Thể loại sách khác
Đậu Nành - Nguồn Dinh Dưỡng Tuyệt Hảo
Tâm Diệu Nhà Xuất Bản Phương Đông
20/10/2554 04:00 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

 

Chương 2. Đậu nành và phòng chống bệnh

 

ĐẬU NÀNH CHỐNG UNG THƯ NHƯ THẾ NÀO?

Như chúng ta đã biết qua các chương trước, isoflavones và các hóa thảo khác trong đậu nành có khả năng chống lại sự phát triển các mầm ung thư trong cơ thể, xuyên qua kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học. Trong chương này chúng tôi sẽ trình bày chi tiết về sự khảo sát dân số và những thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, cũng của các nhà nghiên cứu, về sự liên hệ giữa bệnh ung thư và việc tiêu thụ thực phẩm đậu nành.

CÁC QUỐC GIA ĂN NHIỀU ĐẬU NÀNH ÍT BỊ UNG THƯ

Nhìn bảng thống kê nghiên cứu dưới đây, chúng ta thấy rằng những quốc gia tiêu thụ nhiều thực phẩm đậu nành có tỷ suất tử vong về bệnh ung thư vú (breast cancer) và ung thư nhiếp hộ tuyến (prostate cancer) thấp hơn nước Hoa Kỳ, nơi mà chế độ dinh dưỡng không bao gồm thực phẩm đậu nành.

 

Country

Soy Intake (grams/day)

Breast Cancer

Rate

Prostate Cancer

Rate

Japan

29,5

6,0

3,5

Korea

19,9

2,6

0,5

Hong Kong

10,3

8,4

2,9

China

9,3

4,7

Unknown

United States

Negligible

22,4

15,7

 

Rates are age-adjusted; death are per 100.000 people

Sources: Cancer Facts and Figures-1992. American Cancer Society. Atlanta, GA, 1992

Ở Nhật Bản, tử suất về bệnh ung thư vú chỉ bằng một phần tư của Hoa Kỳ; ở Trung Hoa, bằng một phần năm; và ở Đại Hàn, chỉ bằng một phần mười.[01] Tử suất của Hoa Kỳ cũng còn cao hơn Hong Kong ba lần, nơi mà tử suất về ung thư vú cao nhất trong các quốc gia tiêu thụ nhiều thực phẩm đậu nành. Sự khác biệt tử suất giữa Hoa Kỳ và các quốc gia này về bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến còn cao hơn nữa. Sự so sánh khu vực dân số đã giúp các nhà khoa học học hỏi thêm về tác dụng của thực phẩm đối với bệnh ung thư. Sự kiện này cho thấy kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học phù hợp với kinh nghiệm của các dân tộc tiêu thụ nhiều thực phẩm đậu nành.

DÂN CHÚNG ĂN NHIỀU ĐẬU NÀNH ÍT BỊ UNG THƯ

Bảng trên cho thấy dân số (population) tiêu thụ thực phẩm đậu nành, nhưng còn cá nhân thì sao? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải lưu ý đến những cuộc nghiên cứu, gọi là “case-control studies”, là những cuộc nghiên cứu những nhóm người bị bệnh ung thư so sánh với những nhóm người không bị bệnh ung thư do sự khác biệt về chế độ dinh dưỡng.

Những nghiên cứu liên hệ đến việc dinh dưỡng bằng thực phẩm đậu nành này được thực hiện phần lớn ở các quốc gia Á châu như là Nhật Bản và Trung Hoa.

Tại các quốc gia Tây phương như Hoa Kỳ chẳng hạn, rất ít dân chúng ăn thường xuyên và trường kỳ các thực phẩm đậu nành như dân chúng ở các nước Á châu, nên khó tìm được những nhóm dân số thuần nhất để nghiên cứu. Ngược lại, dân chúng Á châu thường có những tập quán tương tự vế lối sống và ăn uống, nên chúng ta có thể dễ dàng so sánh những người tiêu thụ thực phẩm đậu nành và những người không.

Trong vòng hơn hai mươi năm qua, hơn ba mươi cuộc nghiên cứu đã được thực hiện ở nhiều nơi trên thế giới và cung cấp những dữ liệu quan trọng về sự liên hệ giữa việc tiêu thụ thực phẩm đậu nành và bệnh ung thư. Hầu hết kết quả cho thấy rằng những người ăn thực phẩm đậu nành thường xuyên có tỷ suất về bệnh ung thư thấp hơn những người không ăn hay ăn ít và không ăn thường xuyên thực phẩm đậu nành.[02]

Trong nhiều nghiên cứu cho thấy rằng những người ăn thực phẩm đậu nành hằng ngày giảm thiểu nguy cơ bị bệnh ung thư tới 50 phần trăm so với những người không ăn hay chỉ ăn một hay hai lần trong một tuần lễ. Nói một cách khác nếu bạn ăn thực phẩm đậu nành một hay hai lần mỗi tuần, cơ hội bạn bị bệnh ung thư nhiều gấp hai lần những người ăn thực phẩm đậu nành hằng ngày.

Ảnh hưởng việc tiêu thụ thực phẩm đậu nành không chỉ giới hạn một hay hai loại ung thư mà còn có tác dụng trên nhiều thứ bệnh ung thư, bao gồm các bệnh ung thư vú, kết tràng (colon), rectum, phổi, và ung thư dạ dày (stomach cancer). Được biết là hầu hết các cuộc nghiên cứu đều để ý đến sự tiêu thụ các thực phẩm đậu nành dạng không lên men (nonfermented soyfoods) như đậu hũ, protein đậu nành và sữa đậu nành. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là, không có một chứng cớ nào cho thấy tiêu thụ thực phẩm đậu nành lại sinh ra bệnh hay gia tăng nguy cơ bị bệnh ung thư.[03] Dưới đây là một vài kết quả nghiên cứu:

UNG THƯ VÚ (breast cancer)

Một nghiên cứu ở Singapore so sánh 200 phụ nữ bị bệnh ung thư vú với 420 phụ nữ không bị bệnh ung thu vú cho thấy rằng những người ăn nhiều thực phẩm đậu nành, khoảng 55 grams mỗi ngày, ít bị nguy cơ lâm bệnh ung thư tới 50 phần trăm so với những người không ăn hay ăn ít.[04]

UNG THƯ KẾT TRÀNG (Colon and Rectal Cancers)

Một nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy rằng những người ăn đậụ nành hoặc đậu hũ đã giảm mức nguy cơ lâm bệnh rectal cancer hơn 80 phần trăm [05] Đậu nành và đậu hũ làm giảm nguy cơ lâm bệnh ung thư kết tràng colon-cancer đến 40 phần trăm. Trong nghiên cứu này, chỉ một hay hai serving đậu hũ mỗi tuần được coi như là bảo vệ tốt.

Trung Hoa, chủ thể nghiên cứu là những người ít ăn thực phẩm đậu nành như đậu hũ, giá sống có độ nguy cơ về bệnh ung thư rectal ba lần nhiều hơn những người ăn đậu hũ thường xuyên. [06]

Ở Hoa Kỳ, ăn đậu hũ giảm nguy cơ bị lâm bệnh ung thư kết tràng 50 phần trăm.[07]

UNG THƯ DẠ DÀY (Stomach Cancer)

Ở Trung Hoa, thường xuyên uống sữa đậu nành có độ giảm nguy cơ bệnh ung thư dạ dày đến 50 phần trăm so với những người không uống.[08] Ngoài ra một nghiên cứu khác cũng cho thấy những người ăn đậu hũ và uống sữa đậu nành thường xuyên ít bị ung thư dạ dày đến 40 phần trăm so với những người không ăn hay ăn ít và không thường xuyên.[09]

Những người Hawaii gốc Nhật ăn đậu hũ có độ nguy cơ bệnh ung thư dạ dày thấp hơn một phần ba những nguười không ăn đậu hũ. [10]

UNG THƯ PHỔI (Lung Cancer)

Một nghiên cứu 1.500 người đàn ông ở tỉnh Yunnan đã cho thấy rằng những người thường xuyên ăn đậu hũ ít bị bệnh ung thư phổi đến 50 phần trăm so với những người không ăn. Càng ăn nhiều đậu hũ, độ nguy cơ lâm bệnh ung thư phổi cảng giảm. [11]

Ở Hong Kong, một nghiên cứu hơn 200 phụ nữ đã tìm thấy rằng những người ăn đậu hũ và các thực phẩm đậu nành khác hàng ngày đã giảm nguy cơ lâm bệnh ung thư phổi đến 50 phần trăm so sánh với những người ăn 3 lần một tháng. [12]

UNG THƯ NHIẾP HỘ TUYẾN (Prostate Cancer)

Ở Hawaii, một nghiên cứu 8000 người Hoa Kỳ gốc Nhật kéo dài hai mươi năm, đã cho thấy rằng những người gốc Nhật ăn đậu hũ một lần mỗi tuần hay ít hơn có độ nguy cơ lâm bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến nhiều hơn ba lần những người ăn đậu hũ hàng ngày.[13]

THỬ NGHIỆM ĐẬU NÀNH TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM

Mùa Thu 1989, Viện Đại học Alabama phổ biến một bản tin tức cho biết kết quả cuộc thử nghiệm đậu nành và bệnh ung thư vú. Kết quả cho thấy rằng nhóm chuột ăn đậu nành đã giảm 50 phần trăm ung thư vú so với nhóm chuột không ăn. Kết quả này dẫn đến những cuộc thử nghiệm khác và cung cấp dữ liệu căn bản chứng minh rằng đậu nành có tác dụng ngăn ngừa bệnh ung thư.

