Để Quên hay Nhớ Lại Kiếp Trước
Nếu Có Luân Hồi, Tại Sao Lại Không
Nhớ Tiền Kiếp?
Đây là câu hỏi đã được loài người
đặt ra từ lâu khi vấn đề luân hồi được nêu ra. Nếu Luân hồi là có thật thì cho
đến nay, nguyên nhân nào đã khiến cho con người nhớ lại hay quên đi cuộc đời
trước đó của mình vẫn chưa hoàn toàn được giải thích và chứng minh rõ ràng. Tuy
nhiên không phải đó là nguyên nhân để phủ nhận vấn đề luân hồi. Vấn đề luân hồi
là một vấn đề sâu xa tế nhị. Từ ngàn xưa, con người đã tìm cách lý giải vấn đề
này. Trong nhân gian, không hiếm những lời giải thích tại sao lại quên những gì
về tiền kiếp. Nếu giả dụ rằng có sự tái sinh thì nhớ lại kiếp trước sẽ gây được
biết bao điều phiền toái trở ngại. Một người sinh ra nếu nhớ lại tiền kiếp của
họ, người ấy sẽ tìm đến những gì liên quan đến bản thân họ ở quá khứ hơn là
hiện tại. Thực tế trên thế gian đã có khá nhiều trường hợp xảy ra. Vì hiện tại
họ mới chỉ sinh ra và rất mới lạ đối với những người mà họ nhận là cha, mẹ, anh
em, bà con... Một thí dụ dể hiểu là khi một đứa bé ra đời và đến tuổi biết suy
nghĩ, nếu đứa bé ấy nhớ lại tiền thân của mình là con của ông A, bà B thì dĩ
nhiên khi lớn tình mẫu tử, phụ tử sẽ sống dậy nơi đứa bé và dĩ nhiên nó sẽ tìm
đủ mọi cách để gặp lại cha mẹ cũ. Như vậy người mẹ hiện nay của đứa bé sẽ ra
sao? sẽ đau đớn khổ sở, buồn rầu biết chừng nào? thí dụ ấy giống như tâm trạng
của một cô gái ngày xưa về nhà chồng mà bao nhiêu kỷ niệm đẹp với người yêu dấu
đều bỏ lại đằng sau trong khi người mà mình sẽ gọi là chồng thì lại là một
người không quen biết do cha mẹ của tiền kiếp thì hình ảnh ấy sẽ lôi cuốn vô
cùng không những vì tình cảm rằng buộc mà còn có thể là vì tò mò muốn biết sự
thật về kiếp trước của mình ra sao.
Luật luân hồi quả báo quy định rõ
ràng con người sẽ phải chuyển sinh qua nhiều kiếp và những gì họ phải trải qua
như buồn đau khổ hận, tai nạn hoặc sung sướng hạnh phúc, giàu sang, đều do từ
kết quả họ tạo ra từ kiếp trước. Hiện tượng luân hồi được xem như là một định
luật. Tuy nhiên luật này dễ bị xáo trộn khi con người biết được rõ ràng mỗi
kiếp của mình. Những bậc Đại Sư, những vị Cao tăng cũng chưa hẳn biết rõ tiền
kiếp của mình. Những bậc Thiền giả có huệ lực cao khi tập trung tư tưởng mới có
thể nhớ lại kiếp trước và xem đó như là những biến cố đã xảy ra trong những
giòng đời trước đó của mình. Chính Đức Phật Thích Ca khi đang trên đường tìm
đạo, vẫn chưa biết được tiền kiếp của mình, mãi đến khi chứng ngộ đạo pháp mới
thấy được các kiếp. Nhờ ngài đã đắc được Túc Mạng Minh và Thiên Nhãn Minh, nhờ
đó mà ngài nhớ lại được hàng ngàn tiền kiếp chuyển hóa trong trí như một cuộn
phim quay ngược dòng thời gian.
Như vậy, chỉ những bậc siêu phàm
mới có khả năng nhớ lại tiền kiếp, còn loài người hầu như tất cả đều chìm đắm
trong tăm tối mê mờ không thấy, không biết những gì đã xảy ra ở những tiền kiếp
của mình. Chỉ họa huần mới có những trường hợp dị biết lạ lùng như có những đứa
bé mới 4, 5 tuổi kể lại tiền kiếp mình hay có người có khả năng khơi dậy những
hình ảnh của kiếp trước nơi người khác.
Trong dân gian Việt Nam ta thường
nghe kể lại chuyện những người chết đi sống lại kể các chuyện thác vào Địa
Ngục. Những linh hồn này trước khi đi qua chiếc cầu khủng khiếp để đến chốn
Diêm phù, họ đều được quỉ sứ cho ăn cháo. Cháo này gọi là Cháo Lú. Công dụng
chính của Cháo Lú là để linh hồn người chết quên hết những gì về quá khứ của
đời mình để dễ dàng cho việc đầu thai sau này, vì nếu không thì những linh hồn
ấy vẫn còn mang nặng những nhớ thương tiếc nuối về cảnh cũ, người xưa, tình
ruột thịt, máu mủ giữa cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái khiến lúc tái sinh
luân hồi, họ lại tìm đến những gì liên hệ với tiền kiếp. Điều đó làm khó khăn
trở ngại cho sự trả quả trong lần đầu thai lại này và cả những lần chuyển sinh
khác nữa.
Câu chuyện truyền khẩu trong dân
gian ấy nói lên phần nào sự quên đi tiền kiếp của mỗi người khi họ đầu thai.
Tuy nhiên, như đã nói từ trên, từ cổ đại cho đến nay vẫn không hiếm những người
có khả năng nhiều ít về sự nhớ lại những gì trong quá khứ. Trên thế gian có
nhiều người có trí nhớ siêu đẳng và cao hơn nữa, có người có khả năng nhớ lại
tiền kiếp như đã trình bày từ trước. Từ lâu, các nhà nghiên cứu về hiện tượng
tâm thần như Freud, Jerome Kegan, Emest Havemann. William C.L.C. Macleod,
Kripke.D.F.,Simons R.N... đều cho biết rằng tiềm thức là cái thâm sâu vi diệu
nhất thuộc về lãnh vực tinh thần ở con người. Họ cố gắng nghiên cứu tìm hiểu
những vùng sâu thẳm của tiềm thức, vì kinh nghiệm cho thấy, qua giấc mơ nhiều
người đã quay về thời kỳ ấu thơ của mình rất rõ ràng tự nhiên như đang xem qua
một cuốn album dán ảnh của họ chụp vào những giai đoạn từ ấu thơ đến khôn lớn.
Những hình ảnh ấy vô cùng linh hoạt và rất chi tiết cả từ hình ảnh, màu sắc, cử
chỉ, môi trường, sự việc xảy ra. Như thế rõ ràng là ở trong bộ não đã có những
vùng giữ lại ký ức của mọi việc đã xảy ra từ lúc con người sinh ra. Theo nhà
nghiên cứu nổi danh về vấn đề này là Hidtoring Tan thì trí nhớ được giữ lại
trong những phân tử protein của tế bào não. Nếu có một năng lực nào làm khởi
động các phân tử ấy thì các ký ức sẽ được phục hồi rõ nét. Từ lâu phương pháp
thôi miên được áp dụng để làm khơi dậy những hình ảnh của quá khứ ấn nhập trong
những vùng sâu thẳm của bộ não. Nếu khả năng của thuật thôi miên mạnh mẽ hơn
nữa thì những hình ảnh của quá khứ xa xăm của một đời người sẽ hiện ra rõ rệt
trong trí nhớ người đó và xa hơn nữa là tiền kiếp của người ấy. Nhiều thắc mắc
về hình ảnh của tiền kiếp từ lâu đã được đưa ra. Người ta tự hỏi rằng tại sao
trong bộ não một người lạ lại có tích chứa những hình ảnh của tiền kiếp trog
khi người ấy sinh ra và lớn lên rồi già chết, bộ não ấy của một đời người lại
ghi nhận những dữ kiện xảy ra từ những đời trước đó?
Trường hợp cần nhắc rằng từ lâu,
các nhà nghiên cứu về óc não đã quan tâm đến vấn đề là bộ não con người là một
thế giới lạ lùng mà sinh vật học mới lần bước vào một vài đoạn đường của nó mà
thôi. Ngày nay, các nhà khoa học nhận thấy rằng từ lúc con người ra sinh ra cho
đến khi họ qua đời, dù người ấy sống đến 100 tuổi đi nữa thì họ cũng chỉ tiêu
thụ có một phần mười năng lực của bộ não. Vậy còn chín phần kia vẫn chưa dùng
tới là bởi nguyên nhân nào? Phải chăng những phần kia còn tích chứa trong ký
ức, hình ảnh, sự kiện của nhiều đời nhiều kiếp khác nữa. Chỉ khi nào có được sự
kích động, khêu gợi do nguyên động lực nào đo mà làm phát sinh như sự thôi miên
chẳng hạn thì những ký ức ấy mới lột rõ. Đôi khi những hình ảnh, sự việc xảy ra
trùng hợp với những hình ảnh trong quá khứ xa xăm của tiền kiếp cũng khích động
được.
Điều này giải thích sâu xa hơn
những trường hợp vì sao có người thầy cái bánh xe lại khiếp sợ vì trước đó hay
từ tiền kiếp họ đã bị một tai nạn khủng khiếp có liên hệ tới bánh xe như bị tra
tấn bằng bánh xe, bị bánh xe cán qua người. Nhiều người đôi khi khủng hoảng sợ
trước một vài, thứ như sợi dây, nhánh cây, con mèo, hoặc có khi sợ nước, sợ màu
đen, sợ tiếng còi... là những thứ xét ra không có gì phải đáng hoảng sợ. Nhưng
theo khoa tâm lý học thì sự hoảng sợ ấy đều có nguyên nhân vì có thể trước đó
những thứ ấy đã là nguyên nhân gây nên những sự việc hệ trọng, đôi khi nguy
hiểm tạo đe dọa trong quá khứ và hình ảnh ấy ăn sâu trong tiềm thức cho đến khi
được khơi dậy lại từ những sự vật, hiện tượng liên quan.
Theo ông Edgar Cayce (người có khả
năng khơi dậy những hình ảnh trong tiền kiếp của người khác) thì mỗi người đều
tích trữ trong bộ não mình những ký úc tiềm tàng từ tiền kiếp. Qua nhiều kiếp,
mỗi người đã trải qau những giai đoạn phức tạp khác nhau và đôi khi những hình
ảnh trong ký ức ấy được hiện ra trở lại qua nhiều tác nhân như giấc mộng khi
đang ngủ hay những hình ảnh khi đang thức hay mạnh mẽ hơn và rõ ràng hơn khi
được kích động qua giấc ngủ thôi miên. Tiến sĩ Igo Xamolvich Lixevich (Nga Xô),
nhà nghiên cứu về triết học Đông phương đã ghi nhân rằng:
"Không riêng gì ở các nước
Đông Phương huyền bí mà ngay ở các nước Âu Châu và Mỹ Châu, đâu đâu cũng có
những trường hợp lạ kỳ mà cho đến nay giới khoa học vẫn chưa giải thích
được".
Nhiều người, nhất là con trẻ đã kể lại quãng đời về tiền kiếp của họ.
Các nhà khoa học hiện nay chỉ mới
dựa vào các gen di truyền ở các nhiễm sắc thể trong tế bào và gọi từ trí nhớ
gen hoặc giải thích qua hiện tượng tiềm thức là những gì mà ý thức con người
không kiểm soát nổi hoặc qua những hình ảnh hay câu chuyện ngẫu nhiên nào đó để
rồi tích tụ lại trong tiềm thức và khi gặp điều kiện hay bất chợt phát sinh vì
ột tác đông của một sự thúc đẩy nào đó về tâm lý. Riêng đối với các nhà nghiên
cứu siêu linh thì có một lý luận cho rằng: cái gọi là hồn của một chết nào đó
đã nhập vào một người hác và nếu bị hồn khác xâm nhập lại yếu về năng lực tinh
thần lẫn thể xác thì khi đó sẽ bị hồn mới nhập khống chế về điều trước tiên là
kích động việc nhớ lại cuộc đời của người khác. Thật sự cho đến nay, vấn đề vẫn
chưa được sự giải thích rõ ràng.
Vai Trò Của Thôi Miên Trong Vấn Đề
Nhớ Lại Tiền Kiếp
Như miên được hiểu là những tác
động để đưa một người nào đi vào giấc ngủ nhưng giấc ngủ này có vẻ khác thường
vì người ngủ ấy không ở vào trạng thái ngủ của giấc ngủ tự nhiên bình thường mà
thể hiện ở trạng thái vô cùng đặc biệt như đang đi vào cõi thế giới xa lạ nào
đó, hoặc thấy những sự việc của quá khứ hay tương lai. Tuy ngủ nhưng người ấy
vẫn thấy và vẫn nghe tất cả những gì diễn biến trong giấc ngủ. Thôi miên vì thế
được nhiều người hiểu như là một trạng thái xuất hồn và người đi vào giấc ngủ
thôi miên đôi khi thấy được những sự việc ngoài tầm mắt của họ.
