Dấu Tích Luân Hồi Biểu Hiện Qua
Dạng Thể Và Cử Chỉ:
Trên thế giới, con người dù ở quốc
gia nào, vùng đất nào cũng đều có một dạnh thể chung, nhưng xét riêng mỗi người
thì lại có những dáng dấp và cử chỉ khác nhau, ít ai giống ai. Có ngưới dáng
dấp và cử chỉ khác nhau, ít ai giống ai. Có người dáng dấp và cử chỉ thảnh
thơi, sung sướng, có người gáng co ro cúm rúm. Có người trông dáng dấp giống
một con thú. Có kẻ có gương mặt như chuột, có người gương mặt giống một con rắn
độc dữ dằn, có người đi nhún nhẩy như con chi sẻ hay uốn lượn như loài bò sát,
có người khi ngồi uy nghi như một con hổ, có người thiểu não, khổ sở, u buồn
như bóng ma. Có người từ nhỏ đến lớn luôn luôn gắt gỏng, có người hay sầu bi,
rầu rĩ, có người lại ghét cay, ghét đắng có cái gì đó. Nguyên nhân thường được
truy ra từ tiền kiếp, có người ghét màu xanh, cò người ghét trẻ con, có người
ghét đàn bà con gái, có người thích màu đỏ, có người thích ca hát, có người mê
thơ và làm thơ hơn cả mọi thứ, có người thích đi tu từ tấm bé.v.v.
Có người khi nằm ngủ co ro khốn khổ
lạ lùng, người co quắp, mặt nhăn nhó đau khổ, tay co rút vào ngực hay ôm lấy
đầu. Có người khi ngồi dáng điệu ủ rũ như cây khô rụng lá. Có người khi ăn uống
có cử chỉ trông giống loài heo.
Có người còn có những cử chỉ sợ sệt
hốt hoảng khi gặp một vài thứ gì đó như có người thấy con bướm lại sợ, có người
sợ nước, có người sợ tiếng động, tiếng cười, có người sợ mùi khói. Có người sợ
sợi dây kết lại thành vòng, có người sợ cái khăn màu đỏ... Ở Huế, tại thành nội
có bà T.T.L, mỗi lần thấy thân cây nào phân thành 2 nhánh là bà ôm ngực nhắm
mắt sợ phát run lên, có người thấy chuột không sợ nhưng lại sợ mèo... câu hỏi
đã được đặt ra là do đâu mà mỗi con người lại có cử chỉ khác nhau một cách lạ
lùng như thế?
Từ lâu, các danh sư, các nhà tâm
lý, các nhà lý số từ Hippocrate cho đến Lý Thời Trân, Josef Ranald, Nicolas
Pende, Gibert Robin, Lepold Velkhover... đều lưu ý đến cá tánh của con người.
Theo tâm lý học thì cá tánh của mỗi người là tâm gương biểu lộ của tâm hồn.
Theo các nhà y học thì cá tính còn phát sinh từ bệnh lý, vì thế người bị đau dạ
dày đau gan thường hay cáu kỉnh, bực bội gắt gỏng. Cá tánh con người còn biểu
lộ tùy theo các tuyến nội tiết của cơ thể hoạt động mạnh hay yếu... các nhà
nghiên cứu Tây phương đã và đang đi sâu vào lãnh vực nghiên cứu này họ cho rằng
"có sự biểu lộ từ bên ngoài tức là có sự hiện hữu ở bên trong". Mới
đây hai nhà nghiên cứu và cá tính con người là Gerard J.Nierenberg và Henry H.
Calero đã tận dụng kỹ thuật video để ghi lại các hành động, cử chỉ, tư thế,
động tác của mỗi con người để từ đó phân tích nghiên cứu, tìm hiểu những gì ẩn
tàng, thâm sâu trong mỗi con người được biểu lộ qua hành vi cử chi... Tuy
nhiên, sự nghiên cứu của Gerard J. Nierenberg và Henry H. Calero phần lớn đều
tập trung vào lãnh vực tâm lý học chớ không đi sâu thêm vào lãnh vực siêu linh
huyền bí của hiện tượng luân hồi tài sinh, tiền kiếp và hậu kiếp như ngày xưa
ông Edgar Cayce hay một số nhà phân tâm học và mới đây là tiến sĩ vật lý học
Pháp Patrich Drouot đã thực hiện.