Ngoài ra, các cuộc thí nghiệm súc vật khác trong phòng thí nghiệm cũng cho thấy rằng đậu nành nguyên hay các sản phẩm đậu nành có tác dụng hữu hiệu ngăn ngừa bệnh ung thư gan, thận, dạ dày, nhiếp hộ tuyến và vú.

Một loại thí nghiệm khác, gọi là vitro study, tức là thí nghiệm các tế bào ung thư trong ống kính hay đĩa kính, cũng cho những kết quả tương tự. Một trong các thí nghiệm được xem là nổi tiếng là cuộc thí nghiệm năm 1981 bởi các nhà khoa học thuộc American Health Foundation ở New York.

Các khoa học gia từ lâu đã biết rằng khi thịt bò bằm (ground beef) được chiên nóng ở nhiệt độ cao, sẽ trở thành “mutagenic”, tức những chất có khả năng biến đổi genetic và gây nên tế bào ung thư. Khi Dr. Wang và các khoa học gia đồng nghiệp của ông ta thêm 10 phần trăm protein đậu nành vào thịt bò bằm đã chiên, họ khám phá ra rằng protein đậu nành đã ngăn chặn không cho lập thành chất mutagenic. [14] Vì thế để có sức khỏe tốt hơn bạn nên ăn ít thịt bò hay tốt nhất là nên bỏ thịt bò và thay thế vào đó là protein đậu nành.

Trong các nghiên cứu khác, bột đậu nành, protein đậu nành và các thực phẩm đậu nành khác cho thấy rằng có chứa chất chống ốc xy hóa, mà nó có tác dụng chiến đấu chống lại tế bào ung thư.

Nhiều hơn nữa, một nghiên cứu của các khoa học gia Nhật Bản cho biết rằng các sản phẩm đậu nành bao gồm đậu hũ, sữa, miso (soy paste), tương và protein, đều có tác dụng ngăn cản không cho lập thành hóa chất nitrits, tức chất hóa học có thể kiến tạo hay kích thích mầm ung thư. [15]

Một nghiên cứu khác của các nhà khoa học Nhật Bản cho biết miso, một loại thức ăn phổ thông dưới dạng lên men của Nhật đã bảo vệ cơ thể khỏi bị hư hoại của tia phóng xạ (radiation). Theo Dr. Shinichiro Akizuki thuộc bệnh viện St. Francisco ở thành phố Nagasaki, cho hay những bác sĩ nạn nhân của bom nguyên tử đã không bị những hư hoại gây ra bởi phóng xạ vì họ uống loại soup miso.[16]

Các dữ liệu nghiên cứu khoa học nêu trên cho chúng ta thấy rằng thực phẩm đậu nành che chở cho chúng ta chống lại các căn bệnh ung thư.

Trong những chương trước chúng ta đã biết về giá trị dinh dưỡng của đậu nành cũng như giá trị của các hóa thảo trong đậu nành về phương diện y khoa phòng ngừa, và trong các chương kế chúng ta sẽ thấy rằng thực phẩm đậu nành không những chỉ ngăn ngừa bệnh ung thư mà còn phòng ngừa các chứng bệnh tim mạch và một vài chứng bệnh thường xảy ra cho các nước Tây phương như bệnh tiểu đường, bệnh xốp xương, bệnh thận.

BỆNH TIM MẠCH

Trong mười năm qua, số người chết ở Hoa Kỳ vì bệnh tim mạch tương đối đã bớt đi, phần lớn nhờ vào những thay đổi lối sống hàng ngày của người dân, chương trình giáo dục quốc gia về cholesterol của chính phủ và những tiến bộ trong cách trị liệu bệnh nghẽn mạch vành tim (coronary artery disease) và bệnh tai biến mạch máu não (stroke), như là kỹ thuật giải phẫu ráp nối mạch vành tim (coronary artery bypass surgery). Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ, bệnh nghẽn mạch vành tim vẫn dẫn đầu về nguyên nhân làm chết người và bệnh tai biến mạch máu não vẫn đứng hàng thứ ba. Người viết gọi chung các bệnh nghẽn mạch vành tim, nhồi máu cơ tim (heart attack), bệnh tai biến mạch máu não hay nhồi máu não (stroke), bệnh suy tim (congestive heart failure), bệnh nghẽn mạch máu chân, và bệnh cao huyết áp là bệnh tim mạch.

Chắc có lẽ bạn đã biết về tầm mức quan trọng của cholesterol trong máu và sự tác dụng của chất mỡ béo (fat) và chất xơ (fiber) ảnh hưởng đến hàm lượng cholesterol và mức độ nguy cơ lâm bệnh tim mạch. Nhưng phần lớn chúng ta không biết đến chất dinh dưỡng khác ngoài chất mỡ béo và chất xơ. Loại protein chúng ta ăn có thể xác định chúng ta bị những bệnh liên hệ đến tim mạch hay không, và protein đậu nành giúp chúng ta giảm lượng cholesterol như thế nào.

BỆNH TIM LÀ GÌ?

Trái tim của bạn có kích thước bằng một nắm tay. Nó có nhiệm vụ bơm máu đến tất cả các mạch máu trong cơ thể hầu liên tục cung cấp máu tươi mang theo chất dưỡng khí (oxygen) và những chất dinh dưỡng tới các bộ phận cơ thể. Sau khi giao dưỡng khí, máu trở về phổi tiếp nhận dưỡng khí mới. Lẽ dĩ nhiên, giống như các bắp thịt khác, trái tim cũng cần cho chính nó dưỡng khí và các chất dinh dưỡng, mà nó lấy từ dòng máu lưu chuyển qua hệ thống mạch vành tim (coronary arteries). Chuyển động bóp nhả của trái tim để bơm máu gọi là nhịp đập (heartbeat). Trung bình một ngày 24 giờ, nhịp tim đập của bạn là 100.000 lần. Trong suốt 70 năm sống của bạn, trái tim thân yêu của bạn phải đập liên tục không ngừng nghỉ 2 tỷ 500 triệu lần (2.500.000.000).

Khi chúng ta ra đời, toàn bộ hệ thống mạch máu của chúng ta sạch sẽ, máu luân lưu dễ dàng và trái tim bơm máu làm việc bình thường. Dần dà theo thời gian, mạch máu chúng ta bị chất mỡ béo và cholesterol xấu bám và tích tụ vào bờ thành xung quanh mạch máu, làm mạch máu nhỏ hẹp lại và do đó trái tim phải bơm mạnh hơn và áp xuất máu gia tăng, đây gọi là áp huyết cao (high blood pressure), và là yếu tố chính (major risk factor) trong các yếu tố nguy hiểm đến bệnh tim mạch [17]

Nếu mạch máu bị ngăn cản hoàn toàn, máu không thể lưu thông được. Các bộ phận cơ thể tùy thuộc vào các mạch máu này để tiếp nhận dưỡng khí và các chất dinh dưỡng do máu đem đến sẽ chết. Khi một phần của bộ phận tim không nhận đủ dưỡng khí, phần bộ phận đó chết và bệnh nhồi máu cơ tim xảy ra (heart attack).

Tiến trình làm cứng và nghẽn các mạch máu bởi cholesterol và các chất mỡ béo được gọi là tiến trình xơ cứng động mạch (atherosclerosis). Đây là một tiến trình phức tạp, có lẽ bắt đầu với mức lượng cao của cholesterol trong máu tạo nên một số hư hại cho xung quanh bờ thành mạch máu. Hút thuốc lá cũng góp phần vào tiến trình này.

Ở các Quốc gia Tây phương, những người già thường hay bị xơ cứng động mạch. Tuy nhiên có một số Quốc gia khác trên thế giới, nơi mà có chế độ dinh dưỡng khác với người Tây phương lại không. Các khoa học gia cho biết rằng ở Hoa Kỳ, tiến trình xơ cứng động mạch bắt đầu từ lúc còn trẻ. Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, các nhà khoa học đã giải phẫu gần 2.000 quân nhân Mỹ tử thương để nghiên cứu về các vết thương chiến tranh. Họ lấy làm ngạc nhiên khi thấy ba phần tư binh lính tử trận này, có tuổi trung bình là 22, đều có tình trạng xơ cứng động mạch.[18] Giai đoạn bắt đầu của tiến trình xơ cứng động mạch cũng tìm thấy ngay ở trẻ em.[19] Vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi thấy thống kê cho hay là 45 phần trăm các nạn nhân bị bệnh nhồi máu cơ tim (heart attack) là những người dưới 65 tuổi [20]

CHOLESTEROL VÀ BỆNH TIM MẠCH

Nhờ cuộc Chiến tranh Thế giới Thứ hai người ta đã khám phá ra rằng tại những nước, vì thiếu thịt và các thực phẩm có nguồn gốc từ thịt đành phải ăn rau đậu thì lại có tỷ xuất chết về bệnh tim mạch thấp.

Vì cuộc quan sát này mà các nhà khoa học đã phát khởi những cuộc nghiên cứu sâu rộng khác về sự liên hệ giữa việc dinh dưỡng và bệnh tim mạch. Một công trình nghiên cứu lớn nhất thế giới được thực hiện từ năm 1949 và vẫn còn tiếp diễn đến ngày nay với 5.000 người nam và người nữ tham dự ở Framingham, thuộc bang Massachusetts. Trong số những kết quả được công bố là những người đàn ông 50 tuổi có lượng cholesterol cao hơn 295 mg/dl có mức độ nguy cơ lâm bệnh nhồi máu cơ tim (heart attack) nhiều hơn 9 lần những người có lượng cholesterol 200 mg/dl. Ngoài ra, họ không tìm thấy một người nào có lượng cholesterol dưới 150 bị bệnh nhồi máu cơ tim [21]

So sánh với Hoa Kỳ, nơi mà tỷ xuất tử vong về bệnh tim mạch là một phần hai, tại thành phố Thượng Hải (Sanghai) Trung Hoa, tỷ xuất tử vong về bệnh tim mạch chỉ có một phần mười lăm. Trung bình cholesterol tại Thượng Hải là 165, so sánh với Hoa Kỳ là 200.