Có người tự mình có thể làm cho
mình tự đi vào giấc ngủ thôi miên. Tuy nhiên trường hợp ấy rất hiếm như trường
hợp ông Edgar Cayce, người có khả năng lạ lùng về lãnh vực này. Còn phần lớn
đều phải tập luyện kiên trì và phải có cái thiên tư, năng khiếu hay "điện
lực" nào đó. Cũng có người, mà phần lớn đều phải được những người có khả
năng như đã nói ở trên đưa mình vào giấc ngủ thôi miên. Người nổi danh về lãnh
vực thôi miên là nhà nghiên cứu De Puységur (năm 1784). Nhưng khoa thôi miên đã
thật sự phát triển, được lưu ý và công nhận là một sức mạnh của tinh thần torng
khoa tâm lý học, thôi miên đã đi hẳn vào ngành y khoa và là một lợi khí vô cùng
quan trọng trong phép tìm bệnh, chữa bệnh.
Từ xưa, các nhà y học, đã lưu tâm
đến hiện tượng thôi miên, một hiện tượng liên quan đến tâm sinh lý, một hiện
tượng cao siêu trong lãnh vực tinh thần. Đó là một năng lượng tinh thần có sức
mạnh lạ kỳ trong phép trị liệu những bệnh thuộc lãnh vực tinh thần. Từ bác sĩ
Petétin (1808) đến bác sĩ Braid đều chú trọng đến khoa thôi miên. Trước đó
khoảng 300 năm, khoa thôi miên cũng đã được dùng để truy tầm nguyên nhân của
tật bệnh. Về sau, bác sĩ Berheim đã chứng minh rõ ràng về khả năng của phương
thức chữa bệnh và tìm bệnh nhờ thôi miên. Nhà vật lý học nổi tiếng Pháp là
Patrick Drouot đã áp dụng phương thức thôi miên để trị bệnh và truy tìm bệnh.
Từ lâu, các nhà nghiên cứu về thôi
miên cho thấy rằng khoa thôi miên có khả năng khơi dậy những gì thuộc về ký ức
tiềm ẩn về những quá khứ xa xăm mà trí nhớ của con người bình thường không thể
nhớ lại được. Ngày xưa, các nhà y học và tâm lý học ứng dụng sự kiện này vào
việc chữa bệnh tâm thần. Họ truy nguyên do đâu làm phát sinh sự điên loạn, lo
sợ, sầu bi, uẩn khúc, rối loạn tâm trí ở con người. Dần dần, các nhà nghiên cứu
đã khám phá ra được một điều mới mẻ kỳ lạ khác là đôi khi trong giấc ngủ thôi
miên, con người còn có khả năng kể lại những hình ảnh lúc còn bé mà trước cả
thời gian đó. Như vậy ý nghĩa sâu xa hơn nữa chính là tiền kiếp của người đó.
Nữ bác sĩ Hoa Kỳ nổi danh chữa bệnh bằng phương pháp thôi miên để khơi dậy tiền
kiếp là bà Edith Fiore. Bà Helen Wambach là nữ tiến sĩ, chuyên nghiên cứu về
vấn đề luân hồi tái sinh cũng đã áp dụng phương pháp thôi miên để đưa người
bệnh nhớ lại tiền kiếp.
Bác sĩ Alexander Cannon là một nhà
nghiên cứu về bệnh lý liên hệ tới hiện tượng tâm lý đã khẳng định rằng: trước
đây ông còn nghi ngờ về vấn đề liên quan đến hiện tượng tái sinh và nhất là
những gì đã xảy ra trong quá khứ xa xăm của kiếp người đó nhưng về sau, qua
hàng nghìn trường hợp được nghiên cứu cẩn thận ông không còn thấy mối nghi ngờ
nào nữa về tác dụng của khoa thôi miên trong vấn đề khơi dậy tiềm năng của trí
nhớ về những hình ảnh của tiền kiếp.
Các nhà nghiên cứu thôi miên cho
biết não bộ con người được xem như là một máy phát điện hay một bình ắc quy.
Đồng thời cũng là một bộ máy thu luồng sóng điện. Khi muốn đạt kết quả của
thuật thôi miên, cần tập trung ở vùng trung tâm của sự tập trung tư tưởng hay
chú ý. Người Ấn Độ từ xưa đã biết rõ điểm tập trung này. Điểm này được đánh dấu
rõ ràng giữa 2 chân mày, thường người Ấn hay tạo một chấm đỏ ở trán nằm ngay ở
điểm tập trung này.
Hiện việc áp dụng khoa thôi miên
trong vấn đề khơi dậy quá khứ đã và đang được phát triển khắp nơi trên thế
giới. Các cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu và trị liệu các loại bệnh thuộc nan y đang
được mở ra ở nhiều nơi do các nhà nghiên cứu về thôi miên kết hợp với các nhà
tâm lý học và y, bác sĩ. Cũng từ đó, các nhà nghiên cứu về hiện tượng tâm linh
đã bắt đầu vững tin vào những gì mà từ lâu họ đang lần bước tìm hiểu: đó là
hiện tượng nhớ lại tiền kiếp của mỗi người.
Tuổi Tác Và Khả Năng Nhớ Lại Tiền
Kiếp
Như vậy, những gì gọi... là tiềm
thức, là hình ảnh và trí nhớ trong tiền kiếp là điều không thể chối cãi. Từ đó
vấn đề mỗi con người không thể nhớ lại tiền kiếp mình cũng được các nhà nghiên
cứu về hiện tượng luân hồi giải thích như sau:
Ngay trong mỗi con người của chúng
ta đôi khi cũng thường bị quên trong cả những việc vừa làm chớ không riêng gì
những điều đã xảy ra từ tấm bé, có người tự hào mình nhớ hết những gì xảy ra
hồi còn bé nhưng thật sự chỉ nhớ những hình ảnh và sự việc đại cương mà thôi
chớ không thể nào nhớ chi tiết từng ngày từng giờ từng tháng từng năm cùng với
mọi sự việc xảy ra. Theo các nhà não sinh học thì sự quên là điều rất cần thiết
vì bộ não cũng cần được nghỉ ngơi. Não là một thư viện khổng lồ lưu trữ biết
bao nhiêu sách vở và tài liệu của ký ức con người, mỗi giây, mỗi phút mỗi ngày,
mỗi giờ đều có những hình ảnh, sự kiện khác được thu nhận, những gì trước đó
phải được cho vào sâu trong tiềm thức sẽ là ký ức để dành chỗ cho những sự kiện
khác đến. Vì thế sự quên đi là điều hiển nhiên. Chỉ khi nào cần đến hoặc được
khơi dậy thì chúng mới hiện ra, vậy sự quên không có nghĩa là mất hẳn và sự
quên nên được hiểu như một cuốn sách đang để vào sâu trong một ngăn nào đó của
hộc tủ thư viện mà thôi. Từ lập luận đó ta mới thấy được tại sao con người
không nhớ lại được tiền kiếp của mình, nhất là những hình ảnh, sự kiện lại xảy
ra ở một thời gian quá xa.
Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu
về trí nhớ thì khả năng nhớ lại của con người về những gì đã xảy ra thường thay
đổi theo tuổi tác, thông thường người ta cứ tưởng rằng người già có trí nhớ phi
thường. Thật ra, theo Jidith Randal và Steven Ferris, David Krech... thì người
già thường nhớ rất lâu về tình cảm trong đời, nhất là tài năng của họ. Nguyên
nhân chính là do sự nuối tiếc, luyến lưu. Nhưng thật sự trí nhớ ấy chỉ là tổng
quát, đại cương chớ không sâu sắc. Cũng theo các nhà nghiên cứu này thì vào
khoảng tuổi từ 50 đến 60, con người thường dễ quên và khó có được trí nhớ tốt
lành. Đôi khi họ còn dễ quên ngay cả những việc mới xảy ra trong một thời gian
ngắn thôi. Y học gọi đó là sự suy thoái về trí nhớ liên hệ tới tuổi (Age
Associated Memory Impairment (AAMI).
Ngược lại đối với người tuổi trẻ,
nhất là con trẻ, bộ óc lại có khả năng phát triển về trí nhớ rất mạnh. Điều này
phù hợp với việc nghiên cứu và khám phá của giáo sư tiến sĩ Ian Stevenson khi
ông tìm hiểu về vấn đề Luân Hồi Tái Sinh qua con trẻ. Nhà khoa học này đã
nghiên cứu qua hàng ngàn trường hợp về hiện tượng con người nhớ lại tiền kiếp
của mình cũng như các nhà nghiên cứu John Van Auken, Shelley, Violet,
Cerminara, Gina, Sparrow, Lynn... đã lưu tâm. Theo tiến sĩ Stevenson thì con
trẻ có khả năng nhớ lại tiền kiếp của chúng rất lớn, bộ óc chúng có ưu điểm và
trong thời kỳ thanh xuân tươi trẻ ấy có thể tự động tạo nên những hình ảnh kéo
về từ quá khứ xa xăm (ở đây phải là tiền kiếp vì đối với trẻ con, 4, 5 tuổi quả
thật chưa có quá khứ nếu xét theo đời hiện đại của nó) nhất là khi chúng gặp
được những hình ảnh, sự kiện liên quan nào đó. Qua các tài liệu thu thập được
từ năm 1960 trở về sau, tiến sĩ Stevenson đã có được một số lớn sự kiện lạ lùng
phát sinh từ con trẻ khi chúng tự nhiên kể lại hay bộc lộ những gì liên quan
đến tiền kiếp của chúng. Những trẻ con này thường chỉ ở khoảng 4, 5 tuổi mà
thôi. Ở lứa tuổi mà khi xét đến cử chỉ, lời nói, sự nhận thức hay khả năng thì
quả là không thể có được. Nhiều trường hợp lạ lùng nhưng có thật đã xảy ra qua
các tài liệu mà tiến sĩ Stevenson đã thu thập được như em bé Duminda 6 tuổi ở
làng Kandy (Sri Lanka), bé Thusitha, bé Tatu,
hay bé người Thổ Nhĩ Kỳ... những em bé này đã kể lại tiền kiếp của mình ra sao,
cha mẹ mình là ai, đã qua đời vì nguyên nhân nào... và kỳ dị hơn nữa là những
em bé này đã cho thấy những bằng cớ chính xác rõ ràng về những gì mà chúng đã
kể đến.
Trong vòng mấy mươi năm qua, vấn đề con trẻ nhớ lại những gì gọi là tiền kiếp
đã được xem như là vấn đề có cơ sở khoa học chớ không còn là chuyện mê tín
huyền hoặc nữa. Tuy nhiên có lẽ vấn đề khó giải thích và khó chứng minh nên từ
xưa chưa có nhiều người, nhất là giới khoa học đứng ra nghiên cứu và cổ xướng
rộng rãi. Mãi về sau mới có một số nhân vật nổi danh như bác sĩ Melvin More, nữ
giáo sư Diane Komp và đáng lưu ý hơn cả là giáo sư, bác sĩ Ian Stevenson thuộc
đại học Virginia (Hoa Kỳ), là người đã bỏ ra một thời gian dài để nghiên cứu về
các trường hợp thuộc hiện tượng luân hồi tái sinh (Reicarnation) từ các con
trẻ. Giáo sư tiến sĩ Ian Stevenson còn là nhà tâm sinh lý nổi tiếng ở đại học
Charlottes Ville. Ôâng đã nghiên cứu 10.623 trường hợp có liên đến hiện tượng
luân hồi, tái sinh trong đó có khoảng 40 trường hợp đầu thai xảy ra tại nước
Pháp và một số rất lớn trường hợp đầu thai xuất hiện ở Ấn Độ. Ngoài những
trường hợp xác nhận hiện tượng tự nhiên ngoại thể, ông còn kiểm tra qua các
cuộc giải phẫu và mổ tử thi tại bệnh viện và nhờ đó mà có thể xác nghiệm được
nhiều trường hợp lạ lùng về tiền kiếp như đương sự có dấu vết bẩm sinh trên cơ
thể tương ứng với những gì đã xảy ra trong kiếp trước.
Có hơn 2500 trẻ con nhớ lại những
gì của thời quá vãng, cái thời mà với lứa tuổi hiện tại của chúng (có trẻ chỉ
mới 4, 5 tuổi) người ta không thể cho là ở trước đó một vài năm mà rất xa, có
nghĩa rằng phải dùng tới chữ Kiếp Trước của chúng. Hơn nữa những gì mà các em bé
này nhớ, kể lại, mô tả lại hoàn toàn không ăn nhập gì với hoàn cảnh và thời
gian mà chúng đang sống ở hiện tại. Theo bác sĩ Stevenson thì các em này thường
mở đầu bằng hai chữ "lúc đó" "hồi đó". Điều đặc biệt là bác
sĩ Stevenson đã luôn luôn để ý cân nhắc, gạt bỏ những gì có tính cách không
đứng đắn với sự mô tả hoặc có sự liên hệ chỉ bảo của người lớn (có thể giúp cho
con trẻ phát biểu những điều mà trí óc chúng không thể nào đã có sẵn, đã được
khắc ghi). Ngoài ra, bác sĩ Stevenson còn lưu ý một sự kiện quan trọng khác, đó
là dấu vết bẩm sinh trên cơ thể của các cháu bé (birthmarks) hoặc ngay cả những
trường hợp quái thai (birth defets). Khi những cháu bé này nhớ lại tiền kiếp
của chúng thì thường thường có sự liên hệ lạ lùng giữa sự kiện với dấu vết bẩm sinh
hay dị tật mà chúng đã mang trên cơ thể.
