Luân Hồi, Tái Sinh Là Gì?
Luân hồi hay tái sinh là sự chuyển
hóa sự sống của một sinh vật qua nhiều kiếp theo sự tái sinh. Đây chính là
triết thuyết tôn giáo được phát triển cách đây đến mấy nghìn năm. Thuyết này
bàng bạc trong dân gian, khắp nơi trên thế giới, ở Ai Cập, Hy Lạp cổ đại, nhất
là Ấn Độ.
Các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Do Thái giáo và cả những người theo
thuyết thần trí học (theosophy) đều đề cập đến vấn đề này... thuyết luân hồi lan
truyền hầu như toàn bộ các nước ở Châu Á. Người Tây phương hiểu luân hồi qua từ
Metempsychosis, Tranmission hay
Reincarnation. Theo Webster's New World Encylopedia (1992) thì thuyết luân hồi
bao hàm ý nghĩa rằng sau khi chết, linh hồn của loài người cũng như loài vật và
ngay cả loài cây cỏ cũng sẽ chuyển sinh từ cơ thể này qua cơ thể khác từ dạng
này qua dạng khác tùy theo những gì đã gây ra lúc còn sống.
Thuyết luân hồi hay tái sinh có ý
nghĩa vô cùng sâu sắc và chi li: mọi sinh vật, sau khi chết sẽ chuyển hóa từ
một thân xác này sang một thân xác khác. Ngay cả loài vật và loài cây cỏ cũng
vậy. Luân hồi hay tái sinh (Reincarnation) là sự chuyển hóa hay sự chuyển sinh,
đầu thai (transmission) của linh hồn. Nói rõ hơn là khi chết, linh hồn sẽ
chuyển từ thân xác này để nhập vào một thân khác. Khi chết thân xác hủy hoại tan
rã, chỉ có linh hồn tồn tại.
Theo Phật giáo thì luân hồi, tái
sinh là một phản ứng nghịch lại, là một sự báo ứng tự nhiên của mọi hành động.
Mỗi hành động đều có những phản ứng dội lại cho hành động gây ra. Chữ luân hồi
theo Phật giáo lấy từ Phạn ngữ là Samsàra.
Con người phải trải qua nhiều kiếp
cho đến khi chịu đủ sự trả quả tương xứng về những gì đã làm và không tạo nên
nghiệp xấu thì mới mong được tới cõi an lạc mà Phật giáo gọi là cõi Niết Bàn
(Nirvana). Những ai phạm điều xấu, ác thì khi chết phải đọa vào địa ngục và
chịu những sự xử phạt công minh.
Theo thuyết của Phật giáo có mười
nghiệp dữ (sát sinh, trộm cắp, dâm dật, tham muốn, tức giận, si mê) đối lại với
mười nghiệp dữ có mười nghiệp lành như không giết hại, không tham lam trộm cắp,
không giận hờn, không mê muội...) nếu khi sống tạo nghiệp ác thì khi chết phải
chịu luân hồi tái sinh vào thân phận kẻ chịu khổ đau vì phải trả cái nghiệp xấu
ấy. Nếu khi sống tạo nghiệp lành, thì khi chết sẽ luân hồi đầu thai vào thân
xác mới có đời sống sung sướng tốt lành hơn. Nói tóm lại tất cả những gì mà bản
thân đang phải trải qua ở hiện tại chính là kết quả của những nghiệp gì mà kiếp
trước bản thân đã làm. Và tất cả những gì mà hiện tại bản thân hành động thì đó
sẽ là cái nghiệp được tạo lập trong hiện tại để có nghiệp báo ở tương lai tức
là sư báo ứng của việc mình làm.
Các nhà nghiên cứu về thuyết luân
hồi tái sinh lúc đầu tưởng rằng thuyết này chỉ phát triển ở các nước Á Châu,
nhất là vùng Đông Nam Á. Nhưng dần dần họ khám phá ra rằng không riêng gì ở
vùng Á Châu mà ở các nước Ai Cập, Hy Lạp cổ đại như nơi vùng ốc đảo xa xăm,
thuyết này vẫn bàng bạc trong dân chúng và cả người dân Da đỏ cũng thường tin
vào thuyết tái sinh. Các nhà nghiên cứu hiện tượng luân hồi lúc đầu rất ngạc
nhiên về sự trùng hợp lạ lùng của một số lớn người Da đỏ ở Bắc Mỹ Châu giống
một số lớn người dân Châu Á về niềm tin có sự tái sinh. Nhưng khi xét về mặt
địa lý họ thấy không có gì đáng ngạc nhiên vì thời
đại Băng Hà, Á Châu và Mỹ Châu đã dính liền với nhau một cách tạm thời từ hai
vùng Tây Bá Lợi Á (Siberia) và Alaska. Lúc bấy giờ người Á Châu đã liên lạc
được với vùng Bắc Mỹ qua ngả này và ngay cả một số loài thú cũng vậy. Bác Sĩ
Mills đã đưa ra những điểm tương đồng về sự kiện này như sau.
Người Tây Tạng tin rằng, vì Phật
Sống Lạt Ma của họ khi qua đời sẽ lại tái sinh để chăm dắt và che chở cho dân
tộc họ. Cũng vậy, những người Da đỏ Bắc Mỹ Châu tin rằng vị Tù Trưởng bộ lạc
đôi khi chọn sự đầu thai trở lại để giúp đỡ những người trong thị tộc. Ngày
nay, một số tôn giáo khác tuy nhiên một số người dân ở đây vẫn còn tin vào sự
tái sinh. Thường thì họ suy đoán qua giấc mộng, qua lời nói bất chợt của người trong
nhà, nhất là của đứa bé. Sự trùng hợp về hình hài, cử chỉ, hiện tượng v.. v...
đều được chú ý cẩn thận. Đôi khi họ còn tin tưởng rằng người chết hiện về dù
trong giấc mộng cũng bao hàm ý tưởng là họ sắp đầu thai trở lại. Đôi khi họ còn
để ý qua dấu bớt, vết sẹo trên da của trẻ sơ sinh. Nếu giống với dấu vết mà
người đã chết trước đó có thì có thể nghĩ rằng người ấy đã lại tái sinh. Cũng
có khi họ quan sát đứa trẻ về cách cư xử, ăn ở của nó. Nếu giống với người đã
chết thì đó là điều
đáng quan tâm. Nhiều người trước khi chết thường trối trăn lại lời ao ước muốn
hay không muốn được sinh ra lần nữa.
Nghĩa Sâu Xa Của Hai Chữ Luân Hồi.
Chữ luân hồi còn được hiểu rộng
nghĩa hơn nữa khi nhắc đến thuyết Linh Vật (Animism). Bách khoa tự điển cho
field Enterpises Educational corporation (Hoa Kỳ) xuất bản năm 1961 ghi rằng
thuyết Linh Vật tin tưởng rằng mọi vật thể trong vũ trụ đều có tính linh và
cũng chịu luân
hồi nhân quả. Mọi sinh vật đều có linh hồn, Ngay cả con người có vị thế tối cao
trong các loài đôi khi vẫn phải tái sinh làm loài thú như ngựa, bò heo tùy theo
những gì mà người ấy đã tạo trước đó. Cái mà người ấy đã gây ra được gọi là
nghiệp. Theo D. T. Suzuki nhà tâm lý, triết học nổi danh thế giới, khi nghiên
cứu về vấn đề tái sinh từ người qua loài thú đã ghi nhận rằng "cái mà ta
gọi là những nghiệp có thể xem như tương đương với những bản tính mà ta thường
thấy từ những con vật ấy". Từ đó ông nêu lên những thí dụ như có những con
người lúc sống đã có những hành động, cử chỉ, cách sống biểu lộ qua những gì
gọi là "thói"1 thì khi chết có thể tái sinh thành con vật có những
đặc tính tương tự. Như kẻ phàm ăn, tục tĩu, thô lậu, xấu xa, hèn hạ, dơ bẩn,
sau khi chết có thể họ sẽ tái sinh thành loài heo. Trái lại những kẻ khi sống
thường ranh mãnh mưu lược, ganh tỵ, thâm hiểm, xảo quyệt... sau khi chết có
thể chuyển sinh thành chồn cáo, chuột, khỉ. v. v... lý luận này mới nghe qua sẽ
không hiếm cho là kỳ quặc mơ hồ. Cũng có lý luận ngược lại rằng những người khi
sống có những tướng cách ấy là hình ảnh của loài vật thấp hèn ở tiền kiếp.
Những thuyết luân hồi tái sinh thật sự đã
trình bày sự việc vấn đề một cách chi li, phức tạp như đã nói và ai trong chúng
ta dù không tán thành, đồng ý nhưng cũng ít nhất một lần trong cuộc, sẽ tự hỏi
tại sao trong đời lại có những người hình dáng, cử chỉ, hành động, cách sống
giống loài thú? Có người khi nằm ngủ co
quắp hay co co rúm lại, có người ngáy vang như sấm, có những đi như rắn bò, có
người cười như ngựa hí, có kẻ gương mặt luôn luôn nhăn nhó như loài khỉ hay hằn
lên nét mặt dữ tợn, với đôi mắt trắng dã, gườm gườm như ác thú. Có người khi ngồi
có tư thế như cọp heo hày giọng nói to, sang sảng như tiếng thú gầm vang? Phải
chăng đó là những loài thú ở các kiếp quá khứ và hiện tại mang kiếp người nhưng
vẫn chưa thoát hẳn một số chi tiết của loài thú? Những kẻ giết người, những kẻ
tra tấn người không gớm tay, những đao phủ, luôn cả những đồ tể (những kẻ giết
súc vật) phần lớn hiện rõ ác tính trên cử chỉ dáng đi, giọng nói và nhất là gương
mặt; thường thì đi lầm lũi (như cảm nhận được cái xấu xa tàn ác của mình nên
không thể biểu lộ được sự thanh thản, yên tĩnh của tâm hồn), đôi tay thường nắm
lại, như thủ thế, đặc biệt đôi mắt trắng đã lộ nhãn có nhiều đường gân máu tràn
cả lòng trắng và lan vào tròng đen. Có điều kỳ dị là những người này gần như
hầu hết đều có con mắt lồi hay tròng đen treo để lộ 3 phần trắng trong mắt gọi
là tam bạch đản hoặc xuất phát, biểu lộ ác tính dã man không có chút tính người
qua lời nói như năm 1992, tại Hoa Kỳ, tên sát nhân kỳ dị, dã man chuyên ăn thịt
người tên là Jeffrey Dahmer mặc dầu bị bắt hắn vẫn không tỏ dấu ăn năn tội lỗi
mà còn tuyên bố: "Nếu có cơ hội, tôi sẽ giết, phân thây và ăn thịt những
ai mà tôi bắt được!"
