Luân Hồi Qua Các Tôn Giáo
Thuyết luân hồi đã có từ lâu và
bàng bạc cùng khắp thế giới. Lúc đầu nhiều người vẫn tưởng triết thuyết Luân
hồi chỉ có ở Ấn Độ nhưng qua các nghiên cứu sâu xa hơn thì Luân hồi còn là tín
ngưỡng của người Ai Cập. Ở Hy Lạp, vấn đề luân hồi được nói đến nhiều mà đại
diện là nhà triết học cổ đại nổi danh Platon đã nhiều lần đề xướng trong các
tác phẩm bất hủ của mình. Không riêng gì Ấn Độ giáo và Phật giáo thường dùng
thuyết luân hồi làm căn bản, các vị tăng lữ Gô Loa cũng đã một thời giảng dạy
Luân hồi cho các tín đồ của mình. Nhà triết học Schopenhauer khi nhắc đến vấn
đề Luân hồi cũng đã ghi nhận rằng các dân tộc Mỹ Châu, da đen và cả người Úc
Đại Lợi cũng đã biết khá nhiều về luân hồi. Giáo phái Hồi ở Hindoustan (giáo
phái Bohrahs) đã rao giảng về thuyết Luân hồi cũng như cổ xúy vấn đề ăn chay
không ăn thịt. Một số lớn dân vùng hoang đảo, những người dân Fijii cũng tin
vào luân hồi: Tuy nhiên đi sâu vào thuyết Luân hồi phải là Ấn Độ giáo và Phật
giáo.
Ấn Độ Là Cái Nôi Cơ Bản Của Thuyết
Luân Hồi Tái Sinh
Nhà biên khảo nổi tiếng William
Durant (thường gọi là Will Durant) khi viết về triết thuyết của các tôn giáo cổ
xưa ở Ấn Độ đã lưu ý nhiều về tín ngưỡng mà dân chúng Ấn đã tin tưởng từ thời
Vệ Đà (Veda) (2000 - 1000). Tôn giáo xưa cổ nhất của Ấn, theo Durant là tôn
giáo mà người Naga đã theo (dân tộc cổ nhất Ấn Độ thường thờ thần rắn).
Người Naga thờ đủ các vị thần, họ
tin là có đủ linh hồn, tin vào thần tạo ra muôn loài trên quả đất, vị thần đó
có thể là Soura, là Prajapati, là Indra... Thần này có cơ thể tách đôi phần
pati thuộc nam giới và phần patnie thuộc nữ giới. Về sau hai phần ấy rời ra và
chuyển hóa thành những hình tượng sinh vật khác qua mỗi lần đều tìm đến nhau để
phối hợp nên vạn vật mới được sinh thành. Bộ kinh lâu đời Upanishad cho thấy
rằng mọi vật đều được sinh ra theo vòng luân hồi chuyển hóa, hình thể sinh vật
này được phát sinh là do một hình thể khác kia chuyển qua. Con người phàm trần
mắt thịt chỉ thấy mọi sự vật qua hình dáng, biểu tượng bên ngoài mà tưởng rằng
cái này khác cái kia. Giác quan con người chưa đủ khả năng để lãnh hội được
những gì có tính cách huyền vi sâu xa bên trong những gì mà họ thường thấy,
nghĩa là giác quan con người không nhận ra được cái bản thể vi diệu bên trong
những hình thể hiện hữu trên thế gian này. Theo lời dạy trong bộ kinh này thì
con người có linh hồn, linh hồn liên kết với thể xác lúc sống, nhưng khi chết,
linh hồn tách rời khỏi thể xác và chịu sự phán xét theo luật tự nhiên. Linh hồn
sẽ được sống ở cảnh an lạc hay chịu xử phạt công minh. Kinh Upanishad Katha thì
chỉ cần nhìn đời sống của một cây lúa từ khi được gieo cho đến khi chết là có
thể biết được kiếp người sống chết ra sao, câu: "Con người giống cây lúa,
sẽ chết đi như cây lúa rồi lại tái sanh như cây lúa mà thôi" đã được dân
tộc Ấn thời cổ đại thuộc nằm lòng. Các kinh Veda thường là những bài thơ dài và
được truyền khẩu từ đời này qua đời khác. Kinh Veda được người Ấn xem như là
báu vật thiêng liêng là một tín ngưỡng thâm sâu cao cả và các nhà nghiên cứu
tôn giáo đã xem kinh Veda của người Ấn cổ đại giống như kinh Coran của người
Hồi giáo hay Thánh kinh (Bible) của người Ky tô giáo vậy: Bộ kinh Upanishad
được dân Ấn ngày xưa coi như phép màu cứu rỗi con người. Nhà triết học
Schopenhauer khi nghiên cứu về bộ kinh này đã viết như sau: "trên thế giới,
chỉ có các Upanishad là có thể xem như nguồn an ủi vô biên cho đời sống của
tôi, suốt cả đời tôi cho đến khi tôi từ giả cõi đời". Theo William Durant
thì Upanishad có thể xem như một tác phẩm triết lý và tâm lý xưa cổ nhất của
loài người. Đây là tác phẩm chứa đựng những tư tưởng sâu sắc huyền vi nhất
trong lịch sử triết học. Giải đáp những thắc mắc to lớn từ muôn nơi muôn thủa
của con người: Vì sao lại sinh ra ta? Ai đã sinh ra ta? Ta từ đâu tới và sẽ đi
về đâu trong tương lai? Sau khi chết? Cái mà loài người vừa thắc mắc, vừa lo
sợ, vừa phân vân là sự tái sinh của con người qua nhiều kiếp nhiều đời đến độ
một vụ quốc vương quyền uy tột bực, sống cuộc đời giàu sang tuyệt đỉnh nhưng
vẫn phải lo lắng phân vân về cái chết sẽ đến cùng với sự luân hồi tái sinh trở lại.
Chỉ có sự giác ngộ của chính mình, dẹp bỏ các ta, cái "ngã" ẩn núp
trong con người ta thì mới mong thoát được sự tái sinh mà thôi. Muốn vậy phải
tẩy sạch mọi ý nghĩ, mọi hành động, phải giữ cho tinh thần trong sạch không
vướng mắc những ý nghĩ của con người phạm tục... có thể mới thấy được cái nội
tâm mình, thấy được cái bao la diệu kỳ của linh hồn mà họ chỉ là một phần tử và
sau cùng cá nhân sẽ biến đi để lộ rõ cái thực thể siêu việt hiện ra, khi đó rõ
ràng ta không còn là ta nữa vì cái ta thật sự chỉ là một chuỗi của những trạng
thái ý thức kế tiếp liên hệ nhau, đó là cái xác thân được nhìn từ phía trong ở
nội tâm mà thấy cái Atman như cái tinh anh siêu đẳng của Linh hồn, đó là cái
tuyệt vô cùng vô sắc vô tướng vô thanh... (theo William Durant). Ngoài ra còn
có cái bản thể của vũ trụ thế giới hồn bao la là Brahman, đó là linh hồn của vũ
trụ. Đó là linh hồn của mọi vật. Sai cùng Atman sẽ hòa đồng với Brahman thành
một, nghĩa là Linh hồn của vũ trụ thế giới.
Trong Upanishad đề cập nhiều đến
vấn đề Luân hồi tái sinh. Ở đây từ Moksha được hiểu như sự luân hồi hay vòng
luân hồi chuyển tiếp.
Tuy nhiên không phải ngay trên đất
Ấn Độ thời xưa cổ ấy mọi người đều tin vào thuyết con người cò Linh hồn và linh
hồn chuyển hóa theo sự Luân hồi tái sinh. Có nhiều thuyết phát sinh từ các nhà
thuyết giáo khác đi ngược lại những gì về thuyết luân hồi hay còn bài bác
thuyết luân hồi. Những người hoài nghi thuyết luân hồi tái sinh cho rằng người
ác hay kẻ hiền lương đều bị lệ thuộc cả vào Số mệnh chớ không phải làm ác là chịu
tai họa hay làm lành là được ân sủng của Thượng Đế. Mọi người ai cũng đều phải
chết dù cho đó là kẻ tài ba xuất chúng hay kẻ ngu muội điên khùng và khi chết
thân xác đều tan rã chẳng còn gì. Brishaspati đã đưa ra thuyết Hư vô để theo đó
chẳng có trời, chẳng có Thượng Đế, chẳng có Linh hồn, thần linh gì cả nên chẳng
có thế giới mai sau cho mỗi kiếp người, không có sự luân hôi tái sinh hay sự
giải thoát cuối cùng. Trong một cuốn kinh của Brihaspati có những đoạn đại ý
như sau:
Cuộc đời không có gì đáng lo nghĩ.