Cũng nên biết, ở Hoa Kỳ, hơn 100 triệu người có hàm lượng cholesterol cao trên 200, với phân nửa những người này có hàm lượng trên 240. Thêm vào đó có 26 triệu trẻ em có mức lượng cao hơn bình thường của lứa tuổi. Theo Drs. M.S. Brown and J.L. Goldstein, khôi nguyên Nobel Prize về cholesterol thì hàm lượng trung bình tự nhiên của cơ thể trong khoảng từ 100 đến 150 mg/dl. Mức cholesterol này được thấy nơi những vùng dân số có chế độ dinh dưỡng ít chất béo và nhiều chất xơ.[22]

Nhưng tổng cộng hàm lượng cholesterol trong máu mới chỉ cho thấy một phần. Thực tế chúng ta có loại cholesterol xấu, có loại cholesterol tốt. Chúng tôi sẽ trình bày rõ ràng sau đây.

CÓ MẤY LOẠI CHOLESTEROL?

Cholesterol là một chất giống như chất béo, hoặc chất sáp (wax), đóng một vai trò quan trọng trong việc kiến tạo các tế bào và sản xuất một số kích thích tố (hormone) và vitamin D. Bởi vì tính chất của cholesterol giống như chất béo, tự nó không thể lưu thông được trong dòng máu nên phải nhờ một loại protein để chuyên chở. Đó là lipoprotein. Hỗn hợp protein, chất cholesterol, và chất béo được gọi tên chung là lipoprotein.

Một số lipoprotein được gọi là HDL (High-Density Lipoprotein), và một số được gọi là LDL (Low Density Lipoprotein), tùy thuộc tỷ trọng của hỗn hợp lipoprotein thấp hay cao. Hai loại này rất là khác biệt nhau về nhiệm vụ. LDL chuyển vận cholesterol tới các mô cơ thể. Nếu bạn có nhiều LDL cholesterol, bạn sẽ có cholesterol nổi bềnh bồng trong dòng máu, mà nó có khuynh hướng thích kết tụ xung quanh bờ thành các mạch máu tạo nên tình trạng xơ cứng động mạch. Hàm lượng LDL cholesterol càng cao càng nguy hiểm cho các bệnh tim mạch, ngay cả ở lứa tuổi còn trẻ. Ngược lại, HDL mang cholesterol trở về gan, để gan phá vỡ và loại bỏ ra khỏi cơ thể hay tái sử dụng. Thực tế, HDL kéo cholesterol ra khỏi bờ thành xung quanh các mạch máu về gan để thải hồi. Vì thế, HDL cholesterol là loại cholesterol tốt có tác dụng ngăn ngừa bệnh tim mạch.

Nếu tổng số lượng cholesterol ở mức trung bình hay thấp hơn thì tốt, nhưng điều quan trọng là nên so sánh hai con số HDL và LDL. HDL cao và LDL thấp vẫn luôn luôn tốt hơn.

Phần lớn cholesterol, khoảng 80% tức khoảng 1000 mg hàng ngày, là do gan sản xuất ra bằng cách kích thích chất béo bão hòa [saturated fats]. Việc gan kích thích chất béo bão hòa để sản xuất ra cholesterol giúp ta thấy được một điều là khi chúng ta dùng một loại thực phẩm tuy không có cholesterol nhưng lại chứa nhiều chất béo bão hòa thì cơ thể con người cũng có cơ làm gia tăng hàm lượng cholesterol, như khi chúng ta dùng dầu dừa hay nước cốt dừa để nấu ăn chẳng hạn.

Một phần cholesterol khác, khoảng 20% tức khoảng 300 mg là do chúng ta ăn trực tiếp các thực phẩm có nguồn gốc thịt động vật như là thịt, cá, tôm, cua, sò ốc, trứng, bơ, sữa. v..v... Nên nhớ là các thực phẩm có nguồn gốc thực vật không có cholesterol.

Cơ thể chúng ta tự sản xuất đủ hàm lượng cholesterol cần thiết hàng ngày, vì thế chúng ta phải ngăn ngừa không cho lượng cholesterol lên cao qua việc điều hòa chế độ ăn uống [diet] bằng cách loại bỏ tất cả thực phẩm có nguồn gốc thịt động vật vì thịt động vật có hai thứ làm gia tăng LDL cholesterol (xấu), là chất béo bão hòa saturated fat và cholesterol.

Tập thể dục thường xuyên cũng như không hút thuốc, không uống rượu và ăn một vài loại rau trái cây như cam, chuối, cà rốt, khoai lang, bí ngô và tỏi, cũng có thể giúp tăng lượng HDL cholesterol (tốt) trong máu.

CHẤT BÉO BÃO HÒA (SATURATED FAT)

Loại bỏ các thúc ăn có chứa cholesterol là một điều quan trọng, nhưng có một điều quan trọng khác không kém là phải hạn chế việc tiêu thụ chất béo bão hòa. Chất béo bão hòa cũng làm gia tăng nhiều cholesterol xấu LDL. Chất béo bão hòa tìm thấy nhiều nơi thịt, các thực phẩm bơ sữa và lòng đỏ trứng gà. Cũng tìm thấy nơi dầu dừa, dầu palm, chocolate cùng các bánh kẹo biến chế bán trên thị trường.

Triglycerides không phải là cholesterol mà là chất béo [fats], được cung cấp bởi các loại thực phẩm chúng ta ăn vào và cũng do cơ thể chúng ta tự sản xuất ra qua tiến trình chuyển hóa năng lượng. Chất béo gồm có ba loại mà chúng ta được biết đến qua danh từ y khoa là fatty acids hay phổ thông hơn là: (1) chất béo bão hòa [saturated fats], (2) chất béo không bão hòa đơn tính [monounsaturated fats], và (3) chất béo không bão hòa đa tính [polyunsaturated fats].

Tất cả chất béo chúng ta ăn từ bất cứ nguồn gốc thực phẩm nào cũng chứa ba loại chất béo này, nhưng có hàm lượng khác nhau. Phần lớn chất béo từ thực phẩm có nguồn gốc thịt động vật là loại chất béo bão hòa. Chất béo từ thực phẩm không có nguồn gốc thịt bao gồm cả ba loại.

Chất béo dùng để tạo năng lượng hoạt động cho cơ thể. Mỗi gram chất béo cung cấp 9 kilo ca lo ri, trong khi ấy mỗi gram chất đạm [protein] hay chất carbohydrate [chất đường] cung cấp 4 kilo ca lo ri. Số ca lo ri dư thừa sẽ được hoán đổi thành triglyceride và dự trữ ở các mô tế bào dưới dạng mỡ.

Như trên đã trình bày, chất béo bão hòa là loại chất béo xấu vì nó có khuynh hướng làm gia tăng lượng cholesterol xấu LDL trong máu. Ngược lại chất béo không bão hòa ở cả hai dạng được xem là chất béo tốt vì nó có khuynh hướng làm giảm lượng cholesterol xấu LDL.

Hàm lượng tổng cộng cholesterol, cholesterol tốt HDL, cholesterol xấu LDL và chất béo triglycerides trong máu được đo lường để thẩm định mức độ nguy hiểm báo trước có thể xảy ra chứng bệnh nhồi máu cơ tim hay còn gọi là động tim (heart attack) và chứng bệnh tai biến mạch máu não (stroke).

Như vậy lượng cholesterol và triglycerides bao nhiêu gọi là cao? Theo Viện Quốc gia Tim, Phổi, Mạch Hoa Kỳ và Chương Trình Quốc gia Giáo Dục Cholesterol thì hàm lượng cholesterol và triglycerides được khuyến cáo như sau:

 

TOTAL CHOLESTEROL

TÌNH TRẠNG

Dưới 200 mg/dl

Bình thường

Từ 200 đến 239 mg/dl

Ranh giới cao

Từ 240 hay cao hơn

Cao

HDL CHOLESTEROL

 

Từ 35 mg/dl trở lên

Bình thường

Dưới 35 mg/dl

Không tốt

LDL CHOLESTEROL

 

Dưới 130 mg/dl

Bình thường

Từ 130 đến 159 mg/dl

Ranh giới cao

Từ 160 mg/dl trở lên

Cao

TRIGLYCERIDES

 

Dưới 200 mg/dl

Bình thường (xem bên dưới)

Từ 200 đến 399 mg/dl

Ranh giới cao

Từ 400 đến 999 mg/dl

Cao

Từ 1000 mg/dl trở lên

Rất cao

Tổng Số Cholesterol / HDL

Bằng hay nhỏ hơn 5/1 là tốt

 

Trước đây, các nhà khoa học chỉ lưu tâm đến hàm lượng cholesterol trong máu để thẩm định mức độ nguy hiểm có thể xảy ra chứng bệnh đau tim và tai biến mạch máu não. Ngày nay họ đã nghiên cứu và khám phá ra rằng hàm lượng triglycerides trong máu cao cũng là dấu hiệu báo trước về bệnh tim mạch có thể xảy ra.

Trong một nghiên cứu khoa học, Bác sĩ Michael Miller, giám đốc cơ quan phòng ngừa bệnh tim mạch tại University of Maryland Medical Center ở Baltimore đã khảo cứu tình trạng chất béo triglycerides của 460 người nam và nữ ở lứa tuổi từ 30 đến 80 trong năm 1977 và 1978, và 199 bệnh nhân khác có kinh nghiêm về bệnh tim mạch trong suốt 18 năm sau đó, đã thấy rằng cả hai phái nam và nữ có lượng triglycerides trên 190 mg trong mỗi deciliter máu dễ bị bệnh tim gấp hai lần những người có lượng thấp hơn.