Tên sát nhân Jeffrey Dahmer này đã
giết 17 người vô tội và ăn thịt rất nhiều người. Mặc dầu là một con người
nhưng rõ ràng hắn còn kém xa thú vật nếu xét về mặt tiến hóa của
chủng loại về sự phát triển của tư duy tỉnh cảm.
Vấn đề
thú có thể chuyển sinh làm người hay người có thể chuyển sinh làm thú trong
thuyết luân hồi quả báo đã khiến cho thuyết này trở nên bao trùm mọi vật tương
tự như thuyết Linh Vật (Animism) theo đó mọi vật đều có tính linh hay linh hồn
và chịu sự chuyển sinh của luân hồi, vì thế những người tin vào thuyết luân hồi
thường kiêng ăn thịt vì hai lý do: Thứ nhất sinh vật đã có sinh, có diệt, có
sống có chết tức là có biết đau biết khổ, biết sung sướng thì tại sao ta lại
giết chúng? Thứ hai sinh vật ta thấy sống trên quả đất có thể là hậu thân của
những
người nào đó hoặc đôi khi có thể là người thân mang hình hài loài thú qua sự
chuyển sinh? Tuy nhiên thuyết luân hồi cho rằng sự tái sinh luôn luôn xem như
một sự tiến hóa hơn. Ở đây cần phải lưu ý về một số thắc mắc được đặt ra, rằng
đã là loài thú thì làm gì có trí óc sáng suốt để
nhận ra đâu là tà đâu là chánh đâu là điều lành đâu là điều dữ. Vì thế bảo rằng
loài thú gây nghiệp lành hay nghiệp dữ chỉ là sự ngẫu nhiên mà thôi chớ không
phải do chủ ý của nó. Điều thắc mắc rõ ràng hữu lý, nhưng nếu nhìn lại ngay cả
loài người mà từ lâu ai cũng công nhận
là loài sinh vật thượng đẳng có trí óc thông minh hơn tất cả loài vật vẫn không
hiếm những con người tàn ác, vô nhân đạo, những con người hoàn toàn vô luân,
tay luôn luôn nhúng máu, mắt luôn luôn chỉ muốn thấy cảnh chết chóc và ai thích
nghe những lời kêu la thảng thốt, khổ đau của người khác. Những kẻ này có trí
óc, có suy nghĩ nhưng không bao giờ có lòng nhân đạo xót xa. Vậy họ cũng ở cấp
độ cao của trí thức, về cấu tạo bộ não nhưng tại sao họ lại giống loài ác thú?
Những kẻ này xét cho cùng còn thua loài vật vì có nhiều loài vật rất hiền lành.
Về ý niệm tái sinh luân hồi từ cấp độ thấp tới cấp độ cao theo sự tiến hóa từ
lâu
đã được nhiều nhà nghiên cứu lưu tâm. Nhà sinh vật học Charles Darwin nêu
thuyết tiến hóa của sinh vật theo đó sinh vật tiến hóa từ trình độ thấp đơn
giản dần dần đến trình độ cao hơn và phức tạp hơn theo nhu cầu, cuộc sống và môi
trường sống. Tuy nhiên nhà khoa học chỉ nghiên cứu căn cứ phần lớn vào những gì
có tính cách thuần vật chất về cấu tạo, dạng thể của các cơ quan cơ thể cùng
liên hệ với các hiện tượng sinh lý, sinh hóa chớ không đi sâu vào lĩnh vực luân
lý đạo đức, tâm linh sâu xa hơn như thuyết luân hồi chuyển kiếp tái sinh.
Charles
Darwin nhận thấy rằng những sinh vật như cá, rùa, ếch, chim, sư tử, bò, ngựa,
khỉ, người đều có dạng thể phôi (Rmbryos) đầu tiên tương tự nhau. Nhà khoa học
chỉ thấy rõ sự tiến hóa từ "vạn vật đồng nhất thể" ấy qua sự tiến hóa
mà thành nhiều hướng để phát sinh ra các loài, họ, bộ, giống, ngành sinh vật
khác nhau mà không chú tâm nghiên cứu cái nguyên
nhân sâu xa tiềm ẩn bên trong và trước đó ở mỗi sự vật. Thuyết tiến hóa như thế
chỉ phát họa được rằng: "con người như là một toàn thể đã trải qua nhiều
giai đoạn tiến hóa. Trong khi thuyết luân hồi cho thấy sự chuyển hóa để thành
con người phải trải qua nhiều giai đoạn của sự tái sinh có liên quan nhiều đến
những gì thuộc về tâm linh và luân lý cùng sự thưởng phạt công minh giống như
những định luật tự nhiên trong vũ trụ. Mỗi con người trước khi trở thành toàn
hảo, hoàn thiện để vào cảnh giới an lạc phải trải qua nhiều kiếp chuyển hóa tái
sinh. Trong các lần chuyển sinh ấy sẽ có những kiếp khác nhau; khi thì loài
vật, khi thì loài người, khi chuyển sinh thành loài vật, có thể họ phải trải
qua nhiều kiếp như khi thì loài này khi thì loài kia tùy theo cấp độ của nghiệp
quả. Qua các tài liệu kinh Phật giáo thì đức Phật Thích Ca,
trước khi thành Phật, ngài đã phải chuyển sinh qua nhiều kiếp. Cũng theo thuyết
luân hồi thì khi còn là kiếp thú, kiếp thú này cũng có hạn định của nó. Hạn
định này tùy thuộc vào những gì mà nghiệp quả trước đó đã quy định trong thời
gian bao lâu để trải qua. Cùng là một loài vật nhưng cũng vẫn có những con khác
nhau về cách sống. Nhưng cùng là một loài chó, vậy mà có con rất trung thành,
hiền lành, từ tốn. Trái lại có con rất hung dữ, phản chủ, nhác lười, tham
ăn...
Chúng ta từ nhỏ thường đã từng nghe
kể chuyện con chó trung thành nọ rất thương chủ, thường ngày ra ga đón chủ về.
Nhưng sau đó chủ nó không trở về nữa vì bị pháo kích chết trong một chuyến đi.
Con chó không biết chủ đã chết, vẫn ngày ngày đến sân ga đón chủ. Suốt mấy
tháng trời, con chó buồn bả một cách lạ thường bỏ ăn bỏ ngủ và sau đó gục chết
ở trên đường tới nhà ga. Người dân trong vùng vô cùng thương tiếc nên đã chôn cất
và xây cho nó một nấm mồ với tấm bia mộ ghi câu "đây là nơi an nghỉ cuối
cùng của con chó trung nghĩa".
Tùy theo bản tính riêng biệt ở mỗi
con vật mà luật luân hồi tái sanh quy định cho chúng sự chuyển sinh vào một
kiếp nào đó theo đúng với sự thưởng phạt hoàn toàn vô tư và công bình. Dù mèo,
chó, chim chóc, cây cối...các chủng loại này ở cạnh nhau, gần gũi nhau từ thời
đại này qua thời đại khác và chẳng có gì là đáng ngạc nhiên khi chúng ta và
ngay cả những đứa bé mới hiểu biết cũng vẫn cảm thấy rõ ràng là có sự tự nhiên,
quen thuộc và hầu như gần gũi với tất cả những sinh vật xung quanh ta với mọi
chủng loại. Phải chăng điều đó nói lên rằng ta và những sinh vật ấy đã có sự
liên hệ vô hình nào đó ràng buộc? Phải chăng chúng có cùng một bản tính với ta
là cùng sinh ra, lớn lên, bệnh (sâu, bệnh) dinh dưỡng (ăn, uống, hô hấp, bài
tiết) sinh sản rồi chết là do ta và chúng đã có lần chuyển sinh cho nhau từ
muôn ngàn kiếp trước và sẽ còn gặp gỡ ở những kiếp lai sinh? Thế gian, vạn vật
đồng nhất thể đã một phần thể hiện ở đó. Nhìn mọi loài vạn vật chung quanh
chúng ta mới thấy được những hình thức tiến hóa quy tụ cả trên thế gian này
giống như trong một trường học có vô số học sinh nhưng khác nhau về trình độ tri
thức, số năm học, lớp học, môn học...
Bên ngoài là toàn thể ngôi trường
và toàn thể học sinh nhưng bên trong tiềm tàng sự chuyển động, vận hành của vấn
đề học vấn, về sự tiến hóa của kiến thức, học hỏi và trình độ ngày càng cao của
các học sinh. Nếu các học sinh chuyên tâm học hỏi thì vào thời gian nào đó họ
sẽ được chuyển dần lên lớp mới và ra trường, họ sẽ không còn phải học ở trường đó
nữa. Chỉ có những học sinh nào nhác lười, ham chơi, hạnh kiểm xấu, học kém thì
những học sinh ấy mới dễ bị thi hỏng, ở lại lớp chậm ra trường... Tất cả những
hình ảnh vừa kể là biểu tượng của hình ảnh về sự tiến hóa của những kiếp.
Ngay trong một kiếp sống của ta,
nếu tìm hiểu kỹ và suy luận theo thuyết luân hồi thì (theo D.J.Suziki) cũng
thấy được một cách khá rõ ràng những giai đoạn tương ứng với những cõi mà suốt
trong vô lượng kiếp ta đã phải và sẽ trải qua. Daisetz Teitaro Suzuki đã viết
trong cuốn Mysticism Christian and Buddisht một đoạn về nhận định này với đại ý
như sau: "qua những kinh nghiệm hàng ngày của mỗi con người chúng ta, nếu
lưu tâm để ý chúng ta sẽ thấy ngay trong cuộc sống của đời mình có tất cả những
gì mà ta có thể kinh nghiệm được bằng cách đi qua một hạn kỳ về tái sinh dài.
Những gì mà chúng ta có được hay gặp phải khi đang còn sống đều thấy có sự
tương đồng với nó ở một nơi nào đó ở cõi thanh cao tốt đẹp là chốn thiên đàng
dưới hỏa ngục hoặc ở những nơi khác như cõi ngạ quỉ súc sanh. Khi ta vui vẻ hớn
hở, hạnh phúc chính là điều tương ứng với cõi thiên đàng, còn khi ta đau khổ,
gặp hiểm nguy, tai
họa khốn cùng là như ta đã rơi vào cõi địa ngục. Khi ta tức giận, nộ khí xung
thiên là như ta đã đi vào cõi A - tu - la rồi vậy..."
Viviane Contri khi trình bày vấn đề
đầu thai trong tạp chí Madame actuelle số 254 đã viết như sau:
"Thời gian trải qua do sự đầu thai ở mỗi linh hồn thường khác biệt nhau,
tu nhiên trung bình một linh hồn đầu thai khoảng mỗi 250 năm. Giữa thời gian
này, mỗi linh hồn sẽ nhìn lại kiếp sống đã qua và từ đó sẽ chọn lựa một cách lý
tưởng cho cuộc tái sinh kế tiếp."