Trẻ Con Và Vấn Đề Nhớ Lại Tiền Kiếp
Khi trả lời câu hỏi của giới báo
chí về vấn đề tại sao lại tập trung nghiên cứu về vấn đề từ trẻ con hơn người
lớn thì bác sĩ Stevenson cho biết như sau:
"Dĩ nhiên đây là điều ghi
nhiều nghi vấn và còn dễ bị ngộ nhận vì phần đông mọi người đều cho rằng trẻ
con không biết gì, nếu chúng phát biểu một điều gì đó thì có thể là do chúng đã
học được, nghe được và đã nói theo như một con vẹt tập nói (do người lớn đã tập
để chỉ vẽ cho nó) Nên những lời nói của con trẻ, nhất là các nhận định của
chúng (các trẻ 4, 5 tuổi...) thường chẳng có giá trị nào... Tuy nhiên dưới mắt
các nhà khoa học và nhất là các nhà sinh vật học thì vấn đề lại khác. Sở dĩ họ
lưu tâm đến việc nghiên cứu con trẻ về vấn đề nhớ lại quá khứ hay tiền kiếp là
do các lý do sau đây:
1) Trí óc con trẻ giống như một tờ
giấy trắng, chưa có một ký ức, kỷ niệm ghi vào hơn nữa chúng cũng chưa đủ trình
độ để có thể hiểu rõ về lý thuyết luân hồi, đầu thai của một tôn giáo nào... Vì
thế những gì phát biểu, mô tả, trình bày từ con trẻ, đặc biệt với những vấn đề
làm ta suy nghĩ ngạc nhiên và đặt nghi vấn đều là những vấn đề đáng quan tâm.
Dĩ nhiên phải loại bỏ trường hợp con trẻ học nói hay được người lớn chỉ vẽ để
nói lên những vấn đề người lớn (và giả sự rằng sự kiện này có thì chúng ta cũng
dễ dàng nhận ra ngay). Vì thế khi con trẻ nói lên những điều, kể lại những
chuyện về quá khứ mà chúng tự cho rằng mình đã trải qua thì rõ ràng có cái gì
đó đáng để ta lưu tâm tìm hiểu vì với lứa tuổi của chúng không thể nào có được
những hình ảnh, những kinh nghiệm cũng như những từ ngữ như chúng đã kể lại.
Chỉ ngoại trừ chúng ta đã có một ký ức từ quá khứ xa xăm, hay từ tiền kiếp.
2) Con trẻ thật sự không có gian
dối, sự gian dối được thu thập dần khi chúng lớn lên. Nếu chúng ta có điều gian
dối thì khó mà không bị người lớn phát giác. Cũng vậy, nếu những gì con trẻ kể
lại về cái gọi là tiền kiếp hay những gì chúng thấy ở một thế giới nào khác mà
gian dối, bịa đặt thì thế nào cũng bị lộ.
3) Trình bày vấn đề, cốt lõi của
vấn đề bao giờ cũng giống nhau dù trình bày nhiều lần vì thế các nhà nghiên cứu
còn kiểm tra sự chính xác trong câu chuyện của con trẻ bằng cách yêu cầu chúng
phát họa lại những gì chúng đã thấy để xem có sự sai lệch nào không. Xự kiện
này giúp xác nhận lời trình bày của con trẻ là có cơ sở đúng đắn đáng quan tâm.
(Như trường hợp bé Jemi lúc 11 tuổi đã vẽ lại những hình ảnh mà em đã thấy khi
em bước vào ngưỡng cữa của sự chết nhưng chưa tiến hẳn vào tận cùng của thế
giới khác. Tại đây em đã thấy một số hình ảnh lạ lùng như thấy những người mà
trên đầu tỏa ánh hào quang, nhưng bước đi nhẹ nhàng lung linh và đặc biệt em
còn thấy một số người đang nằm trong những cái hộp giống hộp bằng gương. Khi
bác sĩ hỏi em có biết vì sao những người ấy nằm trong các hộp kính thì cho em
biết: "đó là những người đang chờ đến lượt tái sinh". Các hình mô tả
lại những gì mà em đã thấy cho bác sĩ Melvin More xem đã được đăng tải lại rõ
ràng trong nguyệt san Life số 3, volume 15, tháng 3 năm 1992.
4.) Phần lớn các sự kiện mà con trẻ
đã kể về tiền kiếp của mình thường rất phù hợp với những gì mà chúng đã đề cập
đến và sự kiện được mô tả rất trung thực và tự nhiên.
5) Qua các sự kiện thu thập được từ
các nhà nghiên cứu về vấn đề kinh nghiệm gần gũi hay trải qua về cái chết (near
death experience NDE) hay sự luân hồi, tái sanh (reincarnation) thì ở trẻ con
sự kiện này thường xảy ra nhiều hơn người lớn.
Theo bác sĩ Stevenson thì nghiên
cứu ở con trẻ có được lợi điểm hơn người lớn vì chúng có nhiều dữ kiện còn tồn tại
trong lúc đang sống và thường dễ tìm kiếm, kiểm tra được những sự việc hay gia
đình nào đó có liên hệ với vấn đề. Thường thì trong các báo cáo hoặc khi tiếp
xúc với gia đình có hiện tượng nhớ lại tiền kiếp mà cháu bé là vai chính, bác
sĩ Stevenson ghi nhận rằng: "Mẹ không phải là mẹ của con. Con muốn đến nhà
mẹ ruột của con..." Và sau sự kinh ngạc của vấn đề cứ tiếp diễn mãi để rồi
gia đình người mẹ có đứa con thường phát biểu câu khó hiểu ấy phải tìm cho ra
sự thật và sự thật là rất phù hợp với những gì mà cháu bé đã mô tả. Có lần bác
sĩ Stevenson nghe một người đàn bà kể chuyện về người con của bà ta mới lên 5
tuổi. Một hôm bà chuẩn bị đi chợ (chợ đi rất xa) thì cháu bé nói một cách tự
nhiên: "Ồ! Mẹ phải lấy xe đi chớ! Con có xe mà. Mẹ không cần phải đi bộ
tới chợ xa xôi. Chỗ con ở có xe, tài xế sẽ chở mẹ tới chợ..."
Cũng theo bác sĩ Stevenson thì đôi
khi những con trẻ này lại có những thái độ, cử chỉ, lời nói hay sự lo lắng rất
đặc biệt, sự kiện này có liên quan đến người đã được nhắc đến ở quá khứ hay
tiền kiếp. Người ấy không ai khác hơn là cháu bé hiện tại. Nếu người ấy đã chết
vì tai nạn sông nước hay những gì liên quan tới nước cháu bé này sẽ rất sợ
nước. Nếu người đó bị bắn chết thì cháu bé rất sợ tiếng súng nổ hay trông thấy
súng là hoảng sợ. Nếu người đó trước đây chết vì bị rắn cắn thì hiện tại cháu
bé lại sợ rắn vì bị ám ảnh về những gì đầy ghê sợ từ tiền kiếp do rắn gây ra.
Đôi khi đứa bé lại rất ham thích một loại thức ăn đặc biệt nào đó, hoặc màu sắc
nào đó hay loại quần áo nào đó. Một trường hợp điển hình đã xảy ra tại Miến
Điện. Một em bé đã kể lại tiền kiếp của mình. Lúc đó em là một quân nhân Nhật
Bản và đã bị giết trong thế chiến thứ hai. Điều kỳ lạ là em rất thích uống trà
đậm và thức ăn thường ngày của người Nhật, mặc dầu lúc này em là người Miến
Điện, mà người Miến lại thích uống trà loãng. Theo sự nghiên cứu và phân tích
tỉ mỉ của bác sĩ Stevenson thì có nhiều bé gái nhớ lại tiền kiếp của mình là
trai và cũng có trường hợp có nhiều bé trai nhớ lại tiền kiếp của mình là gái
và cũng từ đó chúng thích ăn mặc cũng như có cử chỉ dáng điệu phù hợp với phái
tính trước đó. Nhiều người đã hỏi bác sĩ Stevenson rằng: trường hợp những người
thuộc về Homo Sexuality (thuộc tính dục đồng giới tính, đồng tính luyến ái) có
phải là do từ bản thân tiền kiếp có giới tính khác biệt hay không thì bác sĩ
Stevenson đã trả lời rằng "Tôi nghĩ điều đó có thể có và cũng có một số
biệt lệ, như vấn đề khác biệt nhau về phương diện sinh vật học..."
Trở lại vấn đề con trẻ có khả năng
nhớ lại tiền kiếp thì bác sĩ Stevenson đã nêu ra trường hợp các trẻ con khi có
khả năng ấy, thường hay mô tả rõ ràng chi tiết về cái chết của chính mình ở
kiếp trước, sự kiện này thường xảy ra nhiều và có từ 60 đến 70 phần trăm trường
hợp như vậy. Đặc biệt nếu cái chết xảy ra quá khủng khiếp hay do tự sát thì lại
càng dễ đem lại sự hồi tưởng về cái chết và cách chết ở kiếp sau nơi đứa trẻ
hơn. Khi đứa trẻ tái sinh thì lần này những ký ức khổ đau rùng rợn ấy sẽ làm
nhớ lại và thôi thúc chúng tìm đến cội nguồn của kiếp trước và dường như muốn
thấy lại những gì mà chúng đã làm hay đã trải qua. Nhà siêu tâm lý Banglopp đã
đặt câu hỏi rằng: Phải chăng những người bị chết bất đắc kỳ tử lại thường nhớ
rõ về thời gian và những gì đã xảy ra cho họ ở kiếp trước trong khi họ đã bước
hẳn vào cuộc đời mới khác ở một con người khác. Phải chăng qua cái chết bất ngờ
của tiền kiếp, vì chết không theo đúng quy luật của tự nhiên (sinh, lão, bệnh,
tử) nên đã khiến linh hồn thoát khỏi thể xác một cách bất ngờ và chính sau cái
chết bất ngờ ấy, đã khiến cho về sau khi hồn nhập vào thân xác mới khác vẫn còn
giữ được sự liên quan mật thiết với những gì của thời quá vãng...
Trường Đại học Delhi
ở Ấn Độ đã hợp tác với Đại học Virginia
của Hoa Kỳ trong vấn đề nghiên cứu những sự kiện đặc biệt về con người. Một
thống kê mới nhất cho thấy các trẻ nhỏ thường có khả năng phát lộ về các hiện
tượng siêu tâm lý và phần lớn các trẻ này thường cho thấy được phần nào
"quá khứ xa xăm của chúng". Quá khứ đây được hiểu như đã xảy ra trước
khi đứa bé chào đời hay nói khác hơn là tiền kiếp. Các nhà nghiên cứu cho rằng,
do sự tình cờ, con người có thể biết được những điều lạ lùng hé lộ qua câu
chuyện của các trẻ nhỏ về những gì đã xảy ra trước lúc đứa bé ấy sinh ra.
Thường thì các trẻ nhỏ có số tuổi từ 3 đến 7 là hay nhạy cảm và có khả năng
"nhớ lại". Càng lớn lên, thì khả năng "nhớ lại" những gì đã
xảy ra ở thế hệ trước sẽ không rõ ràng hay không còn.
Theo thống kê thì có đến 82% tổng
số trường hợp là các đứa trẻ nói trên khi kể lại "quá khứ" đã nhớ lại
được tên tuổi mình lúc đó. Đại Đức Ấn Độ K. Sri Dhammananda đã ghi lại trong bộ
sưu tập của mình về vấn đề Tái sinh chuyện một em bé 7 tuổi có tài chữa bệnh và
chế thuốc rất hay. Khi được hỏi bé trả lời một cách rất tự nhiên: "Trước
đây, tôi không phải như bây giờ, lúc ấy tôi là một thầy thuốc danh hiệu là
Jules Alpherese và tôi đã chữa bệnh, điều chế thuốc giúp rất nhiều người. Giờ
đây, dù ở thân xác khác, tôi vẫn tiếp tục làm được điều mình mong ước.
Những Người Đi Vào Quá Khứ.
Vấn đề khả năng nhớ lại tiền kiếp
càng ngày càng được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và hy vọng trong tương
lai chắc chắn con người sẽ còn thu thập được thêm nhiều sự kiện mới lạ hữu ích
khác và từ đó mà mối nghi ngờ hoang man về những gì gọi là tiền kiếp, về tái
sinh về luân hồi sẽ không còn là một vấn đề phải bàn cãi nữa.