Nghiên cứu này cho rằng lượng triglycerides có tình trạng bình thường như trình bày ở bảng nêu trên được xem là quá cao, không phù hợp với những khám phá mới.

Lượng bình thường chất béo triglycerides có trong máu được đề nghị là từ 35 đến 160 mg/dl.

Một nghiên cứu khác được thực hiện bởi Bác sĩ Robert Rosenson, giám đốc Preventive Cardiology Center at Rush Medical College ở Chicago cũng xác nhận kết quả trên và cho biết thêm là triglycerides ở mức lượng 190 mg/dl bắt đầu làm máu lưu chuyển chậm, cơ tim phải hoạt động nặng nhọc hơn.

Thay đổi chế độ ăn uống bằng cách giảm tất cả thực phẩm có chứa chất béo [low fat diet], có thể làm giảm cholesterol, nhưng không được nhiều. Chỉ có chế độ ăn thuần rau đậu ngũ cốc trái cây, không ăn thịt cá, tôm cua sò hến và trứng bơ sữa [vegan] là hữu hiệu nhất. Cholesterol trung bình của những người này là 150 mg/dl. Chỉ riêng chất xơ [fiber] có trong cám gạo, cám gạo cũng có khả năng hữu hiệu làm giảm cholesterol. Vitamin C, E và Beta Caroten có nhiều trong rau quả nhất là đậu nành, cà rốt, khoai lang, broccoli và cam có tác dụng gia tăng lượng cholesterol tốt, làm cho máu lưu chuyển dễ dàng và loại trừ các cặn độc trong máu. Riêng đối với tỏi (garlic), không những có tác dụng làm giảm tổng lượng cholesterol mà còn có tác dụng hữu hiệu gia tăng hàm lượng HDL-cholesterol. Những nghiên cứu mới đây của Trường Đại học Y khoa New York Medical College ở Valhalla cho biết, tỏi có khả năng làm giảm từ 10 đến 29 phần trăm tổng lượng cholesterol, giảm 7,5 phần trăm LDL-cholesterol, giảm 20% triglycerides và gia tăng 31 phần trăm HDL-cholesterol.

Tuy nhiên, những người ăn thực phẩm rau đậu thuần túy (vegan), làm việc văn phòng, lại không thường xuyên tập thể dục, thường có lượng chất béo triglycerides cao hơn bình thường (trên 190, có người cao tới gần 400). Điều này cũng dễ hiểu vì hàm lượng triglycerides có liên hệ mật thiết với sự thặng dư ca lô ri, bởi vì số ca lo ri không được tiêu dùng hết sẽ được cơ thể chuyển đổi thành triglycerides. Chất carbohydrate (chất đường) đóng một vai trò không nhỏ trong việc gia tăng lượng trigycerides.

Như trên đã trình bày, hàm lượng chất béo triglycerides cao trong máu cũng có độ nguy hiểm về bệnh tim mạch như là cholesterol. Vì thế những người ăn thực phẩm rau đậu, ngoài việc kiêng cữ chất đường và dầu, cần phải tập thể dục thường xuyên như là đi bộ nhanh hay tập aerobic bốn ngày một tuần và mỗi lần khoảng 40 phút. Tập thể dục thường xuyên, ăn nhiều rau trái cây có vitamin C, E và Beta Caroten cũng như là tỏi, có tác dụng làm giảm chất béo triglycerides, đồng thời lại có thể tăng thêm cholesterol tốt HDL và giảm cholesterol xấu LDL.

TRANSFATTY ACIDS

Tưởng cũng nên biết có một thứ chất béo tên gọi là transfatty acid, chưa được sắp loại, vì nó không phải là chất béo bão hòa hay chất béo không bão hòa. Nó được các nhà dinh dưỡng gọi là mỡ ma (phantom fat) vì chưa được liệt kê vào nhãn hiệu thực phẩm.

Transfatty acid được hình thành khi các nhà biến chế thực phẩm biến đổi dầu thảo mộc không bão hòa ở dạng thể lỏng sang dạng thể cứng hay biến đổi thành loại dầu thảo mộc thương mại có thể chiên nhiều lần và làm cho thực phẩm được giòn. Khi dầu được biến đổi như vậy nó có tính chất giống như chất béo bão hòa và vì thế trans-fatty acid có khuynh hướng làm gia tăng lượng cholesterol xấu LDL, đồng thời làm giảm lượng cholesterol tốt HDL, do đó gia tăng mức nguy cơ lâm bệnh tim mạch.

Hiện nay trans-fatty acid nằm trong thành phần monounsaturated fats hoặc không nằm trong thành phần nào, nơi nhãn hiệu thực phẩm. Vì thế những thực phẩm biến chế dưới dạng “deep fried” như chip, crackers, cookies và pastries đều có loại dầu ma này, mặc dầu nhà sản xuất quảng cáo là cholesterol free hay low saturated fats. Bạn muốn biết hàm lượng mỡ ma này bao nhiêu, hãy làm con toán. Thí dụ, nhãn hiệu thực phẩm potato chip ghi như sau:

Total fat: 15 grams

Polyunsaturated fat: 5 grams

Saturated fat: 2 grams

Monounsaturated fat: 1 gram

Như vậy, hàm lượng còn lại 7 grams, chính là trans fatty acids (15 grams - 8 grams = 7 grams)

OMEGA-3 FATTY ACIDS

Fatty acids là những đơn vị hóa chất căn bản của chất béo (fat). Nó có thể là saturated, mono-unsaturated hay poly-unsaturated, tùy thuộc vào số lượng phân tử atoms lập thành. Tất cả thực phẩm đều có đủ ba loại fatty acids này, nhưng với hàm lượng khác nhau.

Đậu nành có chứa một hàm lượng cao poly-unsaturated fatty acids và là nguồn omega-3 fatty acids, có khả năng làm giảm lượng cholesterol xấu LDL đồng thời làm gia tăng lượng cholesterol tốt HDL trong máu [23]. Nhiều nghiên cứu khoa học đã xác nhận tiêu thụ nhiều omega-3 fatty acids có trong các loại thực vật như đậu nành, hạt pumpkin, walnuts, hemp, flax và các lá rau xanh giúp chống lại sự phát triển các căn bệnh về tim mạch [24]. Tưởng cũng nên biết omega-3 fatty acids còn gọi là alpha-linolenic acid, gồm hai thứ EPA và DHA cũng có trong một vài loại cá biển và trong fish-liver oil supplements. Những loại nầy cũng có khả năng giống như omega-3 trong thực vật nhưng có thêm một cái không tốt là nó có tác dụng làm cho các phân tử tế bào cơ thể trở nên không ổn định, tức sản sinh ra các chất oxygen free radicals là những chất gây ra ung thư và gây xáo trộn chất insulin, sinh ra chứng tiểu đường. Vì thế các khoa học gia thuộc Viện Đại học Arizona[25] và Viện Đại học Cornell [26] đã công bố sự nguy hiểm của omega-3 fatty acid trong cá và dầu cá. Ngoài ra những nghiên cứu dân số Eskimos ở những vùng Greenland cho biết là tỷ xuất bệnh nhồi máu cơ tim có thấp nhưng ngược lại bệnh tai biến mạch máu não và bệnh xuất huyết mũi lại cao [27]

PHÒNG NGỪA BỆNH TIM MẠCH BẰNG SOY PROTEIN

Một vài nghiên cứu đầu tiên cho rằng protein đậu nành có tác dụng giảm lượng cholesterol trong máu đã được thực hiện bởi Drs. S.D. Koury và R.E. Hodges, M.D., thuộc University of Iowa Medical School, vào những năm 1960s [28]

Gần mười năm sau, vào năm 1977, Dr. C.R. Sirtori, M.D., thuộc University of Milan đã nghiên cứu về sự tác dụng của protein đậu nành với lượng cholesterol trong 1.000 bệnh nhân. Ông đã tìm thấy kết quả là protein đậu nành đã làm giảm tổng lượng cholesterol từ 8 đến 25 phần trăm và từ 15 đến 25 phần trăm hàm lượng LDL cholesterol. Kết quả này không có liên hệ với chất béo vì chất béo trước và sau thử nghiệm không thay đổi [29]

Trong suốt 25 năm qua, kể từ khi những cuộc nghiên cứu đầu tiên hoàn thành, nhiều nghiên cứu khác tiếp tục cũng cho những kết quả tương tự. Dr. Kenneth Carroll thuộc University of Western Ontario, Canada, đã lượng giá kết quả của 40 nghiên cứu khác nhau về tác dụng protein đậu nành và cho biết là 34 nghiên cứu đã cho thấy là cholesterol giảm trung bình 15 phần trăm [30]

Gần đây, một nhóm các nhà nghiên cứu Italian đã nghiên cứu sự tác dụng của protein đậu nành nơi những bệnh nhân có hàm lượng cholesterol cao familial hypercholesterolemia. Đây là những trường hợp mà đa số cao vì di truyền. Các nghiên cứu gia áp dụng chế độ dinh dưỡng low fat trong bốn tuần cho các bệnh nhân. Kết quả cho biết hàm lượng cholesterol không thay đổi. Sau đó họ thay thế hoàn toàn protein đậu nành cho các bệnh nhân. Kết quả cho biết là hàm lượng cholesterol giảm 26 phần trăm. Do kết quả tốt của những nghiên cứu này, Bộ Y Tế Quốc gia Italy đã quyết định cung cấp miễn phí protein đậu nành cho tất cả bệnh viện điều trị cho bệnh nhân liên hệ đến tim mạch [31]

Trong một nghiên cứu khác, Dr. Susan Potter và các đồng nghiệp của bà thuộc Viện Đại học University of Illinois đã thêm 50 grams protein đậu nành vào dinh dưỡng trong bốn tuần và kết quả cho thấy là hàm lượng cholesterol giảm thấy rõ. Với những người thật cao cholesterol, chỉ cần thêm vào 25 grams protein đậu nành cũng có kết quả tốt. Những kết quả này cũng tương tự như kết quả tìm thấy tại Nhật Bản, khi họ cho thêm 20 grams protein đậu nành vào thực phẩm cho những người đàn bà có tình trạng cholesterol bình thường. Sau một tháng, hàm lượng cholesterol những người này giảm 10 phần trăm.