Theo Jean Francis Crolart, nhà
nghiên cứu về hiện tượng luân hồi và là tác giả cuốn sách nổi tiếng nhan đề:
"Tái sinh sau khi chết đã ghi nhận rằng:
"Kiếp sống hiện nay của mỗi
con người chúng ta tùy thuộc nhiều kiếp sống trước đây (tiền kiếp) nhưng chính
từ kiếp sống hiện tại sẽ đặt nền tảng và tiền đề cho kiếp sống ở tương lai hay
hậu kiếp.
Vai Trò Của Linh Hồn Trong Sự Luân
Hồi Tái Sinh.
Câu hỏi từ ngàn xưa đã được đặt ra
là cái gì đã giúp cho sự luân hồi chuyển sinh được thực hiện, phải chăng đó là
linh hồn? Nhưng linh hồn thật sự có hay không? Nếu có thì linh hồn là gì? Linh
hồn hiện hữu hay vô hình?
Từ thời cổ đại con người đã tin
rằng: ngoài thân xác ra, con người còn có linh hồn. Linh hồn là phần linh diệu
thâm sâu nhất. Khi chết, thân xác trở nên bất động và đi vào hủy diệt còn linh
hồn thì rời khỏi thân xác.
Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy
Anh thì Hồn là phần tinh thần hay Linh tính của con người, là ý thức, tư tưởng
của con người.
Người Âu Mỹ gọi linh hồn qua từ
Âme, soul (Pháp, Anh, Mỹ) hay psyché (Hy Lạp) hoặc seel (Đức). Từ Âme được giải
thích là nguyên lý của sự sống, của tư tưởng hay của tất cả hai, khi nguyên lý
được xem như là một thực tại khác biệt với thể xác, qua đó hồn hoạt động. Thực
tại ấy có thể xem là vật chất hay không vật chất. Theo người Daisetz Teeitaro
Suzuki thì linh hồn không thể được khái niệm như là một thực thể hay một đối
tượng như bất cứ một đối
tượng nào khác mà ta đã thấy quanh ta. Linh hồn không thể là cái có hình dạng hoặc
có thể thấy được qua mắt người... bởi vì nếu là hữu hình thì làm sao linh hồn
đi vào thể xác được?
Đối với người Hy Lạp thì linh hồn
chính là cái tinh thần có nhiệt, cái giúp ta cử động hô hấp.
Theo Tự điển và Danh từ triết học
của Trần Văn Hiến Minh thì Hồn là nguyên sinh lực hội tụ nơi sinh vật. Linh hồn
là cái yếu tố quyết định quan trọng. Nhờ linh hồn mà sinh vật mới có sự sống.
Từ thời cổ đại xuất hiện thuyết nói về linh hồn đó là thuyết vạn vật linh (hay thuyết
linh hồn nguyên thủy: Animism). Theo thuyết này thì tất cả mọi thứ trên quả đất
từ con người đến con thú và ngay cả cỏ cẩy đất đá cũng đều có linh hồn. Quan
niệm này còn bàng bạc trong dân gian và ta cũng đã thường gặp lại trong các câu
như: "Hồn thiêng sông núi" "Hồn
nước"... Ngày nay, một số lớn người Á Châu, Phi Châu, Úc Châu và nhất là
các thổ dân vùng Hải đảo vẫn còn tin tưởng về thuyết đó. Tuy nhiên, tùy theo
tôn giáo, phong tục, tập quán mỗi quốc gia mà sự tin tưởng của mỗi dân tộc có
vài khác biệt, nhưng phần chính yếu thì vẫn giống nhau đó là sự tin tưởng rằng
có linh hồn. Người Việt Nam
và Trung Hoa còn chịu ảnh hưởng nhiều của nền văn hóa cổ xưa, họ quan niệm rằng
con người có ba hồn. Ba thứ hồn ấy là:Sinh hồn: phần đem lại sinh hoạt lực cho
thể xác. Giác hồn: giúp thu nhận và thể hiện các cảm giác và những phản ứng.
Linh hồn: là phần quan trọng nhất, đây là phần thâm sâu vi
điệu nhất của con người và cũng chính nhờ phần này mà sự luân hồi, đầu thai,
chuyển sinh được thực hiện thuận lợi.
Đối với người Ai Cập thì khi chết
linh hồn sẽ thoát khỏi thể xác như chim bay vì thể họ dùng hình ảnh một phi
điểu biểu tượng cho linh hồn thể xác thì tan rã nhưng linh hồn thì tường tồn và
chuẩn bị chuyển vào một cuộc sống mới khác qua một thân xác khác.
Việc ướp xác của người Ai Cập phần
lớn chủ đích muốn duy trì sự liên hệ giữa linh hồn và thân xác được lâu dài.
Đối với người Tây Tạng thì hồn là
phần linh diệu trú ngụ trong một phần gọi là thân xác. Thể xác chỉ có cái vỏ
cho hôn trú ngụ mà thôi. Hồn và xác liên hệ nhau qua một thể giống như sợi dây
đặc biệt có từ tính. Khi sợi dây ấy đứt chính là lúc hồn lìa khỏi xác.
Đối với các nhà triết học thì từ cổ
đại, một số nhà triết học như Platon, Pythagore, Hereclite. Empedocles,
Aristote Epicure đề có nghiên cứu và đề cập nhiều đến linh hồn và coi linh hồn
như là một thể quan trọng trong sự chuyển hóa đời sống. Về sau có Plotin,
Descartes, Pascal, Shopenhauer, Ralph Waldl Emerson, Frederic William Henry Myers...
tiếp nối sự nghiên cứu, tìm hiểu cũng như tin tưởng vào sự hiện hữa của linh
hồn.
Plotin tin rằng: con người phạp
tội, khi chết linh hồn rời khỏi thân xác sẽ nhập vào một cơ thể khác để trải
qua một kiếp sống khác nhằm trả nợ những tội lỗi, sai lầm mà người ấy đã gây ra
trước đó. Như vậy, theo Plotin thì sự tái sinh hay đầu thai phát sinh là do ở
tội lỗi mà ra. Chính những sai lầm, những hành động từ trước của ta đã gây ra những
trừng phạt kế tiếp mà ta phải trả.
D. T. Suzuki ghi nhận rằng: sau khi
chết, linh hồn sẽ chuyển từ một thân xác này sang một thân xác khác thuộc cõi
thiên, nhân, động vật, thực vật...
Đối với các tôn giáo khác thì mặc
dầu có khác nhau về lý thuyết nhưng hiếm có tôn giáo nào phủ nhận về linh hồn.
Theo Ấn Độ giáo thì linh hồn là
thực thể vô cùng quan trọng đối với mọi vật thể sống. Linh hồn được gọi là
Atman và do đấng toàn năng Brahma tạo ra. Theo Ấn Độ giáo thì tất cả mọi loài
sống trên quả đất này đều có linh hồn. Linh hồn bất sinh bất diệt. Linh hồn
giúp sự tái sinh chuyển hóa. Linh hồn chuyển hoán từ thân xác này qua thân xác
khác để trải qua một kiếp sống khác, cứ thế cho đến khi đạt được điều kiện để
hợp nhất hay liên kết với Brahma mới thôi. Brahma được hiểu như linh hồn của vũ
trụ.
Theo quan niệm của Ky Tô giáo thì
con người là một linh hồn và vì con người là một linh hồn nên khi chết, linh
hồn cũng sẽ chết theo. Như vậy đối với Ky Tô giáo, linh hồn hiện hữa nhưng
nhưng linh hồn không thể biệt lập và riêng tư đối với thể xác. Tuy nhiên cần
lưu ý là, theo quan niêm Ky Tô giáo thì "linh hồn nào phạm tôi thì sẽ chết
(Ê Xê Chiên 18: 4 và 20) và đến ngày phán xét: "mọi người trong Mồ Mả nghe
tiếng ngày và ra khỏi: ai làm lành thì sống lại để được sống, ai làm ác thì sống
lại để bị xét đoán... (Giăng 5: 28 - 30). Như thế, khi một linh
hồn chết đi (người là một linh hồn) thì có thể trong tương lai, trong này phán
xét, linh hồn ấy sẽ sống lại và qua sự phán xét của Đấng tối cao, sẽ được sống
đời đời hay chết vĩnh viễn.
Đối với Khổng giáo thì con người là
kết hợp của thể các, hồn, khí và phách. Phách hay vía, không phải là thể xác
(như thể xác đối với tinh thần, mà là những nguyên lý của sự sống nhưng hạ
đẳng. Không thể xem phách là thể xác (corps) được, những thành ngữ phổ biến
trong dân gian chứng minh điều đó. Như vía độc: fluide vital irefacte đốt vía
(để trừ khử hơi hay khí độc, hay xui xẻo, hay: hồn phi phách lạc (hồn hay phách,
hay vía, hay khí rơi: hoảng hốt, sợ hãi (I'ame s'envole, le suoffle tombe,
épouvanté)... khi chết, chỉ có hình hài tan rã, còn cái khí tinh anh sẽ vào
trong vũ trụ. Riêng đối với Phật giáo thì sinh vật, nhất là con người, có cái năng
lực vi diệu được chuyển từ kiếp này qua kiếp khác. Cái năng lực ấy được gọi là
Yid Kyi Mawpar Shespa, một danh từ ất đặc biệt phức tạp mà thông thường được
hiểu như cái gọi là Linh Hồn. Hai chữ linh hồn đối với quan niệm Phật giáo thật
ra chỉ là danh từ tạm dùng mà tạm hiểu cho thuyết luân hồi chuyên hóa của kiếp
người theo luật Karma (nghiệp) để người bình dân dễ lĩnh hội mà thôi. Vì con
người thường hiểu nhầm chữ Linh Hồn với Thân Trung Ấm hay Thân Thức là phần lìa
khỏi thân xác sau khi chết. Tuy nhiên, để dễ hiểu khi giải thích sự chuyển hóa
của hiện tượng luân hồi, tái sinh, linh hồn được xem như cái cầu nối, là cái
chuyển sinh là cái để đầu thai, trả nghiệp. Vì thế nhiều sách Phật giáo thỉnh
thoảng vẫn thấy bóng dáng chữ Hồn hay Linh Hồn vì một phần nào để giản dị hóa cho
vấn đề là con người sau khi chết sẽ lại tái sinh tùy theo những gì mà người ấy
đã gây ra trước đó.
Theo quan niệm trong dân gian của
người Việt Nam
và phần lớn chịu ảnh hưởng quan niệm của đạo Phật thì:
Sau khi con người trút hơi thơ cuối
cùng thì cái mà ta gọi là linh hồn tuy đã thoát khỏi thể xác nhưng lúc này
"linh hồn" còn như ở trong tình trạng tự do, chưa nhập vào một thân
xác mới, giai đoạn này phải trải qua một thời gian là 49 ngày. "linh
hồn" thuộc giai đoạn 49 ngày này được gọi là Thân Trung Ấm, một cái
"thân" khác với nhục thâ đã bất động là thân xác. Thân trung ấm còn
được gọi là Thần thức.