Điều cần lưu ý thêm là song song
với hiện tượng nhớ về tiền kiếp xa xăm, hiện nay các nhà nghiên cứu còn quan
tâm hơn nữa về một số hiện tượng khác tương tự đó là hiện tượng thấy trước
những sự việc trong quá khứ và cả trong tương lai nữa.
Mùa hè năm 1901 có hai người phụ nữ
tên là Eleanor Jourdain và Anne Moberly đi thăm các lâu đài nổi tiếng của Pháp.
Nơi họ say mê nhất qua sách vở báo chí và nhất là qua tài liệu lịch sử là Điện Versailles. Ngôi biệt
điện nguy nga vĩ đại nổi danh thế giới qua các triều đại vua chúa vàng son của
nước Pháp được xây dựng bởi vua Louis thứ XIII và sau đó được các vua Louis kế
tiếp phát triển thêm. Ngay bước xây cất đầu tiên, ngôi biệt điện này đã tiêu
phí hết 100 triệu đô la chớ không phải tính theo tiền phật lăng. Hàng năm du
khách đến thăm điện Versaille rất đông nhưng hai phụ nữ này chỉ thích tự mình
đi thăm không qua một tổ chức hay một phái đoàn du lịch nào. Họ không muốn bị
lệ thuộc vào nhiều hoàn cảnh và thời gian đi lại vì họ rất thích nghiên cứu
lịch sử. Với một cuốn chỉ nam du lịch Pháp bỏ túi, hai người đàn bà này đã lần
mò để đến những nơi mà họ thích tìm hiểu.
Đầu tiên, cả hai lên ô tô và khi ô
tô tới bến đáng lý họ đã đến nơi nếu họ quẹo tay mặt nhưng họ lại xuống xe và
đi tiếp một đoạn đường khá xa. Sau đó họ thấy một con đường nhỏ, một con đường
vắng tanh, đó là con đường đất dẫn vào một đám cây xanh ngắt. Sẵm óc tò mò và
thích du lịch thám hiểm, hai người đàn bà với túi xách trên tay đi lần theo con
đường. Không gian êm lắng lạ thường, xa xa là khu rừng thông ngút ngàn. Họ phân
vân và có cảm giác mình bị lạc đường. Nhưng họ thấy có nhiều ngôi nhà nông dân
đằng xa rồi thấy bên đường cái cào sắt và cái xẻng đặt gần chiếc xe cút kít. Họ
gặt nhiều người trên đường lúc đầu là hai người đàn ông mặc áo choàng màu xám
xanh, rồi nơi thềm một túp lều, cô Jourdain thấy một người đàn bà lớn tuổi đang
đứng với một cô gái trẻ. Sau vài phút, họ lại gặp một người đàn ông cũng mặc áo
choàng và đầu đội mũ rộng vành. Người đàn ông này có gương mặt lầm lì, xam xám
và điểm những chấm rỗ hoa. Bà Anne Moberly định hỏi thăm đường nhưng thấy dáng
dấp vẻ nghiêm khắc của người đàn ông này nên không hỏi nữa thì vừa lúc đó có
một người đàn ông từ xa chạy lại đứng trước mặt họ và có vẽ sốt sắng:
- Tôi có thể dẫn các bà đi nếu các
bà cho phép!?
Bà Anne và cô Jourdain cảm thấy vui
vui và họ cảm ơn người đàn ông đã ngỏ ý muốn dẫn đường cho họ. Họ qua một cây
cầu nhỏ bắt ngang qua một con suối mà tiếng nước suối đổ sao nghe xa xăm nhẹ
nhàng như xem qua màn ảnh chỉ có hình mà không có tiếng động. Người đàn ông dẫn
họ qua cầu rồi từ biệt. Trước mặt hai người là một khoảng yên tĩnh khác. Một
người đàn bà đang trầm ngâm ngắm những bức tranh mà bà đang vẽ. Họ gặp hai
người đàn ông đi tới, yên lặng và nhẹ nhàng như hòa vào cái tĩnh mịch của vùng
đất mà họ đang đi qua. Đâu đâu cũng muốn nhuốm vẽ thâm trầm, lặng lẽ. Khi vừa
đến một căn nhà gần cuối đường họ mới nghe thấy quang cảnh ồn ào vui vẻ phát
ra, họ nhìn vào và biết đó là một cuộc đám cưới linh đình. Một người đàn ông
bước ra đưa cao ly rượu chào đón họ...
Hai phụ nữ cảm thấy mỏi chân và họ
ngồi lên một tảng đá lớn bên hàng cây râm mát để nghỉ mệt, Gần chiều họ quay
trở về. Điều kỳ dị là con đường họ đi qua còn đó nhưng tất cả những gì họ thấy
đều như tan biến cả, không còn ngôi nhà ồn ào náo nhiệt, không còn người đi
lại, chẳng thấy túp lều ở đâu và cả xe cút kít và cào xẻng... Hai người phụ nữ
trở về Ba Lê (Paris)
mỗi người đều mang tâm trạng hoang mang kỳ lạ về những gì mình đã thấy. Họ thì
thào hỏi nhau như sợ nói to ra sẽ động tới những gì linh thiêng huyền diệu
nhất. Họ xem các tập ghi chép của nhau và xác nhận rằng mọi người đều thấy rõ
ràng những hình ảnh xảy ra trước mắt mình không có gì sai lệch.
Điều kỳ dị là họ nhớ lại những căn
nhà xưa, những túp lều và cách trang phục của những người mà họ gặp. Xem lại
bản đồ và sách chỉ dẫn, họ thấy không thể có vùng đất nào như họ đã đi qua có
trong tài liệu cả. Hơn nữa những gì họ thấy không thể nào có được vào thời đại
họ đang sống nhất là những kiểi mũ, nón áo quần mà họ đã thấy ở những người mà
họ đã gặp. Tài liệu lịch sử cho biết những gì mà họ đã thấy chỉ có ở thời đại
cách xa thời đại họ đến gần 200 năm.
Khi đọc kỹ lại nhật ký của nhau,
hai phụ nữ thấy có một điều lạ là trong khi bà Anne Moberly thấy người phụ nữ
ngồi vẽ tranh bên kia cầu thì cô Jourdain lại không thấy. Còn khi Jourdain thấy
người đàn bà lớn tuổi và cô gái ở túp lều thì bà Anne Moberly lại không thấy.
Nơi mà hai phụ nữ trước đó quyết định viếng thăm là khu nghỉ mát nổi tiếng
Petit Triamom, đó là khu nghỉ hè của hoàng hậu Marie Antoinette.
Bà Anne Moberly và Jordain cảm thấy
như họ đã hặp phải một trường hợp dị thường. Nếu chỉ một người đơn độc gặp phải
hoàn cảnh ấy thì có thể họ sẽ cho là một giấc mơ qua hay là một ảo giác
(hallucination) mà họ đã trải qua. Nhưng ở đây chính cả hai người đều đã cùng
đi và cùng thấy những cảnh tương tự như nhau (chỉ ngoại trừ hai sự kiện vừa kể
trên). Vậy có cái gì đó lạ lùng đã xảy ra và đã, đang hiện diện kề cận bên
những gì gọi là cõi thế gian. Phải chăng cái quá khứ vẫn nằm mãi bên cái hiện
tại?
Vốn là người thích mạo hiểm, tìm
tòi, nghiên cứu, hai phụ nữ ấy quyết định thử lại một chuyến du hành đến khu
nghỉ mát Petit Trianon lần nữa. Họ lại đi vào con đường nhỏ yên lặng. Khi gần
đến công viên đầy hoa lá, họ bổng nghe tiếng nhạc thoang thoáng và từ xa xa có
hai người công nhân đội mũ màu xanh đỏ đang củi lên chiếc xe nằm gần một mô đất
cao.
Sau đó, cả hai phụ nữ đến gặp người
trông coi khu nghỉ mát Petit Trianon. Người này sau khi nghe hai cô gái kể lại
mọi sự họ đã trông thấy (cũng như những gì gọ đã ghi chép lại trong nhật ký)
thì chỉ lắc đầu và nói: "Tôi xin phát biểu là tất cả những gì hai cô đã
trình bày đều là của quá khứ vì tôi là người trực tiếp coi sóc khu này đã lâu
năm, tôi chưa bao giờ trông thấy những người như đã kể, hơn nữa, với những áo
quần nhà cửa, vật dụng ấy thì chỉ có thể thấy được cách đây hơn một thế kỷ mà
thôi." Nhân thấy những gì mìng kể lại đều khó được ai chấp nhận hay giải
thích. Cả hai phụ nữ lại đến khu Versailles
lần nữa. Nhưng lần này, tất cả những gì mà họ đã đi qua, đã trông thấy đều
không còn nữa. Họ chỉ còn một quyết định là đến thư viện lớn nhất là viện
chuyên chuyên về lịch sử để tìm lời chứng nhận và giải đáp qua tư liệu mà thôi.
Tại đây, qua các tài liệu lịch sử, phong tục học và xã hội học của nước Pháp,
họ ghi nhận lại rằng những trang phục mà họ đã thấy qua những người xuất hiện ở
Petit Trianon là trang phục của thời đại vua Louis. Nơi họ đến là khi qua cầu
là nơi hoàng hậu Marie Antointte đến nghỉ ngơi vào mùa hè. Người phụ nữ ngồi
bên giá vẽ tranh mà bà Anne Mobely thấy chính là hoàng hậu Marie Antoinette.
Câu chuyện lạ lùng mà Eleanor
Jourdain và Anne Mobrly đã trải qua chẳng bao lâu lôi cuốn một số nhà nghiên
cứu về các hiện tượng siêu hình. Các nhà sưu tập sử liệu cũng đã góp phần tìm
hiểu về những gì mà tập bút ký của hai phụ nữ này có ghi lại. Trong một bản tài
liệu lịch sử người ta thấy có nhắc đến túp lều ở Trianon, nơi đây có hai người
sinh sống là một cô bé 14 tuổi và người mẹ của cô.
Người đàn ông gương mặt nghiêm khắc
với những chấm rổ là người quen thân của hoàng hậu đến nghỉ mát vào mỗi dịp hè
ở khu này. Riêng về cây cầu mà hai phụ nữ đi qua với dòng suối êm dịu như mơ
nay không còn thấy thì lại có một tài liệu được phát hiện vào năm 1913 qua một
bản đồ vẽ chi tiết những địa điểm, địa danh của vùng Petit Trianon do chính
người làm vườn của hoàng hậu Marie Antoinette vẽ, trên bản đồ này có vẽ hình
cây cầu bắt qua một con suối.
Như thế, mọi thứ mà hai phụ nữ Moberly và Jourdan thấy lần lần đều đã được xác
nhận và như thế, rõ ràng họ đã một đôi lần đi vào quá khứ mà họ không ngờ. Điều
cần biết thêm là hai phụ nữ này đều là những nhà trí thức Bà Anne Moberly là
hiệu trưởng của trường College St. Hugh thuộc đại học Oxford, cô Eleanor Jordan là nhà nghiên cứu
sử và là giảng viên về ngôn ngữ Pháp. Hai người này không phải là dân Pháp. Họ
đến tham quan nước Pháp vào mùa hè năm 1901. Tư liệu về câu chuyện của họ hiện
nay vẫn còn lưu trữ tại thư viện Bodleian của đại học Oxford.
Nhiều tài liệu nói về những hiện
tượng trở lại quá khứ hiện nay đã được nhiều nhà nghiên cứu và những trung tâm
nghiên cứu hiện tượng siêu hình sưu tầm và lưu trữ tại nhiều nơi trên thế giới.
Khi nhắc đến vấn đề đi vào quá khứ, người ta không thể quên những chuyện lạ có
thật do Hans Holzer, một nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu tâm lý kể lại
như sau: Năm 1964, một người đàn ông tên là Robert Cory (một con người khá nổi
tiếng trong làng văn học nghệ thuật Hoa Kỳ) đã lái xe trên đường đến Los
Angeles. Hôm đó trời quang đãng. Vì đường xa nên khi đến địa phận Oregon thì trời vừa tối
nhưng ông Cory vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Bỗng nhiên một trận bão tuyết nổi
lên gặp lúc xe ông đang trên dốc núi. Ông Cory buộc lòng phải ngưng xe lại để
quan sát tình hình vì tuyết đổ liên tục và đường lại cheo leo. Ông vừa xuống xe
thì thấy từ xa có một ánh sáng chiếu như có đèn ai đang mở dò đường. Ông Cory
liền cho xe chạy đến đó xem thử. Tại đây chẳng có ai. Mọi vật hoàn toàn yên
lặng. Chỉ có bảng chỉ đường sáng loá như được chiếu sáng bởi một nguồn sáng nào
từ đám mây. Theo bảng chỉ đường, ông Cory cho xe chạy xuống núi và cuối cùng
ông thấy trước mặt một vùng có nhà cửa và mà đường sá thì có vẻ cũ kỹ, đầy ổ gà
sồi sụp. Ông dừng xe lại trước một ngôi nhà bằng gỗ rộng lớn mà ông nghĩ đó là
khách sạn. Ông Cory quyết định nghỉ đêm tại đây vì trời còn xấu. Ông bước vào
ngôi nhà lớn ấy. Dọc hành lang ngôi nhà lớn ấy được trang hoàng bằng những
chiếc đầu các loài thú. Có những tấm bằng gỗ tróc sơn nứt nẻ có ghi các năm
1800.