Đời người không có gì đáng sợ, không trời đất, không linh hồn
Không có thế giới khác cũng như
không có kiếp sau.
Ngày nào còn sống thì cứ vui hưởng
cho thoả xác thân.
Hãy mượn tiền bạn bè để ăn chơi.
Càng nhiều bơ sữa càng hay. Tại sao ta phải ép xác nhịn ăn, nhịn uống, nhịn
mặc, hạn chế và tiết kiệm?
Làm sao cho thân xác chúng ta sau
đã chết rồi đã trở thành bụi, đất lại còn có thể quay về nữa? Còn nếu một hồn
ma nào đó là có thật thì khi qua thế giới khác, tại sao lại quen đi mọi thứ mà
không còn nhớ thương nuối tiếc những người thân yêu của mình còn lại đằng sau?
Vậy thì hễ còn sống thì ta cứ hưởng
mọi thứ.
Từ những ý niệm ấy của Brihaspati
làm xuất hiện nhiều phái duy vật trong đó đáng kể nhất là phái Charvaka. Phái
này đề cao giác quan con người và cho rằng cái gì giác quan không nhận thấy thì
đó là sự hư không mà thôi. Do đó linh hồn chỉ là cái tưởng tượng mà kinh Veda
đã đưa ra để phỉnh gạt mọi người. Phái Charvaka đề cao vật chất và cho vật chất
là cái thực thể rõ ràng và quan trọng mà thôi. Họ lý luận rằng từ khi loài
người xuất hiện đến giờ chưa ai thấy linh hồn cả và cũng chưa ai thấy linh hồn
tách rời khỏi thể xác hết. Mọi hiện tượng trong vũ trụ đều là tự nhiên. Sở dĩ
nhiều người đặt ra giả thiết có một Thượng Đế là có ý giảng về thế giới hay
hiểu thế giới. Vì không tự tin nên họ tin vào tôn giáo và thần linh, thần
quyền. Thiên nhiên lúc nào cũng thản nhiên như không trước mọi sự. Kẻ thiện, kẻ
ác, người khôn người ngu đều chết và khi sống những con người đó đều hít cùng
hơi thở của thiên nhiên, uống nước của thiên nhiên, hứng ánh mặt trời chung
không phân biệt kẻ này người kia vì mục đích của đời sống là sống. Chính những
lý luận có tính cách "Bình dân" "thực tế" và "nghe
thuật tai" cho một số người ấy mỗi ngày một lan rộng mà những gì gọi là thâm
sâu vi diệu trong các kinh Veda ngày càng bị mai một. Hơn nữa nhiều đoạn trong
kinh Veda quá sâu sắc khó hiểu khiến nhiều người Ấn cảm thấy phân vân... và Ấn
Độ đã trải qua một thời gian dài ở trong tình trạng hoài nghi về tôn giáo. Tuy
nhiên Ấn Độ cũng không hiếm những triết thuyết mới mẻ khác dần dần thay thế và
trám chỗ cho khoảng trống đầy hoài nghi đó. Phái Jainisme cho rằng mọi vật
trong vũ trụ đều có linh hồn. Tinh thần và vật chất là hai phần chính ở một bản
thể. Khi một linh hồn nào đó không phạm tội lỗi lúc ở một thân xác nào đó nghĩa
là không gây khổ đau, tàn hại kẻ khác thì linh hồn ấy sẽ thành Paratmatman (linh
hồn tối cao) để khỏi bị đầu thai lại trong một khoảng thời gian nào đó. Sau khi
hết định kỳ linh hồn ấy sẽ tiếp tục đầu thai trở lại. Sự giải thoát hoàn toàn
không còn bị tái sanh chỉ dành cho linh hồn nào hoàn thiện tuyệt đối mà thôi.
Những linh hồn hoàn hảo ấy là Arhat. Muốn đạt tới kết quả ấy thì con người phải
đoạn tuyệt với những thú vui của thể xác, phải an vui tự tại, phải giữ tâm hồn
thanh thản không tư lợi, dục vọng. Không trộm cướp và không tàn hại, không gây
khổ đau cho mọi sinh vật. Chỉ có thể mình làm khổ mình hay tự giết mình thôi
còn ngoài ra không được giết bất kỳ con vật nào.
Đây rõ ràng là tu khổ hạnh để đạt
mục đích tối thượng là không còn khổ đau, tái sanh trở lại cõi trần. Tuy nhiên
các lời nguyện vừa kể thật khó cho số lớn tín đồ nào muốn đạt đạo vì giới luật
Ashima rõ ràng là quá khắt khe nhưng những tín đồ của giáo phái Jain vẫn tin
rằng cứ mỗi thời gian đã định nào đó, thế gian sẽ lại có một Đấng cứu thế gọi
là Jina giáng trần để cứu độ chúng sanh.
Trong khi phần lớn dân Ấn còn hoang
mang trước những luận thuyết của một số tôn giáo rao truyền trong dân gian qua
các bộ kinh Veda, hay qua những lời báng bổ của Brihaspati (phái Charvaka),
hoặc qua những giáo điều khổ hạnh của giáo phái Jain v.v... thì một tôn giáo
mới ra đời. Tôn giáo này đã giải thích nguyên nhân sự đau khổ của con người,
của sự luân chuyển liên tục của kiếp người qua bốn giai đoạn: Sinh, Lão, Bệnh,
Tử, và khi đã tử thì sự tái sanh lại khiến loài người soay vần chuyển hoán mãi
trong kiếp luân hồi đau khổ. Sự kỳ lạ là người tìm ra nguyên nhân của sự đau
khổ và sự luân hồi tái sinh lại là một con người đầy hạnh phúc quyền uy và đầy
hứa hẹn ở tương lai. Người ấy là một Thái tử, tục danh là Siddgharta (Tất Đạt
Đa), tên họ thị tộc là Cồ Đàm (Gautama) con của Quốc Vương Shuddodhana xứ
Kapilavatsu thuộc vùng Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya). Mặc dầu sống giữa sự giàu sang
quyền quý những tâm tư Thái Tử lại luôn luôn u uẩn vì những dằn vặt lạ lùng về
những khổ đau của kiếp người. Thái tử đã thấy rõ cảnh già lão, bệnh tật, đau
khổ và cảnh tử biệt chia ly giữa kẻ chết và người sống, nhiều cảnh khổ đau ghê
sợ diễn ra trước mắt ngài là khi ngài ra khỏi 4 cửa thành để dạo chơi, Thái tử
tự đặt câu hỏi rằng tại sao mọi người đều phải già, phải bệnh, phải chết sau
khi được sinh ra? Vì sao con người lại phải sinh ra, lớn lên và chịu quy luật
lạ lùng đó. Thái tử hỏi tả hữu thì ai cũng bảo đó là lẽ trời, là luật tự nhiên.
Vậy chính Thái tử cũng phải chịu quy luật đó, chính phụ vương và mẫu hậu của
người cũng không thoát khỏi được những cảnh khổ đau ấy dù là bậc đế vương quyền
cao đức trọng? Ngay cả loài sinh vật, Thái tử cũng đều thấy chịu quy luật chung
ấy. Phải làm sao để các khổ đau ấy không còn tái diễn mãi ở mọi người. Nỗi suy
tư ấy dằn vặt Thái tử và mặc dầu có vợ đẹp, con ngoan, sống cuộc đời vàng son
đầy hạnh phúc. Thái tử vẫn cảm thấy đó chỉ là giai đoạn và rồi chính mình cũng
phải theo luật tự nhiên để đến hồi già nua run rẩy, bệnh hoạn đau đớn rồi chết
mà thôi. Rõ ràng con người đang lặn hụp trong bể khổ đau mà không có ai cứu
thoát quyết định cuối cùng là Thái tử cương quyết lìa bỏ những ràng buộc của
vật chất tầm thường của cuộc sống để đi tìm chân lý, tìm nguyên nhân của sự khổ
đau và tìm sự giải thoát không những chỉ riêng cho bản thân Thái tử mà còn cho
tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Một đ êm kia, nhân mọi người đều ngủ say,
Thái tử lẻn trốn khỏi Hoàng cung cùng với một người thân tín là Channa (Xa Nặc)
lên ngựa đến nơi hoang vắng cho Channa trở về còn một mình quyết tâm vào rừng
tìm nơi thâm sơn cùng cốc để nghiền ngẫm cuộc đời. Sau bao nhiêu gian khổ và
sau bao phương cách thực hành lối tu khổ hạnh ngài cũng không tìm thấy được lời
giải đáp của vấn đề. Ngài ngồi xuống gốc một cây cổ thụ và bắt đầu tập trung tư
tưởng nghĩ về mọi lý lẽ của cuộc sống, về nguyên lai của Sinh, Lão, Bệnh, Tử...