Phần lớn con người khi chết đều
phải qua giai đoạn trun âm này (ngoại trừ những người đã cósẵn đạo đức tu hành,
nghiệp quả lớn thì được sinh ngay lên cảnh giới cao còn những người ác độc thì
phải sinh vào địa ngục sau khi chết). Thân trung ấm có thể xem như linh hồn,
tuy không có hình hài, tai mắt... nhưng vẫn biết, vẫn thấy, vẫn nghe và đặc
biệt lại có thể đi thông suốt qua mọi vật, nhưng con người đang sống không thể
thấy được thân trung ấm.
Trong Luận Câu Xá (cuốn thứ 9) có
một đoạn mô tả về thân trung ấm như sau: Thân trung ấm của chúng sanh nơi Dục
giới có kích thước bằng một đứa bé 5 đến 6 tuổi nhưng linh hoạt sáng suốt vô
cùng. Thức ăn chỉ toàn là mùi hương vì thế mà có tên là Càn thát ba (nguyên
văn: Dục giới trung hữa chi lượng, như tiểu nhi niên ngũ, lục tuế, nhiên chư
căn minh lợi, Dục giới chi trung hữa dĩ hương vi thực, nhân chu xưng chi vi Càn
thát bà) (theo T.T Thích chánh lạc Sống và Chết). Khi chết, thân xác không còn
biết gì nữa. Lúc ấy "linh hồn" đang ở vào trạng thái của thân trung
ấm hay thần thức. Thần thức sẽ rời khỏi thể xác. Thời gian tách rời ấy nhanh
hay chậm còn tùy vào nhiều vấn đề. Tổng quát có thể chia ra làm 2 trường hợp
chính sau đây:
1. Trường hợp thứ nhất: Thân trung
ấm ngay thân xác trường hợp này hiếm, chỉ có những bậc chân tu, đức độ, đã rủ
sạch được nghiệp quả.
2. Trường hợp thứ nhì: thân trung
ấm rời khỏi thân xác sau một thời gian hoặc sau nửa ngày, sau vài ngày hoặc lâu
hơn là 49 ngày.
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng thì hồn
lìa khỏi xác trong khoảng thời gian 3 ngày đầu sau khi chết rất quan trọng vì
hồn cò thể còn nuối tiếc thân xác và cuộc sống nên vẫn còn lẩn quẩn không chịu
rời.
Đối với trường hợp những người bị tai
nạn, bị giết hại một cách bất ngờ thì sự tách rời của "hồn": ra khỏi
thể xác lúc đó xảy ra quá nhanh, bất thình lình nên đã tạo nên một sốc lớn
khiến thể xác có những tư thế bất bình thường qua các phản ứng cơ thể với tác
nhân bên ngoài.
Thể xác sẽ có những tư thế nằm, ngồi co quắp hay gương mặt nhăn nhó, mắt mở
trừng trừng, mồm há hốc. v..v...
Linh Hồn Có Hay Không?
Mới đây ký giả Báo Paris Match là
Patrice Van Eersel đã viết cuốn sách nhan đề "Ia source Noire", trong
đó ông trình bày những trường hợp đặc biệt về những người chết đi sống lại mà
những nhà khoa học, những giáo sư, bác sĩ tại các Đại Học Hoa Kỳ đã lưu tâm
nghiên cứu. Theo các nhà nghiên cứu này phần lớn những người chết đi sống lại
ấy đều không
ít thì nhiều đã có những cảm nhận lạ lùng là thấy... "hình như" họ đã
thoát khỏi thân xác trong một khoảng thời gian tương ứng với lúc họ mê man bất
động. Điều đặc biệt là "họ thấy chính họ" đang nằm chết. Nhà nghiên
cứu những hiện tượng huyền bí Joe West Hoa Kỳ) năm 1991 cũng viết cuốn sách nói
về những điều bí mật lạ kỳ đáng lưu ý ở nước Mỹ (Great American Mysteries) ông
nghi nhận rằng: có đến hơn 3.000.000 người Mỹ đã trải qua những kinh nghiệm về
sự rời lìa của chính họ ra khỏi thân xác họ trong những trường hợp khác nhau
như tai nạn, bệnh tật, mổ xẻ... có người thấy rõ được mình, đã rời khỏi thể xác
và đi khá xa đến những nơi mà khi mô tả lại đều trùng hợp với những gì kiểm chứng
sau đó từ thời gian, địa điểm, địa danh, sự việc xảy ra. v.v... Bác sĩ Eugene
E. Barnard (giáo sư thuộc nghành Bệnh Học Tâm Thần (Psychiatry) ở Đại Học thuộc
Bắc Carolina tin rằng: trung bình cứ 100 người trong chúng ta thì có một người
đã có lần cảm nhận được điều đó.
Nhà Tâm bệnh học John Bjorkhelm đã
khảo cứu hơn 3000 trường hợp về những hiện tượng lạ thường mà khoa học không
giải thích được, những sự "xuất hồn và chu du nhiều nơi của một số người.
Trường hợp nổi bật nhất cũng là chứng cớ sôi nổi nhất đã do chính Văn Hào Emest
Hemingway kể lại trong lần bị thương nặng đến thập tử nhất sinh nơi chiến
trường trong trận thế chiến thứ 2. Ông đã thấy rõ ràng chính ông đã thoát ra khỏi
cơ thể của ông giống như như hình ảnh của việc lôi cái khăn tay ra khỏi túi áo,
rồi sau đó ông thấy chính mình trở lại, nhập vào cái thân xác của chính mình
lúc hồi tỉnh... Chính sự kiện này đã là nguyên nhân thúc đẩy ông viết cuốn: Giã
Từ Vũ Khí (A Farewell to Arms), cuốn sách hấp dẫn thuộc loại beest seller. Năm
1991 Jim Hogshire cũng thu thập các sự kiện liên quan đến vần đề "hồn lìa
khỏi xác". Đề tài Out of body đã được nói nhiều trong cuốn Life after
Death (Đời sống sau khi chết). Theo nhà nghiên cứu hiện tượng vừa nói là Jim
Hogshire thì các nhân chứng thường là bác sĩ, y tá, bệnh nhân... không những
chính bản thân của người bị của người bị nạn thấy "hồn" mình thoát
khỏi cơ thể mình vào lúc họ thiếp đi vì tai nạn, mổ xẻ... mà ngay những người đang
ở kề cận họ lúc đó cũng có thể thấy được điều đó. Cô y tá Linda ở Floria đã kể
rằng chính mắt cô thấy rõ một khối mờ đục có dạng như sương khói thoát khỏi cơ
thể một người bệnh đúng lúc người ấy tắt thở. theo các bác sĩ và nhân viên làm
việc ở các bệnh viện cấp cứu (emergency) thì sự kiện vừa nêu không phải là
chuyện lạ lùng. Bác sĩ Josef Issels, (bác sĩ nổi danh về khoa ung thư ở Đức)
cho rằng: hiện tượng người chết "xuất hồn" là chuyện mới nghe qua có
vẻ kỳ bí và phản khoa học. Nhưng đó là một vấn đề trước mắt mà giới y khoa cần
phải lưu tâm. Nếu xét theo hiện tượng Vật lý thì hơi ra từ nắp ấm nước cho thấy
nước đã bắt đầu sôi thì khối hơi trắng đục thoát ra khỏi cơ thể bệnh nhân cũng
chỉ là dấu hiệu của sự chết bắt đầu. Cái khối hơi ấy là hồn, là linh hồn hay gì
đó thì cũng chỉ là tiếng gọi mà thôi. Điều quan trọng là khoa học cần lưu tâm
nghiên cứu xem đó là gì? Và phần thoát ra khỏi cơ thể ấy sẽ đi đâu? Nhiệm vụ nó
là gì?... " Có lần theo lời thuật lại của chính bác sĩ Josef Issels thì
một hôm đang ở bệnh viện, ông vào phòng của một nữ bệnh nhân già, bà nhìn ông
chăm chăm và nói: "Bác sĩ
có biết rằng tôi có thể rời khỏi thân xác tôi không? Tôi sẽ cho bác sĩ một
chứng cớ về vấn đề này..." Bác sĩ Josef lấy làm lạ chưa kịp trả lời thì bà
lại nói: "Ngay tại đây và ngay bây giờ, bác sĩ hãy đến phòng số 12, tại đó
sẽ thấy một người đàn bà đang ngồi viết thư cho con..." rồi bà ta còn mô
tả hình dạng của người đàn bà đó và nội dung phần đầu của bức thư. Cho dây là
một dịp thuận lợi là lùng cho mình, bác sĩ Josef Issels vội vã đến ngay phòng
sối 12 vừa lúc thấy người đàn bà ngồi viết thư... Bác sĩ Josef liền quay trở về
phòng nữ bệnh nhân gài
thì bà đã chết. Theo bác sĩ Josef thì rõ ràng người bệnh này đã thấy được những
gì ở phòng số 12 cách phòng bà khá xa là nhờ một năng lực nào đó. Nếu đúng như
lời bà nói "tôi có thể rời khỏi thân xác tôi..." thì có thể ngoài thể
xác, bà còn có một thể xác nữa đã có thể rời khỏi
bà đi tới đó. Cái thể mà người ta thường gọi là hồn ấy cò khả năng đi xuyên qua
tường, cây cối hay xuyên qua người khác...
Một trường hợp khác Jacky C. Bayne,
quân nhân Mỹ đã kể lại rất rõ (như đã nói từ trước) trong khi chiến đấu tại
Việt Nam (trong trận chiến ở Chu Lai) đã bị thương nặng và trong giờ phút ngất
xỉu ấy, anh ta thấy mình thoát ra khỏi thể xác và đã thấy rõ ràng thân xác mình
ở
trên bàn mổ...
Tuy nhiên, một số nhà khoa học
không tin vào những gì mà chính cả những đồng nghiệp của mình đã kể lại về cái
hiện tượng vừa nói. Bác sĩ Karl Osis, Giám Đốc Viện Nghiên Cứu Tâm Thần ở Hoa
Kỳ (người đã viết cuốn sách nói về những người chết trên giường bệnh và những
hiện tượng quan sát được qua những cái chết ấy bởi các thầy thuốc và y tá (Deathbed
Observations by Physicans and Nurses), mới đây đã cho biết là hai nhà nghiên
cứu các hiện tượng liên quan đến cõi chết là W. F Barretl và bác sĩ J.H. Hyslop
đã có những nhận xét thuộc hiện tượng ảo giác (Hallucinations). Những ảo giác
về người chết thường bao gồm từ những cái nhìn mơ hồ của người sắp chết và cả
người sống lúc nhìn sự vật, nhất là sự vật ấy đượm nét siêu linh huyền bí.
