Chương 1.
Hạt đậu kỳ diệu
MỞ ĐẦU
Hơn năm ngàn năm về trước, những
nhà nông Trung Hoa đã khám phá và trồng một loại cây đậu mà sau đó đã trở thành
một loại thực phẩm thiết yếu cho các dân tộc Á châu và thế giới ngày nay. Cây
đậu này được biết đến là đậu nành, cũng còn gọi là cây đậu tương.
Trong suốt những thiên niên kỷ
sau đó, đậu nành đã vượt biên sang các nước lân bang như Nhật Bản, Đại Hàn,
Việt Nam,
Nam Dương và Mã Lai. Đến Nhật Bản vào thế kỷ thứ 8 sau Tây lịch và khoảng một
ngàn năm sau đó mới qua đến Âu châu.
Bởi vì đậu nành sản sinh nhiều
chất đạm (protein) hơn bất cứ loại nông sản nào nên nó được ưa chuộng và trở thành
thực phẩm chính của nhiều quốc gia Á châu. Những thực phẩm được biến chế từ đậu
nành như sữa, đậu hũ, tương, chao và tầu hũ ky đã có từ hơn hai ngàn năm trước
đây. Ngày nay đậu hũ là món thực phẩm được ưa chuộng và phổ thông nhất trên thế
giới. Tại một vài thành phố Trung Hoa, các cơ xưởng sản xuất sữa đậu nành hoạt
động suốt đêm để sáng sớm giao sữa nóng đến từng nhà, và cho đến gần đây, sữa
đậu nành tiêu thụ ở Hồng Kông đã nhiều hơn số tiêu thụ Coca-Cola. Người Trung
Hoa tin rằng đậu nành có khả năng chữa lành các chứng bệnh về thận, phù thũng,
da, tiêu chảy, bệnh thiếu hồng huyết cầu (anemia) và chứng lở loét chân (leg
ulcers).
Đậu nành được du nhập vào lục
địa Hoa Kỳ năm 1765 nhưng chỉ được xem là một loại hạt đậu mới mà thôi, cho đến
khi Dr. John Harvey Kellog, người đầu tiên cách mạng thức ăn sáng của người Hoa
Kỳ bằng sữa đậu nành, cereal và các thức ăn biến chế từ protein đậu nành vào
những năm 1920s.
Năm 1931, Dr. A. A. Horvath xuất
bản tài liệu mang nhan đề là Soya Flour as a National Food. Trong tài liệu này
ông nói rằng phẩm chất đậu nành có giá trị dinh dưỡng rất cao, tốt cho sức khỏe
và hữu ích cho các nghiên cứu khoa học.
Nhờ những nỗ lực của ông Horvath
mà ngày nay Hoa Kỳ sản xuất trên 12 tỷ dollars đậu nành mỗi năm tức khoảng 50
triệu metric tons, hay gần bằng ba phần tư số lượng sản xuất trên thế giới. Bất
hạnh thay, ngoại trừ một phần ba được xuất cảng qua các nước như Nhật Bản
v..v.., chúng ta (người dân Mỹ) đã dùng 95% số lượng còn lại để làm thức ăn cho
súc vật, thay vì cho người ăn!
Trong những năm gần đây, đậu
nành đã và đang được chuyển biến từ thực phẩm (food) thành dược phẩm
(medicine). Các nhà khoa học và các chuyên gia dinh dưỡng (nutritionists) đã
công nhận (validate) các hóa chất thảo mộc (phytochemicals) trong đậu nành có tính
chất dược thảo, có khả năng ngăn ngừa và trị liệu một số bệnh. Sự khám phá ra
các hóa chất thảo mộc này đã mở ra một thời đại mới trong lãnh vực dinh dưỡng.
Thực tế, có ít nhất một hóa chất thảo mộc đậu nành đã được đề nghị là một loại
thuốc mới chống ung thư. Tuy nhiên đấy chỉ là một phần nhỏ của câu chuyện.
Mặc dầu phẩm chất protein đậu
nành đã từ lâu được thừa nhận là có giá trị dinh dưỡng cao, nhưng chúng ta mới
bắt đầu biết đến giá trị của nó trong lãnh vực y khoa phòng ngừa và trị liệu
một vài năm gần đây. Protein đậu nành có khả năng làm giảm mức lượng
cholesterol trong máu. Protein đậu nành cũng giúp chúng ta trong việc trị liệu
và phòng ngừa chứng bệnh thận, giảm thiểu nguy cơ bệnh ung thư vú, bệnh tiểu
đường, bệnh xốp xương, bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến và các triệu chứng rối loạn
tiền mãn kinh phụ nữ.
Tuy nhiên, một điều chúng ta
chưa biết là thực phẩm đậu nành sẽ là chìa khóa giải quyết hầu hết các vấn đề
về sức khỏe của chúng ta.
Trong quyển sách này, chúng tôi
có một vài mục tiêu. Thứ nhất trình bày lý do tại sao và làm thế nào phòng ngừa
các chứng bệnh ung thư và tim mạch qua sự thay đổi ăn uống. Thứ đến chúng tôi
sẽ trình bày những khám phá mới nhất của các nghiên cứu khoa học về các hóa
chất thảo mộc đậu nành áp dụng trong việc ngăn ngừa các chứng bệnh ung thư và
tim mạch. Và sau cùng, chúng tôi sẽ khảo sát về đậu hũ và sữa đậu nành, món ăn
và uống chánh của người Á châu.
SẢN XUẤT ĐẬU NÀNH
Có một điều lạ là Hoa Kỳ, một
quốc gia sản xuất nhiều đậu nành nhất thế giới, mà đa phần người dân lại chưa
biết đến mùi vị đậu nành hay nghe nói đến chữ đậu hũ (tofu).
Hiện nay Hoa Kỳ sản xuất khoảng
ba phần tư số lượng đậu nành toàn thế giới. Chỉ riêng năm 1975, sản lượng đậu
nành của Hoa Kỳ là 47 triệu tấn, đủ để cung ứng cho mỗi người dân 165 pounds
nguyên chất protein đậu nành. Nếu tất cả lượng protein này dùng làm thực phẩm
thì cũng đủ nhu cầu protein tiêu dùng cho toàn dân Hoa Kỳ ba năm! Và nếu phân
phối đồng đều đến mọi người dân trên thế giới thì sẽ thỏa mãn được 25 phần trăm
nhu cầu protein trong một năm.
Tuy nhiên, điều bất hạnh cho
nhân loại, là chỉ gần 15 phần trăm sản lượng đậu nành của Hoa Kỳ là dùng làm
thực phẩm cho con người. Phần còn lại dùng để ép lấy dầu và làm thực phẩm cho
súc vật, mà qua tiến trình sản xuất dầu, protein hoàn toàn bị mất. Nông gia Hoa
Kỳ dùng đậu nành và các ngũ cốc khác nuôi súc vật nhiều hơn bất cứ quốc gia
nào.
Trong quyển sách Diet for a
Small Planet, Frances Moore Lappé cho chúng ta thấy rằng, muốn có một pound
protein thịt, người ta phải tiêu dùng từ 14 đến 21 pounds protein ngũ cốc trong
đó phần lớn là đậu nành, mà đáng lẽ phải được dùng cho con người. Trong tiến
trình lãng phí protein này, chỉ khoảng 5 đến 7 phần trăm là tiêu dùng thực sự,
hơn 90 phần trăm còn lại là chất thải mà phần lớn là phân. Súc vật ăn ngũ cốc
nhiều từ 5 đến 10 lần hơn con người, nhưng lại cho rất ít kết quả, như 100 kg
protein ngũ cốc sản xuất được 6 kg thịt bò hay 9 kg thịt heo hoặc 18 kg thịt
gà.