Nhờ cái có "thấy" (kiến chữ kiến ở đây không nên hiểu như sự thấy
bình thường bằng kiến thức tương đối mà bằng con mắt bát nhã, một thứ trực giác
đặc biệt giúp ta tiến vào sâu bên trong của chính thực tại (D.T.Suzuki) Cái
"biết" (tri: Nana, janàna) có chiều sâu, nhờ cái "kinh nghiệm
Ngộ" mà sau sáu năm tu khổ hạnh và tu tập thiền định mà Ngài khai mở được
cái tri giác nội tại để thấy được mọi lẽ huyền vi của vũ trụ. Ngài thấy rõ sự
luân hồi như cái vòng xoay chuyển, cái khổ đau của tất cả mọi loài, mọi chúng
sanh chớ không riêng gì con người. Tất cả là do ở Nghiệp được gọi là Karma.
Chính luật Karma này đã khiến cho sự sinh tử và tử sinh xoay vòng chuyển hóa
mãi không ngừng và sự đau khổ cứ thế mà không bao giờ chấm dứt. Con người ở
kiếp này hành động ra sao lúc sống tức là đã tạo nghiệp. Sự tạo Nghiệp này là
sự gieo Nhân để rồi gặt Quả. Nếu gieo nhân lành thì gặt quả tốt, nếu gieo nhân
ác thì gặt quả dữ. Nghiệp lành hay dữ ấy chính là nguyên nhân chuyển biến vòng
luân hồi nó như tác động đội ngược lại như khi ta ném trái banh vào vách tường
vậy. Tuy nhiên, con người cũng như tất cả chúng sanh thường mê mờ u tối vì bị
vô minh che lấp nên không thấy, không biết được định luật liên hồi quả báo vì
thế mà tưởng rằng chết là hết nên mọi hành động của mình dù tàn ác bất nhân rồi
cũng qua tất cả vì chết là hết, không biết rằng nghiệp quả khiến con người phải
tái sanh mãi để chuộc lấy tội lỗi do mình đã gây ra từ kiếp trước.
Trong các lần truyền đạo Ngài thường tóm tắt những bài giảng thật dễ hiểu cho
mọi người.
Sinh, già, bệnh là những đau khổ.
Than khóc, tiếc nuối, buồn thương,
thất vọng, giận hờn, ganh ghét đều là những điều khổ hạnh và cũng là nguyên
nhân gây nên đau khổ. Dục vọng làm con người mê mờ u tối. Cái mong ước, cái
thỏa mãn, cái đam mê vì cái bản ngã, cái ta chính là những nguyên nhân gây nên
luân hồi tái sinh mãi mãi. Sự giác ngộ mọi lẽ huyền vi của vũ trụ, luân hồi đến
với Ngài được mô tả trong Ngũ Lục của Đại Đăng Quốc Sư như sau:
... Đó là buổi sáng, nhằm ngày mồng
tám tháng chạp. Sau một thời nhập định, Ngài bỗng ngước lên nhìn trời và thấy
sao Mai chiếu sáng.Ngay lập tức, sự kiện này giống như một tia sáng xuyên sâu
vào ý thức ngài (cái ánh sáng vi diệu không phải phát ra từ sao Mai mà chính là
cái ánh sáng phát sinh trong tiềm thức Ngài, được khơi dậy từ ánh sáng của sao
Mai) và chấm dứt sự tìm chân lý của Ngài. Đây là biến cố trọng đại nhất trong
cuộc đời tìm đạo của đức Phật. Vì thế về sau những buổi lễ kỷ niệm ngày Thành
Đạo, tín đồ thường ghi nhớ để tổ chức vào ngày mồng 8 tháng Chạp".
Ấn Độ giáo cho rằng những kẻ khốn
cùng, đói khổ, tàn tật nghèo nàn là những kẻ đang gánh chịu những gì mà ở tiền
kiếp họ đã gây ra. Cái quả báo ấy luôn luôn tương xứng với các hành động từ
trước. Đó là lẽ tự nhiên, công bằng, hợp lý. Tội lỗi của một con người khi còn
sống sẽ xác định nên đời sống kế tiếp. Con người chính là kết quả, là sản phẩm
của những tội lỗi từ kiếp trước nên khi đầu thai vào đời kế tiếp sẽ luôn luôn
tùy vào những tội lỗi trước đây để xác định kiếp sống và những gì mà kiếp sống
ấy phải cưu mang gánh chịu. Vì thế những kẻ đang đau khổ không có gì phải kêu
ca than khóc trách cứ bất cứ ai. Ở Ấn, nhan nhản những người đói khổ lê lết tấm
thân tàn, dù kêu rên tha thiết khẩn cầu cũng hiếm có ai thương tình giúp đỡ. Vì
từ ngàn xưa trong tâm trí người dân Ấn đã in sâu thuyết luân hồi căn cứ vào
luật của Manou, một triết gia nổi danh Ấn Độ thời xưa cổ. Theo đó xã hội có
nhiều giai cấp từ cao xuống thấp. Đại cương thì xã hội Ấn gồm có 4 giai cấp
chính. Tuy nhiên mỗi giai cấp lai phần thành hàng chục giai cấp nhỏ hơn, chính
sự phân chia giai cấp này đã làm chia rẽ dân Ấn, tạo sự kỳ thị, áp bức, khinh
miệt, căm thù, xa lạ, ích kỷ giữa những con người với nhau. Giai cấp thấp nhất
trong xã hội là hạng cùng đinh. Đây là hạng người không ai để ý đến, chẳng ai
thương xót cứu giúp vì ai cũng cho rằng kiếp trước họ đã tạo nhân ác cho nên
nay phải nhận quả báo là lẽ tự nhiên. Người Ấn tin vào thuyết của Manou nên
phần lớn đều thờ ơ trước những người khốn khổ này. Tuy nhiên không phải mọi
người đều có thái độ và niềm tin giống nhau vì thế vẫn có người đứng ra cứu
trợ, nhưng chỉ là thiểu số.
Chính Phật Thích Ca đã nhìn thấy sự
vô lý bất công và sai lầm trong việc phân chia giai cấp ở xã hội Ấn nên trong
khi truyền đạo đã thường căn dặn các đệ tử là không nên có ý nghĩ nông cạn và
hẹp hòi như thế. Phật giáo cũng nêu nên vấn đề tái sanh nhưng sâu sắc và chú
trọng nhiều vào phương thức để giải thoát khỏi sự tái sanh, do đó, đạo Phật
được coi là đạo Giải Thoát.
Theo thuyết luân hồi của Phật giáo thì mọi sinh vật đều chịu chung một quy luật
tự nhiên là thành, trụ, hoại, không. Sinh tử, sống chết cứ tuần tự xoay vần
chuyển hóa theo vòng luân hồi nhân quả mà nguyên nhân là do bởi những gì bản
thân đã tạo ra. Trong vũ trụ, thế gian, không có sự vật gì mà không qua 4 giai
đoạn thành, trụ, hoại, không cả. Từ một tế bào là đơn vị nhỏ nhất trong cơ thể
cho đến vật to lớn như mặt trời trong thái dương hệ của chúng ta cũng đều chịu
quy luật là sự hình thành, tồn tại trong thời gian nào đó (trụ) nhưng rồi cũng
phải hủy diệt (hoại) cuối cùng trở thành không... để rồi lại kết hợp và tạo
thành vật mới. Đó là tính cách vô thường, vô ngã ở mọi vật.
Đã hiểu được luật luân hồi thì phải
làm thế nào để thoát khỏi cái vòng ràng buộc đó chớ không thể an phận chịu đựng
một cách thụ động phải làm sao để khắc phục, chế ngự tìm lối thoát khỏi sự đọa
đày triền miên của những kiếp người.