Một trong những kết quả của những nghiên cứu mới nhất của University of Kentucky đã được đăng tải bởi the New England Journal of Medicine số ra ngày 3-8-1995. Bác sĩ James W. Anderson, M.D., giáo sư y khoa và dinh dưỡng cùng các đồng nghiệp của ông đã dùng máy vi tính phân tích 38 công trình nghiên cứu trong 7 năm thử nghiệm 730 người tình nguyện. Kết quả cho biết là cholesterol xấu LDL giảm 13 phần trăm nhưng không làm giảm cholesterol tốt HDL. Tiêu thụ 47 grams protein đậu nành một ngày trong một tháng làm giảm 9,3 phần trăm LDL cholesterol.

ĐẬU NÀNH VÀ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG

Một số người vẫn cho rằng ăn đường nhiều sẽ bị bệnh tiểu đường. Sở dĩ có sự hiểu lầm như vậy là do bệnh tiểu đường được thẩm định từ số lượng đường (glucose) đo được trong máu. Được xem là bình thường khi lượng đường trong máu ở trong khoảng 70-115 mg/dl.

Thật ra, bệnh tiểu đường xảy ra khi cơ thể con người không sản xuất hoặc sản xuất không đủ chất insulin cần thiết hay chất insulin không hoạt động bình thường. Chất insulin được xem như là cái chìa khóa mở cửa để cho chất đường đi vào bên trong các tế bào. Khi vắng mặt chất này, chất đường không thể vào trong các tế bào, và vì thế đường phải được thải hồi ra ngoài qua đường tiểu, khi ấy con người cảm thấy mỏi mệt, khát nước, đi tiểu nhiều, và giảm trọng lượng.

Bệnh tiểu đường là căn bệnh gây chết người đứng hàng thứ ba và hiện nay có khoảng 14 triệu người bị bệnh này ở Hoa Kỳ. Hai mươi lăm phần trăm trong số này là những người bị mắc loại I, tức là loại, insulin-dependent, mà cơ thể họ không thể tự sản xuất, hay sản xuất rất ít insulin. Bẩy muơi lăm phần trăm còn lại là những người mắc phải loại II, tức loại, non-insulin dependent, mà cơ thể họ sản xuất đủ insulin, nhưng nó không hoạt động bình thường.

Bệnh tiểu đường loại II thường xảy đến với những người mập trên 40 tuổi, và phần lớn gây nên bởi ăn uống và cách sống, nhưng cũng có thể do di truyền.

Trước đây, người ta tin tưởng rằng, chất đường thông thường (a simple carbohydrate), như mật ong, mật mía, mật maple,.... hấp thụ nhanh chóng và làm gia tăng độ đường trong máu cấp kỳ hơn là loại đường tạp (complex carbohydrate) có trong tinh bột (starches), cho nên những người bị bệnh tiểu đường được khuyến cáo là nên tránh ăn đường loại simple carbohydrate và nên dùng loại complex carbohydrate.

Tuy nhiên những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, một chén cơm và một chén spaghetti cung cấp chất dinh dưỡng ngang nhau, nhưng với một số người, chén cơm lại làm cho độ đường trong máu lên cao hơn và nhanh hơn là chén spaghetti.

Năm 1981, Dr. David Jenkins thuộc Viện Đại học University of Toronto, phổ biến trên tập san the American Journal of Clinical Nutrition bảng chỉ số đường (glycemic index), biểu thị độ nhanh của thức ăn chứa nhiều carbohydrate được chuyển hóa thành glucose và đưa đường máu lên cao đến mức độ nào đó. Đường thông thường (simple sugar), như đường cát, mật ong, nho khô, có chỉ số đường 100 phần trăm. So sánh với chỉ số chuẩn này, đậu nành có chỉ số từ 10 đến 20 phần trăm, đậu lentil có chỉ số trung bình và gạo lức có chỉ số từ 60 đến 69 phần trăm.

Bảng index cho thấy rằng, đậu nành có tác dụng gia tăng chậm số lượng đường trong máu. Không giống như các loại đậu khác, đậu nành có chứa ít tinh bột hơn.

Thực tế, sự lợi ích của đậu nành đã bắt đầu có từ đầu thế kỷ thứ 19 khi Dr. John Kellog, người phát minh ăn sáng cornflakes, đã dùng thực phẩm đậu nành chữa trị bệnh tiểu đường.

Bốn thập niên sau đó, Dr. A. C. Tsai và các đồng nghiệp của ông đã thành công trong việc trị liệu các bệnh nhân tiểu đường bằng chất xơ đậu nành. Đậu nành nguyên hột có chỉ số đường glycemic thấp nhất trong tất cả các loại thực phẩm bởi vì các thực phẩm biến chế thường hấp thụ nhanh chóng.

Bác sĩ James W. Anderson, M.D., giáo sư y khoa và dinh dưỡng tại Viện Đại học University of Kentucky, đã công bố kết quả nghiên cứu về sự tác dụng của đậu nành trong việc trị liệu bệnh tiểu đường trên tờ New England Journal of Medicin số ra ngày 3 tháng 8 năm 1995.

Teresa Lancaster, vị phụ tá nghiên cứu và Jill Emmett, R.N., điều hợp viên của bác sĩ Anderson cho biết cuộc nghiên cứu liên hệ đến 12 bệnh nhân bệnh tiểu đường loại II trong năm năm.

Mười hai bệnh nhân được chia thành hai nhóm, một nhóm với chế độ dinh dưỡng bình thường bằng protein thịt và các sản phẩm có nguồn gốc từ thịt. Nhóm kia với chế độ dinh dưỡng đặc biệt với protein đậu nành và sữa đậu nành là chính. Vào ngày cuối của tuần lễ thứ 8 cả hai nhóm được thử nghiệm toàn bộ sức khỏe, bao gồm phân, nước tiểu và máu, sau đó họ được thay đổi chế độ dinh dưỡng ngược lại nhau trong thời kỳ hai, nghĩa là nhóm ăn thịt áp dụng chế độ của nhóm ăn đậu nành và ngược lại. So sánh các dữ kiện thu thập, các nghiên cứu gia thấy rằng chế độ dinh dưỡng bằng thực phẩm đậu nành có hiệu lực làm giảm lượng đường trong máu.

Kết quả nghiên cứu của bác sĩ Anderson nói trên cũng phù hợp với kết quả do phương pháp trị liệu bệnh tiểu đường loại II ấn định bởi các nhà khoa học thuộc Ủy ban Y sĩ Trách nhiệm Y khoa Hoa Kỳ nghiên cứu và khuyến cáo áp dụng từ năm 1982. Cái đặc biệt của phương pháp này là tiêu thụ một số lượng thật ít chất béo, dưới 10 phần trăm, nhiều chất xơ (35 phần trăm), không cholesterol và nhiều complex carbohydrate, bao gồm rau, trái cây, đậu hạt và tập thể dục thường xuyên. Sau ba năm áp dụng, 21 bệnh nhân trong số 23 bệnh nhân đã có hàm lượng đường trong máu bình thường [32]

Hai cuộc nghiên cứu khác gần đây được thực hiện bởi Viện Đại học Harvard kéo dài trong sáu năm với 108.000 nhân viên y tế tham dự, cho thấy nhóm người ăn uống thực phẩm có nhiều chất xơ và có chỉ số đường thấp như bánh mì whole grain, gạo nức, pasta, cereals, trái cây..., có khả năng giảm nguy cơ bệnh tiểu đường đến năm mươi phần trăm, so với nhóm người ăn thực phẩm ít chất xơ và có chỉ số đường cao như bánh mì trắng, khoai tây, mật ong, nho khô, bắp ngô, cơm trắng, nước ngọt coca cola..v..v..

Ngoài yếu tố dinh dưỡng, cách sinh sống cũng có thể là nguyên nhân tạo nên hay góp phần vào bệnh tiểu đường. Tại Hoa Kỳ, theo thống kê cho biết những nhóm dân tộc thiểu số như da đỏ, da đen, Hispanic và gốc Á châu có tỷ lệ cao về bệnh tiểu đường loại II.

Các khoa học gia thuộc Viện Đại học Cornell cho rằng, thay đổi môi trường sinh sống là nguyên nhân gây nên căn bệnh này trong cộng đồng thiểu số. Họ cũng giải thích là những nhóm dân này có những nhiễm sắc thể di truyền giúp cho cơ thể chuyển hóa thực phẩm thành năng lượng chậm hơn nhóm dân da trắng.

Điều này cũng dễ hiểu, vì những nhóm dân này có thể có một chế độ ăn uống không bình thường, bữa đói bữa no, trong một môi trường khó khăn, nên cơ thể tự động phản ứng lại bằng cách tiết kiệm thực phẩm, không cho chuyển hóa hết một lúc ra năng lượng, hầu giúp cho cơ thể tồn tại. Những nhóm dân này thuộc hạng mà y học gọi là slow metabolizer ngược với người Hoa Kỳ da trắng thuộc loại fast metabolizer.