Điều kỳ dị ngôi nhà vắng vẻ lạ lùng
không một bóng người. Ông định trở ra nhưng lại thấy có lửa cháy bập bùng ở lò
sưởi phòng khách lớn lên lại đẩy cửa bước vào. Trời lạnh như cắt nên ông cần
được sưởi ấm. Ông đến bên lò sưởi và ngồi lên chiếc ghế dài. Cạnh đó ông thấy
cái bàn nhỏ, trên bàn đặt cái điện thoại mà nhìn kỹ thì đây là điện thoại quá
xưa cũ mà hầu hết các cơ sở làm ăn khắp nước Mỹ chẳng bao giờ tìm thấy có, đó
là loại điện thoại phải quay số rườm rà trước khi gọi. Tuy nhiên, ông Cory cũng
phải dùng đến cái điện thoại này để gọi về nhà báo tin cho người thân. Nhưng
cái máy hình như không còn hoạt động nữa. Ông Cory cảm thấy mỏi mệt và buồn
ngủ, bỗng nhiên trong cái vắng vẻ yên lặng ấy ông bỗng nghe có tiếng động,
tiếng động rất nhẹ và ông thấy một ông già đang từ tầng lầu trên đi xuống. Ông
Cory tưởng đó là người quản lý khách sạn. Nhưng nhìn kỹ lại, ông cụ giống như
một người nông dân ở vùng quê xa xôi nào đó vì nhìn lối ăn mặc và cử chỉ thấy
ông ta thật vụng về thô lỗ cục mịch vô cùng. Ông cụ lầm lì đi đến bên lò sưởi
và coi sự xuất hiện của ông Cory là tự nhiên. Có lẽ vì đây là một khách sạn Thế
rồi ông Cory ngủ thiếp đi trên ghế dài. Sáng hôm sau, ánh nắng xuyên qua cửa
kính chiếu vào mắt khiến ông Cory chợt tỉnh. Ông thấy có nhiều người xuất hiện
trong khách sạn mà phần lớn là những người già. Nhiều người nhìn ông nhưng có
vẻ lơ đãng không quan tâm. Ông Cory đã đến bên những người ấy để hỏi về ngôi
làng xa lạ và luôn tiện hỏi thăm có trạm xăng nào ở gần đây không? Ông mơ màng
như thấy ít người đáp lời và nếu có thì những lời nói của họ không có mạch lạc
hoặc chẳng có ăn nhập gì với câu hỏi mà ông đã nêu ra cả. Ông Cory cảm thấy
hoang mang trong lòng. Cái cảm giác trống vắng, lẻ loi, lạ lùng bỗng đến với
ông thật nhanh theo giòng linh cảm. Ông hỏi: Đây là đâu? xin các ông vui lòng
cho tôi biết hiện tôi đang ở đâu đây? Có vài người bước tới nhìn ông và hình
như có người cầm tay ông, ân cần vỗ về và chỉ đường cho ông rồi sau cùng nói:
Ông đừng sợ! Chẳng có gì phải sợ cả!
Ông Cory chợt nhớ tới chiếc xe, ông
chạy ra khỏi khách sạn. Chiếc xe ông vẫn còn đó. Ông mở cửa xe và nổ máy chiếc
xe chuyển động và ông Cory vội vã như muốn thoát một nơi thâm trầm kỳ bí chưa
từng thấy này. Chiếc xe băng qua những con đường gập ghềnh. Ông Cory thấy một
vài người lầm lũi bước đi 2 bên đường. Những người này ăn mặc những áo quần mà
hình như ông chỉ thấy đâu đó trong sách vở, từ điển. Ông Cory có cảm tưởng như
đó là những kiểu áo quần ở thời đại xa xưa nào đó. Điều kỳ dị hơn nữa là trong
khi lái xe ra khỏi vùng này, ông có cảm giác như xe đang di chuyển trong lớp
sương mờ.
Về sau, câu chuyện có thật mà ông
Cory đã trải qua được nhiều nhóm nghiên cứu về những vấn đề không thể giải
thích ghi nhận. Người ta không loại bỏ việc xác định lại vùng hoang dã, nơi ông
Cory đã lái xe đến đó và vùng dân cư cùng ngôi nhà lớn mà ông đã bước vào ngủ
qua một đêm. Tài liệu lưu trữ tại thư viện lớn ở đây cho biết xưa kia đây là
một vùng thưa dân, nhưng có ngôi nhà Bưu điện Quốc gia lớn tên là US Post
Office National, Indianna. Đó là khoảng những năm 1850, 1851, 1852.v.v... Rồi
tám mươi năm sau đó, nghĩa là vào năm 1930 thì nơi đây biến thành bệnh viện lớn
dành cho các cựu chiến binh. Vậy, rõ ràng ông Cory đã tình cờ đi ngược dòng
thời gian và vào thời quá vãng cách thời đại ông cả trăm năm.
Một hiện tượng tương tự cũng không
kém lạ lùng đã xảy ra khi hai nhà leo núi kỳ cựu là Donald Watt và Georgge
Bruce trong một chuyến leo núi (tháng 5 năm 1987), cả hai đều thấy rõ ràng có
một ngôi nhà hai tầng nằm bên bờ hồ Mullardoch gần Cannich xứ Scoland rất nên
thơ. Nhà có vách xây bằng đá Hoa Cương (Granite) và trông khá bề thế, đầy tiện
nghi. Trước đó hai người này nghiên cứu kỹ qua bản đồ chi tiết của vùng mà họ
sẽ đến và không có dấu vết gì ghi chú về căn nhà nói trên. Khi cả hai thấy ngôi
nhà đó họ vô cùng kinh ngạc và tưởng như là một chuyện kỳ khôi vì không thể nào
có ngôi nhà xuất hiện ở một nơi hoang vu lạ lùng như thế được. Tuy nhiên sự
kiện xảy ra sau đó càng làm họ ngạc nhiên hơn nữa khi cả hai sau một hồi leo
núi quay lại nhìn thì không thấy ngôi nhà ấy đâu nữa. Khi trở xuống, họ đi vòng
khắp hồ nhưng ngôi nhà đã hoàn toàn biến mất. Cả hai nhà leo núi ghi lại những
gì mà mình đã thấy về ngôi nhà vào nhật ký. Sau đó, các tài liệu tra cứu có
liên hệ về vùng này được các nhà sưu tập nghiên cứu phân tích và kết quả người
ta được biết rằng khoảng những năm của 1950, ở đây có một số nhà cửa dựng lên
trong đó có một cơ sở nghiên cứu của nhà nước. Rồi vì một vụ ngập nước làm ngôi
nhà bị chôn vùi xuống đáy hồ. Khi hai nhà leo núi trông lại thấy ngôi nhà thì
rõ ràng ngôi nhà ấy là hình ảnh của quá khứ, một hình ảnh mà trước đó khoảng ba
mươi năm nó là sự thật. Như vậy hai nhà leo núi George Bruce và Donald Watt đã
thấy được hình ảnh của quá khứ. Một sự kiện lạ lùng đã và đang xảy ra tại một
nơi trên thế giới mà hiện nay các nhà khoa học thật sự còn bó tay chưa thể nào
giải thích được. Được biết tài liệu này được đăng lại cuốn Unexplained
Mysteries of the 20th Century của Janet và Colin Bord biên soạn (nhà xuất bản
Contemporary books Chicago USA 1989).
Năm 1974 báo chí Hoa Kỳ có dịp đăng
tải một tin lạ lùng về hình ảnh quá khứ xuất hiện. Tháng 6 năm 1974, một người
tên là Bo Linus Orsjo đang đi bộ trên vùng có tên là Mount Lowe thì bỗng nhiên
thấy một tòa nhà màu xanh lục to lớn xuất hiện trước mặt, đó là một khách sạn
lớn. Người này cũng tưởng đó là một khách sạn được xây cất và đang hiện hữu.
Nhưng không ngờ, hai năm sau đến thăm lại vùng này anh ta không còn thấy cái
khách sạn khổng lồ ấy đâu nữa mà chỉ thấy một vài di tích mục rửa đổ nát của
vùng đất này mà thôi. Bo Linus Orsjo hỏi người quen trong vùng thì được các
người già trong vùng cho biết là trước đó khoảng 40 chục năm, ở nơi mà Bo Linus
Orsjo thấy khách sạn đã có một khách sạn lớn được xây dựng nhưng đã bị thiêu
rụi (đó là năm 1937).
Trong cuốn Mystic Place của nhà
xuất bản Time Life Book (1991) có một tài liệu mô tả về một sự kiện có thật đã
xảy ra tại vùng đất Loe Bar, nơi mà nhà địa chất học Stephen Jenkins đã thấy
được hình ảnh của quá khứ. Tài liệu nhan đề là A Phantom Army at Loe Bar được
tóm tắt như sau:
Một buổi trưa tháng 8 năm 1936,
Stephen Jenkins sáu mươi tuổi, nhà nghiên cứu địa chất thường tới vùng Loe Bar,
một địa điểm thuộc vùng bờ biển Cornish. Trong khi Jenkins đang chăm chú theo
dõi các vùng đất thì bỗng nhiên ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy trước mặt mình
một đạo quân thuộc thời Trung Cổ xuất hiện. Quân phục của họ chứng tỏ họ đang
trải qua những cuộc chạm trán trong trận mạc. Các chiến sĩ mặc áo đủ màu và
khoác lại áo choàng không có tay màu trắng, màu đỏ và màu đen. Ngựa của họ có
tấm che phủ với đầy đủ yên cương và những thứ trang sức cho ngựa. Một mình lính
đứng giữa đội quân, hai tay chống kiếm, mình khoác áo choàng màu đỏ tía đang
quắc mắt nhìn chăm chăm về phía Jenkins đứng.
Vừa lạ lùng, vừa kinh ngạc, Jenkins, với tính tò mò, gan dạ và thích mạo hiểm,
đã không ngần ngại tiến về phía đoàn quân. Nhưng hành động đã làm toàn thể đoàn
quân thời Trung Cổ biến mất tức thì.
Jenkins giật mình ngơ ngác và tưởng
như mình vừa trải qua một giấc mơ. Ông kể lại chuyện này cho người vợ nghe và
họ đã ghi vào nhật ký hiện tượng lạ lùng này. Thế rồi 38 năm sau, ông Jenkins
đã chọn đúng ngày mà cách đó 38 năm ông đã trông thấy điều kỳ lạ để cùng với
người vợ đến ngay địa điểm mà ngày xưa ông đã đứng.
Hai vợ chồng lên đường với bức họa
đồ ghi địa điểm trên tay, khi họ đến nơi, và đứng ngay vào địa điểm đoàn quân
thời trung cổ hiên ra lần này còn rõ ràng hơn lúc trước. Mặc dầu trước đó bà
Jenkins không tin chuyện chồng mình kể nhưng lần này bà thấy rõ ràng điều mà bà
không thể tin được. Đoàn quân với sắc phục rực rỡ, cờ xí ngựa và gươm giáo ra
trước mặt mình, bà sợ quá níu chặt lấy cánh tay chồng và rụi mắt vì cứ tưởng
mình nằm mơ.
Khi tường trình sự việc trước một
nhóm nhà khoa học ông Stephen Jenkins đã nói như sau:
"Nếu lúc đó vài người trong
quý vị có mặt với chúng tôi thì có lẽ lời trình bày sẽ nặng cân hơn và có giá
trị đứng đắn trung thực hơn..."
Nhiều giả thuyết đã được nêu ra để
giải thích cho hiện tượng này. Theo sự giải thích cùa chính Stephen Jenkins thì
có thể đạo quân ma này thường xuất hiện ngay nơi vùng Comish và con người may
mắn thấy được là do một năng lực tinh thần nào đó phát nguồn từ một giao điểm
(node). Loe Bar vẫn còn đó nhưng nơi mà năm 1936 cũng như năm 1974 Jenkins đã
đứng sẽ không nhất thiết luôn luôn đều thấy được hiện tượng kể trên vì còn tùy
thuộc vào môi trường, khí hậu, tầm nhìn và nhất là tùy vào từng con người đứng
nơi địa điểm ấy. Điều này mới nghe qua có vẻ không hợp lý nhưng theo Jenet và
Collin (hai nhà nghiên cứu về hiện tượng siêu hình, ma quái) thì đó là vấn đề
cần phải đặt ra. Hai nhà nghiên cứu này đã ghi nhận một trường hợp về "hồn
ma" xuất hiện vào năm 1904. Tháng ba năm ấy, ột toán học sinh được thầy
giáo dẫn đi du khảo. Họ leo lên một ngọn đồi Marlpit gần Honiton. Tất cả các
học sinh hôm đó điều trong thấy một người đàn ông khoát áo choàng màu nêu và
đội mũ rộng vàng màu đen. Toàn thể con người và gương mặt u ám như phủ một màn
sương khói. Theo tài liệu của Collin thì đó là một hồn ma đã được ghi nhận (tài
liệu thư viện) từ năm 1685. Người đàn ông này là một trong những người trốn
chạy từ trận đánh ở Sedgemoor vào năm 1685 và
sau đó bị quân địch giết chết. Nhà anh ta ở ngay trên đồi Marlpit...
