gì thật, ngoại trừ giáo pháp của Đức Như Lai. Đúng là như bọt nước, như bong bóng. Ngay cả thân tứ đại nầy ta cho rằng có; nhưng khi hơi thởđã vuột khỏi sự kiểm soát của thân trung ấm nầy, thì đâu còn cái gì là của ta đâu?
Nếu người tu học Phật quán sát và thực hành được như vậy là hiểu được giáo lý của Đức Phật đã dạy về pháp KHÔNG nầy cho Ngài Tu Bồ Đề cũng như những đệ tử xuất gia và tại gia khác.
Đức Phật dạy rằng: Phàm là pháp hữu vi thì như sương mai, nhưđiện chớp. Giọt sương mai lấp lánh dưới ánh thái dương vào ban mai rất đẹp, ta trông như thật vậy. Nhưng khi mặt trời lên cao, tỏa ánh nắng xuống muôn nơi, thì sương mai ấy chẳng còn nữa. Đây là do duyên hợp rồi tan, còn rồi mất. Điện cũng như thế, tuy ta chẳng thấy nhưng điện hiện hữu khắp nơi. Khi bóng đèn hư không có nghĩa là không còn điện nữa. Nếu ta thay vào đèn, một bóng khác thì điện lại sáng lên. Có đó rồi mất đó, chẳng có cái gì là thật thể cả.
Bản thân bần Tăng nầy cũng thế: do duyên mà hợp; cho nên đến chốn Kinh Đô nầy cũng đã hơn 5 năm rồi. Trong hơn 5 năm ấy hưởng không biết bao nhiêu là ơn vua, lộc nước; nhưng trong hơn 5 năm ấy ta cũng đã chẳng làm được gì mà còn lại tốn hao cho công quỹ của nhà nước. Biết đâu một ngày nào đó, bần Tăng nầy cũng sẽ lại ra đi và nhường chỗ nầy lại cho một vị Tăng Cang khác tài giỏi hơn mình.
Khi nghe được những lời như thế ta nghĩ rằng Liên Hoa Hòa Thượng đã đọc được thư ta và muốn trốn tránh ta; nên thời pháp hôm nay có lẽ Thầy ấy nói riêng cho ta đấy chăng?
Đoạn Thầy ấy tiếp. Phật dạy rằng: Phàm cái gì có hình tướng thì những thứấy không có thật. Nếu thấy các tướng ấy không phải là thật tướng thì mới thấy được Như Lai. Như Lai nghĩa là chẳng từđâu tới và cũng chẳng đi vềđâu. Đó là Như Lai vậy. Đó là bản tánh chơn như trạm nhiên, bản giác thanh tịnh của người liễu đạo. Nếu quán là quán như vậy. Còn nếu quán tướng là tướng, tánh là tánh thì đó chưa gọi là quán.
Chuyện phân ly hay hội họp cũng là chuyện thường tình của thế nhân lâu nay. Thân bần Tăng đang ởđây; nhưng tâm lại nặng trĩu nhớ về Gia Định; nơi đó có 2 ngôi chùa Từ Ân và Khải Tường, hiện nay Thầy y chỉ của ta là Thiền Sư Phật Ý đã lớn tuổi. Bần Tăng chẳng biết Thầy mình có mệnh hệ gì chăng mà chẳng thấy cánh nhạn báo tin. Đây cũng là việc sanh tử nữa. Có lẽ đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan vậy.
Kết thúc buổi giảng kinh Kim Cang nầy cũng là kết thúc những tháng ngày dài nơi kinh thành nầy vậy. Bần Tăng chẳng biết bao giờ gặp lại quý cô nương và Thái Hoàng Thái Hậu, cũng như Thái Hậu và Hoàng Hậu. Tôi xin niệm ơn tất cả chư vịđã đối xử với bần Tăng nầy quá tốt đẹp trong suốt những năm tháng qua ở Gia Định cũng như tại nơi nầy và hãy xem đó như là gió thổi, mây bay. Hãy đừng vướng bận một chút gì nơi tâm của quý vị thì đó chính là quý vịđã thực hiện được lời Phật dạy vậy. Nghĩa là dầu cho có người giàu có của cải bằng bảy thứ báu, chất đầy như núi Tu Di, ngày đêm 3 thời: sáng, trưa và chiều đem của cải ấy đi bố thí cho vô lượng vô biên thế giới, thì công đức của người nầy vẫn không bằng công đức của người thọ trì, đọc tụng và giải nói cho người khác nghe cho đến 4 câu kệ trong kinh Kim Cang nầy. So như vậy để chúng ta thấy rằng công đức của một người hiểu đạo và làm cho đạo phát triển nhiều hơn là người cúng dường của cải quý hiếm kia.