Mặc dầu dân số Hoa Kỳ chỉ có 6
phần trăm trên dân số thế giới, nhưng họ tiêu thụ đến 30 phần trăm số lượng
thịt. Bình quân mỗi người dân Hoa Kỳ ăn 254 pound thịt mỗi năm, hay 316 grams
mỗi ngày, tức 15 lần nhiều hơn người dân Á châu. Nói một cách khác trung bình
mỗi người Hoa Kỳ tiêu thụ tương đương với 2.000 pounds đậu nành và các loại hạt
khác hàng năm, mà 90 phần trăm dưới dạng thịt, trứng và bơ sữa. Vì vậy một đứa
trẻ Mỹ sanh ra là ảnh hưởng đến 5 đứa trẻ ra đời tại Ấn Độ, Phi châu hay Nam
Mỹ. Nếu như Hoa Kỳ giảm ăn thịt 10 phần trăm, sẽ có dư 12 triệu tấn đậu nành,
bắp hay loại hạt khác, đủ để cung ứng hàng năm cho 60 triệu người đang cần ăn
tại các quốc gia nghèo.
Hiện nay thế giới đang phải
đương đầu với nạn đói. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, 25 đến 30 phần trăm
trẻ em trên thế giới chẳng bao giờ có được sinh nhật lần thứ tư, do tình trạng suy
dinh dưỡng (malnutrition) và phần lớn những trẻ sống sót thường bị tật nguyền
thân thể hay tâm thần do thiếu protein.
Có hai nguyên nhân dẫn đến cuộc
khủng hoảng thực phẩm hiện nay trên thế giới là (1) sự sản xuất thực phẩm không
theo kịp đà dân số gia tăng và (2) nhu cầu ăn thịt gia tăng của các quốc gia
giàu có.
Thật ra, nguyên nhân sâu xa của
tình trạng thiếu ăn ngày nay trên thế giới không phải là vì không thể sản xuất
đủ thực phẩm cho con người mà là do sự phung phí thực phẩm ngũ cốc của các quốc
gia giàu có trong việc thỏa mãn thói quen ăn thịt của họ. Họ càng giàu có càng
đòi hỏi ăn thịt nhiều. Trong 12 năm qua, số lượng tiêu thụ thịt tại Hoa Kỳ gia
tăng 22 phần trăm, Pháp và Canada tăng 26 phần trăm, 33 phần trăm tại Tây Đức,
94 phần trăm tại Italy và 364 phần trăm tại Nhật Bản.
Bởi vì, như trên đã nói 14
pounds protein đậu nành cho 1 pound thịt, do đó chỉ một số nhỏ người thích ăn
thịt cũng tác động đến sự thiếu hụt protein chỗ khác. Cho nên gia tăng sản xuất
thực phẩm và hạn chế sinh đẻ chưa đủ và không bao giờ cứu được nạn đói nếu như
con người không giảm thiểu hay từ bỏ thói quen thích ăn thịt. Họ phải thay đổi
tập quán ăn uống bằng cách ăn ít thịt, thay thế sữa bò bằng sữa đậu
nành..v..v.. Nên nhớ là 70 phần trăm protein tiêu thụ trên thế giới hiện nay là
protein có nguồn gốc từ thực vật.
Trở về với nguồn thực phẩm thiên
nhiên, chúng ta có thể thặng dư hàng tỷ tấn protein đậu nành và các ngũ cốc
khác để dùng làm thức ăn cho con người. Chúng ta không thể nào sống an lành
hạnh phúc và tâm tư thảnh thơi, trong một ốc đảo thần tiên khi mà xung quanh
chúng ta là hàng triệu trẻ em nghèo đói, mỗi chúng ta cần phải thừa nhận sự bất
quân bình này và cần phải có những nỗ lực cá nhân để giải quyết sự chênh lệnh
thiếu đạo đức này.
GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG CỦA ĐẬU NÀNH
Hạt đậu nành có giá trị dinh
dưỡng và kinh tế rất cao. Cùng một mẫu đất, số thu hoạch chất đạm đậu nành
nhiều hơn 33 phần trăm với bất kỳ một thứ nông sản nào khác. Hàm lượng protein
của đậu nành cũng cao hơn cả thịt, cá và gần gấp đôi các loại đậu khác.
Protein của đậu nành có giá trị
cao không chỉ về sản lượng thu hoạch mà nó chứa đầy đủ tám loại amino acids
thiết yếu (essential amino acids) cho cơ thể con người. Hàm lượng của các chất
amino acids này tương đương với hàm lượng của các chất amino acids của trứng
gà, đặc biệt là của tryptophan rất cao, gần gấp rưỡi của trứng. Vì thế mà khi
nói đến giá trị của protein ở đậu nành cao là nói đến hàm lượng lớn của nó cả
sự đầy đủ và cân đối của tám loại amino acids.
Trong đậu nành có chứa chất
lecithin, có tác dụng làm cho cơ thể con người trẻ lâu, sung sức, tăng thêm trí
nhớ và tái tạo các mô, cũng làm cứng xương và tăng sức đề kháng của cơ thể.
Ngày nay protein đậu nành được thừa nhận là ngang hàng với protein thịt động
vật, hay nói một cách dễ hiểu hơn là lượng và phẩm protein chứa trong nửa cup
hạt đậu nành (khoảng 2 ounces) không khác biệt với lượng và phẩm protein chứa
trong 5 ounces thịt bò steak.
Protein của đậu nành dễ tiêu
hóa, không có cholesterol, và ít chất béo bão hòa saturated fats thường có nơi
thịt động vật. Ngoài ra trong đậu nành có nhiều vitamin B hơn bất cứ thực phẩm
nào, đậu nành cũng chứa nhiều vitamin A, D và các chất khoáng khác.
Đậu nành chứa hàm lượng dầu béo
cao hơn các loại đậu khác nên được coi là loại cây cung cấp dầu thảo mộc. Chất
béo lipid của đậu nành có chứa một tỷ lệ cao chất fatty acid không bão hòa
(unsaturated fats), có mùi vị thơm ngon, cho nên dùng dầu đậu nành thay thế cho
mỡ động vật có thể tránh được bệnh xơ cứng động mạch.
Ở Trung Hoa, Nhật Bản và Đại
Hàn, người ta đã chế biến ra được trên 600 sản phẩm khác nhau, trong đó có hơn
phân nửa loại thực phẩm được chế theo các phương pháp cổ truyền dưới các dạng
tươi, khô và lên men, cho đến các sản phẩm hiện đại bằng kỹ thuật mới như cà
phê, thịt chay nhân tạo, sô cô la, kem, cheese...
Ngày nay, tại các nước Á châu,
đậu hũ (tofu) được xem là thức ăn hằng ngày và coi như là một phần của nền văn
hóa Á Đông giống như văn hóa hamburger của Hoa Kỳ vậy. Ở Nhật Bản có khoảng 38
ngàn tiệm đậu hũ cung cấp cho mỗi người dân khoảng 70 hộp đậu hũ 12-ounces mỗi
năm. Ở Trung Hoa có khoảng 150 ngàn tiệm, Taiwan
3 ngàn tiệm, Indonesia
11 ngàn tiệm...
Sau khi đã ép đậu nành lấy dầu,
người ta dùng bã đậu biến chế thành thức ăn nuôi gia súc. Ở những quốc gia phát
triển họ còn dùng đậu nành vào các kỹ nghệ khác như biến chế cao su nhân tạo,
mực in, sơn, xà phòng, chất tơ nhân tạo, chất nhiên liệu lỏng, dầu làm trơn
trong kỹ nghệ hàng không.
Cây đậu nành còn có khả năng tồn
trữ chất đạm của khí trời và làm giàu chất đạm cho đất. Do đó kỹ nghệ trồng cây
đậu nành không những không làm hư đất mà còn làm cho đất tốt hơn.
THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG CỦA ĐẬU NÀNH
Kể từ đầu thế kỷ thứ 20, Hoa Kỳ
đã tổ hợp các thực phẩm theo các thành phần dinh duỡng và khuyến cáo người dân
dựa theo đó mà thiết lập chương trình ăn uống cho có đầy đủ sức khỏe. Khuyến
cáo đầu tiên được ban hành vào năm 1916, chỉ dẫn lượng và loại thực phẩm cần
thiết đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho protein, chất béo, chất carbohydrate, chất
sinh tố (vitamin) và chất khoáng.
Tình trạng ngày nay khác, thực
phẩm chứa thêm nhiều thứ khác ngoài các chất dinh dưỡng trên, như các hóa chất
thảo mộc (phytochemicals) có khả năng ngăn ngừa và trị liệu bệnh tật vừa mới
được khám phá, cho nên chúng ta cần phải hiểu biết thêm những khám phá mới của
khoa học để chọn lựa thực phẩm có lợi nhất cho sức khỏe của chúng ta. Chúng tôi
nghĩ rằng thực phẩm có chứa các chất phytochemicals sẽ là thực phẩm của thế kỷ
thứ 21.
Trước khi trình bày về
phytochemicals có trong đậu nành, chúng tôi nói sơ qua về thành phần dinh dưỡng
chính trong đậu nành, mà trước tiên là protein.
PROTEIN
Giá trị của chất protein của bất
kỳ thực phẩm nào tùy thuộc vào hai yếu tố: lượng và phẩm. Lượng protein thường
được diễn tả bằng bách phân của trọng lượng thực phẩm, còn phẩm chất được xác
định bởi hai yếu tố: khả năng tiêu hoá (digestibility) và đầy đủ thành phần
chất amino acids thiết yếu (essential amino acids). Nếu thực phẩm nào hội đủ
hai yếu tố này thì được đánh giá cao về phẩm.
Phần lớn thực phẩm đậu nành đều
thuộc loại tiêu hóa dễ dàng. Ví dụ như đậu hũ, khả năng tiêu hóa là 92 phần
trăm, bột đậu nành (soy flour) khoảng 85 đến 90 phần trăm. Hạt đậu nành luộc
hay rang có khả năng tiêu hóa khó hơn, khoảng 68 phần trăm.
Yếu tố thứ nhì xác định phẩm
chất của protein là hội đủ thành phần amino acids thiết yếu và hàm lượng cần
thiết. Protein đậu nành là loại đậu (legume) duy nhất thỏa mãn yếu tố này, có
nghĩa là nó chứa đựng tất cả 8 loại amino acids thiết yếu cùng với hàm lượng
cần thiết, tương đương với protein thịt động vật.
Tưởng cũng nên biết, protein là
chuỗi phân tử dài lập thành bởi những phân tử nhỏ hơn gọi là amino acids. Những
amino acids này là những khối kiến trúc của các bộ phận sống cần thiết để bảo
dưỡng các mô tế bào, xương cốt, răng tóc, và chiến đấu chống lại sự nhiễm trùng
cùng là đảm nhiệm một vài vai trò quan trọng trong tiến trình chuyển hóa năng
lượng.
Mặc dầu có tất cả 22 loại amino
acids, nhưng trong số đó chỉ có 8 chất amino acids (9 cho trẻ em) là không thể
tự tạo bởi cơ thể con người mà cần phải hấp thụ từ nguồn thực phẩm bên ngoài.
Tám chất amino thiết yếu này là: Trytophan, Threonine, Isoleucine, Valine,
Lysine, Methionine, Phenylalanine, và Leucine.
Cơ thể chúng ta cần tất cả 8
loại amino acids này để cho đồng bộ và điều chỉnh tỷ lệ với nhau. Nếu một trong
tám chất amino acids này thiếu, những thứ khác không thể tác hợp và vận hành
được, có nghĩa là tất cả các loại amino acids cần phải được ăn vào và thẩm thấu
cùng lúc để có thể làm việc điều hòa.
Thịt động vật không phải là thứ
thực phẩm duy nhất có đầy đủ chất protein, thực tế có nhiều loại thịt thiếu một
hoặc nhiều loại amino acids cần thiết. Đậu hũ, trứng, lúa mì (wheat), và pinto
bean có đầy đủ chín loại amino acids thiết yếu.
Đậu nành được xem là giàu
protein. Nó cung cấp từ 35 đến 38 phần trăm ca lô ri so với các loài rau đậu
khác.
CHẤT SINH TỐ VÀ CHẤT KHOÁNG
Như trên đã nói, đậu nành có
nhiều protein hơn bất cứ loại thực phẩm nào, kể cả thịt động vật. Ngoài ra, đậu
nành cũng rất giàu có về chất sinh tố và chất khoáng (Vitamins and Minerals),
như vitamin B1, B2, B3, B6, Niacin, calcium, iron, zinc...Đậu nành cũng có
nhiều chất xơ.
Sự biến chế đậu nành thành thực
phẩm thường ảnh hưởng đến thành phần dinh dưỡng. Ví dụ như thực phẩm tempeh,
tương miso được làm từ nguyên hạt đậu nành, nên thành phần dinh dưỡng gần như
còn nguyên. Đôi khi, qua tiến trình biến chế, thực phẩm được biến đổi theo
chiều hướng tốt hơn. Ví dụ như đậu hũ, qua tiến trình làm đông đặc với calcium
sulfat, nó thường có chất calcium cao hơn calcium có trong hạt đậu. Hàm lượng
iron cũng cao hơn.
CHẤT BÉO VÀ CHOLESTEROL
Đậu hũ nói riêng và đậu nành nói
chung là loại thực phẩm nhiều protein nhưng lại ít calories và ít chất béo bão
hòa (saturated fats) và hoàn toàn không có cholesterol. Đây là những dữ kiện
quan trọng và là chìa khóa để nhân loại mở cửa bước vào một đời sống lâu dài và
khỏe mạnh.
Hầu như tất cả các y sĩ trị liệu
bệnh tim mạch, một căn bệnh có số tử vong đứng hàng đầu ở Hoa Kỳ, đều công nhận
chất béo thịt động vật và cholesterol là nguyên nhân chính dẫn đến các căn bệnh
này, và họ đều khuyến cáo bệnh nhân cắt giảm lượng tiêu thụ thịt động vật như
là bước đầu tiên trong việc trị liệu bệnh nhồi máu cơ tim, bệnh tai biến mạch
máu não, và chứng cao áp huyết.
Quả thực, người dân Hoa kỳ tiêu
thụ trung bình khoảng 70 phần trăm trong tổng số protein, là protein thịt động
vật. Những nghiên cứu khoa học cho thấy rằng có sự liên hệ mật thiết giữa việc
tiêu thụ thịt động vật và các chứng bệnh liên hệ đến tim mạch. Ví dụ như ở Nhật
Bản trung bình người dân tiêu thụ protein thịt động vật là 39 phần trăm và ở Trung
Hoa là 10 phần trăm đều có tỷ xuất tử vong về bệnh tim mạch thấp. Chúng tôi sẽ
bàn thêm chi tiết nơi các chương kế.
DẦU ĐẬU NÀNH
Phần lớn thực phẩm có nguồn gốc
thực vật đều có chứa nhiều chất béo không bão hòa (unsaturated fats) và cũng
luôn luôn có chứa ít chất béo bão hòa (saturated fats). Dầu đậu nành chứa
khoảng 14 phần trăm chất béo bão hòa (saturated fat), 59 phần trăm chất béo
không bão hòa đa tính (polyunsaturated fat) và 23 phần trăm chất béo không bão
hòa đơn tính (monounsaturated fat). Chúng ta cần một hàm lượng nhỏ nhưng cần
thiết loại chất béo không bão hòa đa tính [01]. Chất béo không bão hòa đa tính
không làm gia tăng lượng cholesterol như là loại bão hòa.