Theo ông Edgar Catce (người có khả năng thấy được quá khứ xa xăm hay tiền kiếp
của con người) thì những cá tính riêng biệt của mỗi con người như tính tàn bạo,
lạnh nhạt... kiên nhẫn, nhân từ, rụt rè, dữ tợn, keo kiệt, dâm đãng... đều có
nguyên nhân và nguyên nhân này phát sin từ tiền kiếp.
Ông Cayce đã có lần "soi kiếp"
cho một người đàn ông 60 tuổi. Ông này lúc nào cũng có vẻ khổ sở, dáng điệu hốt
hoảng, mặc dầu ông là một người rất giàu có. Cuộc soi kiếp cho thấy tiền kiếp
của ông này, là một chủ tiệm cầm đồ keo kiệt, luôn luôn cầm đồ với giá rẻ mạt
và lúc nào cũng hồi hộp mong cho người ta đến với mình và mong được món hời.
Lúc nào ông cũng tính toán lo âu, hồi hộp, hấp tấp, vội vàng... nổi bật qua
dáng dấp và ở kiếp này dấu vết ấy vẫn còn là dấu ấn trên nét mặt và cử chi của
ông ta. Nhà vật lý học Pháp Patrick Drouot đã cho biết có lần ông đã khơi dậy
tiềm thức của một người đàn ông luôn luôn có cử chỉ lạ lùng là dù đứng hay ngồi
đều ở dạng thủ thế như sắp bị ai đánh đập. Kết quả tiền kiếp của ông này là một
đấu sĩ chuyên biểu diễn ở đấu trường với người và thú dưới triều đại La Mã còn
hưng thịnh. Theo các nhà nghiên cứu về luân hồi thì những người khi thấy những
vật gì đó thì cảm thấy sợ hãi (đôi khi những vật ấy thật sự không có gì đáng sợ
cả) là do những người này đã có sự liên hệ nào đó với những sự vật ấy như thế
có thể họ đã bị nước cuốn đi trong một cơn lũ lụt ở tiền kiếp hay bị mắc kẹt
trong một đám cháy đầy khói hoặc là bà L. ở tiền kiếp đã bị quân giặc treo giữa
2 cành cây để tra khảo.v.v...
Tất cả đều có một liên hệ nào đó từ
tiền kiếp và ở kiếp này, những hình ảnh quá khứ xa xăm ẩn tàng trong tiềm thức
sẽ trổi dậy mỗi khi gặp hình ảnh tương tự giống như trong khoa tâm lý học
thường gọi là sự liên tại ấn tượng...
Ông Edgar Cayce cho biết: Có người
suốt đời đầu tắt mặt tối để góp nhặt từng đồng xu để rồi hết sức giàu có nhưng
luôn luôn ăn uống kham khổ, ăn mặc rách rưới, mở miệng ra là than vãn nghèo cực
khổ và cuối cùng là chết với hai bàn tay trắng. Có lần ông Cayce đã soi kiếp
cho một người có trường hợp tương tự, ông này có nhiều cửa hàng lớn ở New York, tiền kiếp của
ông ta là chủ nhân của một cơ xưởng lớn vào những năm 1790. Những người thợ
dưới quyền ông đều bị ông đ ày đọa, bóc lột công sức và tiền bạc rất trắng trợn
đến độ người làm lụng cực nhọc quá ngã bệnh chết nhưng ông ta chẳng chút đoái
hoài thương xót. Ở kiếp này ông nhận hậu quả của luật luân hồi quả báo qua hình
thức một kẻ nô lệ vì đồng tiền, làm việc khổ nhọc mà chẳng được tận hưởng gì,
đó chính là hình phạt lớn lao đối với ông. Tuy rằng quả báo không hoàn toàn
tương ứng với những gì ông ta đã gây ra từ kiếp trước, nhưng xét cho cùng thì
trước đây những người thợ là những kẻ nô lệ mà ông đã đầy đọa không hơn không
kém. Giờ đây ông lại trở thành kẻ nô lệ không phải của chính những người mà ông
ta đã đ ày đọa mà là của những đồng tiền vô tri vô giác. Tuy nhiên chính những
đồng tiền ấy lại là cái làm ông mất đi lòng nhân đạo với đồng loại.