Theo thuyết luân hồi thì:
Sự sống và hành động lúc còn sống
liên hệ nhân quả với nhau rất chặt chẽ. Trong khế kinh có đoạn như sau:
"Nếu muốn biết hành động của
quá khứ thế nào thì hãy nhìn đời sống hiện tại. Nếu muốn biết đời sống tương
lai ra sao thì hãy nhìn vào hành động hiện tại".
Sự sống là phản ánh của hành động,
từ đó có thể rút ra luận lý rằng chỉ có hành động mới làm cho thay đổi đời sống
sinh vật. Vì thế, điều dễ hiểu là làm ác đời này thì đời sau sẽ khổ. Đời này
khổ là do đời trước đã làm việc bất nhân. Làm thiện đời này thì đời sau sẽ được
an vui. Như thế vấn đề cải hóa việc làm của mình lúc còn sống chính là gieo cái
nhân tốt để rồi sẽ gặt vào đời sau những gì an lạc do cái nhân trước đã tạo
nên.
Tuy nhiên khi nói về vấn đề luân
hồi, về nhân và quả, cũng nên lưu ý rằng, lý thuyết nhân quả của Phật giáo
không có tính cách hoàn toàn cứng ngắc và theo quy luật kiểu máy móc, có nghĩa
rằng không phải luôn luôn hễ nhân nào đã tạo thì sẽ nhận lại quả hoàn toàn như
thế, không phải tuyệt đối kiếp này dùng dao giết người thì kiếp sau sẽ bị kẻ
khác dùng dao giết lại (bộ kinh Hiền Ngu của Phật giáo cũng có ghi nhận điều
này), Luân hồi ở đây phải hiểu là sự tác động ngược lại một cách tương xứng,
chữ tương xứng không có nghĩa là sự giống nhau hoàn toàn, trái lại đôi khi còn
có sự sai khác về hình thức, nguyên nhân và kết quả nhưng chủ đích sau cùng của
vấn đề nhân quả vẫn phù hợp.
Theo lý thuyết của Phật giáo thì sự
sống phát sinh là do nguyên nhân, do cái nghiệp (Karma) đã dẫn vào 6 con đường
gọi là lục đạo. Sáu con đường đó là Thiên, Nhân, A tu la, Ngạ quỉ, Địa ngục,
Súc sanh. Đó là 6 con đường đáng sợ. Mọi sự vật đều được hình thành do nhân
duyên (nhân cái này, vì cái này mà sinh ra cái khác), gieo hạt giống xuống đất
thì sẽ nẩy mầm mọc ra cây cối rồi sinh cây ra quả. Nhân duyên gồm có: vô minh,
hành thức, danh sắc, lục nhập (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân và ý), xúc, thọ, thủ,
hữu, sinh, lão, tử... Nhân duyên tương quan tác động lên nhau. Chính vì có nhân
duyên mới có sự vật, mới có cái thân, có cái thân mới có sinh, lão, bệnh, tử,
mới có khổ đau.
Mười hai thứ trong nhân duyên vừa
kể chính là 12 giai đoạn liên hệ nhau, tạo nên cái vòng luân hồi ràng buộc
những đời sinh vật. Tín ngưỡng luân hồi nhân quả hầu như là một tín nhiệm tự
nhiên của con người và vì thế mà nhiều người tưởng rằng trong Phật giáo đạo lý
nhân quả được xem như là một đạo lý đơn giản dể hiểu. Tuy nhiên vấn đề không
phải như ta tưởng. T.T.Trí Quang đã trình bày rõ hơn vấn đề này như sau khi bàn
đến Đạo lý nhân quả luân hồi.
Đạo Lý Nhân Quả.
Có nhiều người nghĩ rằng trong Phật
giáo, đạo lý nhân quả được nhận là một đạo lý dễ hiểu. Nhưng sự thực trái lại.
Sự thực là đạo lý đó tuy quá hiển nhiên, chi phối trực tiếp và toàn diện cuộc
sống của con người nên con người ai cũng phải nhận biết, nhưng sự nhận biết đó
rất dễ sai lầm. Khi người ta nói nhân quả là trồng dưa được dưa, trồng đậu được
đậu, nói như vậy tức là công nhận lý thuyết "duy vật" hẳn hoi, trong
khi đạo lý nhân quả là chứng minh chủng từ phát hiện, hiện hành hay đảo lại;
cũng như khi người ta nói nhân nào quả đó, mảy mún không sai, nói như vậy tức
là "thường kiến" ngoại đạo, vì đạo lý nhân quả chứng tỏ nếu có nhân
mới có quả mà quả có thể không có nếu nhân bị đổi bỏ. Nhiều khi người ta đưa
luận điệu bảo nhân quả nhất định không thể tránh được để muốn cho mọi người sợ
hãi và dè dặt hành động của họ, nhưng đồng thời họ đã phủ nhận tất cả lập
trường của Phật pháp, vì nếu nhất định không tránh được, nghĩa là nguyên nhân
không thể đổi bỏ được thì tu hành làm gì và tu hành sao được? Kiểm tra lại sự
nhận định và lối thuyết minh cẩu thả của chúng ta như thế, để mọi người thấy
rằng đừng nghĩ Phật pháp có đạo lý này dễ, đạo lý kia khó, rồi nói càn nói
bướng với cái mình cho là dễ, nói kiêu nói ngạo với cái mình cho là khó. Điều
quan trọng của Phật pháp mà ai cũng phải biết, là đạo lý nào cũng chứa đựng toàn
diện Phật pháp, nên phải dè chừng trong sự hơi hiểu và nhất là sự nói ra.
Đại cương đạo lý nhân quả có hai
phần:
1. Tất cả các pháp đều có chủng tử
riêng biệt, tâm có chủng tử của tâm,vật có chủng tử của vật, tất cả các pháp là
những hiện hành do chủng tử của nó phát hiện, như vậy gọi là "đẳng lưu
nhân quả".
2. Tất cả sự sống đều là nghiệp lực
riêng biệt, khổ do nghiệp lực ác, vui do nghiệp lực thiện, tất cả sự sống là
những hiện hành do nghiệp lực phát hiện, như vậy gọi là "dị thục nhân
quả".
Hai hệ thống nhân quả này hiểu như
thế nào nơi sinh mạng của ta? Ta gọi là sinh mạng của ta, nếu phân tích ra rồi
gồm lại mà nói, thì sinh mạng là một danh từ gọi là sự hóa hợp của bao nhiêu
hiện hành thuộc về tâm lý và vật lý; bao nhiêu hiện hành được phát hiện bởi bao
nhiêu chủng tử riêng biệt của chúng nó, đó là hệ thống nhân quả đẳng lưu. Nhưng
bao nhiêu hiện hành tâm lý vật lý hóa hợp thành một sinh mạng như vậy, sinh
mạng đó hoặc đồng màu sắc khổ hoặc đồng màu sắc vui, khổ hay vui đó là hiện
hành của nghiệp lực ác hay thiện; đó là hệ thống nhân quả dị thục. Gồm cả hai
hệ thống nhân quả này lại là nhân quả nơi chánh báo, nơi nhân sinh, còn phía y
báo, phía vũ trụ thì chỉ tùy thuộc và gồm vào nhân sinh (đẳng lưu quả của vũ
trụ cũng chỉ là chủng tử ở "tạng thức" còn dị thục quả của vũ trụ
cũng chỉ do nghiệp lực ảnh hiện).
Đại cương đạo lý nhân quả như vậy,
có vài chi tiết cần phải chú ý:
Trước hết, cứ theo hệ thống nhân
quả thứ hai, chúng ta thấy sự sống có ra là vì năng lực của hành động. Hành
động thế nào sẽ hình thành sự sống như thế. Nên khế kinh nói "muốn biết
hành động quá khứ như thế nào, thì chính sự sống ngày nay đó, muốn biết sự sống
ngày sau như thế nào, thì chính hành động ngày nay đó". Và chính nguyên lý
sự sống là phản ảnh của hành động này chứng minh rằng cũng chỉ hành động mới
thay đổi sự sống. Nói như vậy hay nói rằng muốn thay đổi đời sống thì căn bản
là phải thay đổi hành động, cũng như nhau. Cho nên làm ác phải khổ, muốn hết
khổ được vui thì phải bỏ ác làm thiện. Hình thức sinh hoạt hiện tại của con
người. Cũng nguyên lý đó, chứng tỏ hiện tại và mai hậu, hình thức sinh hoạt của
con người muốn nó như thế nào là phải hóa cải hành vi của mình. Đó là nguyên lý
mà đức Phật thiết lập ra phần giáo lý căn bản cho con người. Bởi vì nguyên lý
đó thật là nguyên lý căn bản cũng như hành vi thật là căn bản của đời sống con
người cà con người thật là căn bản của tất cả hình thức sinh hoạt của nó.