Có một điều rất thích thú là
trong số lượng chất béo không bão hòa đa tính lại có chứa khoảng 8 phần trăm
loại linolenic acid, tức là loại omega-3 fatty acid. Omega-3 fatty acids là
loại dầu thường tìm thấy nơi dầu cá và có khả năng giảm thiểu sự nguy hiểm của
bệnh nhồi máu cơ tim và có thể giúp ngăn ngừa bệnh ung thư.
Omega-3 fatty acids rất hiếm có
trong các thực phẩm có nguồn gốc thực vật ngoại trừ đậu nành.[02] Mặc dầu có
chút khác biệt với dầu cá, nhưng cơ thể chúng ta biến đổi chúng thành loại dầu
omega-3 fatty acid giống như loại dầu cá, tuy nhiên, các nhà khoa học cho rằng
omega-3 fatty acid có trong dầu đậu nành tốt hơn loại có trong dầu cá vì
omega-3 fatty acid dầu cá có phản ứng phụ là làm cho các phân tử tế bào trở nên
không ổn định, bất bình thường, tức sản sinh ra các chất dễ gây nên chứng ung
thư oxygen free radicals và làm xáo trộn chất insulin gây ra chứng tiểu đường.
[03]
Một điều cần nói thêm ở đây là,
mặc dầu chất béo từ thực vật có chứa loại chất béo không bão hòa (unsaturated
fat), nhưng khi chiên nóng hay qua các tiến trình làm bánh nướng lại thường làm
giảm đến 75 phần trăm omega-3 fatty acid và thêm vào đó là biến đổi thành loại
dầu không tốt, có tên gọi là trans fatty acid. Trans fatty acid có đặc tính
giống như chất dầu béo bão hòa (saturated fat), có khuynh hướng gia tăng chất
cholesterol xấu LDL và giảm lượng cholesterol tốt HDL trong máu, do đó gia tăng
mức nguy hiểm về bệnh tim mạch.
Bảng Thành Phần Dinh Dưỡng
Các Thực
Phẩm Đậu Nành (Phần I)
Soyfood
|
Calories
|
Protein
(g)
|
Fat
(g)
|
Carbohydrate
(g)
|
Fiber
(g)
|
Calcium
(mg)
|
Soybeans, boiled 1/2 cup
|
149
|
14,30
|
7,70
|
8,50
|
1,80
|
88
|
Soybeans, dry roasted, 1/2 cup
|
387
|
34,00
|
18,60
|
28,10
|
4,60
|
232
|
Soy flour, full fat, roasted 1/2 cup
|
185
|
14,60
|
9,20
|
14,10
|
0,90
|
79
|
Soy Flour, defatted, 1/2 cup
|
165
|
23,50
|
0,30
|
19,20
|
2,10
|
120
|
Soy protein concentrated, 1 oz
|
93
|
16,30
|
0,13
|
8,70
|
1,10
|
102
|
Soy protein isolate, 1 ounce
|
95
|
22,60
|
0,95
|
2,10
|
0,07
|
50
|
Soymilk, 1/2 cup
|
165
|
3,30
|
2,30
|
2,20
|
0,92
|
5
|
Miso, 1/2 cup
|
284
|
16,30
|
8,40
|
38,60
|
3,40
|
92
|
Natto, 1/2 cup
|
187
|
15,60
|
9,70
|
12,60
|
1,40
|
191
|
Okara, 1/2 cup
|
47
|
2,00
|
1,10
|
7,70
|
2,50
|
49
|
Tempeh, 1/2 cup
|
165
|
15,70
|
6,40
|
14,10
|
2,50
|
77
|
Tofu, firm, raw, 1/4 block
|
118
|
12,80
|
7,10
|
3,50
|
0,10
|
166
|
Tofu,regular, raw, 1/4 cup
|
88
|
9,40
|
5,60
|
2,20
|
0,83
|
122
|
Sources: Composition of Foods:
Legume and Legume Products. USDA, Human Nutrition
Information Service, Agricultural Handbook Number 8-16. Rev. December 1986.
Bảng
Thành Phần Dinh Dưỡng
Các Thực
Phẩm Đậu Nành (Phần 2)
Soyfood
|
Iron
(mg)
|
Zinc
(mg)
|
Thiamine
(mg)
|
Riboflavin
(mg)
|
Niacin
(mg)
|
B-6
(mg)
|
Folacin
(mg)
|
Soybeans, boiled 1/2 cup
|
4,40
|
1,00
|
0,10
|
0,30
|
0,30
|
0,200
|
46,20
|
Soybeans, dry roasted, 1/2 cup
|
3,40
|
4,10
|
0,40
|
0,70
|
0,90
|
0,190
|
175,90
|
Soy flour, full fat, roasted 1/2 cup
|
2,40
|
1,50
|
0,20
|
0,40
|
1,40
|
0,150
|
95,50
|
Soy Flour, defatted, 1/2 cup
|
4,60
|
1,20
|
0,40
|
0,10
|
1,30
|
0,290
|
152,70
|
Soy protein concentrated,1 oz
|
3,00
|
1,20
|
0,90
|
0,04
|
0,20
|
0,040
|
95,20
|
Soy protein isolate, 1 ounce
|
4,00
|
1,10
|
0,05
|
0,03
|
0,40
|
NA
|
49,30
|
Soymilk, 1/2 cup
|
0,70
|
0,10
|
0,19
|
0,08
|
0,18
|
0,049
|
1,80
|
Miso, 1/2 cup
|
3,80
|
4,60
|
0,13
|
0,35
|
1,19
|
0,297
|
45,50
|
Natto, 1/2 cup
|
7,60
|
2,67
|
0,14
|
0,17
|
0,00
|
NA
|
NA
|
Okara, 1/2 cup
|
0,80
|
NA
|
0,01
|
0,01
|
0,06
|
NA
|
NA
|
Tempeh, 1/2 cup
|
1,90
|
1,50
|
0,09
|
0,09
|
3,80
|
0,250
|
43,20
|
Tofu, firm, raw, 1/4 block
|
8,50
|
1,30
|
0,08
|
0,08
|
0,31
|
0,080
|
23,70
|
Tofu, regular, raw, 1/4 cup
|
6,20
|
0,93
|
0,06
|
0,06
|
0,23
|
0,080
|
0,060
|
Sources: Composition of Foods:
Legume and Legume Products. USDA, Human Nutrition
Information Service, Agricultural Handbook Number 8-16. Rev. December 1986.
CÁC CHẤT CHỐNG UNG THƯ CỦA ĐẬU NÀNH
Hầu như ai cũng biết, đậu nành
có chứa rất nhiều protein, bao gồm tất cả 8 loại amino acids thiết yếu. Đậu
nành cũng là nguồn phong phú cung cấp calcium, chất xơ, chất sắt và chất sinh
tố B.
Tuy nhiên, cái mà các khoa học
gia thích thú nhất trong những năm nghiên cứu gần đây là sự khám phá ra các hóa
chất thảo mộc mà chúng tôi gọi là hóa thảo (phytochemicals) trong đậu nành, có
đặc tính chống lại các mầm ung thư, (anticarcinogen).
Anticarcinogen, là một hóa chất
thảo mộc có khả năng ngăn cản sự phát triển hoặc làm cho các mầm ung thư chậm
phát triển.
Cũng nên biết carcinogenesis là
một tiến trình phát triển ung thư, gồm có ba giai đoạn - giai đoạn bị nhiễm
chất tạo ra mầm ung thư (initiation), giai đoạn thúc đẩy hay khuyến khích
(promotion), tức là giai đoạn bị các chất khác kích thích và cổ võ mầm ung thư
phát triển, và giai đoạn phát triển (progression). Một tế bào bị nhiễm mầm ung
thư và được kích thích cho tăng trưởng trở thành tế bào ung thư (cancer cell).