Dấu Tích Luân Hồi Biểu Hiện Qua Tật Bệnh, Những Khổ Đau Của Xác Thân
Trên thế gian này xuất hiện không
biết bao nhiêu những hình ảnh khổ đau củ những người mà bệnh hoạn và tật ác từ
đâu phủ ngập cuộc đời họ. Có người vừa mới chào đời đã mang trong cơ thể trọng
bệnh, có người lọt lòng mẹ đã bị mù, câm điếc hay không có tay chân hoặc có tay
chân lại bị bại liệt. Tại sao lại có kẻ phải chịu cảnh đau đớn cùng cực ấy?
Trường hợp quả báo thể hiện qua tai
nạn và bệnh tật
Những người Ky tô giáo đã phải
thích những trường hợp này bằng câu "Đó là ý muốn của Chúa Trời!"
Phải chăng Chúa Trời muốn thế? Không! thật sự câu nói ấy hàm bao ý nghĩa thâm
sâu về những tội lỗi mà những con người ấy đã gây ra để rồi phải chịu gánh lấy.
Trong châm ngôn 22:8 có đoạn như sau: "Những gì mà ngươi đã gieo rắc thì
sẽ được chính ngươi gặt lấy". hoặc: "Kẻ nào gieo sự bất công, sẽ gặt
điều tai học". Cũng trong châm ngôn 12:21 có câu: "Chẳng một tai họa
xảy đến cho người công bình, song kẻ dữ sẽ bị đày đọa khổ đau". hay
"sự công bình hoàn toàn của Đức Giê hô va đòi hỏi phải lấy Mạng đền Mạng,
Mắt đền Mắt, Răng đền Răng" (phục truyền, luật lệ ký 19:21). Những câu
tương tự gặp trong Kinh Thánh cho thấy bao hàm ý nghĩa về luật quả báo là một
luật tự nhiên, công bằng của Thượng Đế, những kẻ gây ác nghiệp sẽ lấy nghiệp ác
không sớm thì muộn đấng cha lành là Đức Chúa Trời không thể nào nhẫn tâm đứng
trước những khổ đau của con cái mình và bảo rằng đó là ý muốn mình mà trái lại
Ngài đã đưa ra một lời răn bảo đến với loài người rằng: Hễ gieo gió thì phải
gặp bão.
Từ ngàn xưa, Ấn Độ giáo và Phật
Giáo đã đi sâu vào vấn đề này và phát triển thành một triết lý tôn giáo thâm
sâu vi diệu xoay quanh vấn đề Luân Hồi quả báo... Mọi tội lỗi do mình đã gây ra
ở kiếp này thì kiếp ở kiếp hiện tại hay kiếp kế tiếp sẽ đến với chính mình chớ
không phải ai khác, đau khổ, tai ách, bệnh tật có nguồn gốc cũng từ đó, sự tàn
nhẫn, ác độc là nguyên nhân sẽ gây nên quả báo thể hiện qua các tai nạn, bệnh
tật như đui mù, mất máu, bại liệt, các bệnh nan y, cụt tay cụt chân, câm điếc
v.v...