Thứ nữa, phụ thuộc vào chi tiết
trên đây nếu ta đặt ra câu hỏi như thế này: khi cái nhân chưa ra kết quả, nhân
ấy có thể đổi bỏ được không? Khi cái nhân đã kết quả, quả ấy có thể gia giảm
được không? Đổi từ ngữ đi mà hỏi thì hành vi đã làm mà chưa kết quả, hành vi đó
có thể đổi bỏ không? Hành vi đã tạo ra đời sống rồi nghĩa là đời sống hiện tại
đây có thể thay đổi gì không? Nếu không thì như đã nói trước kia, sự tu hành có
hiệu lực gì và tu hành sao được? Cho nên phải biết đạo lý nhân quả chứng minh
tất cả vạn hữu trong đó con người cũng vậy, thảy thảy đều có thật có đặc tánh
cố định nên chỉ "có thể có nếu có nguyên nhân". Đã là nếu thì nguyên
nhân nếu không có, kết quả cũng không. Làm cho không nguyên nhân đi, đó là năng
lực của sự tu hành. Làm cho không đi bằng cách nào? Là đem một nguyên nhân khác
thay đổi vào nguyên nhân đó, đem một hành động đổi bỏ hành động, vì nguyên nhân
hay hành động cũng không có một thứ nào có đặc tính cố định. Nếu cố định thì đã
không thể có ra được. Đó là cắt nghĩa một nguyên nhân có thể đổi bỏ. Còn đời
sống hiện tại, một kết quả đã có, thì sao? Đạo lý nhân quả nói trong dị thục
nhân quả có "sĩ dụng nhân quả", nghĩa là nhân lực hiện tại có thể gia
giảm đến thay đổi được đời sống hiện tại.
Đó là nguyên lý trong luật nhân quả
chứng minh sự hành trì giáo lý "căn bản" của người tại gia thì hóa
cải và có thể hóa cải được hình thức sinh hoạt hiện tại - Cho nên nhân quả là
một luật rất hoạt động, trong đó các hệ thống nhân quả đổi bỏ nhau và hỗ trợ
cho nhau. Do đó, thuyết định mạng ngày nay và thuyết thường kiến ngày xưa không
thể đứng vững được với sự thật biến chuyển trong luật nhân quả và chính đó là
tất cả nguyên lý căn bản của sự tu hành. Vạn hữu chuyển biến theo luật nhân quả
nên khổ não có thể đổi bỏ và an lạc có thể kiến thiết.
Đạo Lý Luân Hồi.
Đạo lý luân hồi tùy thuộc và bổ túc
cho hệ thống nhân quả thứ hai, nhân quả dị thục. Đạo lý luân hồi cốt chứng minh
hai điều:
- Năng lực của hành động tạo ra đời
sống.
- Đời sống ấy, như vậy, có thể hóa
cải được bằng năng lực của hành động.
Tất cả nguyên lý của sự tu hành
thiết lập trên căn bản này. Căn bản này thuật ngữ gọi là "nghiệp
quả". Không biết hai điều ấy của nguyên lý nghiệp quả thì như trước đã
nói, "tu hành nghĩa là hóa cải đời sống bằng cách sửa đổi hành động",
vậy nếu hành động không liên quan gì đến đời sống và đời sống cũng như hành
động không thể hóa cải được thì tu hành sao được và tu hành làm gì. Nhưng thực
tế, đời sống của con người do chính năng lực hành động của con người tác động
và chi phối, vì lẽ đó mới phải tu hành và có thể tu hành được. Hiểu như vậy là đã
biết được đại ý và mục đích của đạo lý luân hồi rồi đó. Không cần phải lặp lại
một lần nữa, người tại gia cũng đủ thấy do theo sự hiểu biết như vậy mới xác
nhận hình thức sinh hoạt của con người cần phải hóa cải và có thể hóa cải được
bằng cách hóa cải hành động, đổi bỏ hành động ác thay thế vào bằng hành động
thiện thì hình thức sinh hoạt của con người sẽ hình thành một màu sắc an lạc
chân thật.
Nhưng năng lực hành động là gì và
tạo ra sự sống như thế nào? Sự sống là gì? Đó là những câu hỏi để giải thích
thế nào là luân hồi.
Trước hết, điều mà bất cứ khi cắt
nghĩa về sự phát sinh của một hiện tượng gì, mọi người Phật tử phải nhớ rằng lý
thuyết của phật giáo chủ trương rằng do "chủng tử phát hiện". Do theo
thuyết ấy, chúng có thể hình dung thấy vũ trụ là một bể cả gồm có vô số lượng,
vô số làn sóng chủng tử. Tất cả hiện tượng chỉ là sự phát hiện của chủng tử đó.
Và chủng tử là gì? là năng lực mà bản thân của chúng là chuyển động và hoạt
động liên tiếp. Sự hoạt diễn liên tiếp của chủng tử là các hiện tượng. Mọi hiện
tượng, như vậy, là gì? chỉ là những vòng lửa do chủng tử liên tiếp hoạt diễn mà
thành, giống như cây hương quay vòng một cách nhanh chóng rồi, vì không thấy
kịp, chúng ta ngó như có một vòng lửa. Mọi hiện tượng cũng y như vậy. Chúng có
ra và tồn tại là do sự hoạt diễn và hoạt diễn liên tiếp của chủng tử mà vì
thiếu "tuệ giác bát nhã", chúng ta thấy như là có và sống với cái
thấy ấy.
Sự sống cũng vậy, cũng là một tổ
chức có nhịp nhàng một chút do sự hoạt diễn của vô số chủng tử sắc tâm (vật lý
và tâm lý) Và như trước đã cắt nghĩa, làm cho sắc tâm ấy hóa hợp (sinh mạng),
hoạt diễn nhịp nhàng (sống) trong một màu sắc (quả báo) hoặc khổ hoặc sướng.
Trong một thời gian (đời sống) hoặc dài hoặc ngắn, là do năng lực của hành
động. Năng lực của hành động ấy cũng là một loại chủng tử: chủng tử của nghiệp,
động lực của ý chí manh động (vô minh) và khuynh hướng vị ngã (tham ái). Đức
Phật có nói rằng làm cho nắm đất rời rạc thành một vắt là nước, cũng y như vậy,
tạo nên sự sống là nghiệp, nghiệp của si và ái.
Ta có thể hình dung sự sống của ta
như một bộ máy lớn lao và phức tạp, được chạy bởi điện lực. Mọi bộ phận phức
tạp gồm thành bộ máy ấy giống như mọi hiện hành sắc tâm có chủng tử riêng biệt
mà tổ hợp lại thành sinh mạng. Nghiệp lực làm cho sinh mạng sống cũng như y
điện lực làm cho các bộ phận ấy hoạt động với nhau nhịp nhàng trong một bộ máy
lớn. Như vậy điện lực có thì máu chạy, điện lực tắt thì máy đứng; nghiệp lực
còn thì sanh mạng liên tục mà nghiệp lực chết hết thì sự sống khổ não sẽ giải
thoát.
Nhưng làm ra máy cũng như lắp máy,
tạo ra điện lực cũng như cho điện lực chạy, tất cả việc ấy là bàn tay của trí
thức con người, cho đến thay đổi bộ máy ấy làm ra bộ máy khác, bộ điện lực
chiều này ra một chiều khác, cũng là bàn tay trí thức của con người. Tạm thí dụ
như vậy để thấy tất cả và hết thảy mọi hiện tượng hiện tại (được mệnh danh là y
báo chánh báo đau khổ) là do tạng thức, mà đổi bỏ đi, thay thế vào mọi hiện
trạng sau khi giải thoát (được mệnh danh là y báo chánh báo an lạc) cũng là
tạng thức.
Tạng thức ấy, học giả Duy thức học
xưa đã thí dụ, giống như một bể cả tùy chiều gió mà các đợt sóng nổi lên thế
này hay thế khác, hay giống như một tấm vải, tùy thuốc nhuộm mà có màu sắc này
hay màu sắc khác. Nhưng, thế này hay thế khác cũng đều là tạng thức. Và làm cho
thế này mất đi hay mà thay thế vào thế khác là bàn tay của người thợ nhuộm.