Để trao đổi và đúc kết những
khám phá mới về đậu nành trong lãnh vực y khoa phòng ngừa, đặc biệt là ngăn
ngừa và chữa trị bệnh ung thư, nên Viện Ung Thư Quốc gia Hoa Kỳ (National
Cancer Institute) ở Washington, DC, đã tổ chức hội nghị khoa học vào ngày 27
tháng 6 năm 1990 quy tụ hầu hết các khoa học gia của các tổ chức nghiên cứu và
các viện đại học nổi tiếng trên thế giới để thảo luận về tác dụng chống ung thư
của đậu nành. Các nhà khoa học tham dự hội nghị, sau khi nghe phúc trình và
thảo luận, đã đồng ý rằng có những chứng cớ rõ rệt, là đậu nành có khả năng
ngăn ngừa bệnh ung thư, và họ xác định năm chất hóa thảo có đặc tính chống lại
mầm ung thư có trong đậu nành là: protease inhibitors, phytate, phytosterols,
saponins, và isoflavones.
Quả thật là kỳ diệu, chỉ một hạt
đậu nành nhỏ mà có chứa tới năm chất hóa thảo chống mầm mống ung thư! Thực tế
còn có nhiều hơn thế, như là chất Bowman-Birk Inhibitor (BBI), chất phenolic
acids, chất lecithin, và omega-3 fatty acids,...v..v...
Trước đây, một số trong năm chất
trên, đặc biệt là phytate, được xem là không tốt và thường được những người
chịu ảnh hưởng bởi các thế lực đối nghịch lấy cớ để yêu cầu dân chúng đừng ăn
thực phẩm đậu nành, nhưng bây giờ, các khoa học gia đã cùng thừa nhận nó giúp
chúng ta phòng ngừa bệnh ung thư.
PROTEASE INHIBITORS
Gần bốn mươi năm, protease
inhibitors được xem như là một chất không tốt về dinh dưỡng. Mãi đến năm 1980,
Dr. Walter Troll thuộc Trường Đại học y khoa New York University
Medical Center
đã khám phá ra rằng đậu nành nguyên sơ có khả năng ngăn cản không cho bệnh ung
thư phát triển nơi các loài động vật, do tác dụng của chất protease inhibitors
[04]. Tiếp theo sau đó, nhiều khoa học gia khác đã khảo sát và thử nghiệm chất
protease inhibitors đậu nành trong phòng thí nghiệm và thấy rằng nó có tác dụng
chống lại sự phát triển mầm ung thư kết tràng (colon),[05] ung thư phổi,[06]
ung thư pancreas,[07] và ung thư miệng.[08]
Năm 1987, Viện Ung Thư Quốc gia
Hoa Kỳ (National Cancer Institute) đã nghiêm trọng nhìn vai trò của protease
inhibitor như là một loại thuốc chữa bệnh ung thư.[09]
Protease inhibitors ngăn ngừa sự
tác động của một số genes di truyền gây nên chứng ung thư. Nó cũng bảo vệ các
tế bào cơ thể không cho hư hại, gây nên bởi những môi trường xung quanh như tia
nắng phóng xạ và các chất free radicals, chất có thể tấn công DNA.
Tuy nhiên, protease inhibitors
bị mất bớt đi sau khi đậu nành được biến chế qua phương pháp làm nóng. Thí dụ
như sữa đậu nành loại dehydrated soymilk còn lại 41,4%, đậu hũ còn lại 0,9% so
với bột đậu nành nguyên chất (raw soy flour).
PHYTATE
Hóa thảo phytate là một hợp thể
chất khoáng phosphorus và inositol. Giống như hóa thảo protease inhibitors,
phytate có một lịch sử lâu dài không được thừa nhận là một chất dinh dưỡng và
xem nó như là một chất hóa học có tác dụng gắn kết chất calcium và chất sắt
trong ruột, ngăn cản sự hấp thụ của chúng (binding minerals like calcium and
iron in the intestins, keeping them from being absorbed).[10]
Bởi vì đậu nành rất giàu chất
phytate, nên trước đây, các nhà khoa học cố tìm cách làm ra một loại đậu nành
có chứa hàm lượng phytate thấp, nhưng kết quả lại đổi khác. Họ đã tìm thấy hóa
thảo phytate không những có tác dụng ngăn ngừa mầm ung thư mà còn có khả năng
ngăn ngừa bệnh tim mạch. [11]
Hai nhà nghiên cứu khoa học là
Drs. E. Graf và J.W. Eaton, đã cho biết rằng những thực phẩm giàu chất phytate
cũng thường có nhiều chất xơ và những thực phẩm này bảo vệ chúng ta khỏi bị
bệnh ung thư kết tràng (colon cancer) không những vì chất xơ mà còn vì hóa thảo
phytate[12]. Kết quả trong phòng thí nghiệm cho thấy rằng phytate đã liên tiếp
ngăn cản không cho bệnh ung thư kết tràng phát triển và ngay cả ngăn cản không
cho phát sinh mầm ung thư vú [13]. Điều này cũng dễ hiểu vì phytate có tác dụng
ngăn cản sự hấp thụ chất sắt trong ruột.
Free radicals, một thứ chất cặn
không ốc xy là chất rất phản động và phá hoại (very reactive and destructive)
luôn luôn tấn công các tế bào, kể cả DNA. Chúng được xem là nguyên nhân sự nảy
mầm và phát triển không những bệnh ung thư mà còn bệnh tiểu đường và bệnh xưng
khớp xương arthritis.[14] Chất sắt (iron) sản sinh ra free radicals, nhưng khi
có sự hiện diện của hóa thảo phytate, chất sắt này sẽ bị hủy diệt khả năng sản
sinh và vì thế phytate hành xử giống như chất antioxydants, như vitamin C và
beta-carotene. [15]
Cũng nên biết, sau nhiều năm lưu
ý dân chúng rằng phytate có thể gây phương hại đến tình trạng thiếu chất sắt
trong cơ thể vì nó ngăn cản sự hấp thụ chúng, nay các nhà khoa học đã khám phá
ra rằng phytate bảo vệ chúng ta khỏi nạn có quá nhiều chất sắt.[16] Thặng dư
chất sắt cũng là một trong nhiều yếu tố ảnh hưởng nguy hại đến chứng bệnh nhồi
máu cơ tim (heart disease).[17]
Ngoài việc phòng ngừa free
radicals, ngăn cản không cho mầm ung thư kết tràng và ung thư vú, phytate cũng
còn có khả năng ngăn ngừa ung thư các loại bằng cách gia tăng hệ thống miễn
nhiễm qua việc gia tăng các hoạt động của các đơn vị tế bào phòng vệ (natural
killer cells), mà chúng có thể tấn công và phá hủy các tế bào ung thư.[18]
PHYTOSTEROLS
Phytosterols có liên hệ với
cholesterol. Tuy nhiên, cholesterol chỉ có nơi các thực phẩm có nguồn gốc từ
thịt động vật, ngược lại, phytosterol chỉ có trong các thực phẩm rau đậu.
Không giống như cholesterol,
phytosterol có tác dụng ngăn ngừa các bệnh về tim mạch qua việc giành chỗ thẩm
thấu qua ruột của cholesterol để vào máu, thành thử cholesterol không vào máu
được mà phải bài tiết ra ngoài, do đó số lượng cholesterol trong máu bị giảm,
Nhiều nghiên cứu khoa học đã cho
thấy rằng, phytosterol đã làm giảm lượng cholesterol trong máu, tuy nhiên tác
dụng thay đổi tùy từng cá nhân. Trong một nghiên cứu khác, lượng cholesterol
của một người giảm 12% và một người khác giảm 40%.