Thông thường, đối với những người đang sống, chẳng có gì khác lạ đối diện gặp
gỡ nhau. Nhưng cũng là người quen biết ấy, gặp vào lúc họ sắp qua đời hay trút hơi
hở cuối cùng thì rõ ràng giữa người sống và người chết đã có sự khác biệt hoàn
toàn. Cái cảm giác ấy có ở hầu hết mọi người. Trong giờ phút đó, cái cảm giác
sợ hãi, xa cách giữa sự sống và sự chết nẩy nở rất nhanh và sự nhìn, sự nhận
định sẽ phần nào chịu ảnh hưởng của những
cảm giác vừa kể, được tăng cường đối với không khí huyền bí siêu linh của sự
chết làm dễ phát sinh những nhận xét thuộc về hiện tượng ảo giác. Người yếu
bóng vía có thể tưởng tượng ra nhiều hình ảnh phát sinh từ người chết. Hiện
tượng trông thấy linh hồn xuất ra từ thân xác người chết cũng thuộc vào một
trong những ảo giác. Như thế, rõ ràng nhiều nhà khoa học đã cho rằng những gì
mà nhiều người đã thấy, đã kể lại về sự kiên xuất hồn ở người mới lìa đời chi
là hiện tượng ảo giác mà thôi. Ngược lại, những nhà khoa học đang nghiên cứu về
hiện tượng xuất hồn hiện nay mặc dầu chưa khẳng định hoàn toàn có hay không
hiện tượng lìa
khỏi xác nhưng họ cũng không đồng ý với lập luận về hiện tượng ảo giác mà một
số nhà khoa học đã nêu ra. Theo họ, có thể sự nghi ngờ ấy chỉ là đặc tính của
phần lớn các nhà khoa học mà thôi đó là đặc tính thận trọng Trong thực tế,
những trường hợp lạ lùng có tính cách siêu linh khó lý giải vẫn thưởng xảy ra
và được thực rõ ràng.
Bác sĩ Crookall và F. W. H Myers đã
sưu tập hành trăm trường hợp về vấn đề liên quan đến cái gọi là "hồn lìa
khỏi xác" và họ phân ra hai trường hợp chính: Một là những kinh nghiệm đã
trải qua về hồn rời thân xác và hai là những tin tức, dữ kiện thu nhận được
thông qua những người ngồi đồng, những đồng tử (medium), giáo sư C. J. Ducasse
là một trong những nhà triết học và khoa học tự nhiên nổi tiếng đã tìm cách lý giải
những gì mà hiện nay giới khoa học đang bàn cãi sôi nổi về sự kiện có hay không
cái gọi là hồn hay linh hồn và sự rời lìa của hồn khỏi xác khi chết. Theo giáo
sư thì hiện nay, các nhà nghiên cứu và ngay cả các nhà khoa học đã dấn thân vào
lãnh vực tìm hiểu sự thật của vấn đề. Họ đã thu thập vô số trường hợp có liên
quan, những mô tả về điều mà họ gọi là linh hồn, về sự liên kết giữa linh hồn
và thể xác qua một vật thể giống như một sợi dây, sự rung động đầy sức sống của
sợi dây ấy và cả trường hợp sợi dây liên hợp ấy đứt rời để cái gọi là
"hồn" tách lìa khỏi thể xác cũng được nhiều người mô tả, sự mô tả
thường đồng nhất và nhân chứng không phải chỉ có người lớn mà còn là trẻ con,
sự kiện mà chúng chưa bao giờ nghe, đã thấy hay đã đủ khả năng nghĩ tới.
Nhà phân tâm học Hippolyte Baraduc
đã tận mắt trông thấy một khối hơi thoát ra khỏi cơ thể người vợ ông khi bà này
trút hơi thở cuối cùng. Ông Baraduc đã chụp được bức ảnh lạ lùng này.
Một tài liệu sưu tầm về hiện tượng này đã được tạp chí tiền phong 1991 đăng
tải, theo đó, nhiều nhà khoa học đang mạnh dạn bước vào lãnh vực nghiên cứu về
linh hồn.
Như nhà khoa học Jan Lundquyst đã
quyết tâm tìm hiểu sự thật về vấn đề linh hồn khi ông trông thấy một thứ ánh
sáng màu xanh xuất phát từ cơ thể người vừa lìa đời. Bác sĩ phân tâm học
Elizabeth Kubler Ross thì khẳng định rằng: "trước đây tôi không tin về
những gì gọi là đời
sống sau khi chết. Nhưng nay tôi đã có một vài chuyển hướng trong cách nhận
định của tôi về vấn đề này".
Sau đây là một số hình ảnh mà các
nhà nghiên cứu như các bác sĩ Raymond Moody Jr., Robert H. Elizebeth Kubler
Ross, Iair Stevenson, giáo sư Carey Williams chuyên nghiên cứu về những gì sau
cõi chết... đã thu thập được từ những người đã gần gũi với cái chết hay đã có
lần chết
đi sống lại, đã trải qua một đoạn đường vượt qua ranh giới cõi sống và cõi
chết, nghĩa là bước đi một khoảng đường đi qua bên kia cửa tử để rồi vì một lý
do nào đó lại quay về... đã sống lại. Trong một bài sưu tập về những hình ảnh
của những người đã chết đi sống lại đã mô tả,
nhan đề "trở về từ cõi chết" đăng tải trong L.S. Tiền Phong 1992, tác
giả Thế Vỹ đã nêu ra ba trường hợp chính sau đây:
1. Một người tên là Iva Brawn, sinh
sống ở Lamiraada (Cali)
đã bị tai nạn xe hơi khi băng ngang qua đường lộ. Người này bị xe hất tung đi rất
xa và ngất xỉu. Trong thời gian mê man như chết đó, người này đã thấy nhiều
hình ảnh lạ lùng: nguồn sáng từ đâu chói lòa bao phủ và có tiếng nói phát ra từ
ánh sáng đó "đừng sợ, con sẽ không sao cả" sau 6 ngày hôn mê, người
ta cứ ngỡ rằng bà chết nhưng rồi bà sống lại và bà kể chuyện này cho người
chồng nghe. Mấy năm sau, chồng bà Iva Brawn mất và một năm sau bà Iva Brawn
đang nằm ngủ bỗng nhiên thấy chồng mình xuất hiện nói với bà rằng: "Cách
đây mấy năm, mình có kể cho tôi nghe những gì mà mình đã thấy trong vụ tai nạn
xe hơi, nhưng tôi không hiểu giờ đây, tôi đã hiểu nơi đây thật đẹp, nhất là
nước. Mình không thể tưởng tượng được là nước ở đây đẹp đến độ nào..."
2. Một phụ nữ tên là Sttooksbury kể
lại rằng, bà bị chính người chồng dùng dao quyết tâm đâm chết nhưng nhờ bề trên
che chở, bà đã được sống lại trước sự kinh ngạc của các y bác sĩ ở bệnh viện. Sttooksbury
kể rằng: "lúc bị ngất đi và được mang vào bệnh viện ai cũng tưởng tôi chết
vì máu ra quá nhiều, riêng tôi, tôi cảm thấy như trôi vào một đường hầm tối
đen... ở ngưỡng cửa sinh tử, tôi đã trông thấy mẹ tôi đứng đó thật rõ ràng, bà đưa
tay vẩy vẩy ra dấu bảo tôi hãy trở về: "Hãy trở lại đi, chưa tới lượt con
đâu!"
3. Bà Connie Zickefoose ở
Cloverdale (tiểu bang Ohio) kể rằng: lúc đó tôi đang ở trên bàn sanh, đầu óc
tôi quay cuồng rồi một màn đen phủ ập lên... tôi thấy mình đi trên con đường đầy
ánh sáng, hoa nở, hồ nước với cá lội muôn màu... Tôi vào một căn phòng, trong
đó có chúa Jesus. Chúa ân cần đặt bàn tay lên vai tôi và nói: "con không
vào được đâu! vì một khi con đã vào thì không thể ra được phải nhanh lên vì ở đây
không có thì giờ và trên cõi thế, giờ của con cũng sắp hết rồi! thế rồi tôi trở
lại, tôi thấy thân thể tôi rõ ràng ở trên bàn sanh, mặt tái nhợt. Các bác sĩ
đang yên lặng, có lẽ họ nghĩ tôi đã chết, rồi tự nhiên họ reo lên vì biểu hiện
sự sống nơi tôi đã thể hiện qua cái máy gắn vào cơ thể tôi.
Trong cuốn "In search of the
Dead" củ Jeffrey Iverson tác giả Jeffrey đã nêu ra rất nhiều trường hợp
của những người chết đi sống lại kể về những gì họ đã thấy.
Kể từ khi cuốn sách Đời tiếp nối
đời (life after life) xuất bản năm 1975, hàng ngàn trường hợp liên quan đến vấn
đề tiếp cận đến những hình ảnh thấy được sau khi chết được báo cáo, phân tích
và nghiên cứu.
Bác sĩ Melvin Morse đã kể lại một
trường hợp có thật đã xảy ra như sau:
Vào năm 1982, một bé gái 7 tuổi bị
rơi vào một hồ bơi, khi vớt lên, thì bé gái này đã ngưng thở gần 20 phút đồng
hồ. Các bác sĩ cho rằng cháu bé này đã chết. Nhưng như có một phép lạ, nhờ hô
hấp nhân tạo, cháu bé đã tỉnh lại và sau đó kể những gì mà cháu đã trải qua trong
thời gian coi như đã chết ấy. Cháu cho biết đã gặp một người mà cháu nghĩ rằng
đó là Chúa Trời. Người hỏi: "cháu có muốn ở lại đây không thì cháu bé trả
lời muốn nhưng người lắc đầu; con còn mẹ, con có trách nhiệm với người mẹ đang
còn sống, vì thế con nên trở về..."
Ngoài ra cháu bé còn kể rằng cháu
đã gặp nhiều trẻ con và người lớn, những người này đi lại tự nhiên nhưng nét
mặt không vui và không rõ nét lắm. Ở đây có nhiều người tập trung như chuẩn bị
đi đâu đó có lẽ đang chờ tái sanh. Khi bác sĩ Melvin Morse hỏi cháu bé rằng:
cháu đã tỉnh lại lúc nào cháu biết không thì cháu bé trả lời là khi nghe Chúa bảo
con có trách nhiệm với mẹ đang còn sống hãy trở về thì vừa lúc cháu tỉnh lại...