Tuy nhiên điều kỳ lạ là tất cả các
học sinh trong chuyến du khảo ấy đều thấy (người đàn ông trong quá khứ) nhưng
thầy giáo dẫn các học sinh đi thì lại tuyệt nhiên không thấy gì cả...
Những Người Thấy Trước Tương Lai
Trên thế giới từ xưa đến nay không
hiếm những người có thể thấy được tương lai. Những câu chuyện có thật về vấn đề
này thường đã xảy ra và các nhà khoa học đang ra sức nghiên cứu tìm hiểu mong
giải đáp được vấn đề, nhưng thật sự cho đến nay những giải thích chỉ là những
suy đoán từ một số giả thuyết mà thôi.
Mới đây báo chí Hoa Kỳ đăng một tin
khá lạ lùng về một nữ nhân viên kỳ cựu trong đội cứu hỏa thuộc tiểu bang
Georgia là bà Becky Denlinger, bà này hiện là đại úy trong đội cứu hỏa của quận
Cobb. Ngày 8 tháng 11 ăm 1989 bà cảm thấy mỏi mệt nên ngủ thiếp nơi bàn làm
việc. Trong thời gian ấy bà mơ thấy toàn thể nhân viên trong đội cứu hỏa của bà
đã huy động đến cứu chữa khẩn cấp một tòa cao ốc đang bốc lửu vì một phản lực
cơ nào đó đâm nhào vào đó. Bà nghe tiếng la hét và tiếng nổ kinh hoàng làm bà
tỉnh giấc. Mồ hôi tỏa khắp người. Bà cảm thấy khát nước và sau đó bà kể lại
giấc mơ kỳ lạ cho các nhân viên trong đội cứu hỏa nghe. Nhiều người kết luận
rằng đó là hiện tượng tự kỷ ám thị mà thôi. Nhưng chỉ sau đó không đầy hơn một
giờ, toàn bộ đội cứu hỏa của bà Becky Denlinger đã tức tốc lên đường vì họ vừa
nhận được tin báo khẩn cấp một vụ cháy lớn đã bột phát tại một cao ốc cách họ
60 cây số. Vụ nổ xảy ra do một phản lực của hải quân Hoa Kỳ đã bị nổ và đâm sầm
vào tòa nhà làm phát ra đám cháy lớn khiến nhiều người bị thương và hai người
bị thiệt mạng.
Từ lâu đã có những lời giải thích
đưa ra về vấn đề khả năng thấy trước những sự việc sắp xảy ra là hiện tượng mà
tri giác con người được kết hợp đồng bộ với chu kỳ của thời gian và những tác
động xảy ra. Ki suy nghĩ, tưởng tượng, sỡ dĩ ta có được những hình ảnh phong
phú phức tạp là do sóng não đã cộng hưởng với những hình ảnh của quá khứ, những
gì đã xảy ra, vì thế sự tưởng tượng là sự phát triển thêm từ những cái đã có để
được những gì chưa có hay đổi khác hơn. Trong vũ trụ, thiên nhiên có những chu
kỳ lập lại thoe từng giai đoạn nào đó, vì thế, một việc xảy ra ở quá khứ có thể
sẽ lại xảy ra trở lại vào một thời điểm nào đó. Sự tưởng tượng nếu được bắt gặp
được tần số thì sẽ trở thành hiện thức sau đó. Sự giải thích này còn được cho
rằng khi nằm mộng chính là tiềm thức đang được khơi dậy nhanh hơn vì thế nhiều
người mơ thấy một sự kiện gì đó thì sau đó rõ ràng sự kiện xảy đến hoàn toàn
phù hợp. Theo các nhà nghiên cứu như Kotik (Nga Xô), bác sĩ Rhine, nhà nghiên
cứu Warcollier (Pháp), Tichner (Đức)... thì nhiều người có khả năng kỳ diệu và
bộ não của họ giống như một máy thu hình có thể nhận những thước phim về những
diễn tiến trong không gian. Sự giải thích vẫn chưa làm thỏa mãn được ai. Vì
thế, cho đến nay, các khoa học già vẫn có gắng đi sâu vào lãnh vực nghiên cứu
khả năng kỳ diệu này ở con người và nhất là nguyên nhân phát sinh ra hả năng
ấy. Điều quan trọng và thực tế thấy trước mắt là thế giới loài người không hiếm
những nhân vật phi thường có bộ não lạ g và tâm linh huyền diệu có thể biết
trước được những sự kiện sắp xảy ra trong một thời gian sắp tới từ vài ngày,
vài tháng vài năm và có khi xa hơn cả hàng trăm năm. Khả năng biết trước tương
lai này không phải chỉ riêng những người có năng khiếu thần nhãn mà ngay cả
những con người bình thường như chuyện bà Becky Denlinger vừa kể trên cũng có
thể có. Tuy nhiên sự thấy trước tương lai ấy thường được thể hiện qua nhiều
phương thức.
Có ngưới do tưởng tượng phong phú,
có người do nằm mộng, có người có khả năng thiên phú đặc biệt thể hiện qua nhà
tiên tri, bói toán... Theo các nhà khoa học thì quả thật giác quan con người
thường dùng rất có giới hạn. Nếu xét và so sánh với các sinh vật khác, đôi khi
vẫn còn có ở một số người. Nhà nghiên cứu Gina Cerminara đã nhắc đến trường hợp
nhà toán học nổi danh Swedenborg có năng khiếu thấy trước tương lai.
Đối với các nhà tiên tri thì trên
thế giới hiện tượng lạ lùng về những lời tiên tri của Nostradamus đều lần lượt
được thể hiện theo thời gian. Nhà tiên tri này đã tiên đoán nhiều sự việc đã
xảy ra trên thế giới. Nhưng tương lai sẽ xảy ra ấy có khi từ 10 năm cho đến 100
năm. Ông đã tiên đoán những biến cố trọng đại của thế giới về tật bệnh, về
chiến tranh, về các thiên tai khủng khiếp mà hầu hết đều ứng hiện rõ ràng qua
những lời tiên đoán gọi là Sấm Ký. Tại Trung Hoa ngày xưa cũng có rất nhiều
người có khả năng suy đoán tương lai nổi tiếng như Khổng Minh Gia Cát, và những
nhân vật nổi danh khác như Thiệu Khang Tiết, như Đào Bán Mai, Thượng Lã Nhân...
ở Việt Nam có Trạng Trình, Tả Ao v..v... Tại Hoa Kỳ, từ lâu báo chí và đài
truyền hình thường ca ngợi tài tiên đoán, biết trước tương lai của những nhà
bói toán nổi danh như bà Quygly, bà Jeane, Dixon... và đặc biệt là bà Dorothy
Ellison người có khả năng thấy rõ tương lai (tiểu bang New Jersey) ở Nepal có
Damodara Natha Lohani, Ấn Độ có J. M. Lal Mahadjan, Sudeih Babu. v.v...
Sau đây là một vài sự kiện có liên
quan đến một số nhân vật có khả năng suy đoán, thấy và biết được tương lai:
Đối với nhà tiên tri Nostradamus
thì những suy đoán của ông đối với vận hạn thế giới xảy ra trước năm 1990 phần
lớn đều phù hợp. Ngay cả sự kiện phi thuyền con thoi của Mỹ bị nổ tung khi được
phóng khỏi giàn phóng cũng được Nostradamus tiên đoán trước đó rất chính xác.
Về tương lai nhà tiên tri còn cho biết là sẽ bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới
thứ ba kéo dài 30 năm, bắt đầu từ năm 1999. Lúc bấy giờ Pháp là quốc gia bị
thiệt hại nặng nề. Trước đó là sự xích lại gần nhau của hai siêu cường Nga Mỹ
sau cuộc thế chiến thứ ba đầy tàn khốc, nhân loại có ai còn sống sót sẽ sống
một thời gian dài thái bình an lạc. Cũng theo nhà tiên tri Nostradamus thì ngày
thế giới tận thế sẽ là một ngày nào đó của năm 3979. Trước đó sa mạc Gobi sẽ biến thành biển.
Nostradamus khác với nhà chiêm tinh
khác trên thế giới. Ông có khả năng đoán vận mệnh thế giới trong khoảng vài thế
kỷ.
Nostradamus sinh năm 1503 và mất
năm 1566. Ông là nhà thiên văn và vật lý học của Pháp. Sinh quán của ông là
thành phố St. Remy. Tốt nghiệp y khoa tại đại học Montepellier. Ông ngoại của
ông là một nhà bác học. Ông có vợ và con nhưng vợ con đều chết vì bệnh dịch
hoành hành. Từ đó ông trở nên đăm chiêu tư lự và chìm đắm vào nghiên cứu về
huyền bí. Dần dần tài tiên đoán của ông nổi tiếng khắp thế nơi. Chính
Nostradamus khi ở Ý đã tiên đoán một người chăn heo nghèo khổ sau này sẽ thành
vị Hồng Y của Montalno. Người ấy chính là Felice Peretti. Có lần một quý tộc
(Seigneur de Plorinville) đã thử tài ông bằng cách chỉ cho ông hai con heo và
hỏi tương lai của chúng. Nostradamus suy nghĩ một hồi lâu rồi bảo:
- Con heo lông xám trắng sẽ bị chó
sói ăn còn heo lông đen thì ngài và quan khách sẽ ăn thịt nói.
Để làm sai lời đoán, nhà quý tộc
sai gia nhân giết heo trắng để đãi khách. Nhưng sau khi đã giết heo, đầu bếp
mãi lo nấu các món khác, bất ngờ có một con chó sói lén tha con heo đã làm
thịt, người nhà la lên đánh đuổi sói thì nó đã kéo chạy mất buộc lòng phải làm
luôn con heo lông đen
Biết rõ chuyện, nhà quý tộc hết sức
bái phục nhà tiên tri, ông cũng không quên mất không nghĩ rằng ông có nuôi mấy
con chó sói trong vườn nhà.
Điều kỳ diệu là ông tự đoán đúng
ngày tháng ông mất và ngày tháng năm ông sẽ được cải táng.
Một người "thấy được tương lai" nổi tiếng khác ở Thụy Điển là Emanuel
Swedenborg. Sinh năm 1688 và mất năm 1772. Ông là người đa tài, từ khoa học,
thiên văn, tôn giáo, toán học, lịch sử, địa chất ông đều biết sâu rộng không
những vậy, ông còn biết về biển cả, sinh vật, máy móc, vũ khí, tàu bè...
Ông được xem như một nhà bác học
của thế kỷ 18. Điều đặc biệt là ông có khả năng khiếu thần thông kỳ lạ có lần
đang ngồi ăn tối bỗng nhiên ông giật mình nói to: "đang có trận hỏa hoạn
lớn xảy ra tại Stockhom". Stockhom là quê hương của ông. Mặc dầu lúc đó
ông đang sống tại một nơi xa chỗ hỏa hoạn đến 500 cây số.
Không những ông thấy được "qua
thần nhã" của mình mà còn thấy được đám cháy đang lan đến đâu nữa.
Vì đám cháy lúc ấy lại xảy ra đúng
vào vùng có nhà của gia đình ông nên ông đã mô tả (khi đang ở xa 500 cây số)
chi tiết rằng đám cháy sẽ bị dập tắt và rất may lúc đó ngọn lửa còn cách nhà
ông chỉ vài ba căn nữa thôi thì bị dập tắt. Khi nhắc đến Emanuel Swedenborg
người ta lại không thể quên được Alex Tanous một người cũng nổi danh về biệt
tài thấy được hậu lai. Ngày 23 tháng 8 năm 1980, giám đốc đài NBC là Lee
Speigel đã mở cuộc phỏng vấn đặc biệt Alex Tanous về tương lai của nhạc Rock.
Alex Tanous đã nghiêm sắc mặt trả lời như sau:
"Tôi chỉ thấy một điều duy
nhất nổi bật trước mắt tôi là sẽ có một danh ca nổi tiếng trong làng nhạc Rock
chết một cách bất ngờ".
Mười hai hôm sau, đài phát thanh
NBC cho phát nguyên văn lời tiên đoán của Alex Tanous và đến ngày 8 tháng 9,
nghĩa là sau buổi phát thanh ba hôm thôi một ca sĩ nhạc Rock nổi tiếng của Mỹ
bị bắn chết ngay trước cửa nhà (Ca sĩ John Lennon).