Cơ thể chúng ta không hấp thụ dễ
dàng phytosterol, vì thế nó được đẩy ra ngoài qua đường ruột. Sự kiện này đã
giúp kết tràng (colon) khỏi bị tác dụng của muối mật. Trong phòng thử nghiệm,
phytosterol đã giảm độ phát triển các mụn ung thư kết tràng đến 50 phần trăm và
chống lại ung thư da.
Những nhóm dân số tiêu thụ nhiều
thực phẩm đậu nành như Nhật Bản, những người ăn chay, và Giáo hội Cơ đốc Phục
Lâm Seventh-Day Adventists đã có tỷ xuất thấp về bệnh ung thư kết tràng (colon
cancer).[19,20]. Cũng nên biết người Tây phương tiêu thụ 80 mg phytosterol một
ngày, trong khi đó người Nhật Bản tiêu thụ khoảng 400 mg một ngày.
SAPONINS
Giống như phytate, saponin là
một loại hóa thảo có đặc tính giống như chất chống ốc xít hóa (antioxydant),
bảo vệ tế bào cơ thể chúng ta khỏi bị hư hại do tác dụng free radicals. Nó cũng
còn có khả năng trực tiếp ngăn cản sự phát triển ung thư kết tràng và đồng thời
làm giảm lượng cholesterol trong máu. Cũng nên biết những nhóm người ăn chay và
những dân tộc Á châu ăn nhiều thực phẩm đậu nành, thường có tỷ lệ thấp căn bệnh
ung thư kết tràng so với người Tây phương.
PHENOLIC ACIDS
Phenolic acid là một hóa thảo chống
ốc xi hóa anti-oxidants và phòng ngừa các nhiễm sắc thể DNA khỏi bị tấn công
bởi các tế bào ung thư.
LECITHIN
Lecithin là một hóa thảo quan
trọng, đóng một vai trò quyết định trong việc kích thích sự biến dưỡng ở khắp
các tế bào cơ thể. Nó có khả năng làm gia tăng trí nhớ bằng cách nuôi dưỡng tốt
các tế bào não và hệ thần kinh, nó làm vững chắc các tuyến và tái tạo các mô tế
bào cơ thể. Nó cũng có công năng cải thiện hệ thống tuần hoàn, bổ xương, và
tăng cường sức đề kháng. Khi hệ thần kinh thiếu năng lượng, chất lecithin ở đậu
nành sẽ phục hồi năng lượng đã mất. Đạm chất đậu nành có chứa 3 phần trăm chất
lecithin, bằng với lượng lecithin có trong lòng đỏ trứng gà.
Ngoài ra, lecithin cũng có tác
dụng giảm lượng cholesterol trong máu. Trong một nghiên cứu, Dr. Lister
Morrison thử nghiệm 36 grams soy lecithin cho một người và kết quả cho thấy
lượng cholesterol trong máu giảm 30 phần trăm. Một thí nghiệm khác cũng cho kết
quả tương tự. Tuy nhiên, một điều nên biết là trung bình người dân Hoa Kỳ tiêu
thụ hàng ngày khoảng 3 grams licithin, cho nên, dù cho lecithin có làm giảm
choleterol nhưng phải với một lượng thật lớn và trường kỳ, điều này không dễ áp
dụng.
Bowman-Birk Inhibitor (BBI)
BBI là một hóa thảo mới nhất tìm
thấy trong đậu nành, có khả năng ngăn cản tiến trình phát triển mầm ung thư.
Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học đã thử nghiệm và thành công nơi các mẫu
tế bào trong ống thử nghiệm và trong các thú vật qua cả hai dạng tinh chế PBBI
(Purified BBI) và cô đặc BBIC (BBI Concentrate).
Theo báo cáo kết quả tường trình
tại hội nghị khoa học thế giới về vai trò của đậu nành trong việc phòng bệnh và
trị bệnh, tổ chức tại Brussells, Belgium ngày 15-18 tháng 09 năm 1996, thì PBBI
và BBIC đã chế ngự được sự phát triển tiến trình ung thư miệng, vú, ruột già,
gan, phổi, và thực quản (esophagus), cả nơi các tế bào trong ống thử nghiệm lẫn
nơi các con chuột bạch và chuột đồng. Họ cho biết PBBI và BBIC không có tác hại
ở liều lượng dùng để chống lại ung thư. Hiện nay chất này đã được dùng trong
con người ở vài trung tâm nghiên cứu và kết quả sơ bộ rất là khả quan. BBIC đã
được thẩm định là loại thuốc mới bởi cơ quan F.D.A (IND # 34671; sponsor Ann R.
Kennedy, University of Pennsylvania of Medicine, Philadelphia, PA April 1992).
Cũng nên biết là tại Trường Đại
học University of California, Irvine, BBIC đã được áp dụng kể từ đầu năm 1997,
trong việc phòng ngừa ung thư miệng, dưới sự bảo trợ bởi Viện Ung Thư Quốc gia
Hoa Kỳ.
OMEGA-3 FATTY ACIDS
Omega-3 fatty acid là loại chất
béo không bão hòa (unsaturated fats) có khả năng làm giảm lượng cholesterol xấu
LDL đồng thời làm gia tăng lượng cholesterol tốt HDL trong máu [21]. Nhiều
nghiên cứu khoa học đã xác nhận tiêu thụ nhiều omega-3 fatty acids có trong các
loại thực vật như đậu nành, hạt pumpkin, walnuts, hemp, flax và các lá rau xanh
giúp chống lại sự phát triển các căn bệnh về tim mạch [22]. Tưởng cũng nên biết
omega-3 fatty acids còn gọi là alpha-linolenic acid, gồm hai thứ EPA và DHA
cũng có trong một vài loại cá biển và trong fish-liver oil supplements, nó cũng
có những khả năng giống như omega-3 trong thực vật nhưng có thêm một cái không
tốt là nó có tác dụng làm cho các phân tử tế bào cơ thể trở nên không ổn định,
tức sản sinh ra các chất oxygen free radicals là những chất gây ra ung thư và
gây xáo trộn chất insulin, sinh ra chứng tiểu đường. Vì thế các khoa học gia
thuộc Viện Đại Học Arizona [23] và Viện Đại Học Cornell [24] đã công bố sự nguy
hiểm của omega-3 fatty acid trong cá và dầu cá.
Ngoài những hóa thảo có công
năng ngăn ngừa bệnh tim mạch và ung thư nêu trên, trong đậu nành còn có một
chất mà nó đã làm say mê biết bao nhà khoa học nghiên cứu về đậu nành. Chất đó
là isoflavones mà chúng tôi dành nguyên một chương để nói về hóa thảo kỳ diệu
này.
ISOFLAVONES
Isoflavones là một loại hóa thảo
đã làm các nhà khoa học say mê nghiên cứu nhất, vì nó có cấu trúc và sự vận
hành tương tự như chất kích thích tố nữ. (female hormone estrogen). Vì thế các
nhà khoa học gọi nó là estrogen thảo mộc (plant estrogen hay phytoestrogens)
Sau khi nghiên cứu, các khoa học
gia đều cho rằng isoflavones có khả năng mãnh liệt chống lại các tác dụng gây
nên chứng ung thư liên hệ đến hormone.
Được biết quá hàm lượng estrogen
cần thiết trong cơ thể là yếu tố chính dẫn đến ung thư vú, ung thư buồng trứng
(ovarian), tử cung (uterine), và ung thư cổ của phụ nữ.
Trong nếp sống của người Tây
phương, dân chúng thường có quá nhiều estrogen bởi vì tiêu thụ nhiều protein
thịt động vật có sẵn chất hormone mà người ta chích vào làm cho chúng mau lớn
và nhiều sữa. Phần nhiều phụ nữ Tây phương mập vì chế độ dinh dưỡng nhiều thịt
và chất béo, do đó cũng làm tăng hàm lượng estrogen, (buồng trứng tự động sản
xuất thêm estrogen khi quá chất béo cần thiết). Nơi đàn ông chất béo thặng dư
được biến đổi thành androgens và là nguyên nhân dẫn đến bệnh ung thư nhiếp hộ
tuyến.