Cũng y như vậy đó, luân hồi hay giải thoát đều là tạng thức nhưng làm cho luân
hồi diệt mất mà hiện thành giải thoát là năng lực của hành động.
Hành động ác thì do chủng tử ác ấy
hiện hành ra đời sống khổ não, đó là luân hồi. Đổi bỏ hành động ác bằng hành
động thiện thì do chủng tử thiện đó mà hiện hành ra đời sống giải thoát. Đạo lý
luân hồi, như vậy, là đạo lý căn bản dạy cho ta thấy đời ta, ta có thể hóa cải
và cần phải hóa cải bằng chính hành động của ta. Và như vậy, đạo lý luân hồi
không cốt khăng khăng chứng minh có đời sau mà lại cốt làm cho đời sống giải
thoát, điều ấy không cần phải biện luận nữa.
Ngoài ra nguyên nhân gây nên vòng
luân hồi nghiệp báo xoay chuyển không ngừng thật ra chính là do sự mê mờ u tối,
do vô minh che lấp không nhận thức được đâu là thật, đâu là giả, đâu là nguyên
nhân của mọi sự, mọi vật. Không biết rằng "cái ta", cái thân xác của
mình cái bản ngã của mình chỉ là hư ảo tạm bợ, mà cứ nhầm tưởng là thật.
Ngay cả cái cảnh giới mà con người
đang sống, cũng không phải là thật, không phải trường tồn, bất diệt. Vì cứ
tưởng tất cả đều là thật, là bất diệt, vĩnh cửu nên cứ giữ mãi, tiếc rẻ. Do đó
mà sinh ra tham muốn, chấp ngã (giữ lấy cái ta, nhận lầm là có cái ta). Cũng
chính bởi quá vì cái ta đó mà phát sinh sự vị kỷ, ham lợi, danh, vật chất. Ham
sống, sợ chết, phân biệt ta và kẻ khác. Không biết rằng mọi vật luôn luôn thay
đổi biến hóa. Cái thân của ta luôn luôn thay đổi từng giây từng phút. Nên cái
thân vô thường. Cái tâm của con người cũng thay đổi đó là cái tâm vô thường, môi
trường mà con người đang sống cũng luôn luôn thay đổi biến hóa, đó là hoàn cảnh
vô thường. Sự thật hiển nhiên ấy lại khó được con người hiểu thấu vì lẽ như đã
nói trên là vì con người đã bị cái "vô minh" mê mờ che lấp.
Tuy nhiên, trên thế gian vẫn không
phải không có những con người sớm giác ngộ và có khả năng thoát dần ra khỏi cái
vô minh che lấp ấy.
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng thì
trên thế gian vẫn có nhiều người tuy bị luật sinh tử luân hồi chi phối, nhưng
vì họ có trí óc sáng suốt, phát triển về tâm linh và trí tuệ hơn người nên biết
rõ mục đích mình phải đến và tránh các cạm bẫy do vọng tưởng và cái bản ngã chi
phối. Chính nhờ cái ý tưởng cao cả, cương quyết, trong sáng và hướng tới mục
đích vị tha theo tâm nguyện mà họ không bị lôi cuốn vào những con đường bất
định trong khi luân hồi chuyển kiếp. Vì thế cuộc đời họ ít chịu cảnh khổ đau.
Nhưng nhiều người về sau tuy có thể thoát khỏi vòng ràng buộc của sự tái sinh,
họ vẫn có ý hướng muốn quay trở lại cái vòng luân hồi lần nữa với mục đích vị
tha bằng cách chọn kiếp đầu thai theo mục đích mình.
Đây là trường hợp của những nhà tu
hành, những vị chân tu ở Tây Tạng. Người Tây Tạng thường tự hào qua kinh sách
rằng nơi rặng Tuyết Sơn hàng năm có nhiều vị Lạt Ma đã quyết định chọn kiếp
luân hồi nào đó để hoàn tất lời nguyện của mình. Họ là những người muốn rằng
sau khi chết, họ phát nguyện đầu thai vào một nhân vật nào, ở vùng nào đó với
mục đích là cứu giúp nhân loại hoặc vì họ nhận thấy khi sống ho họ chưa hoàn
tất ý nguyện mình nên muốn đầu thai lại để tiếp tục công việc còn bỏ dở. Người
Tây Tạng gọi họ là các vị Hóa thân mà cao hơn nữa là những vị Phật.
Theo kinh Phật giáo thì những vị Bồ
Tát đôi khi có nhiều ý chí vô cùng to lớn. Những ý chí ấy được gọi là nguyện
(pranidhàna) hay nguyện lực (pùrvapranidhàna) Phật A Di Đà (Amitàbha) có 48
nguyện Đức Địa Tạng (Ksitgarha) có 10 nguyện, cũng giống Đức Phổ Hiền Bồ Tát
(Sarmantabhadra có 10 nguyện). Mỗi vị có nhiều điều mong mõi cứu độ chúng sanh
khác nhau như Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manjusri) mong bất cứ ai đến với ngài
đều có được trí tuệ siêu việt hoặc Đức Phật A Di Đà muốn chúng sanh sau khi
chết đến được cõi an lành tịnh độ và thành Phật đạo.
Những vị Bồ Tát (Bodhisattwa) là vị
Phật đáng lý nhập Niết Bàn nghĩa là đã thoát khỏi sự tái sanh, luân hồi, nghiệp
quả, nhưng vì họ còn thấy chúng sanh đau khổ trong bể trầm luân nên không nỡ
nhắm mắt bước vào hẳn trong cõi Niết Bàn an lạc mà tự nguyện đầu thai trở lại
mong cứu giúp kẻ phàm trần thấy rõ con đường phải đi, không còn lầm lạc.
Thuyết Luân Hồi Và Những Tôn Giáo
Khác
Như đã nói từ trước, thuyết Luân
Hồi thật sự từ ngàn xưa đã lan tràn hầu như khắp thế giới, nhất là các nước ở Á
Châu. Nhiều tài liệu sách vở nói về thuyết luân hồi đã ảnh hưởng không nhiều
thì ít lên các tôn giáo về sau.
Trong cuốn Du Nirvana Indien, Obry
ghi nhận rằng: "Luân hồi là một triết thuyết tôn giáo lâu đời nhất, đã lan
tràn khắp thế giới. Tín ngưỡng này phát triển mạnh vào thời cổ đại khiến một
nhà Thanh giáo uyên thâm phải lo lắng quan tâm" theo Schopenhauer thì
thuyết luân hồi bàng bạc trong dân chúng Ai Cập cổ đại, ở Hy Lạp và là giáo
điều căn bản của tôn giáo của các tăng ni Gaulois. Thuyết luân hồi cũng có mặt
trong một số giáo phái Hồi giáo ở Hindoustan" (giáo phái Bohrahs); Người
Do Thái một số lớn cũng tin vào sự tái sinh, luân hồi thấy rõ qua kinh Talmud.
Trong kinh này có nhắc đến sự chuyển sinh của linh hồn từ thân xác này qua thân
xác khác như trường hợp linh hồn Abel đã chuyển hoán qua thân xác Moise sau khi
đã nhập vào thân xác Seth. Đối với Ky tô giáo thì vào thời cổ xưa không hiếm
những vị có chức sắc trong giáo hội đã giảng dạy một số điều liên hệ đến thuyết
Luân Hồi Thánh Jerome, cũng như những vị khác có uy tín vào thời đó như: Thánh
Gregory, Arnobius, giám mục Nyasa, Lactantius.v..v.. Justior Natryr, Origene,
Clement d'Alexandrie, giám mục Mercier đều đã chống lại thuyết Luân hồi mà còn
coi đó là vấn đề làm tăng cường rõ rệt sự phán xét công minh về tội lỗi của mỗi
người. Hơn nữa thật sự Ky tô giáo cũng cho thấy phần nào đề cập đến thuyết Luân
hồi tái sanh khi quan niệm rằng, rồi ra mỗi ngày cũng sẽ gặp lại mình nơi một
thế giới nào đó sau ngày phán xét. Điểm đáng lưu tâm là khoảng vào thế kỷ thứ
17 khi chăm sóc những người nô lệ da đen bị chợ từ Phi Châu đến Y Pha Nho và bị
đ ày đọa, vị tu sĩ nổi danh suốt đời tận tụy vì người khác tên là Pierre Claver
đã khuyên nhủ họ những câu bao hàm những gì thuộc về Luân hồi nghiệp quả như:
"Các con hãy nhớ rằng, những gì mà các con đang trải qua, đang đau khổ thì
đó là kết quả của những tội lỗi mà các con đã gây ra từ trước. Giờ đây, các con
nên ăn năn sám hối!". Câu nói rõ ràng nhắc đến những tội lỗi xa xưa và
phải chăng đó là những tội lỗi từ tiền kiếp của họ. Vì quả thật những người da
đen thời bấy giờ bị bọn thực dân da trắng bắt đem bán làm nô lệ chẳng có làm gì
nên tội. Tội lỗi nếu có chăng chính là tội lỗi do những người da trắng gây ra.