Khi nhắc đến nhà tiên chi nổi tiêng
Nostradamus người ta không thể không nghĩ tới một nhà tiên tri của thời đại
hiện nay là Mario De Sebasto. Ông này đã đưa ra những lời tiên đoán đáng lưu
tâm cho những thời gian 1980 đến 2000 sẽ có những cuộc thay đổi lớn ở một số
nước trên thế giới (Nga Xô và các nước Đông Âu là một điển hình). Sẽ có những
nơi mà nạn đói lan tràn làm chết vô số người (như trường hợp đã xảy ra ở
Bangladish và Phi Châu như Ethiopie và Somania).
Có chiến tranh tại vùng Trung Đông (đã xảy ra cuộc chiến tranh của quân đội Hoa
Kỳ, đồng minh chống Irad).
Đặc biệt, nhà tiên tri này còn tiên
đoán rằng sẽ có thế chiến thứ 3 nổi ra sớm hơi lời giải đoán của nhà tiên tri
Nostradamus. Theo Mario De Sebasto thì năm xảy ra thế chiến thứ 3 là năm 1997
tức là năm Đinh Sửu.
Những Nhà Tiên Tri Ấn Độ.
Những nhà tiên tri đoán tương lai
nổi tiếng của Ấn Độ ngày xưa đã đi dần vào quá vãng nhưng những tài năng vẫn
được nối tiếp theo thế hệ kế tiếp, hiện nay thế giới đã nghe danh J. M. Lal
Mahdjan, người đoán tương lai số một của Ấn Độ. Hiện ông đang giữ chức vụ thư
ký hội đồng Quốc Tế và khoa chiêm tinh. Theo ông mọi vật đã có khởi đầu thì
cũng sẽ phải có kết thục. Ông cho rằng vũ trụ phát sinh rồi phát triển từ cõi
hư vô rồi lại suy tàn và hủy diệt theo cõi hư vô.
Điều đặc biệt là khi trả lời các phóng viên Nga về vấn đề chiến tranh nóng và
chiến tranh lạnh giữa 2 siêu cường Nga Mỹ thì ông trả lời như sau:
- Sẽ không bao giờ xảy ra sự kiện
chiến tranh giữa 2 nước Nga Xô và Hoa Kỳ. Họ xích lại dần thì có. Sở dĩ như vậy
không phải họ mến nhau mà chính là do 2 siêu cường có may mắn cùng được một
hành tinh hỗ trợ che chở, bảo vệ hành tinh ấy chính là thủy tinh.
Trong khi đó tại Đông Âu, thổ tinh
lại ảnh hưởng mạnh lên tâm thần con người ở đó, thổ tinh kích động sự hưng phấn
khơi dậy lòng háo hức muốn thoát khỏi những gì ràng buộc kiềm chế tư tương con
người. Khơi dậy lòng khao khát được hưởng tự do và chắc chắn sẽ có những cuộc
thay đổi lớn lao ở những quốc gia trong vùng (sự kiện này đã xảy ra đúng như
những lời tiên đoán của nhà chiêm tinh J. M. Lal. Mahadjan khi chế độ cộng sản
ở các nước Đông Âu lần lượt sụp đổ).
Trường cũng nên nhắc đến một nhà
suy đoán tương lai nổi tiếng khác loà các nhà chiêm tinh Nepal. Ông ta tên là Domadara Natha
Lohani một nhà ngữ học nổi tiếng và nói tiếng Nga như tiếng mẹ đẻ. Thuở nhỏ ông
học tại Ấn. Hiện ông đang giữ chức cụ phó trưởng thuộc về báo chí. Gia đình ông
ngày xưa thường túc trực bên nhà vua để giải đoán cát, hung cho những vấn đề
quốc gia đại sự. Về sau ông được người cha truyền lại khoa chiêm tinh. Theo ông
thì mỗi người đều có số mệnh, số mệnh ấy chính là từ ảnh hưởng của các vì sao.
Chính nhà chiêm tinh này cũng đã tiên đoán thế giới vào năm 1990 đến 1993 sẽ có
những sự kiện đáng kể xảy ra ở Đông Âu, Phi Châu. Trung Đông và đặc biệt ở Nga
Xô. Những lời tiên đoán vào lúc ấy (1990) đã làm nhiều người nghi ngờ nhưng đến
năm 1991 và năm 1992 thì mọi sự hầu như đã quá rõ ràng.
Ở Ấn, ngoài các nhà chiêm tinh nổi tiếng xưa nay, còn có những vị đạo sĩ tuy ở
ẩn mà vẫn lừng danh. Như đạo sĩ Prakbhat Ranjon thuộc đạo Bà La Môn đã từng
tiên đoán Thế giới sẽ phát triển hay suy thoái theo từng chu kỳ. Nhiều nhà khoa
học, chính trị học và nhất là kinh tế học đã dựa vào sự kiện đó để nghiên cứu
về vận mệnh quốc gia, dân tộc và thế giới về nhiều khía cạnh. Mới đây, giáo sư
đại học Southern Methodist đã viết một cuốn sách nhan đề The Great Depression
of 1990 (thời kỳ đen tốt nhất của thập niên 1990). Cuốn sách kết hợp những gì
về chu kỳ mà đạo sĩ Prakbhat Rranjon SarKar đã nêu ra cùng với sự nhận định,
phân tích, tổng hợp của giáo sư Riva Batra (cũng là người Ấn Độ). cuốn sách mới
phát hành đã gây xôn xao sôi nổi dư luận, nhất là các nhà kinh tế, các tay tổ
buôn bán từ chóp bu đến hạng bình dân. Trong một thời gian rất ngắn, cuốn sách
được liệt kê trong danh sách của những cuốn sách bán chạy nhất.
Những Nhà Tiên Tri Trung Hoa Và
Việt Nam.
Nếu kể về các nhà quyết đoán tương
lai nổi danh của Trung Hoa xưa cổ thì quả là khá nhiều, những tài ba còn lưu
danh đến nay có thể kể là Nhất Hạnh Thiền Sư đời Đường. Đời Tống có Trần Đoàn,
Ma Y. Cuối đời Nguyên có Trương Hành Giản. Đời Minh có Viên Liễu Trang, đời
Thanh có Phạm Văn Viên, đời Thanh Mạt có Tăng Quốc Phiên, Thời Trung Hoa Dân
Quốc có Đào Bán Mai. v.v.... Những nhà tiên tri Trung Hoa xưa cổ này có khả
năng đoán được mọi việc chính xác đến độ là lùng, có thể đơn cử trường hợp của
nhà nghiên cứu về Dịch lý (kinh dịch) nổi tiếng, đó là Thiệu Khang Tiết. Suốt
mấy mươi năm gian khổ tự học về Kinh Dịch ông dần dần lĩnh hội được nhiều điều
mới lạ và cảm thấy mình có thể có khả năng đoán định tương lai nên một hôm ông
đem cái ghế gỗ có lưng dựa ra để làm thí dụ. Trước tiên ông ngẫm nghĩ rằng cái
ghế này rồi cũng có ngày tàn rụi của nó như một kiếp người và ông sẽ đoán định
được ngày suy vi của nó. Thế là ônh lật ghế lên rồi dùng bút viết vào đáy ghế
một câu tiên đoán tương lai về cái ghế như sau: "cái ghế này vào ngày...
tháng.... năm và giờ ấy... ấy sẽ có 1 người đến chơi ngồi lên và cái ghế bị gãy
đổ" Quả nhiên đúng vào thời đó, một người khác ở phương xa lại chơi ngồi
ghế và cái ghế đã gãy khiến người khác té xuống đất nhưng may mắn nghế hư mà
người khách không hề gì. Lúc bấy giờ Thiệu Khang Tiết mới chỉ cho khách xem
giòng chữ ở mặt đáy ghế.
Khi nhắc đến các nhà tiên đoán
tương lai Trung Hoa, không thê nào không nhắc đến một nhân vật nổi danh thế
giới về lãnh vực này. Người đó chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng.
Khổng Minh Gia Cát Lượng là quân sư
của Lưu Bị đời Tam Quốc. Ông thường tiên đoán mọi việc ở thời gian gần và thời
gian xa rất nhanh bằng phép Chiêm Bốc hay Bốn Độn. Khổng Minh là người được xem
như chịu ảnh hưởng nhiều nhất về âm dương Dịch Lý trong vũ trụ. Các sách của
Gia Cát Khổng Minh về phép Độn Toán còn lưu lại đến ngày nay rất nhiều cuốn
Khổng Minh Thần Toán. Các tiên tri của ông cùn truyền tụng mãi đến bây giờ với
những hậu quả rất lạ và đúng dù ông đoán trước cả mấy trăm năm. Riêng ở Việt Nam,
không hiếm những nhà nghiên cứu về chiêm bốc, bói toán. Nhiều người sở trường
về mỗi lãnh vực nhưng thường có khả năng đoán định được sự việc ở tương lai
cuộc đời của con cháu giòng họ qua các phương hướng, địa thế, môi trường đất
đai, nhà cửu, mồ mả.v.v...
Đặc biệt nổi tiếng nhất trong các
nhà tiên tri của Việt Nam
là Trạng Trình. Các nghiên cứu về sử liệu đã gọi ông là nhân vật Đông Phương
xưa cổ nổi danh là nhà tiên tri với những sẩm ký thâm sâu kỳ diệu. Trạng Trình
là một bậc cao sĩ đời nhà Mạc, sinh năm 1491, làm quan đến mức Lại Bộ Thị Lang.
Ông là người vừa giỏi văn thơ, vừa có tài về giải đoán, lý số chiêm bốc và
tương lai. Các lời tiên đoán của ông được hậu thế góp nhặt và lưu truyền lại
thành tập gọi là Sấm Trạng Trình.
Những Nhà Tiên Tri ở Hoa Kỳ
Còn ở Hoa Kỳ cũng không hiếm những
ngưới thấy trước tương lai. Như trường hợp bà Quygly là một người mà các chính
khác Âu Mỹ phải kính nể, các nguyên thủ quốc gia như tổng thống Bush thường hỏi
ý kiên. Chính bà Quygly là người đã thấy rõ trước về ngày thứ hai đen tối (10-
1987) về thị trường chứng khoán. Cũng chính bà là người thấy rõ kết quả tương
lai việc ứng cử Tổng thống của ông Reagan. Bà cho biết là năm 1976 ông Reagan
chưa thể được đảng Cộng Hòa đề cử làm ứng cử viên Tổng Thống. sau đó bà đoán
đúng thời gian ông Reagan đắc cử và cả ông bị mưu sát. Bà Quygly còn đoán được
tương lai đắc cử của tổng thống George Bush nữa. Bà cho biết là ông Bush là vị
tổng thống thành công về mặt ngoại giao.
Người phụ nữ nổi danh tại Hoa Kỳ về
lãnh vực đoán biết tương lai là bà Jean Dixon. Người ta biết rằng tổng thống F.
Roosevelt là một người chiêm nghị và thực tế, khoa học, vậy mà tổng thống lại
là người thán phục tài đoán tương lai, tài biết trước những gì sẽ xảy ra của bà
Dixon. Năm 1944
lần tái đắc cử của Tổng thống F. Roosevelt và cũng là lần cuối cùng, trong cuộc
gặp gỡ tổng thống này sẽ không còn sống được quá sáu tháng.
Bà Dixon là người lúc bấy giờ đã
thấy trước việc Trung Hoa sẽ trở thành một nước Cộng Sản và quả thật ngày 1
tháng 10 năm 1949 nước Trung Hoa được đổi thành nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa do đảng Cộng Sản lãnh đạo. Đến năm 1945 bà Dixon
đã thấy rõ tổng thống Roosevelt sắp từ giã cõi
đời và quả nhiên tháng 4 năm đó tổng thống bị chứng xuất huyết và mất. Trong
năm đó, bà Dixon
cũng thấy trước tương lai rằng đất nước Ấn Độ sẽ bị phân cắt và còn cho biết
ngày phân cắt sẽ là ngày 2 tháng 6 năm 1947. Điều kỳ dị sau đó đã xảy ra đúng
vào ngày, tháng, năm đó. Ấn Độ bị chia cắt thật (Quốc gia Hồi giáo Pakistan
tách khỏi xứ Ấn).
Chính bà Dixon cũng thấy trước tương lai việc thánh
Gandhi sẽ bị ám sát trong sáu tháng tới và sự việc xảy ra như đã sắp đặt trước.
Ngày 30 tháng giêng năm 1948, Gandhi đã bị một tên cuồng tín thuộc nhóm
Mahasabla ám sát.
Bà Dixon còn đoán được tương lai
cho nhiều chính khách nổi tiếng khác, như có lần bà cho ông sẽ được bầu làm
tổng thống và điều đó đã xảy ra sau khi tổng thống Roosevelt
qua đời. Bà Dixon còn nhìn về tương lai xa hơn khi bảo rằng trong lần ứng cử
thứ nhì, ông Truman vẫn còn là tổng thống. Bà cũng có lần khuyên thủ tướng Anh
là Churchill là không nên hấp tấp tổ chức bầu cử vì sẽ gặp bất lợi. Tuy nhiên
vị thủ tướng thích khôi hài nay không tin và năm 1946 vẫn tổ chức bầu cử vào
tháng 7. Kết quả thủ tướng Anh bị thảm bại nặng nề.