Hiện nay các nhà khoa học đã tìm
thấy ba chất genistein, daidzein và glycetein trong isoflavones đậu nành mà
genistein là tâm điểm nghiên cứu.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu,
GENISTEIN có những lợi ích dưới đây:
1. Giống như những isoflavones
khác, hành xử như là chống estrogen (anti-estrogen) bằng cách ngăn cản không
cho sản sinh estrogen khi quá hàm lượng estrogen cần thiết trong cơ thể.
2. Ngăn ngừa sự phát triển các
tế bào ung thư.
3. Kích thích các tế bào ung thư
làm cho chúng trở lại trạng thái bình thường.
4. Ngăn trở sự lớn mạnh của các
tế bào ung thư DNA nhưng không ngăn cản sự lớn mạnh của các tế bào bình thường.
5. Hành xử như là các chất chống
ốc xi hóa (anti-oxidant), bảo vệ các tế bào bình thường khỏi bị hư hại bởi sự
tấn công của các chất dễ gây chứng ung thư (free radical).
Bởi vì năm tạo tác lợi ích trên
của genistein, nên isoflavone được coi là một hóa thảo nhiệm mầu chống lại các
căn bệnh ung thư và các khoa học gia tin tưởng rằng genistein cần phải được
tinh chế thành dược liệu để điều trị các loại ung thư.
Trong một nghiên cứu của Viện
Đại Học Minnesota,
genistein đã được dùng thành công trong việc phá hủy các tế bào ung thư máu BCP
trong loài chuột. Ung thư máu BCP là một loại ung thư phổ thông nơi trẻ em.
Cũng có nhiều chứng cớ rằng chất
genistein đã chữa trị khỏi chứng nóng phừng, phòng ngừa bệnh xốp xương, và có
thể thay thế loại estrogen supplement Premarin và cancer-fighting drug
Tamoxifen trên thị trường bởi vì những thử nghiệm cho hay tác dụng của
isoflavones đậu nành vào hormone tương tự như tác dụng của loại thuốc chống ung
thư này [25].
Genistein cũng có khả năng ngăn
ngừa các bệnh nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não và sự phát triển tiến
trình xơ cứng mạch máu (atherosclerosis). Cuối cùng, genistein là một hóa thảo
khá mạnh chống lại các chứng bệnh sưng như bệnh sưng khớp xương (arthritis) và
các chứng bệnh liên hệ đến tình trạng đau nhức ở các khớp xương và bắp thịt như
rheumatoid arthritis.
Ngoài genistein ra, một chất
khác của isoflavone đậu nành là chất DAIDZEIN cũng có những lợi ích như
genistein:
1. Có khả năng ngăn ngừa sự hao
mòn xương và sự phát triển chứng bệnh xốp xương.
2. Khả năng chống ốc xi hóa
(anti-oxidant) và chống ung thư (anti-cancer).
3. Kích thích các tế bào ung thư
máu để trở thành thứ khác và chuyển hoán chúng về trạng thái bình thường.
Một cách tổng quát, tiêu thụ
chất isoflavone có trong protein đậu nành hằng ngày sẽ:
1. Làm giảm lượng cholesterol
trong máu ít nhất là 35%,
2. Không cần thiết phải dùng
estrogen supplement, một thứ thuốc có nguy cơ gây nên chứng ung thư vú, tử cung
và buồng trứng,
3. Phòng ngừa bệnh xốp xương.
Vì tác dụng cân bằng hormone
trong cơ thể, isoflavone có thể ứng dụng cho phụ nữ không phân biệt tuổi, trước
hay sau khi dứt kinh.
PHÒNG NGỪA BỆNH TIM MẠCH
Trong một nghiên cứu gần đây
được thực hiện bởi Dr. James W. Anderson, M.D. Professor of Medicine and
Clinical Nutrition thuộc viện đại học University of Kentucky,
Lexington [26]
với 730 tình nguyện viên để xem ảnh hưởng của việc ăn protein đậu nành với hệ
thống mạch máu qua việc đo lường chất cholesterol.
Sau khi thử nghiệm và phân tích
các dữ kiện thâu thập, kết quả cho thấy là hàm lượng cholesterol trong máu giảm
theo tỷ lệ với lượng tiêu thụ protein đậu nành: nhóm ăn 25 grams một ngày giảm
8.9 mg/dl, nhóm ăn 50 grams giảm 17.4 mg/dl, và nhóm ăn 75 grams protein đậu
nành giảm 26.3 mg/dl lượng cholesterol trong máu. Tính chung theo bách phân thì
tổng lượng cholesterol giảm 9.3%, lượng LDL cholesterol giảm 12.9%, lượng
triglycerides giảm 10.5%, và lượng HDL cholesterol tăng 2.4%.
Bởi vì mỗi 1% lượng cholesterol
giảm sẽ làm giảm mức độ nguy hiểm của bệnh nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu
não từ 2% đến 3%, cho nên với lượng trung bình cholesterol giảm 9.3%, độ nguy
hiểm về bệnh tim mạch có thể xảy ra sẽ giảm được từ 18% đến 28%.
Căn cứ theo kết quả, giáo sư Anderson đã khuyến cáo như
sau:
PHÒNG NGỪA TỔNG QUÁT, áp dụng
chung cho những người có sức khỏe tốt, 7 servings protein đậu nành mỗi tuần,
tức khoảng 10 grams mỗi ngày (8 oz sữa đậu nành mỗi ngày hay 4 cái soy burgers
mỗi tuần hay mỗi tuần ăn 4 lần đậu hũ mỗi lần 2 servings, mỗi serving là 3
ounces tức khoảng gần một phần tư khuôn đậu hũ Hinoichi Regular.)
PHÒNG NGỪA ĐẶC BIỆT, áp
dụng cho những người có bệnh tiểu đường hay có độ nguy hiểm cao về các bệnh tim
mạch hoặc những người có thân nhân bị các chứng bệnh về tim mạch, tiểu đường,
xốp xương, 14 servings protein đậu nành mỗi tuần tức khoảng 20 grams protein
đậu nành với 40 mg isoflavones đậu nành mỗi ngày, tương đương với khoảng 3/4
khuôn đậu hũ hiệu Hinoichi loại regular có trọng lượng 14 ounces (396 grams).
TRỊ LIỆU CHO NHỮNG NGƯỜI CÓ BỆNH
TIM MẠCH HAY XỐP XƯƠNG, 21
serving protein đậu nành mỗi tuần tức 30 grams protein với 60 mg isoflavones
mỗi ngày.
TRỊ LIỆU NHIẾP HỘ TUYẾN BẰNG SOY
SUPPLEMENT
Trong tạp chí Healthy and Natural Journal, Vol.2, No.2,
với tựa đề “Concentrated Soybean
Phytochemicals,” bác sĩ Walker
đã tường trình thành công việc trị liệu bệnh nhiếp hộ tuyến bằng tinh chế đậu
nành (concentrated soy supplement) như sau:
Ông Clarence Mohnehan 79 tuổi
quê quán ở Livonia tiểu bang Michigan, đã được tuyên bố là sẽ chết trong
vòng 60 ngày sau khi việc trị liệu bằng quang tuyến thất bại. Ung thư của ông
đã lan khắp hệ thống bạch huyết. Khi được chuyển qua bác sĩ Kenneth Pittaway để
chữa thử bằng đậu nành trị liệu pháp theo lời thỉnh cầu của người con trai. Lúc
này ông cân nặng 90 lbs., rất yếu, đau ở phần đơn điền, da vàng, mắt mờ đục.