Lâu nay Hoàng Gia đã xuất công quỹ và tư trang của các Hoàng Hậu, Công nương để trùng tu chùa Thiên Mụ, rồi Quốc Ân cũng như chùa Tây Thiên, Báo Quốc v.v... Hoàng Thượng đương triều cũng như Tiên Đế đã cấp cho không biết bao nhiêu là Giới đao, Độ điệp cũng như tấn phong Tăng Cang cho các Hòa Thượng, lại còn cung cấp tiền bạc, áo, mão cho các Tăng trụ trì nơi các chùa quan ấy. Quả là phước đức hữu lậu, khó ai sánh bằng; nhưng ước gì chừng ấy chưa đủ, phải cần hiểu và thực hành theo lời dạy của Đức Phật trong kinh Kim Cang. Điều ấy có giá trị bất khả tư nghì hơn nhiều.
Trước khi Hòa Thượng Liên Hoa xuống khỏi tòa thuyết pháp, các Công nương đã đem quà cáp đến cúng dường; nhưng Hòa Thượng không nhận. Cuối cùng thấy Ngài đã trao cho Thái Hoàng Thái Hậu Hiếu Khương, tức là mẹ của ta và là bà nội của Minh Mạng Hoàng Đế đương triều một phong thư rồi chào cáo biệt để xe đưa về chùa Linh Mụ.
Tim ta đập mạnh; nhưng nghi vấn lại nhiều, nỗi trào dâng trong lòng mình, vừa lo âu sợ hãi, vừa mừng thầm. Lo âu vì mẹ ta biết việc nầy thì chắc chắn là ta chẳng yên đâu, mà mừng là ta đã giải bày được tâm sự của mình sau khi đã gởi cho Ngài. Thế rồi thời gian trôi qua trong nặng nề. Ta muốn biết nội dung thưấy, Thầy Liên Hoa đã viết gì? Ngài viết cho ta hay cho Mẫu hậu ta? Nhưng có một điều lạ là nếu viết cho ta thì Ngài tìm cách trao cho ta, chứ tại sao lại trao cho Mẫu hậu. Hay là Ngài muốn việc nầy công khai hóa để cho mọi người cùng biết; chứđây không phải là mối tình vụng trộm gì chăng?
Bao nhiêu câu hỏi ta đã tự đặt ra, mà nào có câu trả lời. Tất cả cũng chỉ là những sự phập phồng; lo âu và chờ đợi. Rồi một hôm mẹ ta gõ cửa phòng, bước vào phòng ta, trên tay bà có một lá thư và bảo rằng con hãy đọc.
Linh Mụ tự, ngày …… tháng …… năm 1822 (Minh Mạng năm thứ 3)
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính gởi Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng Cô
Lẽ ra bần Tăng nầy phải viết làm 2 lá thư riêng biệt; nhưng có lẽ nội dung cũng không khác biệt mấy; cho nên xin phép cho bần Tăng nầy chỉ viết chung một lá thư nầy mà thôi. Chắc Thái Hoàng Thái Hậu không trách?
Kể từ khi Tiên Đế băng hà cho đến nay cũng chưa lâu. Vì Đại Tang của Nguyễn Phước tộc của Dân Đại Việt chưa hết. Tuy rằng Hoàng Đế Minh Mạng đương triều đã tiếp nối lại cơ nghiệp của Tiên Đế trên cương vị là phụ mẫu chi dân đã được triều đình bá quan văn võ tung hô vạn tuế; nhưng thực tế thì nỗi đau mất mát một người thân, nhất là Thái Hoàng Thái Hậu đã mất đi một người con yêu quý, một anh hùng của Dân Tộc, chắc riêng Thái Hoàng Thái Hậu cũng chẳng vui gì. Ngay cả Hoàng Cô đây cũng thế, đã bao nhiêu năm vào sanh ra tử với Vương Huynh; nhưng vẫn một lòng kham nhẫn nằm gai nếm mật với quân hầu, cung nữ. Điều ấy không phải ai cũng làm được.