Bác sĩ Melvin Morse còn tiếp tục
tìm kiếm và phỏng vấn những trẻ con khác, những trẻ con đã có lần tiếp cận với
cái chết hay đã có lần chết đi sống lại. Điều kỳ lạ là nhiều trẻ nhỏ đã mô tả
lại cả những hình ảnh mà lúc đó chúng đang trong tình trạng hôn mê. Như đã
trông thấy các nhân viên bệnh viện làm việc ra sao, đẩy băng ca mà trẻ đang nằm
bất tỉnh vào phòng mổ, rồi bác sĩ đặt ống thở vào mũi, rồi những cái máy hồi
lực, đo nhịp tim... tuy bé không hiểu gì nhưng mô tả khá linh động và bác sĩ
Melvin Morse đã cố gắng thành lập các nhóm khảo cứu gồm những nhà thần kinh
học, những chuyên gia chuyên chữa trị bệnh thần kinh (psychiatrists),
neurologists... để tìm hiểu do đâu mà khi bất tỉnh mê man thường phát sinh ra
những hình ảnh lạ lùng và thường hay trùng hợp, tương tự khi so sánh với những
trường hợp như thế với người khác. Sau một thời gian, một vài kết quả sơ khởi
đã được nêu ra. Những nhà nghiên cứu này nhận thấy rằng: Thùy thái dương ở não
bộ có vai trò quan trọng đối với hiện tượng vừa kể trên. Thùy thái dương (the temporal
lobe) được xem như vùng có những mật mã di truyền về những gì gần gũi với cái
chết. Khi bị kích thích điện não một thành viên trong nhóm đã kêu lên "Ôi
chúa tôi! tôi đã rời thân xác tôi rồi!" Phải chăng trong thùy thái dương
của não bộ có một vùng liên quan mẫn cảm với một thể mà ta gọi là linh hồn.
Nhưng nguyên nhân nào đã gây lên tác động ở thùy này của bộ não? Tại sao khi hôn
mê phần này sẽ được kích động để biết linh hồn tách khỏi thể xác và những hình
ảnh ở cõi giới khác xuất
hiện.
Jeffrey Iverson, nhà nghiên cứu về sự chết đã phát biểu như sau: "Rõ ràng
có một giới hạn lớn và giới hạn ấy khá xa để khoa học có thể tới gần được với
linh hồn và những hình ảnh mà con người lúc đó thấy được..." Trong cuốn
life after life (đời tiếp nối đời) của bác sĩ Raymond A. Moody cũng có nhiều
đoạn mô tả củ những hình ảnh, ánh sáng và màu sắc lạ lùng như đầu tiên họ thấy
một vùng ánh sáng hình quả cầu xuất hiện ở góc phòng, ngay dưới trần phòng.
Khối cầu sáng ấy có năng lực lạ lùng nâng nhẹ họ lên rồi sau đó họ thấy mình ở
trên cao và nhìn xuống thân xác mình nằm bất động trên giường. Họ nhìn lại cái
thể mới của họ cái thể vừa thoát ra khỏi thân xác. Cái thể mới này giống như sương
khói, có pha chút màu sắc xanh lơ, màu cam và màu vàng. Cái thể ấy họ gọi là
"cái hồn". Hồn ấy có dạng hình Ô van và có phần giống như đầu và tay.
Khi hồn họ chuyển theo khối cầu sáng ấy thì chính họ như
được đẩy đi hay nói khác đi là được khối cầu hút theo nó. Họ cho biết lúc bấy
giờ họ nhẹ như tơ và lòng thanh thản vô biên. Họ xuyên qua tường, xuyên qua
những cây cột ở hành lang bệnh viện, xuyên qua các tầng lầu để xuống tầng dưới
các cửa dù đóng hay mở họ đều đi xuyên qua, xuyên qua cả các nhân viên ở bệnh
viện nữa. Điều kỳ lạ là họ không biết vận tốc của sự chuyển dịch nhất là nhận
thức về tốc độ. Mỗi lần đền gần sát một vật cản như bức tường, cánh cửa họ đều
thấy tất cả như tan biến hết và trống không vì thề mà họ xuyên qua dễ dàng.
Trong thời gian di chuyển họ thường nghe bên tại như có lời khuyên bảo hay chỉ
dẫn
và cái âm thanh lạ lùng kia xa vắng mông lung khó diễn tả được.
Một bệnh nhân tên Jack cũng đã kể
lại những gì mà mình đã trải qua khi anh đang ở trong giai đoạn hôn mê. Jack đã
mô tả những cảnh trí như vừa nói trên và anh ta đã theo tiếng gọi xuất phát từ
khối cầu sáng đưa anh xuyên qua nhiều phòng. Sau cùng khi trở lại thân xác mình
anh
có ảm tưởng như có người nào đó ở cõi giới vô hình đang đợi anh. Anh nghĩ rằng
anh sẽ chết. Ngày mai người ta sẽ đưa anh vào phòng mổ. Anh cố viết hai lá thư,
một lá thư cho vợ và một lá thư cho con. Anh có cảm tưởng những lời viết trong
thư là những lời giã biệt. Thế rồi anh khóc.
Vừa lúc đó anh có cảm tưởng như ai đang ở bên cạnh và có tiếng hỏi: Sao lại
khóc? Anh có thích theo ra không? Anh trả lời trong tâm trí mình: vâng tôi
thích, tôi muốn ra đi! tiếng nói lại văng vẳng bên tai: thế tại sao lại khóc?
anh trả lời: tôi đang khóc vì thương nhớ vợ và con, Tôi nghĩ khi ra đi, ai lo
cho vợ con tôi...?! Có tiếng đáp lời anh "Vậy là tốt, anh đã nghĩ đến
người khác hơn là nghĩ tới mình, anh sẽ được sống cho đến khi cháu bé trưởng
thành.
Ngày hôm sau cuộc giải phẫu tuy có
nhiều khó khăn nhưng bác sĩ Cofeman và đồng sự đã cố gắng hết mình nên đã đem
lại kết quả tốt lành, Jack hồi tỉnh...
Những trường hợp đáng lưu tâm:
Dưới đây là lời kể của một người đàn
bà đã phải trải qua một giai đoạn gần gũi với cái chết. Nhà nghiên cứu Verlyn
Klinkenborg chuyên phỏng vấn nhưng người đã đi vào cõi chết ghi lại lời kể sau
đây của một thiếu phụ: "Tôi nhớ là mình đã bị sốt cao, nhiệt độ cơ thể lên
đến 106 độ (độ F). Tôi như bị loạn nhịp tim. Toàn thân cảm thấy đau nhức, ớn
lạnh nóng ran xen kẽ. Tôi cảm thấy đau đớn lạ thường. Tôi bị nhiễm trùng đột ngột.
Trong lúc ý thức tôi chìm đắm dần vào cơm mê thì tôi nghe văng vẳng bên tai
tiêng kêu... "tôi không thể, tôi không thể kiểm soát nổi huyết của bà ta
nữa rồi!" (có lẽ đó là tiếng kêu than của bác sĩ đang theo dõi cơn sốt của
tôi. Rồi bỗng nhiên torng khoảnh khắc, tôi thấy vô số những phần nhỏ li tu xuất
hiện tràn đến, tôi lâng lâng và cảm thấy nhẹ bỗng một cách lạ thường và tôi
thoát ra khỏi cơ thể của chính tôi dễ dàng như cởi bỏ bộ áo choàng và cùng lúc
như trút lại đàng sau cơn đau khủng khiếp mà trước đó đã hành hạ tôi. Tôi như
bay lên phía góc của trần nhà trong căn phòng bệnh viện. Từ đó tôi thấy phía
dưới các bác sĩ, các cô y tá đang lăng xăng lo cứu mạng sống của tôi. Một bác
sĩ lộ vẻ bối rối, nét mặt lo âu thực sự vỉ có lẽ tôi đã chết dưới nhận định của
ông và của mọi người đang có mặt trong phòng. Tôi nghe tiếng bác sĩ làu bàu như
nguyền rủa cái gì đó và vô tình ông ngước nhìn về phía góc trần nơi tôi đang ở
đó, nhưng chắc chắn là ông ta không trông thấy được tôi. Một thoáng sau, tôi bắt
đầu trôi dần vào một vùng sâu thẳm lạ lùng, có thể ví đó là một đường hầm có
miệng hun hút như cái giếng với những lớp mây màu xám đục bao phủ nhưng tôi vẫn
có thể thấy được mình đang xuyên qua những lớp mây giăng phía trước... Tôi nghe
bên tai tiêng gió vun vún tôi như lướt đi mặc dầu lúc đó tôi không còn có thân
xác nữa vì thân xác tôi đang năm trên giường với tấm ráp phủ lên thân mình.
Lúc bấy giờ tôi cảm thấy nỗi kinh
dị lạ lùng đến cùng với vầng sáng, những tia sáng vàng rực rỡ và tôi hòa vào
những ánh sáng ấy. Tôi có linh cảm rằng mình đang đi vào nơi tận cùng của thế
giới, đang qua một nơi trung gian của thế giới tôi đang sống với thế giới
khác... tôi muốn tiếp tục tiến sâu vào nơi chan hòa ánh sáng lạ kỳ ấy nhưng lại
như có cái gì đó níu kéo tôi dừng lại. Tôi bỗng sực nhớ đến hai con tôi.
Tôi không thể xa chúng, tôi phải
săn sóc chúng.
Thế rồi tôi lại thấy những chấm nhỏ
li ti xuất hiện lần thứ hai y như lúc tôi vừa bị rơi vào đường hầm hun hút. Tôi
nghĩ mình đang quay về đường cũ. Tôi đến gần thể xác mình và nhập vào cái thân
xác bất động ấy. Sự việc có vẻ tự nhiên và dễ dàng như lần tôi thoát khỏi thân
xác mình. Tôi cảm thấy mình có sức nặng và bỗng nhiên cảm giác đau đớn lại đến...
vừa lúc tôi nghe có tiếng động xôn xao và có tiếng kêu lên: "Bà ta đã sống
lại rồi kìa!". Sau đó, bác sĩ cho tôi biết là đứa con tôi vừa mới chào đời
đã chết...
Từ đó, tôi luôn luôn giữ mãi những
hình ảnh lạ lùng về những gì mà tôi đã trải qua, những hình ảnh ấy cứ chập chờn
mãi trong tâm trí nhất là vào mỗi đ êm trước khi đi ngủ và tôi nghĩ rằng:
"mình đã có một lần chết đi sống lại", và tôi tự hỏi: phải chăng đoạn
đường tôi mới
bước qua là đoạn đường dẫn vào thế giới khác, một thế giới khác xa với thế giới
mà tôi hiện đang sống.
Một trường hợp đặc biệt khác cũng
đáng lưu tâm là ngay chính một bác sĩ (thuộc khoa tâm thần học và là giáo sư
bác sĩ tại một trung tâm y khoa lớn kiêm bệnh viện thuộc đại học đường
Virginia) trước đó cũng đã trở về từ cõi chết tường thuật lại những gì ông đã
thấy qua một lần
chết đi sống lại: Giáo sư bác sĩ George Richie, trước đây là một quân nhân bị
bệnh sưng phổi nặng nên được chuyển vào một bệnh viện lớn chữa trị. Thời đó,
thuốc penicilline chưa được phát minh nên việc chữa trị bệnh sưng phổi vô cùng
khó khăn và thường thường thì hết 90 phần trăm là người bệnh khó thoát khỏi
lưỡi hái của tử thần. Vì thế một thời gian ngắn khi được chuyển vào bệnh viện,
bệnh tình của George Ritchie ngày càng trầm trọng và đã qua đời. Các bác sĩ ở
bệnh viện đã xác nhận rằng George Ritchie đã chết nên người ta chuyển xác đến
nhà quàng. Tại đây một số thủ tục giấy tờ, khai tử và chuẩn bị đưa người chết
vào quan tài
đang được tiến hành và một mặt báo tin cho nhân viên trông coi về các thủ tục
nhập học và tiếp nhận sinh viên được gởi từ các nơi đến để được huấn luyện các
khóa chuyên môn tại đại học Virginia biết là khóa sinh George Ritchie đã chết.