Điều này khiến ta nhớ lại thuyết nguyên tội thường được nhắc đi nhắc lại nhiều
trong Ky tô giáo. Theo Schopenhauer thì "thuyết nguyên tội, được hiểu như
là thuyết phải trả cái tội lỗi của một cá nhân nào đã gây ra trước đó. Thuyết
này thay cho thuyết Di hồn và chuộc tội đã phạm từ tiền kiếp"
(Schopenhauer Metaphysique de la Mort).
Khi tìm hiểu sâu xa hơn qua cuốn
Thánh kinh (Bible) của Ky tô giáo thì vô số lời khuyên bảo răn dạy của Chúa còn
nói lên biết bao ý nghĩa thâm sâu về vấn đề luân hồi về kiếp trước và kiếp sau,
về quả báo như sau:
- Ai gieo giống chi thì sẽ phải gặt
lấy giống ấy (gieo và gặt - 5:13 - 6:18).
- Đừng lấy ác trả ác, cũng đừng lấy
rủa sả trả rủa sả, trái lại, phải chúc phước. Ấy là vì điều đó mà anh em được
gọi để phước lành. (thơ thứ nhất của Phi e rơ).
- Kẻ nào gieo sự bất công sẽ gặp
điều tai họa (châm ngôn 22:8)
- Những ai tìm điều ác, tất cả sẽ
ác đến với nó (châm ngôn 11:27).
- Kẻ nào đ ào hầm thì kẻ đó té
xuống đó.
- Kẻ nào lăn đá, đá đó sẽ trở lại đ
è nó (châm ngôn 26:27)
- Kẻ nào bưng tai không khứng nghe
tiếng kêu la của người nghèo khổ thì kẻ đó cũng sẽ lại kêu la mà chẳng có ai
đáp lại (châm ngôn 21:13).
- Tai họa không hề lìa khỏi nhà kẻ
lấy ác trả thiện (châm ngôn 17:13).
- Chẳng một tai nạn nào xảy đến cho
người công bình. Song kẻ hung ác sẽ bị đầy đau đớn (châm ngôn 12:21).
- Kẻ nào giam cầm kẻ khác thì rồi
cũng sẽ bị kẻ khác giam cầm lại. Kẻ nào sử dụng gương đao, kẻ ấy sẽ bị chết vì
gươm đao (thiên Apocalypse - chương 13).
Còn nhiều và nhiều nữa những câu
đầy ý nghĩa tương tự trong Kinh Thánh và đặc biệt hơn nữa, các nhà nghiên cứu,
tôn giáo, kinh điển về Ky tô giáo và Phật giáo đều thấy những điểm tương đồng
đôi khi tưởng chừng như hai tôn giáo là một.
Thí dụ Phật giáo có câu:
"Ví dầu ai có đi khắp bốn
phương trời cũng không tìm thấy được ai là kẻ đáng thương hơn mình.
Ấy vậy là do mình đã thương mình.
Mình đã thương mình thì cũng đừng
làm phiền người".
Ky tô giáo có câu:
"Hãy kính yêu Chúa ngươi với
tất cả tấm lòng và cả tâm hồn. Và ngươi hãy thương yêu kẻ đồng loại ngươi như
ngươi vậy"
Trong mấy lời khuyên dạy (12:1 -
15:13) có câu:
"Ngươi phải yêu kẻ lân cận
mình như mình yêu mình vậy".
Kinh Phật giáo có câu: "Đem
tình thương xóa bỏ hận thù".
Kinh Thánh có câu: Đừng để điều ác
thắng mình, hãy lấy điều thiện thắng kẻ ác (những lời khuyên 12:1 - 15:13).
Hoặc: "Đừng mắc nợ ai chi hết
Chỉ mắc nợ về sự yêu thương mà
thôi".
Hay: "Chớ lấy ác trả ác cho ai
Phải chăm tìm điều thiện trước mặt
mọi người"
Phật giáo có câu: Lấy oán báo oán,
oán chất chồng.
Lấy đức báo oán, oán tiêu tan.
Ý nghĩa luân hồi quả báo thấy rõ
qua các câu sau đây trong kinh thánh:
"Hãy yêu kẻ thù mình, làm ơn
cho kẻ ghét mình, chúc phước cho kẻ rủa mình và cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục mình.
Ai tát người má bên này, hãy đưa luôn má kia cho họ; còn nếu ai dựt áo ngoài
của người thì cũng đừng ngăn họ lấy luôn áo trong. Hễ ai xin, hãy cho và nếu có
ai đoạt lấy của cải của các ngươi thì đừng đòi lại. Các ngươi muốn người ta làm
cho mình thế nào, hãy làm cho người ta thế ấy".
Hoặc:
"... Hãy cho, người sẽ cho lại
mình; họ sẽ lấy đấu lớn nhận, lắc cho đầy tràn mà nộp trong lòng các ngươi; vì
các ngươi lường mực nào thì họ cũng sẽ lường lại cho các ngươi mực đó..."
Rõ ràng nhất về ý nghĩa của vấn đề
quả báo được thể hiện ở những câu sau đây khi Chúa khuyên loài người hãy làm
điều thiện để tự mình cứu chuộc tội lỗi do mình gây ra vì điều đó sẽ giúp tránh
được nhân quả:
"Hãy làm điều thiện đối với
những kẻ làm hại ngươi rồi ngươi sẽ cứu chuộc được những tội lỗi do chính ngươi
gây ra cho kẻ khác".
Hoặc: "Những gì mà ngươi đã
gieo rắc thì sẽ được ngươi gặt lấy!" hoặc: "Kẻ nào gieo sự bất công
sẽ gặp điều tai họa (châm ngôn 22:8).
Luật nhân quả luân hồi báo ứng thấy
rõ trong lời Chúa răn dạy loài người sau đây:
"Sự báo thù ở ngay trong tay
ta và ta sẽ trả nợ đó đầy đủ. Bởi vì mọi tai họa sẽ đến cho kẻ nào chưa giải
quyết xong những món Nợ Cũ ấy"
Lời răn dạy của Chúa sau đây còn rõ
ràng hơn nữa về sự chăm lo điều tốt lành phước đức để dành cho đời sau:
"Hãy răn bảo họ làm điều lành,
làm nhiều việc phước đức. Kíp ban phát, phân chia của cải mình có. Vậy là dồn
chứa về Ngày Sau một cái nền tốt và bền vững cho mình để được cầm lấy sự sống
thật" câu" cái "ngày sau ấy nổi lên ý nghĩa của sự trả vay và
phải chăng đó cũng có nghĩa là ở đời sau hay kiếp sau?".
Luật nhân quả đôi khi còn bao hàm,
liên quan đến cả sự phúc đức, nghiệp quả, hành động gây nên bởi cha mẹ, con
cái. Đó là thắc mắc lớn lao của một số tín đồ:
"... và khi Chúa bước qua,
ngài trông thấy một người đàn ông bị mù (người này bị mù ngay từ lúc mới chào
đời). Lúc ấy một môn đồ đã hỏi Chúa rằng: Bạch thầy! Ai là kẻ đã gây lên tội
lỗi khiến anh ta bị mù từ lúc ra đời? Cha mẹ anh ta hay chính anh ta? (John 9:1
- 2 Myitalies).
Như vậy, rõ ràng có mối liên hệ
ràng buộc, tác động qua lại giữa những hành động và hậu quả của những hành động
mỗi con người sẽ phải nhận lấy không sớm thì muộn theo Luật Nhân Quả tự nhiên.