Do vì hoàn cảnh chiến tranh triền miên và khí hậu khắc nghiệt, đa số người Việt Nam chúng ta trước đây ở quê nhà làm việc cực nhọc, lại lo lắng nhiều, nên sau khi sang Hoa Kỳ bỗng nhiên thay đổi nếp sống với tiện nghi vật chất, ăn uống dư thừa, lại không hoạt động thể chất nhiều như ở Việt Nam, làm cái gì cũng có máy móc làm giùm, cũng “remote control” nên do đó dễ bị bệnh tiểu đường và tim mạch, vì cơ thể chúng ta cũng thuộc loại chuyển hóa năng lượng chậm như các dân tộc thiểu số khác. Các thức ăn đầy bổ dưỡng liên tục đưa vào cơ thể, không được chuyển hóa nhanh thành năng lượng nên ứ đọng, thế rồi sinh ra bệnh.

Ngoài ra, các nhà khoa học cũng đã tìm thấy nơi những nhóm dân tộc thiểu số này có những hiện tượng đối kháng insulin, tức những hiện tượng gây xáo trộn insulin, làm ngăn trở không cho đường vào các tế bào.

Nói tóm lại, đa phần những người mắc bệnh tiểu đường loại I là do di truyền, phải tùy thuộc nguồn cung cấp insulin từ bên ngoài. Còn bệnh tiểu đường loại II, cũng có thể do di truyền, nhưng phần lớn là do ăn uống và cách sống nên có thể chữa trị hoàn toàn được.

Chế độ ăn uống bằng thực phẩm rau đậu mà nguồn thực phẩm căn bản là đậu nành và tập thể dục thường xuyên là phương pháp trị liệu hữu hiệu nhất hiện nay cho những người mắc bệnh tiểu đường loại II.

ĐẬU NÀNH VÀ BỆNH XỐP XƯƠNG

Mặc dầu thực phẩm đậu nành là một loại thực phẩm thần diệu chiến đấu chống lại các bệnh ung thư và tim mạch, nó cũng còn có khả năng chống lại một vài chứng bệnh khác, thường xảy ra nơi phụ nữ vào thời kỳ mãn kinh, như là bệnh xốp xương và các triệu chứng rối loạn khác như bốc hỏa (hot flashes), đổ mồ hôi (night sweats), cửa mình khô (vaginal dryness), vào thời kỳ tiền mãn kinh. Những chứng bệnh này là do sự suy giảm hay ngưng sản xuất chất kích thích tố nữ (female hormone estrogen) khi buồng trứng không còn mang noãn sào.

Bệnh Xốp Xương (osteoporosis) hay còn gọi là loãng xương, được mô tả là xương bị biến thể, trở nên giòn, xốp, và dễ gãy, đã tác hại trên 25 triệu người dân Hoa Kỳ mà phần lớn là phụ nữ. Hàng năm có khoảng 1,3 triệu phụ nữ bị bể xương chậu và làm thiệt hại đến 10 tỷ dollars mỗi năm trong dịch vụ săn sóc y tế medical care.

Người dân Hoa Kỳ cũng đã lưu tâm nhiều đến căn bệnh này và hàng năm đã chi tiêu 20 triệu dollars mua thuốc bổ trợ calcium (calcium supplement) Đó là chưa kể đến một vài loại thuốc estrogen trị xương xốp như Fosamax và Premarin chẳng hạn [33]

Calcium là một phần của câu chuyện, nhưng nó không phải là toàn thể câu chuyện. Nếu như chúng ta biết nhiều về chứng bệnh này, chúng ta sẽ thừa nhận rằng, giống như bệnh ung thư, tim mạch, và tiểu đường, nó cũng có khuynh hướng thuộc về những căn bệnh của sự giàu sang sung túc. Quả thực, bảng thống kê dưới đây cho thấy rằng những quốc gia tiêu thụ calcium nhiều và ăn thịt nhiều lại là những quốc gia có tỷ xuất cao của bệnh xốp xương [34]

 

Bảng 1

Sự Liên Hệ Giữa Việc Tiêu Thụ Calcium Và Bệnh Bể Xương Chậu

 

Quốc gia

Calcium Tiêu Thụ

(Mg per day)

Tỷ Xuất Bể Xương (per 100,000 people)

South Africa

196

6.8

Hong Kong

356

45.6

Singapore

389

21.6

New Guinea

448

3.1

Yugoslavia

588

27.6

Spain

766

42.4

Israel

794

93.2

Denmark

960

165.3

United States

973

144.9

United Kingdom

977

118.2

Holland

1,006

87.7

Norway

1,087

190.4

Sweden

1,104

187.8

Ireland

1,110

76.0

New Zealand

1,217

119.0

Finland

1,332

112.2

Sources: Xem cước chú số 3

UỐNG SỮA BÒ

Nhiều người Hoa Kỳ, kể cả trong giới y sĩ, đã cho rằng uống sữa bò bổ khỏe, bởi vì nó cung cấp nhiều calcium lẫn vitamin và đó là đường lối ngăn ngừa bệnh xốp xương. Tuy nhiên, nếu niềm tin này đúng, chúng ta có thể thấy nơi các quốc gia tiêu thụ ít calcium đáng lẽ phải có nhiều người bị bệnh xốp xương hơn những nơi khác. Thực tế, thống kê trên cho thấy rằng, những vùng dân số uống nhiều sữa bò lại có tỷ xuất căn bệnh này cao nhất, và ngược lại, những vùng ít dùng sữa bò lại có tỷ xuất bệnh xốp xương thấp nhất.

KIẾN TẠO XƯƠNG CỨNG CÁP

Trong cơ thể chúng ta có khoảng 3 pounds calcium, mà 99 phần trăm là xương. Một phần trăm còn lại luân lưu trong dòng máu nhằm đáp ứng các nhu cầu cần thiết của cơ thể. Nhiều quá hay ít quá calcium trong máu đều không tốt, vì thế ngay cả một lượng rất nhỏ, nó cũng phải được kiểm soát chặt chẽ.

Mặc dầu chúng ta cần calcium để tạo cho xương cốt mạnh mẽ, tuy nhiên calcium tồn trữ nơi xương cũng mang một nhiệm vụ không kém quan trọng. Khi lượng calcium lưu hành trong máu xuống thấp, nó sẽ tự động nâng lên.

Xương cốt cơ thể rất là năng động, Chúng liên tục làm tan nhuyễn và kiến tạo lại. Cho tới khoảng từ 30 đến 35 tuổi, chúng ta đã lưu trữ nhiều calcium trong xương hơn là mất đi. Từ khoảng 40 tuổi trở đi, cơ thể chúng ta bắt đầu rỉ thoát calcium nhiều hơn là chúng ta nạp vào. Đối với phụ nữ, tiến trình này gia tăng sau thời kỳ mãn kinh, khi mà cơ thể ngừng sản xuất estrogen. Theo các nghiên cứu, thông thường sau 40 tuổi, sự mất xương bắt đầu, cứ mỗi năm khối lượng xương bị thất thoát là 0,5 phần trăm. Sau khi chấm dứt vĩnh viễn chu kỳ kinh nguyệt, mỗi năm lại tăng lên từ 1 đấn 1,5 phần trăm, tốc độ mất xương này tiếp tục trong 10-15 năm và sau 20 năm mãn kinh, khối lượng xương mất khoảng 50 phần trăm.

Các nhà khoa học đồng ý rằng sau tuổi ba mươi, bạn khó mà làm xương cứng cáp hơn. Mặc dầu tiêu thụ calcium là điều quan trọng, nhưng với số lượng cao sẽ không làm xương bạn mạnh hơn một khi xương đã ngừng phát triển. Tuy nhiên, chúng ta có thể ngăn chặn hay ít nhất là làm tiến trình mất xương chậm lại hoặc là mất ít đi; và có nhiều yếu tố khác hơn là calcium. Một yếu tố quan trọng mà ít ai để ý đến đó là protein thịt (animal protein).

SỰ LIÊN HỆ GIỮA PROTEIN VÀ XỐP XƯƠNG

Sau khi khảo sát dân số nhiều vùng khác nhau trên thế giới bị bể xương chậu (hip-fracture), các nhà khoa học thấy rằng những vùng dân số tiêu thụ nhiều protein thịt động vật có tỷ xuất bị bể xương chậu cao hơn (xem bảng thống kê số 2). Đây cũng trùng hợp với những vùng dân số tiêu thụ nhiều calcium.

Quả vậy, chỉ những nước giàu có trên thế giới, như Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Âu, mới có khả năng ăn nhiều protein thịt, uống nhiều sữa và bồi bổ thêm calcium supplements.

Từ năm 1930, các nhà nghiên cứu đã cho biết rằng dinh dưỡng bằng protein thịt là nguyên nhân làm thất thoát calcium qua sự bài tiết.[35] Các nghiên cứu khác về sau này cũng xác nhận điều đó.