Sau 9 tháng trị liệu bằng dinh
dưỡng rau đậu với uống tinh chế đậu nành concentrated soy supplement mỗi ngày,
ông Mohnehan đã bình phục hoàn toàn. Theo các tests của phòng thí nghiệm, ông
không còn một dấu hiệu ung thư nào trong cơ thể, da dẻ trông khỏe mạnh, các
hoạt động cơ thể bình thường, và cân nặng 135 lbs lúc xuất viện tháng 12-1994.
Trên đây là một case trong nhiều
case trị liệu bằng đậu nành thành công ở Hoa Kỳ. Thật ra lối trị liệu này đã có
từ lâu tại Trung Hoa nhưng mới được áp dụng tại Hoa Kỳ trong vài ba năm gần
đây. Hiện nay nhiều công ty Hoa Kỳ và Trung Hoa đang chạy đua trong việc sản
xuất dược liệu lấy từ tinh chất đậu nành dưới hình thức viên tablet và capsule.
Những thứ tinh chất đậu nành
supplement mới nhất có chứa từ 0,5 đến 2,5% isoflavone và genistein.
Tại Nhật Bản, trung bình một
người tiêu thụ từ 20 đến 100 mg chất isoflavones mỗi ngày từ các thực phẩm đậu
nành. Được biết nếu tiêu thụ hàng ngày khoảng 50 mg isoflavones sẽ ngăn ngừa
được một vài thứ bệnh ung thư.
Đậu hũ và tempeh, có chứa khoảng
10 mg isoflavones mỗi ounce. Để có đủ lượng isoflavones đậu nành cần thiết hầu
có thể ngăn ngừa bệnh ung thư và tim mạch, một người cần phải tiêu thụ từ 5 oz
đến 30 oz đậu hũ hay tempeh mỗi ngày. (mỗi một hộp đậu hũ Hinoichi loại regular
bán trên thị trường cân nặng 14 ounces). Ba mươi ounces đậu hũ có chứa khoảng
300 mg isoflavones và trong một viên soy supplement có tổng cộng 25.17 mg
isoflavones.
Tưởng cũng nên biết, trong tiến
trình biến chế đậu nành thành đậu hũ người ta có thêm vào chất calcium sulfate,
một chất bột không mầu sắc tìm thấy trong đá vôi, xương, răng, vỏ sò hoặc trong
chất tro của thực vật, để cho đông đặc, vì thế một hộp đậu hũ loại firm nặng 14
ounces có chứa khoảng 120 mg calcium, riêng loại silken chỉ có 40 mg. Chúng tôi
có e-mail hỏi giáo sư bác sĩ James Anderson[27] chuyên gia nổi tiếng về dinh
dưỡng tại Viện Đại Học Kentucky về sự nguy hại của chất này thì được giáo sư
cho biết calcium là một chất khoáng rất cần thiết cho cơ thể mà nhu cầu calcium
hằng ngày phải cần từ 800 đến 1200 mg. Số lượng calcium trong đậu hũ (3 ounces)
chỉ đáp ứng được 10% mà thôi, cần phải ăn thêm những thực phẩm khác nữa mới đủ.
Ông cũng cho biết là trong các cuộc nghiên cứu dài hạn và quan sát dân số các
khu vực tiêu thụ nhiều đậu nành, đã không tìm thấy một phản ứng phụ (side
effect) nào trong việc tiêu thụ nhiều thực phẩm đậu nành nói chung và đậu hũ
nói riêng..
Ngày nay, dân chúng Hoa Kỳ nói
riêng và Tây phương nói chung đã nhìn thấy ăn thực phẩm rau đậu như là một lối
sống bảo vệ sức khỏe cá nhân và gìn giữ môi sinh thế giới. Họ cũng đã thấy thực
phẩm đậu nành có giá trị dinh dưỡng rất cao và chất isoflavones cùng những hóa
thảo khác trong đậu nành đang được công nhận là dược liệu phòng ngừa và trị
liệu nhiều thứ bệnh.
Sau đây là bảng kê khai hàm
lượng chất isoflavone trong một số thực phẩm đậu nành.
Bảng
Thành Phần ISOFLAVONES Đậu Nành
Thực
Phẩm Đậu Nành
|
Isoflavones
(mg)
|
Protein
(gram)
|
Soymilk (1 cup)
|
40
|
|
Tofu (1/2 cup)
|
40
|
|
Tempeh (1/2 cup)
|
40
|
|
Miso (1/2 cup)
|
40
|
|
Textured vegetable protein,
cooked (1/2 cup)
|
35
|
|
Soy flour (1 cup)
|
50
|
|
Soybeans, cooked (1/2 cup)
|
35
|
|
Soy nuts (1 ounce)
|
40
|
|
DRINKS & POWDERS
|
|
|
Solgar Iso-Soy Powder (1
ounce)
|
103
|
12
|
Twinlab Isoflavone Powder (1
tsp)
|
85
|
34
|
GeniSoy Natural Protein Powder
(1 oz)
|
74
|
24
|
Take Care Soy Protein Powder
(1 oz.)
|
57
|
20
|
White Wave Silk Dairyless
drink (8 oz.)
|
55
|
8
|
GeniSoy Soy Protein Shake (1
oz.)
|
43
|
14
|
Whole Foods Vanilla Soy
Protein Powder (1oz.)
|
43
|
24
|
Edensoy Original drink (8 oz.)
|
41
|
10
|
White Wave Fruit Silk
Dairyless drink (8 oz.)
|
40
|
8
|
White Wave Silk Beverage drink
(8 oz.)
|
35
|
6
|
White Wave Chocolate Silk
Beverage drk (8oz)
|
32
|
5
|
Genista Powder (1 oz.)
|
26
|
26
|
Loma Linda Soyagen drink (8
oz.)
|
25
|
6
|
Naturade 100% Soy Protein
Powder (1 oz.)
|
13
|
25
|
FOODS
|
|
|
White Wave Baked Tofu (3 oz.)
|
52
|
19
|
White Wave Tempeh (3 oz.)
|
47
|
18
|
SoyBoy Not Dogs (1.5 oz. - 1
dog)
|
35
|
7
|
White Wave Tidal Wave Tofu (3
oz.)
|
34
|
10
|
GeniSoy Protein Bar (2 0z.-1
bar)
|
33
|
14
|
White Wave Tofu Organic (3
oz.)
|
26
|
9
|
Mori-Nu Lite Firm Tofu (3 oz.)
|
25
|
5
|
SoyBoy Breakfast Links (1
oz.-1 link)
|
20
|
5
|
Natural Touch Roasted
SoyButter (1 Tbs)
|
17
|
6
|
Morningstar Farms Quarter
Prime (3 oz. - 1 patty)
|
15
|
24
|
SoyBoy Leaner Wieners (1.5 oz.
- 1 wiener)
|
15
|
12
|
SoyBoy Soysage (2 oz.)
|
10
|
7
|
Morningstar Farms Ground
Meatless (2 oz.)
|
9
|
10
|
Morningstar Farms Grillers (2
oz.)
|
8
|
14
|
Ensure Bar (1 oz. - 1 bar)
|
5
|
6
|
Ensure, liquid (8 oz.)
|
2
|
12
|
Sustacal (8 oz.)
|
1
|
15
|
PILLS
|
|
|
Nature's Plus Ultra Isoflavone
100
|
100
|
0
|
Solary Genistein Phytoestrogen
|
56
|
0
|
Source Naturals Genistein
|
43
|
0
|
Solgar Genistein
|
40
|
0
|
Nature's Way Soy Isoflavones
|
25
|
0
|
Rainbow Light Soy Super
Complex
|
24
|
0
|
Sources: (1) Mark Messina, Ph.D.
Virgina Messina,
RD et al. The simple soybean and your health, Avery Publishing Group, New York 1994. P. 74
(2) Chart compiled by Wendy
Meltzer Nutrition Action Health Letter Volume 25 Number 7 September 1998.