Nay nước nhà đã được độc lập, thái cường thịnh trị là nhờ công hãn mã của Tiên Đế cũng như triều đình ta. Nay thì dân chúng đang sống trong cảnh thái hòa. Vả lại cung nhơn đã thấu hiểu Phật Pháp vô song, thiết nghĩ chẳng còn cớ chi để ở lại chốn triều đình nầy nữa. Vậy bần Tăng nầy với muôn lời bái tạ thâm ân của Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng Cô nhờ tâu lên với Hoàng Đế đương triều để bần Tăng nầy sớm trở lại chùa xưa, lo săn sóc Hòa Thượng y chỉ sư. Vì nay Ngài đã cao tuổi. Vì biết rằng: nếu bần Tăng trực tiếp tâu lên Thánh Thượng; chắc Thánh Thượng không bằng lòng. Nếu được nhị vị giúp cho, thì quả là ơn phước to lớn lắm.
Kính nguyện,
Bần Tăng Thiệt Thành - Liễu Đạt
Trụ Trì chùa Linh Mụ.
Khi đọc xong bức thư nầy Hoàng Cô thở ra thật mạnh. Vì biết rằng chuyện riêng tư của mình mẫu hậu đã chẳng biết. Vì trong thư Ngài Hòa Thượng Liên Hoa đã chẳng tiết lộ một vài vấn đề gì cả.
Đoạn Mẫu hậu mới hỏi ta rằng:
Theo con nghĩ việc nầy ra sao? Chữ ra sao ở cuối câu nói bà gằn hơi mạnh, làm ta giật mình. Nhưng ta thong thảđáp.
Thưa mẹ! Theo con nghĩ: dầu gì đi nữa cũng nên đem vấn đề nầy trình bày cho Hoàng Đế đương triều, để cháu mẹ giải quyết. Vì trong thưđã có lời yêu cầu như vậy.
Rồi một hôm Vua Minh Mạng đi vào nội cung thăm Nội Tổ và nhũ mẫu, ta mới có cơ hội nhắc nhở mẹ ta trình bày tự sự.
Mẹ ta nhỏ giọng mà nói rằng:
Chẳng biết triều đình ta vô phước chăng mà khi cháu mới lên nối ngôi Tiên Đế chưa được bao lâu, nay Hòa Thượng Liên Hoa lại muốn trở lại Đồng Nai, Gia Định không biết điều nầy con suy nghĩ như thế nào?
Muôn tâu Thái Hoàng Thái Hậu. Theo con nghĩ: nước có quốc pháp, nhà có luật nhà. Ởđây đương không, chẳng có lý do nào trọng đại, mà Hòa Thượng Liên Hoa đang trụ trì Quốc Tự Linh Mụ cũng như giảng pháp cho Hoàng Cung mà lại tự ý xin về lại chùa xưa là nghĩa gì. Chắc có lẽ có điều gì đây không ổn chăng?
Thái Hoàng Thái Hậu Hiếu Khương nhìn chéo về phía Hoàng Cô và có ý muốn Hoàng Cô trả lời việc nầy.
Thưa Ngài! Theo Hoàng Cô nghĩ. Có lẽ vì Hòa Thượng Liên Hoa đã xa chùa Từ Ân và Khải Tường đã hơn 5 năm rồi; nên bây giờ muốn trở lại chùa xưa.
Nhưng ta nghĩ, đó đâu phải là lý do chính đáng để không còn Trụ Trì chùa Linh Mụ nầy nữa.
Không biết cao kiến của Bệ Hạ ra sao, chứ Hoàng Cô nầy nghĩ chắc còn điều gì bí ẩn trong nầy. Đoạn quay qua Thái Hoàng Thái Hậu Hiếu Khương nhỏ nhẹ hỏi:
Thưa Bà và thưa Mẹ cũng như thưa Cô. Theo như bà và mẹ nghĩ như thế nào về việc nầy?