Trong những nghiên cứu năm 1974 - 1981, các nhà khoa học đã tìm ra rằng, tùy vào mức lượng calcium nạp vào (calcium intake), càng nhiều protein thịt tiêu thụ, càng nhiều lượng calcium bị thất thoát ra ngoài.[36]

Gia tăng lượng tiêu thụ protein thịt từ 48 grams một ngày tức lượng tối thiểu cần thiết, lên 95 grams một ngày tức lượng tiêu thụ trung bình của người Hoa Kỳ, cho thấy kết quả là lượng calcium bị thất thoát ra ngoài đến 50 phần trăm.[37]

 

Bảng 2

Sự Liên Hệ Giữa Protein Và Bệnh Xốp Xương

Quốc gia
Protein Thịt Tiêu Thụ

(Grams per day)

Tỷ Xuất Bể Xương

(per 100,000 people)

South Africa

10.4

6.8

New Guinea

16.4

3.1

Singapore

24.7

21.6

Yugoslavia

27.3

27.6

Hong Kong

34.6

45.6

Israel

42.5

93.2

Spain

47.6

42.4

Holland

54.3

87.7

United Kingdom

56.6

118.2

Denmark

58.0

165.3

Sweden

59.4

187.8

Finland

60.5

111.2

Ireland

61.4

76.0

Norway

66.6

190.4

United States

72.0

144.9

New Zealand

77.8

119.0

 

Khám phá thích thú nhất của nghiên cứu này là khi mà tiêu thụ một số lượng protein thịt thật cao, 142 grams một ngày, đã không thể nào giữ được cân bằng lượng calcium, ngay cả khi uống vào thật nhiều calcium 1.400 milligrams một ngày. Ở trạng thái cân bằng, số lượng calcium thất thoát bằng số lượng uống vào. Nếu bạn tiêu thụ nhiều protein thịt, cơ thể bạn sẽ mất nhiều calcium hơn, bất kể bạn uống vào bao nhiều calcium.

KHÔNG PHẢI TẤT CẢ PROTEIN ĐỀU GIỐNG NHAU

Dr. Neil Breslau thuộc Viện Đại học University of Texas Health Science Center đã thử nghiệm nhiều loại protein khác nhau để xem sự cân bằng của calcium. Ông cho ba nhóm người ăn thực phẩm với hàm lượng bằng nhau về protein và calcium nhưng khác nhau về loại protein. Nhóm thứ nhất ăn protein thịt, cheese và uống sữa bò, nhóm thứ hai ăn protein rau đậu, uống sữa đậu nành, ăn cheese và trứng gà; và nhóm thứ ba chỉ ăn protein từ các thực phẩm đậu nành. Kết quả cho thấy là nhóm ăn protein thịt và cheese đã mất 50 phần trăm calcium so với nhóm thứ ba chỉ ăn protein đậu nành. Nhóm người thứ hai, ăn hỗn hợp bị mất khoảng 25 phần trăm, tức khoảng giữa hai nhóm [38]

Sự lợi ích của ảnh hưởng protein đậu nành trong nghiên cứu này cũng tương tự như là những thử nghiệm đã thực hiện nơi động vật. Do vậy các nhà khoa học đã nhắc nhở chúng ta là tiêu thụ protein đậu nành vào thời kỳ còn trẻ sẽ giúp chúng ta ngăn ngừa bệnh xốp xương.

Cái gì đã làm protein đậu nành tác động tốt vào calcium như thế? Không ai biết chắc chắn, nhưng nên biết là protein được lập thành bởi các loại amino acids khác nhau với hàm lượng khác nhau. Protein đậu nành có chứa loại sulfur amino acids với hàm lượng thấp. Sulfur amino acids có tác dụng sản xuất ra hóa chất sulfate trong chất bài tiết nước tiểu (urine). Hóa chất sulfate này cản calcium không cho tái thẩm thấu vào máu bởi bộ phận thận và cuốn calcium vào nước tiểu để sau đó bài tiết ra ngoài. Vì thế, protein thịt có hàm lượng cao loại sulfur amino acids là nguyên nhân làm mất nhiều calcium.

Ngoài ra, protein thịt động vật có chứa hàm lượng cao hóa chất phosphorus, mà nó có tác dụng làm giảm lượng calcium bị mất qua nước tiểu (urine). Tuy nhiên, hóa chất phosphorus lại làm gia tăng lượng calcium thất thoát qua phân (feces). Vì thế, gia tăng lượng protein thịt sẽ làm gia tăng sự thất thoát calcium [39]

Một nguyên nhân khác làm giảm sự thất thoát calcium qua đường tiểu có thể là hóa thảo daidzein có trong isoflavone đậu nành. Hiện các nhà khoa học đã nghiên cứu tác dụng này qua một vài thử nghiệm dưới dạng thuốc và thấy có kết quả, nhưng họ cần có hàng loạt những cuộc nghiên cứu khác mới công bố kết quả thực sự.

Để kết luận, chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng nơi những quốc gia ăn nhiều protein có nguồn gốc thực vật, ăn ít thịt, mặc dầu số lượng calcium vào cơ thể ít hơn, xương cốt dân chúng vẫn cứng cáp hơn qua tỷ xuất bể xương thấp hơn. Các quốc gia này theo khuyến cáo của Cơ Quan Y Tế Thế Giới WHO (World Health Organization) là giữ mức calcium ở 400 và 500 mg một ngày, trong khi đó, Hoa Kỳ khuyến cáo dân chúng là 800 đến 1200 mg một ngày.

Có lẽ chúng ta không cần nhiều như vậy, chúng ta chỉ cần nhiều hơn để phát triển xương cốt trong thời kỳ còn trẻ và cần vừa đủ để cầm giữ ở trạng thái quân bình hầu ngăn ngừa bệnh xốp xương về sau.

Tuy nhiên nên nhớ, calcium chỉ là một trong các yếu tố tác dụng đến xương cốt. Hàm lượng tiêu thụ calcium ảnh hưởng bởi loại protein chúng ta ăn, cũng như thói quen tập thể dục và dinh dưỡng. Hoa Kỳ đã chiến đấu chống lại bệnh xốp xương bằng một loại vũ khí không thích hợp. Chiến đấu chống lại bệnh này đòi hỏi những sự thay đổi căn bản trong đường lối ăn uống cũng như lối sống của con người.

ĐẬU NÀNH VÀ CÁC TRIỆU CHỨNG RỐI LOẠN Tiền mãn kinh phụ nữ

Mãn kinh là sự chấm dứt vĩnh viễn chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ. Trước giai đoạn này người phụ nữ cảm thấy có những rối loạn từ thể chất đến tâm thần qua các triệu chứng như khó ngủ, đổ mồ hôi, bốc hỏa, khô âm đạo. Những triệu chứng này là do sự suy giảm hay ngừng sản xuất chất kích thích tố nữ (female hormone estrogen) trong người khi buồng trứng không còn mang noãn bào.

Phương pháp trị liệu thay thế chất kích thích tố nữ (hormone replacement therapy) đã được áp dụng mà hai trong các thuốc đó là Premarin, Fosamax (Alendronate). Tuy nhiên, phương pháp trị liệu này có những phản ứng phụ không tốt như giảm lượng bạch huyết cầu, lên cân, nhức xương, nhức đầu và gia tăng nguy cơ bị bệnh ung thư uterine. The North American Menopause Society ước lượng rằng chỉ có từ 16 đến 20 phần trăm phụ nữ Hoa Kỳ dùng hormones. Đa phần còn lại chỉ lấy thuốc rồi để trong tủ thuốc [40]

Theo các nhà nghiên cứu y học, bẩy mươi lăm phần trăm phụ nữ Hoa Kỳ và Âu châu cho biết là bị các triệu chứng rối loạn như nói ở trên, nhưng chỉ có khoảng hai mươi phần trăm phụ nữ Trung Hoa bị. Tỷ xuất bị bệnh ung thư vú cũng rất thấp ở những phụ nữ Á châu này. Tại sao như thế?

Họ giải thích rằng, thực phẩm đậu nành là thức ăn nòng cốt cho chế độ dinh dưỡng của họ. Trong những hóa chất thảo mộc được tìm thấy nơi đậu nành và một vài thứ hạt đậu khác thuộc loại phytoestrogen tức là một thứ kích thích tố thảo mộc (plant estrogens).

Trong hạt đậu nành có chất phytoestrogen tên gọi là isoflavones. Các nhà khoa học giải thích rằng phytoestrogen thay thế chất estrogen trong cơ thể phụ nữ khi estrogen này bị suy giảm và ngăn chận không cho các triệu chứng rối loạn như đã nói ở trên cũng như làm giảm mức độ nguy hiểm về bệnh tim mạch và bệnh xốp xương, mà không có khuyến khích sinh bệnh ung thư vú.

Họ cũng giải thích thêm là hai chất hóa thảo trong isoflavones đậu nành là genistein và daidzein vận hành giống như double agents: khi lượng estrogen trong người phụ nữ lên cao, chúng vận hành như là kẻ chống đỡ, ngăn chận một vài tác dụng của estrogen. Khi lượng estrogen xuống thấp, chúng thay thế và vận hành như estrogen. Vì thế, trong tiền mãn kinh (premenopausal), người phụ nữ có lượng cao hormone, phytoestrogen hành xử chống lại những mầm mống ung thư vú. Vào sau thời kỳ mãn kinh, phytoestrogens hành xử như là estrogens, làm giảm thiểu những triệu chứng bốc hỏa và những triệu chứng rối loạn khác,[41] cùng là giảm tiến trình mất xương.

ĐẬU NÀNH VÀ BỆNH UNG THƯ NHIẾP HỘ TUYẾN

Giống như bất cứ người vợ nào, Hillary Clinton cũng lo lắng đến sức khỏe của chồng bà, đặc biệt khi chồng bà, tổng thống Hoa Kỳ, thích ăn hamburgers và French fries. Hillary đã tự order hamburgers cho ông Clinton khi làm việc ở Tòa Bạch Ốc cũng như khi đáp chiếc máy bay Air Force One, nhưng thay vì chọn loại hamburgers mà tổng thống thích nhiều chất béo và ca lô ri, bà chọn loại làm bằng protein đậu nành ít chất béo, ít ca lô ri và không có cholesterol.