Hiện tượng tái sinh (born again)
còn được thấy rõ ở một số đoạn trong kinh thánh. Điển hình nhất là sự phục sinh
của Chúa và những người chết sẽ sống lại cùng với xác thân của họ. Trường hợp
sự tái sinh của Thánh Jean Baptiste cũng đã được Chúa cho các môn đồ biết qua
câu: "Ellie đã trở lại!" (Mathieu 17:12 - 13).
Trong công vụ các sứ đồ (26:23) có
câu: "Chúa Jesus đã được nói đến la đấng được sống lại trước nhất từ trong
những kẻ chết".
Trong I phi e rơ (3:18) có câu
" Ngài là người đầu tiên được sống lại với thể thiêng liêng. Theo quan
niệm của những người tin vào thuyết luân hồi thì Chúa là một vị Đại Bồ Tát hóa
thân thân trở lại cõi trần để mong cứu chuộc loài người. Ngài đã phó sự sống
mình làm giá chuộc. Mạng sống con người hoàn toàn của Jesus đã được hiến dâng
để giải thoát nhân loại khỏi sự nô lệ của tôi lỗi và sự chết (Phi e rơ 1: 18,
19; Ê phê sô 1:7)
Trong Sáng thế kỷ 18:8: Hê bơ rơ
13:2 còn có đoạn nói về sự sống lại của Chúa Jesus với dấu tích bên hông (có
thể được hiểu như là một hình ảnh của Dấu tích luân hồi) tuy rằng Chúa là Đấng
tối cao cả không còn phải chịu luật luân hồi tái sinh nữa.
"... Nhưng vì lẽ sứ đồ Thô ma
đã đặt tay vào lỗ thủng ở bên hông của Giê su, điều đó há không tỏ cho thấy
rằng Giê su được sống lại từ cõi chết với cùng một thân thể đã bị đóng đinh
trên cây khổ hình hay sao? Không đâu, vì Giê su chi biến dạng hay là mặc lấy
hình người bằng xác thịt, giống như các thiên sứ đã làm trong quá khứ vậy. Để
thuyết phục Thô ma rằng ngày chính là đấng Christ, ngài đã dùng một thân thể
mang vết đâm thủng. Ngài đã hiện ra như là một người thật sự với khả năng ăn
uống, giống như các thiên sứ mà Áp ra ham có lần đã tiếp đãi vậy (Sáng thế Ký
18:8: Hê bơ rơ 13:2).
Trong khi Giê su đã hiện ra cho
Thôma với một thân thể giống như thân thể ngài xó lúc ngài bị xử tử, ngài cũng
đã mặc lấy các thân thể khác nhau hiện ra cho các môn đồ ngài. Vì thế Ma ri Ma
đơ len thoạt tiên đã lầm tưởng Giê su là người làm vườn. Có những lần khác các
môn đồ của ngày đã không nhận ra ngài liền được. Trong những trường hợp đó,
không phải hình dạng của ngài đã giúp họ nhận ra ngài, nhưng bởi một lời nói
hoặc cử chỉ nào đó mà họ đã nhận ra ngài (Giăng 20:14 - 16; 21:6,7; Lu ca
24:30,31)
Mới đây, (tháng 4 năm 1993), hai
nhà báo Arthur Dale và Jenny Lynn đã tìm thấy một số tài liệu bí mật cổ xưa
(Lưu trữ tại tòa thánh Vatican)
nói về đời sống sau khi chết. Hai nhà báo này đã viết một bài nhan đề: Found:
the Vatican's
secret files on life after death, tài liệu này được đăng tải lần đầu tiên sau
đó trong báo Sun ra ngày 13 tháng 4 năm 1993. Theo tài liệu này thì một số tu
sĩ Ky tô giáo đã từng thấy những cõi thế giới kỳ lạ sau cõi chết. Trong một tập
hồ sơ, tài liệu khá dày được tìm thấy trong một nhà kho lâu đời, nhiều bảng
viết tay mà các chữ viết thảo của những vị chức sắc trng Giáo Hội, mô tả lại
những hình ảnh họ thấy về những gì sau khi chết. Trường hợp cha Carlo Malatesta
bị một cơn sốc tim ngất đi rất lâu. Sau một thời gian cứu chữa, cha Carlo tỉnh
dậy (tính ra cha đã hôn mê trong 40 phút đồng hồ) và đã kể lại những gì mà
trong thời gian tim coi như ngừng đập hay nói khác đi là "đã chết"
đó, cha Carlo Malatesta đã cảm thấy mình nhẹ bổng một cách lạ lùng, rồi cha
thấy những người bay lơ lửng có cánh giống các thiên thần đưa mình đến cái cổng
lớn của một nơi tươi sáng lạ lùng và sau đó lại được các thiên thần đưa cha trở
lại thể xác mình. Trong thời gian Cha Carlo cảm thấy mình nhẹ lâng lâng, chính
lúc đó cha cũng cảm nhận được là mình đã chết rồi nhưng không có sự hối tiếc,
sợ sệt nào hết. Những lời cha Carlo Malatesta kể cha đều ghi lại rõ ràng trong
lưu bút của mình.
Riêng đối với loài người theo Ky tô
giáo cũng sẽ có sự sống lại hay tái sinh. Tuy nhiên, không có nghĩa là tất cả
mọi người đều sẽ được sống lại. Kinh thánh đã cho biết là Giu đa Ích ca ri ốt
là kẻ phản chúa Jesus sẽ không được sống lại. Nguyên nhân y là kẻ đã tạo nhiều
điều ác, đã gieo nhiều nghiệp ác nên sẽ nhận quả ác tương xứng. Đức chúa trời
cũng sẽ không làm sống lại những kẻ nào đã phạm tội cùng thành linh của ngài
(Ma thi ơ 12:32; Hê bơ rơ 6:4- 6; 10:26 - 27).
Mỗi người theo thứ tự riêng của
mình sẽ được phán xét và sống lại. Sau sự sống lại của đáng Christ thì đến lượt
144000 người (những môn đồ trung thành của ngài) được sống lại và họ là những
người sẽ sống với đấng Christ trong cõi trời hay nước trời. Tiếp đến là một số
lớn người chết khác được sẽ được sống lại để sống ngay trong Địa đàng trên đất.
Dĩ nhiên không phải tất cả mọi người đều được sống lại để bị xét đoán (Giăng
5:29) trong Ngày Phán Xét.
Do đó, Đức Chúa Trời sẽ tạo lại một
con người mới cũng bằng xương bằng thịt với cùng một nhân cách với những đức
tính riêng, ký ức và lý lịch mà người đó đã thu thập cho đến lúc chết. Thân thể
mới này sẽ giống như thân thể mà người ấy đã có trước khi chết. Điều đó giúp
cho những người đã quen biết nhau từ trước có thể nhận ra nhau một cách dễ
dàng. Ở đây, sự tái sinh chi xảy ra một lần và ta có thể bảo rằng mỗi người có
thể xem như có hai lần được sống. Tiền thân sẽ trải qua một lần phải chết và
lần thứ hai sau khi được tái sinh thì hậu thân ấy sẽ có một sự sống khác tiếp
theo đó, ấy là sự sống để sống trong Địa đàng trên đất. Điều đó xảy ra vào ngày
phán xét.
Đối với Hồi giáo (Islam) tuy không
có nói đến luân hồi nhưng tôn giáo này cũng nhấn mạnh lại sự phục sinh của con
người. Con người đã được tiền định bởi những hành động của mình khi đang sống
trên cõi thế. Nếu như con người gây tội lỗi thì sau khi chết sẽ vào Địa ngục để
chịu xử phạt. Nơi đó linh hồn sẽ chịu cảnh đau đớn ê chề cùng với sự hành hạ
tra tấn rùng rợn. Nhưng nếu con người lúc sống tạo sự tốt lành thì khi chết sẽ
lên cõi Thiên đàng sung sướng. Ở đây Chết là đi vào một cái cổng dẫn đến đời
sống miên viễn không còn tái sinh trở lại nữa. Ngày cả kẻ ác, sau khi chết cũng
bị đày xuống địa ngục và ở đó đời đời.
Theo kinh Coran của Hồi giáo thì con người sống
là nhờ sự kết hợp của linh hồn và thể xác. Thể xác và linh hồn sẽ được phục
sinh trở lại khi đến ngày phán xét. Ngày đó, kẻ ác sẽ bị xử phạt xuống cõi địa
ngục còn kẻ thiện tâm sẽ được tới cõi thiên đàng an lạc.