Thật ra Hiếu Khương Thái Hoàng Thái Hậu và Thuận Thiên Thái Hậu đã rõ hết đầu đuôi câu chuyện của Hòa Thượng Liên Hoa và Hoàng Cô từ khi còn ở tại Gia Định, chứ không phải bây giờ mới biết; nhưng cả 2 người đều muốn rằng câu chuyện tình không lối thoát đó hãy để cho thời gian giải quyết. Không ngờđã hơn 30 năm qua rồi, mà chuyện cũ vẫn còn đây. Đoạn Thái Hậu Thuận Thiên ngâm nhỏ những câu thơ trong miệng rằng:
Cái tình là cái chi chi
Dẫu chi chi cũng chi chi với tình
Đa tình là dở
Đã mắc vào đố gỡ cho ra
Khéo quấy người một giấc thiên ma
Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy
Đã gọi người nằm thiên cổ dậy
Lại đưa hồn mộng ngủ canh đi ...
(Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu)
Thái Hậu dừng ởđó tủm tỉm cười, trong khi Hoàng Cô đỏ mặt, tía tai, còn Vua Minh Mạng thì chẳng biết đầu đuôi ất giáp gì cả. Đoạn nhà Vua giã từ những người thân và trở lại phòng làm việc của mình.
Ngài sai quan Ngự Sử thảo một văn thư bằng chữ Hán nội dung như sau và sai người mang tay lên chùa Linh Mụ.
Hoàng Đế Đại Việt Đương Triều, Minh Mạng đệ tam niên.
Ngưỡng bạch Tăng Cang Hòa Thượng, đương kim Trụ Trì Linh Mụ tự.
Kính Ngài,
Quả nhân vào chốn nội cung và Thái Hoàng Thái Hậu, Thái Hậu cũng như Hoàng Hậu và Hoàng Cô của Trẫm cho hay rằng: Hòa Thượng muốn từ chức Trụ Trì Linh Mụ tự để về lại chùa xưa. Điều nầy không phải là không hợp lý. Nhưng ta vừa kính trọng Ngài và đã ban cho Thụy hiệu là Liên Hoa cũng có ý muốn rằng Ngài ở lại chốn Hoàng Cung nầy lâu hơn thế nữa. Nay Tiên Đế vừa mới băng hà, Đại Tường lễ cũng chưa xong. Những nghi thức cầu siêu, cúng tiến linh v.v... Chắc cũng còn phiền đến Ngài nữa. Vậy với chiếu chỉ nầy Trẫm mong muốn Ngài vẫn còn lưu lại chốn kinh kỳ nầy lâu hơn như Trẫm dự định để chuẩn bị cho những việc trên.
Khâm thử.
Sau khi xem xong Sắc Chỉ của Vua Minh Mạng, Hòa Thượng Liên Hoa chẳng còn cách nào hơn là phải ở lại đây cho đến hết ngày Đại Tường của Hoàng Gia và chuyện gì tiếp đến sẽ được giải quyết tiếp tục về sau nầy.
Đoạn Hòa Thượng lên chùa lễ Phật xướng lên với Tam Bảo rằng:
. Khể thủ nhứt thiết xuất thế gian, tam giới tối tôn công đức hải; trí giả năng tiêu phiền não cấu chánh giác, ngã kim quy mạng lễ. Nhứt tâm đảnh lễ Nam Mô Tận hư không biến pháp giới vi trần sát độ trung, quá hiện vị lai, thập phương nhứt thiết chư Phật Thế Tôn.
. Khể thủ năng bạt sanh tử hiểm, phổ kiệt ưu não tham si hải, phá bỉ trần lao tội nghiệp sơn, ngã kim quy mạng Diệu Pháp bảo. Chí tâm đảnh lễ Nam Mô tận hư không biến pháp giới quá hiện vị lai, thập phương nhứt thiết Chư Tôn Pháp.
. Khể thủ nhứt thiết Phật, xưng tán bát chánh vạn hạnh diệu trang nghiêm, vô vi định huệ chứng viên minh, ngã kim quy mạng Thánh Chúng bảo. Chí tâm đảnh lễ Nam Mô Tận Hư không biến pháp giới quá hiện vị lai thập phương nhứt thiết hiền Thánh Tăng.