Tuy nhiên bác sĩ trực nhật cho rằng điều này không cần thiết vì thế việc báo
tin cho đại học Virginia
được bãi bỏ.
Trong lúc Ritchie nằm duỗi trên
chiếc băng ca, bác sĩ trực khám lại một lần nữa và lắc đầu thất vọng, ông nói,
giọng rất trầm "chết thật rồi" vừa nói, bác sĩ này vừa kéo hai cánh
tay người chết cho thẳng ra để lòng bàn tay úp xuống. Sau đó phủ tấm drap lên
khắp thân xác người chết. Lúc bấy giờ, nhà xác đầy người chết vì thế bác sĩ
trực đề nghị cử người canh xác và chính nhờ người canh xác này mà sau đó anh ta
phát giác được người chết đã cựa quậy dưới tấm drap trắng. Các nhân viên trực
nhật khi nghe người canh xác báo cáo sự việc đều. Chỉ có bác sĩ trực và cô y tá
chịu lắng nghe và họ đã đến bên xác Ritchie. Khi tấm drap được kéo khỏi mặt
Ritchie bác sĩ trực đã dùng 2 ngón tay lật mi mắt xác chết để quan sát, trong
khi đó, cô y tá thấy rõ ràng các ngón tay của Ritchie cử động... và từ từ
Ritchie mở mắt. Thế là George
Ritchie, người quân nhân chết vì bệnh sưng phổi đã sống lại một cách kỳ lạ và
vì cơ thể còn quá yếu nên phải nằm bệnh viện chờ bình phục một thời gian khá
lâu và sau đó mới được chuyển về trại Barkey rồi sang Âu Châu phục vụ trong
quân đội ở ngành quân y. Sau cuộc chiến, George Ritchie tiếp tục vào học ngành
y tại đại học Virginia và tốt nghiệp khoa bác sĩ.
Bác sĩ George Ritchie đã nhớ lại
những gì mà mình đã trải qua trong suốt khoảng thời gian coi như đã giã từ cõi
đời. Mọi chi tiết bác sĩ đều ghi lại thật đầy đủ và về sau câu chuyện có thật
này còn được giáo sư bác sĩ Wilfred Abse ở đại học Virginia kể lại và nhất là giáo sư Carey
Williams và chuyên gia khảo cứu các vấn đề luần hồi là Sylvia Cranston mô tả
lại rõ ràng.
Theo lời kể của chính bác sĩ George
Ritchie thì khi đang nằm trên giường của bệnh viện, tự nhiên ông ta cảm thấy
thân xác rã rời rồi một bức màn xám đen từ đâu phủ ập lên đôi mắt ông nghe mơ
màng có tiếng người chuyển động, tiếng bàn tán và lời của bác sĩ trưởng nói:
"đã tắt thở rồi!". Lúc bấy giờ theo lời của bác sĩ George Ritchie:
"tôi không có y nghĩ gì khác lạ cả. Tôi chỉ cảm thấy mơ màng thôi nhưng
tâm trí tôi rất sáng suốt tôi nhớ là tôi được tuyển chọn để được huấn luyện chuyên
môn về ngành y tại đại học Virginia
nhưng vì bệnh phổi nên phải
tạm vào điều trị ở bệnh viện. Giờ đây tôi phải đến trường đại học gấp vì ở đó
đang chuẩn bị lể khai giảng khóa mới. Tự nhiên tôi cảm thấy cơ thể mình lạnh
buốt. Tôi phải thay quần áo và thế là tôi đi tìm. Bỗng nhiên tôi thấy một người
nằm trên giường mà tôi đang nằm. Tôi nhìn không lầm vì giường có ghi số rõ
ràng. Tôi cảm thấy lạnh quá, phải tìm quần áo ẩm để mặc vào mới được. Tôi thấy
một sĩ quan đang bước qua nên tôi vội vã chạy lại yêu cầu ông giúp đỡ nhưng tôi
có nói bao nhiêu ông ta cũng mơ hồ như không nghe thấy mà cứ bước đi tự nhiên.
Thời giờ gấp rút quá nên tôi, quyết định chịu rét để đi nhanh đến trường đại
học y khoa tại Virginia
cho kịp. Tôi cảm thấy mình lướt đi như những gì thường gặp trong mộng khi di
chuyển. Tôi thấy một con sông rộng rồi cây cầu dài bắt qua sông để tới một
thành phố lớn. Thành phố này quả thật tôi chưa bao giờ đến tôi thấy một tiệm
giải khát, tiệm Bia và cả tiệm cà phê nữa. Tại đây tôi gặp một vài người và hỏi
họ tên đường và tên thành phố nhưng chẳng có ai trả lời tôi cũng như thấy tôi
cả. Có lần tôi đập tay lên vai một người khi tôi hỏi nhiều lần nhưng người này
vẫn không nói. Tuy nhiên tay tôi như chạm vào khoảng không. Người này có gương
mặt tròn và cằm có sợi râu dài. Sau đó tôi đi đến bên một người thợ điện đang
loay hoay quấn dây điện thoại vào một bánh xe lớn. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi
thấy mình khác người và rõ ràng chẳng có ai trông thấy tôi mặt dù tôi thấy tất
cả mọi người. Tôi nghĩ rằng nếu cứ như vầy mà tìm đến đại học Virginia thì quả là bất tiện nên tôi quyết
định trở lại bệnh viện tôi đi đến nhà xác, hàng trăm người đang nằm trên
giường. Tôi đi loanh quanh để tìm chỗ nằm của mình. Tôi thấy một cái xác đã phủ
tấm drap trắng, nơi ngón tay của xác này có đeo một chiếc nhẫn mà thoạt nhìn
tôi đã cảm thấy ngờ ngợ một cách lạ lùng. Tôi nhớ là tôi cũng đeo một chiếc
nhẫn như thế. Tôi cúi xuống nhìn thật kỹ, rõ ràng bàn tay có những đặc điểm
giống tay tôi... và cái giường số giường lại chính là số giường tôi đã nằm. Vây
đây chính là thân xác của tôi, tôi đã chết thật rồi sao? Nhưng tôi không có cái
cảm tưởng rằng mình đã chết, tôi thấy
đủ thứ như đang còn sống. Chỉ có điều mà trước đó tôi phải phân vân là hình như
chẳng có ai thấy tôi cả. Tôi cố gắng kéo tấm drap phủ lên các thân xác mà tôi
nghĩ là của tôi, ý chí của tôi thì muốn hành động nhưng tôi không thể nào kéo
được tấm drap phủ mặt cái xác ấy. Tôi cố gắng nhiều lần nhưng tôi không tài nào
làm được và cuối cùng tôi nhận rõ rằng quả thật tôi đã chết. Vừa lúc đó tự
nhiên tôi cảm thấy trong phòng nhà xác sáng rực rỡ, một thứ ánh sáng lạ lùng
tôi chưa bao giờ thấy và tôi như bị lôi cuốn theo cái nguồn sáng lạ kia, tôi đã
thấy những cảnh trí mà từ khi sinh ra cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ thấy,
những cảnh trí mà tôi cảm tưởng rằng chỉ có ở thế giới bên kia vì những con
người ở đây thường không rõ ràng, mờ ảo, vó vùng tối tăm, có vùng chan hòa ánh
sáng mà những nhân vật hiện diện giống như những thiên thần.
Sau đó tự nhiên vầng sáng giảm dần,
tôi cảm thấy muốn quay về. Trong phút chốc tôi thấy lại những căn phòng, những
thân xác bất động trên giường và tôi tiến tới chiếc giường mà trên đó là thân
xác tôi. Tôi như bị cuốn hút vào cái thân xác đó, tôi từ từ chuyển động các
ngón tay và cuối cùng mở mắt ra. Một lúc sau, bác sĩ và cô y tá đã ở trước mắt
tôi, nét mặt rạng rỡ. Tôi đã sống lại, đã thật sự sống lại...
Những gì mà sau đó George Ritchie
kể lại đã làm một số bác sĩ trong bệnh viện ngạc nhiên. Điều kỳ lạ đáng lưu ý
là những gì mà Ritchie đã kể và đã ghi chép lại trong tập nhật ký đều chứng
thực sau đó. Như trường hợp lạ kỳ sau đây: Sau khi câu chuyện đi vào thế giới sau
cõi chết của Ritchie đã mô tả được một năm thì Ritchie phải trở về trại Barkey
và được gởi sang Âu Châu để phục vụ tại một bệnh viện quân đội. Trên đường xe
chơ Ritchie đã đi qua một thành phố mà trước đây một năm trong khi coi như đã
chết, Ritchie đã đi qua, nào tiệm bán bia, tiệm cà phê, cây cầu dài bắt qua
sông, những khúc đường rẽ, những bảng hiệu và kỳ lạ hơn nữa là cái cột điện
thoại mà trước đây tôi đã đi xuyên ngang qua thân thể của một người thợ điện
đang quấn dây điện thoại... Đây là thành phố ở gần chân thành Vicksburg thuộc tiểu bang Mississipi, nơi mà
chưa bao giờ George Ritchie đã đi qua.
Ngày nay George Ritchie đã là Viện
Trưởng Viện tâm thần ở Charlotsville và không bao giờ quên rằng mình đã có lần
chết đi sống lại cũng như không bao giờ quên những cảnh giới lạ lùng ở bên kia
cõi thế gian mà loài người đã sống.
Nhà nghiên cứu hiện tượng tâm lý
Sushil Bose đã tìm gặp trực tiếp những người đã từng nhớ lại tiền kiếp để phỏng
vấn họ. Năm 1939, ông đã viết một báo cáo chi tiết về cuộc phỏng vấn giữa ông
và cô gái Ấn Độ tên là Shanti Devi. Cô gái này đã nhớ lại rất rõ ràng về tiền
kiếp của mình. Cô cho biết trước đó tên cô là Lugdi Devi, vợ một người tên là Pandit
Kendermath Chowbey. Nhưng rồi bị một tai nạn nhiễm trùng và qua đời. Nhà nghiên
cứu tâm linh Sushil Bose đã hỏi Shanti Devi như sau:
- Shanti nhớ rõ về tiền kiếp mình
thì có thể nhớ lại những gì xảy ra trước và sau khi chết đó?
Shanti trả lời là nhớ rõ. Và sau
đây là một phần của cuộc phỏng vấn đó.