Những tin tức trên đây được phổ biến cho thấy rằng, mọi người đàn bà đều quan tâm đến sức khỏe cho người đàn ông của họ. Điều này cũng dễ hiểu vì thống kê cho hay người đàn ông càng ngày càng bị các bệnh ung thư, tai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim nhiều hơn đàn bà. Tuổi thọ trung bình của đàn ông cũng thấp hơn đàn bà và bệnh nhiếp hộ tuyến cũng xảy ra nhiều hơn bất cứ quốc gia khác.

Đó là thực tế tại Hoa Kỳ, nhưng ở Nhật Bản thì như thế nào khi mà người đàn ông Nhật ăn nhiều thực phẩm đậu nành? Đàn ông Nhật là một trong những người có tuổi thọ trung bình cao trên thế giới. Tuổi thọ trung bình (life expectancy) của họ là 82,5 tuổi, theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, so sánh với đàn ông Hoa Kỳ là 72,5 tuổi. Những nghiên cứu epidemiological cho biết rằng dân chúng Á châu ăn thực phẩm đậu nành nhiều hơn 50 lần dân chúng Hoa Kỳ.

Không ai có thể quả quyết nói vì ăn thực phẩm đậu nành, nhưng có một điều hiển nhiên sự khác biệt về sức khỏe đàn ông Nhật và Hoa Kỳ là tỷ xuất bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến của Nhật thấp hơn Hoa Kỳ rất nhiều.

Ngọc hoàn có kích thước bằng hột walnut trong bộ phận sinh dục đàn ông, sản xuất tinh dịch giúp nuôi dưỡng và chuyển vận tinh trùng. Phần lớn những người đàn ông sống lâu sẽ thấy khó khăn trong việc đi tiểu tiện và đi nhiều lần trong đêm. Đây là khởi đầu của tiến trình ung thư nhiếp hộ tuyến, còn gọi là tiền liệt tuyến mà danh từ y khoa gọi là benign prostate hyperplasia (BHP). The American Cancer Society ước lượng 18,54 phần trăm đàn ông Hoa Kỳ mắc phải bệnh này, và số người chết gia tăng một cách đều đặn từ năm 1930, và trong số này, người da đen chết nhiều hơn 40 phần trăm so với người da trắng. Mỗi năm ở Hoa Kỳ phát hiện khoảng 317.000 người bị và trong đó tử vong là 41.400 người. Để tránh bệnh sớm tái phát sau khi giải phẫu bướu ung thư, người ta phải cắt bỏ một hoặc hai tinh hoàn, nhằm giảm tối đa hormone kích thích tố sinh dục nam mà nó có thể kích thích bướu u phát triển trở lại. Tuy nhiên những người này lại hay bị gãy xương [42]

Chế độ ăn uống của người Nhật với nhiều thực phẩm đậu nành đã giúp họ ngăn ngừa bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến. Quả vậy tử xuất thấp về căn bệnh này của đàn ông Nhật đã minh chứng điều đó, giáo sư H. Adlercreutz và các đồng nghiệp của ông tại Viện Đại học the University of Helsinki ở Finland đã cho biết như vậy. Họ đã tìm thấy những loại estrogens thảo mộc (plant estrogens) trong máu của 14 đàn ông Nhật nhiều gấp một trăm lần trong máu của 14 người đàn ông Finland. Genistein trong isoflavone đậu nành chiếm nhiều nhất. Các nhà nghiên cứu Finland này cho biết hàm lượng cao phytoestrogen đã ngăn trở không cho các mầm ung thư tế bào phát triển trong người đàn ông Nhật và đấy là lý do họ giải thích vì sao người đàn ông Nhật ít bị ung thư nhiếp hộ tuyến.

William Fair, M.D., y sĩ trưởng niệu khoa (urology), và Warren Heston, M.D., thuộc Memorial Sloan-Kettering Cancer Center ở New York City, cộng tác cùng với American Health Foundation, đã thực hiện nhiều nghiên cứu về bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến. Bác sĩ Fair đã nói với Jane Brody của nhật báo New York Times ngày 18-10-1995 là “protein đậu nành đã có tác dụng ngăn chặn tiến trình ung thư nhiếp hộ tuyến”. “Chúng tôi không mong đợi sự hủy diệt các tế bào ung thư bởi chế độ dinh dưỡng nhưng nó đã có thể làm chậm lại tiến trình phát triển ung thư lâu hơn ba mươi năm.” Ông tuyên bố với báo Times như vậy.

Các nhà khoa học cũng tiên đoán là các bệnh ung thư, bao gồm ung thư kết tràng (colon), vú (breast), và nhiếp hộ tuyến (prostate) sẽ gia tăng nhanh chóng ở Nhật Bản trong tương lai bởi vì dân chúng Nhật đang thay đổi chế độ dinh dưỡng từ nền tảng đậu nành sang lối ăn uống của người Tây phương nhiều thịt, bơ, trứng sữa.

Chính protein thịt động vật là nguyên nhân đưa tới nhiều bệnh ung thư, trong đó có ung thư nhiếp hộ tuyến, ung thư kết tràng và ung thư vú”. James Hebert thuộc Viện Đại học the University of Massachusetts Medical School và các đồng nghiệp của ông ta đã viết trong tập san the Journal of the National Cancer Institute, được Reuters đăng tải ngày 04-11-1998.

Ông viết thêm: “Chất béo thịt động vật đã tạo nên nguy cơ cho bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến và các chứng ung thư khác bởi gia tăng hàm lượng chất kích thích tố sinh dục (sex hormone levels).

Hillary Clinton đã có lý khi cho chồng bà ăn dặm thêm mỗi ngày hai cái soy-burgers thay vì hamburgers toàn là protein thịt bò.

 

ĐẬU NÀNH VÀ CÁC CHỨNG BỆNH KHÁC

BỆNH THẬN (KIDNEY)

Thận, thật ra là hai bộ lọc nhỏ. Chúng có nhiệm vụ lọc bỏ những chất hóa học không cần thiết trong máu và tống khứ nó ra ngoài qua đường tiểu. Chúng lọc khoảng 45 gallons máu mỗi ngày. Khi thận bị hư hoại, các chất độc tố có thể tích tụ và gây nên chết người.

Tiêu thụ nhiều protein thịt động vật lâu dài có thể làm hư thận, đặc biệt là những ai đang bị rắc rối về bộ phận này, bởi vì thận bị bắt buộc phải làm việc nhiều hơn để lọc chất ammonia, một phó sản của tiến trình chuyển hóa năng lượng (metabolism). Protein thực vật như protein đậu nành chẳng hạn không có tác dụng này.

Trong một nghiên cứu bên Anh Quốc, nhịp lọc máu của thận gia tăng lên 16 phần trăm sau khi ăn protein thịt so với sau khi ăn protein đậu nành.[43]

Cũng trong một nghiên cứu khác được đăng tải trên tập san Lancet, rằng khi những bệnh nhân bị bệnh thận được yêu cầu chuyển đổi ăn protein thịt sang chế độ dinh dưỡng bằng protein đậu nành, kết quả cho thấy là không những cholesterol trong máu giảm thấp, mà lượng protein họ thải hồi qua đường tiểu, mức đo lường của bệnh thận, cũng giảm.[44]

Chế độ dinh dưỡng nhiều protein thịt cũng giúp tạo nên sạn thận. Chất calcium thặng dư trong cơ thể sẽ được thải hồi ra ngoài bằng đường tiểu qua bộ phận thận. Nhưng nếu quá nhiều, thận làm việc không xuể, chất calcium sẽ kết tủa và thành sỏi. Sạn thận thường có nhiều nơi đàn ông hơn là phái nữ.

Trong một nghiên cứu, những người ăn thực phẩm rau đậu bên Anh Quốc thường áp dụng một chế độ dinh dưỡng thấp protein nên ít bị sạn thận đến 50 phần trăm so với toàn dân số.

Một nghiên cứu lớn khác liên quan đến 45 ngàn người đàn ông đã cho kết quả trên tờ New England Journal of Medicine là tiêu thụ protein thịt có liên hệ trực tiếp đến sự thành lập và phát triển sạn thận: càng ăn nhiều protein thịt, càng dễ bị sạn thận.[45]

BỆNH CAO ÁP HUYẾT

Như chúng tôi đã trình bày, protein đậu nành có chứa sulfur amino acids với một hàm luợng thấp so với sulfur amino acids trong protein thịt, có tác dụng làm giảm bài tiết calcium. Ăn nhiều protein cũng tạo nên sự lưu giữ muối trong cơ thể vì cơ thể quá bận rộn với việc làm tan và bài tiết các phó sản của sulfur amino acids trong tiến trình biến năng. Khi chất muối ít bị bài tiết, nhiều chất muối bị lưu lại trong máu, làm tăng áp xuất máu. Bởi vì sulfur amino acids đậu nành có hàm lượng thấp, chất muối có thể bài tiết dễ dàng mà không bị cản trở, đó là một trong các lý do những người ăn thực phẩm rau đậu thường ít bị cao áp huyết hơn là những người ăn thịt.[46]

SẠN MẬT (GALLSTONES)

Protein thực vật, đặc biệt là protein đậu nành, cũng giúp ngăn ngừa sự thành lập và phát triển sạn trong túi mật. Thực tế, ít nhất một nghiên cứu cho biết là protein đậu nành đã có tác dụng làm tan rã (dissolve) những viên sạn sau khi chúng thành hình trong túi mật.[47] Đây cũng là lý do tại sao sạn mật xảy ra nhiều gấp đôi nơi những người ăn thịt so với những người ăn thực phẩm rau đậu.[48]