Bấy giờ ông mới tin điều bà Dixon nói là thật và muốn
trong tương lai ông có còn trở lại chính trường không? Bà Dixon cho biết là
trong vòng 6 năm, ông Churchill sẽ làm lại thủ tướng cho đến năm 1955.
Trước đó mấy năm, chính bà Dixon cũng đoán tương lai
cho người đắc cử tổng thống Mỹ. Đó là tướng Eisenhower.
Bà Dixon còn tiên đoán cả những
nhân vật sẽ thay thế ông Malenkov lúc đó là chủ tịch hội đồng bộ trưởng Nga Sô
và nhất là thấy trước hình ảnh mà Nga sẽ phóng một vệ tinh nhân tạo Spoutnik
đầu tiên bay quanh quả đất một hình ảnh mà mãi đến 4 năm sau mới xuất hiện.
Điều kinh dị hơn cả là việc bà Dixon đoán trước được
tương lai về cái chết của tổng thống Kenedy. Năm 1952, bà Dixon cho biết là tống thống Kenedy sẽ bị ám
sát. lời tuyên đoán ấy mãi đến 4 năm sau báo chí mới loan truyền nhưng không ai
tin. Bà Dixon cố thuyết phục người thân của tổng thống là tổng thống nên bảo
trọng. Vì ngày nguy hiểm đã gần kề. Tuy nhiên không ai dám nêu lời tuyên đoán
tương lai ấy đến tổng thống vì tổng thống Kenedy là một người khó chấp nhận sự
kiện bói toán.
Buổi sáng ngày 23 tháng 11 năm
1963, bà Dixon cảm thấy lo lắng trong lòng, bà nôn nao hồi hộp thấy rõ và bà đã
nói với một người bạn tên là Harley Cope rằng: tôi rất lo, vì hôm nay chắc chắn
tổng thống sẽ bị ám sát!
Trong khi đó sự việc đã xảy ra
giống như bà Dixon
đã tiên đoánl; tổng thống Kenedy đã bị ám sát chết.
Những trường hợp kể trên thuộc về
khả năng của những nhà bói toán, tiên tri, những con người mà năng lực siêu
phàm của họ khó ai sánh kịp. Tuy nhiên, như đã trình bày từ trước, không phải
những người thấy trước tương lai đều là những người siêu việt mà đôi khi chỉ là
những con người bình thường như bao người khác. Đó là trường hợp của bà Becky
Denlinger làm việc trong đội cứu hỏa, người đã thấy trước tương lai về tai nạn
của một phản cơ sắp xảy ra hay trường hợp em bé tên là Eryl Mai Jones một hôm
thức dậy kể cho người mẹ nghe rằng trong giấc mơ, em thấy một vật to lớn dị
thường màu xám đen không biết từ đâu ập tới cày nát ngôi làng. Hôm em bé nằm mơ
là ngày 20 tháng 10 năm 1966. Người mẹ cứ nghe con kể mãi chuyện cái khối đen
thì bực mình bảo con nói nhảm. Nhưng qua ngày hôm sau, ngày 21 tháng 10 tự
nhiên người ta nghe những tiếng động phát ra làm long trời lở đất, cả ngôi làng
bị những khối than đá khổng lồ đổ xuống che phủ. Nhiều người trong làng đã bị
chôn vùi, một số lớn bị chết khoảng 100 người may mắn thoát chết nhưng cũng bị
thương nặng. Trong số đó có người mẹ của em Eryl Mai Jones. Điều kỳ lạ là những
người sống sót cũng kể rằng, trước đó họ nằm mơ hoặc nghe người thân kể lại
giấc mơ y hệt giấc mơ mà bé Erylk đã kể cho mẹ nghe. Câu chuyện lạ lùng đến tai
bác sĩ John Barker, ông là một bác sĩ tâm thần đã không bỏ lỡ cơ hội hy hữu
này, quyết tâm tìm hiểu nguyên nhân của sự thấy trước tương lai của một số
người trong làng Eberfan này.
Một con người bình thường khác có
tên là David Booth tự nhiên cảm thấy lo âu sợ sệt khác thường trong lòng và
điều này làm ông không thể nào ăn ngủ được kể từ ngày 16 tháng 5 năm 1979. Nhất
là cứ chợp mắt là nghe tiếng la hét và thấy chiếc máy bay nổ tung dữ dội. Ông
mơ thấy rõ ràng máy bay DC 10 của hãng American Aieline bị bốc cháy.
Thế rồi ngày 25 tháng 5 năm đó
(1979) một tin tức về tai nạn hàng không khủng khiếp được loan truyền, một phi
cơ DC 10 chở 273 hành khách bị nổ tung trên không phận Chicago. Khiến toàn thể
khách và phi hành đoàn đều thiệt mạng.
Một trường hợp khác lạ lùng hơn nữa
khi nhà văn Morgan Robertson viết câu chuyện chiếc tàu thủy tên là Titan chiếc
tàu được gọi là "một tòa lâu đài nổi không thể chìm" chiếc tàu du
lịch khổng lồ sang trọng nhất trong lịch sử hàng hải. Chiếc tàu được làm lễ hạ
thủy và bắt đầu chuyến hải hành đầu tiên, mang theo hàng ngàn nhân vật giàu có,
tiếng tăm sang trọng... nhưng không may chiếc tàu bị một khối băng sơn đụng
phải và tàu bị chìm sâu xuống lòng biển, mang theo vô số hành khách cùng toàn
bộ sự nguy nga tráng lệ.
Câu chuyện tưởng tượng của nhà văn
ấy bỗng nhiên gây bàng hoàng kinh dị khắp thế giới khi mười bốn năm sau trong
lịch sử hàng hải lại có một chiếc tàu thủy thật sự chớ không phải tưởng tượng
như nhà văn Morgan Robertson đã mô tả trong cuốn Hư Vô của mình. Điều kỳ lạ là
chiếc tàu này giống với chiếc tàu Tian về mọi mặt. Nào trọng tài, màu sắc, kích
thước, tốc độ, sự sang trọng, đầy đủ tiện nghi và cũng được mạnh danh là
"tòa lâu đài nổi không thể chìm" con tàu tưởng tượng của Morgan
Robertson có tên là Tian, con tàu này có tên là Titanníc (chỉ khác hai chữ sau
mà thôi).
Sự trùng hợp lạ lùng ấy cũng chưa
đủ làm thế giới kinh dị nên sự việc cuối cùng mà con tàu có thật Titanic gặp
phải cũng đụng khối băng sơn và chìm xuống biển kéo theo một số lượng lớn lao
nhân mạng. Hôm đó là ngày 14 tháng 4 năm 1912.
Câu chuyện kỳ dị có thật trên lại
càng gây kinh ngạc hơn nữa khi các nhà sưu tập tài liệu cho biết thêm một sự
kiện khác còn dị thường hơn nữa, đó là vào năm 1892, nghĩa là trước khi nhà văn
Morgan Robertson viết cuốn Hư Vô và tưởng tượng ra chiếc tàu Tian 6 năm, có một
cách ký giả tên là T. Stead (ký giả nổi danh Hoa Kỳ) đã viết một chuyện ngắn kể
về chuyến hải hành của một chiếc tàu có tên là Titanic, chiếc tàu Titanic này
đã bị đụng một khối băng sơn và chìm xuống đáy biển. Mặc dầu đã viết một chuyện
khủng khiếp về vụ tàu Titanic bị đắm nhưng ký giả T Stead lại như bị một ma lực
kỳ lạ nào đó ám ảnh nên đến năm 1912, nghĩa là 20 năm sau, sau khi chiếc tàu
thủy mang tên Titanic thật được hạ thủy để chuẩn bị chuyến hải hành đầu tiên
của một chiếc tàu được mệnh danh là "toà lâu đài nổi, không bao giờ
chìm" thì ký giả T Stead đã có mặt trên tàu. Định mệnh an bài đã dắt ông
lên chiếc tàu định mệnh để đưa ông cùng chiếc tàu (có tên như ông đã đặt là
Titanic) xuống lòng biển cùng với 1512 hành khách.
Câu chuyện có thật trên tưởng như
thế là đã quá kinh dị nhưng điều kinh dị vẫn còn tiếp tục mãi đến 23 năm sau
nghĩa là vào năm 1935. Hôm ấy một con tàu trên đường hải hành mà ngày xưa chiếc
Titanic đã di chuyển, một thủy thủ tên làWilliam Reeves ngồi trực tàu bỗng cảm
thấy khó chịu trong người...Suy nghĩ mãi không tìm được nguyên nhân nào đã làm
cho mình cảm giác bồn chồn lo lắng. Đến khuya anh ta mới chợt nhớ là ca trực
của mình đúng vào ngày mà trước đây chiếc Titanic đã bị chìm. Đó là ngày 14
tháng 4 lại cũng là ngày sinh nhật của anh ta. Tự nhiên mối kinh hoàng lan khắp
cơ thể, thủy thủ William Reeves sợ quá nên làm hiệu báo động khẩn cấp dầu anh
ta chưa thấy rõ hoàn toàn điều gì đang xảy ra trước mũi tàu.
Chiếc tàu giảm tốc độ và dừng lại.
Mọi đèn trên tàu được chiếu sáng. Bây giờ các thủy thủ mới thấy trước mũi tàu
lù lù một khối băng sơn khổng lồ. Nếu tàu không ngừng lại kịp thời thì chắc
chắn chiếc tàu này cũng sẽ bị chung số phận mà trước đó cũng vào ngày tháng này
chiếc tàu Titanic đã chìm sâu dưới đáy biển.
Một tài liệu khác cũng không kém
phần kinh ngạc về câu chuyện có liên quan đến vấn đề khả năng biết trước tương
lai.
Trong giới văn nghệ sĩ Âu Mỹ không
ai lại không nhớ câu chuyện lạ lùng về nhà đại văn hào Mark Twain biết trước
được cái chết của người em ruột qua một giấc mơ đầy kinh dị. Mùa đông năm 1850.
Mark Twain cùng em là Henry đang cùng làm chung với nhau trên một con tàu nhỏ.
Một hôm Mark Twain nằm mơ thấy người em là Henry chết, thi hài được tẩm liệm
đàng hoàng và quan tài chuyển đến đặt tại nhà người chị ruột. Khi tỉnh dậy,
Mark Twain vẫn còn hãi hùng nhưng trấn tĩnh được ngay vì biết đó chỉ là một
giấc mơ. Tuy nhiên, không đầy 7 ngày sau Henry bị tử nạn trong khi đáp tàu thủy
đến St. Louis
vì chiếc tàu bị nổ nồi hơi nước.
Điều kỳ lạ là mọi sự kiện đều xảy
ra đúng như những gì Mark Twain đã thấy trong giấc mơ, từ chiếc quan tài, từ
địa điểm quan tài chuyển đến (nhà người chị) và lạ lùng hơn nữa là trong một
giấc mơ trước đó. Mark Twain thấy trên thi hài Henry có đặt một bó hoa màu
trắng và ở giữa có hoa màu đỏ. Khi đến nhà người chị, đứng trước quan tài của Henry,
Mark Twain lại không thấy có bông hoa nào đặt trên ngực thi hài của Henry cả.
Nhưng sau đó có một người đàn bà đến thăm, bà này nắm bó hoa và nhẹ nhàng đến
đặt lên ngực Henry nhìn kỹ bó hoa, Mark Twain bất giác rùng mình vì đó là một
bó hoa trắng có một hoa độc nhất màu đỏ nằm chính giữa.
Qua một số sự kiện có thật đã xảy ra như đã
trình bày trên, các nhà nghiên cứu về những hiện tượng siêu linh huyền bí,
những người sưu tập những hiện tượng không thể giải thích được đã bắt đầu suy
nghĩ về những gì mà từ lâu một số triết thuyết tôn giáo đã đưa ra những hiện
tượng Tái sinh, Luân hồi, tiền kiếp và Hậu kiếp. Phải chăng thế giới mà ta đang
sống và thời gian mỗi ngày mỗi chuyển hóa qua đi chỉ là một phần mà ngũ quan
cùng suy tưởng của cơ thể và bộ não có tầm hoạt động giới hạn của con người có
thể thấy được mà thôi còn có những không gian khác xen lẫn và thời gian có thể
vượt qua để rồi quay vòng trở lại theo một đường cong nào đó., Nếu thế thì quá
khứ, hiện tại và tương lai cũng chỉ nằm trong cái vòng chuyển hóa ấy, nên sự
tái sinh, vấn đề kiếp trước và kiếp sau cũng chỉ là những vấn đề của tự nhiên
chẳng có gì gọi là mê tín, mơ hồ cả.