- S, Bose: Shanti hãy thuật lại
những gì đã xảy ra vào lúc đó.
- Shanti: Khi ấy tôi cảm thấy mình
như mơ màng đi vào cõi sâu thẳm tối đen rồi sau đó lại thấy ánh sáng chói lọi
tỏa rạng dần dần. Đó là thứ ánh sáng chan hòa kỳ diệu làm hoa mắt. Chính vào
lúc đó, tôi biết được rằng mình đã lìa khỏi thân xác mình qua dạng thể một làn
hơi
và chuyển động lên cao dần.
- S. Bose: Lúc đó Shanti có thấy
cái thân xác của mình không?
- Shanti: Lúc đó tôi chỉ có cảm
tưởng là đã lìa khỏi thể xác, mặc dầu tôi như chuyển động lên cao nhưng tôi lại
không nhìn xuống mà chỉ mãi lo nhìn ngắm cái ánh sáng lạ lùng bao phủ quanh
mình. Có lẽ lúc đó nếu nhìn xuống ngay khi tôi có cảm giác mình tách rời thân
xác tôi
có thể thấy được thân xác mình.
- S. Bose: Lúc đó Shanti có cảm
giác đau đớn mỏi mệt yếu đuối hay không?
- Shanti: Không! lúc đó tôi không thấy một
chút gì gọi là đau đớn mệt mỏi cả. Trái lại tôi thấy mình nhẹ nhàng thanh thản
lạ lùng.
- S, Bose: Sau đó còn điều gì xảy
ra?
- Shanti: Khi đó, trong cái áng áng
chói lọi rực rỡ ấy, tôi thấy có bốn người mặc áo dài màu vàng sẩm cùng xuất
hiện. Những người này đều rất trẻ khoảng 14, 15 tuổi. Trông họ tươi sáng như
những thiên thần. Những người này đi về phía tôi với dáng vẻ nhẹ nhàng thanh
thoát.
Trước mắt tôi là một ngôi vườn đẹp
tuyệt vời, cái vẻ đẹp mà chưa bao giờ tôi đã thấy được ở thế gian nên khó mà mô
tả cho hết được... Rồi tôi thấy 4 người hồi nãy tiến gần và nhấc bổng tôi lên
cao. Tôi cảm thấy một niềm lâng lâng khó tả lan khắp người. Tôi chẳng có ý niệm
gì
nữa về thời gian. Chẳng có mặt trời, mặt trăng, cũng chẳng có ngày đêm. Tất cả
đều chan hòa trong cái ánh sáng vô cùng tỏa rạng, ấm áp, huyền diệu, lung linh
sinh động lạ thường. Tôi chẳng biết nói hay diễn tả làm sao cho hết những gì tôi
đã thấy vào lúc đó. Điều kỳ lạ là lúc
này hình như tôi không còn lệ thuộc vào những giác quan mà con người có lúc còn
sống để nhìn, để nghe, để cảm xúc.
Điều đáng lưu tâm là khi kho6ng còn
lệ thuộc vào giác quan mình nữa thì tri giác lại trở nên bén nhạy vô cùng. Dù
giác quan con người có tinh xảo đến mấy cũng không giúp con người thấy được
xuyên tường, nhưng nếu không còn hiện hữu cơ thể phàm trần hay cơ quan thị giác
chẳng hạn thì lại có thể thông suốt được cả bức tường như không và điều
này cũng thể hiện cho các giác quan khác, ở lãnh vực nghe, cảm nhận, ngửi...
Trên đây là một số sự kiện thu thập
được từ các nhà tâm lý, khoa học, các nhà y học khi họ tiếp xúc được với những
người có khả năng nhớ lại tiển kiếp hay đã có lần chết đi sống lại, những người
đã có kinh nghiệm với cái chết. Những người này may mắn có được ý niệm về những
gì gọi là sự chết và linh hồn. Giáo sư H. H. Price (tại Đại học Oxford) cho
rằng: Linh hồn của con người là một phương tiện của ý thức hay nói rõ là hơn là
một công cụ của sự hiểu biết và trong cuộc sống, từ cổ đại đến nay kinh nghiệm
ở mỗi con người đã có được những sự kiện để chứng minh rằng có cái gì đó ngay
trong thân xác họ. Nhiều chứng nhân và nhiều sự kiện được chứng minh về sự hiện
hữu của linh hồn và còn khẳng định rằng linh hồn không chỉ đơn thuần là một thể
luân phiên thay đổi cho thân xác mà còn là một thể siêu việt hơn nhiều vì giữ
những vai trò then chốt, quan trọng trong vấn đề suy nghĩ, cảm nhận, cũng như
là cầu
nối cho những cuộc sống khác tiếp diễn...
Nhà nghiên cứu Robert Crookall vừa
là nhà tâm lý học vừa là nhà khoa học (ông là giáo sư khoa học tài nhiều trường
Đại học và là hội viên của nhiều hiệp hội chuyên nghiên cứu về các hiện tượng
siêu nhiên huyền bí). Khi nghiên cứu và tìm hiểu về sự hiện hữu của linh hồn,
ông đã sưu tập vô số các sự kiện liên quan và nhất là gặp gỡ những nhân vật đáng
tin cậy, đặc biệt những người có lần đã trông thấy tận mắt cái mà con người
thường gọi là hồn hay linh hồn. Ô đã ghi chép tất cả những gì đã thu thập và hệ
thống rõ ràng. Sau đây là một số hình ảnh và màu sắc về linh hồn mà Robert
Crookall đã sưu tầm được.
"Theo tổng kết của R. Crookall
thì linh hồn thể hiện dưới nhiều hình dáng và màu sắc. Theo Muldoon thì mờ sáng
như sương khói, đôi khi như đầy hơi nước hoặc như vầng mây nhỏ màu trắng không
hoàn toàn trong suốt. Hình ảnh này chỉ hiện rõ trong khoảng một vài phút đồng
hồ rồi tan biến. Chính ông Edgar Cayce, người có khả năng xuất hồn để chữa bệnh
(nổi tiếng ở Hoa Kỳ) cũng thường mô tả linh hồn giống như lớp sương hay khói
mờ. Maurice và Irene Elliot cũng đã thấy phần thoát ra từ thể xác người chết có
màu trắng như lớp sương mù. E. W.Oaten thì: "giống như hơi nước bốc
lên".
Bác sĩ Charles Richet xác nhận
rằng: tôi thấy ngay tại giường người chết có một đám mây từ từ thoát khỏi thân
xác người chết. Trong tài liệu sưu tập của Robert Crookall có nhiều phần mô tả
như thế và đó là những mô tả do chính các nhân chứng như bác sĩ Whiteman, bác
sĩ Simons, giáo sư E. Bo ano, bác sĩ Gilbert (Alice Gilbert), bác sĩ A.J.Davis,
bác sĩ D.P.Kayner, bác sĩ Hereward Carrington... Theo một số nhân chứng mà phần
lớn là bác sĩ và y tá thì phần sương khói ấy sau khi thoát ra khỏi cơ thể vẫn
còn ở cách cơ thể một khoảng mà không rời hẳn. Điều kỳ lạ là sự xuất hiện của
một dảy sáng mờ giống như giải lụa nối liền người chết với phần mờ đục như khói
sương của cái mà ta thường gọi là linh hồn.
Ngoài ra những hình ảnh đáng ghi
nhớ khác còn được nhiều nhân chứng đáng tin cậy trông thấy mà mô tả lại. Đó là
sự xuất hiện của một giải màu sáng trắng xuất phát từ phía sau đầu (tiểu não
hay ở thùy chẩm) của người chết nối liền với phần mờ đục thoát ra khỏi thể xác
người chết (linh hồn).
Trong cuốn Out of the Body
Experiences, nhà nghiên cứu Robert Crookall đã mô tả chi tiết các sự kiện vừa
trình bày trên đây. Ông đã tiếp xúc với các nhân chứng, họ là những nhà khoa
học, những y tá, những bác sĩ. Như bác sĩ R.J.Staver, giáo sư Hitchcock, bác sĩ
Hout, các nhà khoa học như J.Bertrand. Oliver Fox, Reverend L.J.C.Street bác sĩ
D.P.Kayner, giáo sư M.Eliade, bác sĩ E.W.Oaten, bác sĩ A.J.Davis và Raynor
C.Johnson... Những người này đều đã chứng kiến rõ ràng một khối hơi thoát ra từ
cơ thể người vừa tắt thở và trước đó khối hơi còn nối kết với thân xác bằng một
giải màu sáng đục rung động và khi sợi dây này rung động mạnh và đứt lìa thì
chính là lúc người chấm dứt sự sống, có nghĩa là "hồn đã lìa khỏi
xác" Không còn liên hệ gì với thân xác nữa (vấn đề này đã được trình bày
đầy đủ chi tiết trong cuốn Những bí ẩn sau cõi chết - đã xuất bản"
Tóm lại. Hiện tượng về sợi dây liên kết giữa
thân xác người chết và phần giống như sương khói thoát ra từ thân xác ấy mà
người ta thường gọi là hồn hay linh hồn đã là sự kiện mà các nhà khoa học và
nhất là giới y học hiện nay quan tâm và ra sức nghiên cứu vì như đã trình bày
từ trước, nếu sự kiện này là có thật như nhiều chứng nhân đã thấy rõ ràng thì
chắc chắn sẽ phát sinh thêm những ngành chuyên về sự chết như linh hồn học, tử
sinh học... Các nhà khoa học cố gắng tìm cách để có thể cụ thể hóa qua hình ảnh
rõ ràng và sợi dây bạc ấy, họ không muốn với tinh thần khoa học thực nghiệm lại
chỉ vào những lời kể, mô tả của những nhân chứng dù là các nhà khoa học đáng
tin cậy đi nữa mà không có bằng cớ rõ ràng. Vì về thu hình đã cố tìm cách ghi
lại hình ảnh mà những gì có được lúc con người vừa trút hơi thở cuối cùng. Một
số hình ảnh chụp được khối hơi thoát ra từ cơ thể người mới chết, nhưng những nhà
nghiên cứu còn muốn thu được những hình ảnh rõ ràng về sợi dây bạc (Silver
core). Schrench Notzing, giáo sư bác sĩ nổi tiếng thế giới, trong cuốn
Phenomena of Materialisation (1928 - Kegan Paul) đã cho rằng, qua những ảnh
chụp về những gì liên hệ đến khối hơi hay sợi dây
bạc, tuy không rõ nét nhưng dù sao đó cũng là một hình ảnh đáng lưu tâm. Có thể
hình ảnh ấy chỉ là lớp ngoại mạo che dấu bên trong nhiều bí ẩn hơn. Theo một số
lớn các nhà khoa học thì hình ảnh cho thấy như là một khối siêu vật thể ấy khi
tách khỏi cơ thể tức là sự sống không còn, giống như giòng điện đã ngưng truyền
nguồn điện lực vào cái máy.