Trong tài liệu lưu trữ tại viện
nghiên cứu về hiện tượng luân hồi tái sinh tại Virginia có ghi lại những trường hợp quả báo
thể hiện qua tại nạn và bệnh tật như sau:
A) Một người từ lúc sinh ra đã bị
mù lòa, mỗi lần đi phải bò, lết, quờ quạng khổ sở. Khi được ông Edgar Cayce
dùng thuật thôi miên để tìm về nguyên nhân từ tiền kiếp cho người này thì được
biết kiếp trước ông ta là một người Ba Tư rất hung dữ, thường hành hạ những tù
nhân bắt được bằng cách dùng dùi sắt nung đỏ đâm vào mắt cho họ mù.
Theo thuyết luân hồi quả báo của
đạo Phật thì sự mù lòa của một người có từ lúc sinh ra đời là một nghiệp quả
báo ứng. Trong phần phụ chương của cuốn sách viết về luân hồi (Reincamation)
(cuốn Bom again, again xuất bản lần thứ 2 năm 19890 tác giả John Van Auken cũng
đã ghi lại một đoạn dẫn chứng về vấn đề luân hồi tái sinh và quả báo tiềm tàng
trong giáo lý Cơ Đốc ngày xưa về những thắc mắc của các môn đồ của Chúa về vấn
đề tội lỗi và tật bệnh như sau:
Có lần một môn đồ đã hỏi Chúa khi
người này trông thấy một người bị mù ngay từ lúc chào đời: "Bạch thầy ai
là kẻ đã gây nên tội lỗi đau đớn này? Chính người này hay cha mẹ của anh ta?
(John 9: 1-2 (my italics) Dĩ nhiên từ lâu Chúa đã dạy rằng "kẻ nào làm ác
sẽ gặp ác" "Hễ gieo rắc thì tự gặt lấy" "Kẻ nào gieo sự bất
công, sẽ gặt điều tai họa" (châm ngôn 22:8).
B) Qua cuộc tìm về cội nguồn của
chứng bệnh máu loãng ở một thanh niên, ông Cayce đã biết được rằng trong tiếp
kiếp anh này từng gây nên không biết bao nhiêu cuộc tàn sát đẫm máu ở xứ Perou
và giờ đây phải nhận cái hậu quả ghê gớm ấy và được thể hiện qua chứng bệnh
nguy hiểm gây lo lắng khủng hoảng đến anh ta là bệnh máu loãng.
C) Những kẻ đàn áp người cô thế, yếu
đuối hay gây sự khổ đau, tàn tạ cho người khác thì quả báo tương ứng có thể
được thể hiện qua các chứng bệnh về thần kinh, tim mạch, lo lắng, hoang mang
dẫn đến bệnh về bao tử, đường ruột, gan...
D) Những kẻ nhẫn tâm, làm
ngơ, coi thường sự đau khổ của kẻ khác, mặc cho kẻ khác van xin vẫn một mực tàn
nhẫn lờ đi đề là những kẻ phải chịu hậu quả ở kiếp kế tiếp về những gì mà họ đã
làm, quả báo sẽ thể hiên qua chứng ù tai, điếc hay câm ngay từ thuở lọt lòng
mẹ.
E) Có những chứng bệnh do tư tưởng
mà phát sinh như khủng hoảng tinh thần, bệnh thần kinh, sự lo lắng nghĩ ngợi dễ
làm rối loạn thần kinh và dễ dẫn đến chứng áp huyết caoi, đau bao tử, rối loạn
tiêu hóa.
F) Có những khuyết tật phát sinh
làm đau khổ co vô số người, có người mới sinh ra đã không có hai chân hoặc
không có cả hai tay. Có kẻ lọt lòng mẹ không có cả tay và chân. Theo thuyết
luân hồi quả báo thì đây là hình ảnh của sự nhận nghiệp quả báo tương ứng. Có
thể từ kiếp trước những người này đã tàn hại kẻ khác khiến kẻ khác phải chịu
thương tật bị chặt tay chặt chân vì trực tiếp hay gián tiếp và tùy theo cấp độ
của nghiệp quả mà những người này đã gây ra mà nhận lại quả báo ở kiếp này.
Thật ra đây chỉ là một số biểu hiện
về nghiệp quả do luật quả báo tác động lên những gì đã được phát sinh. Không phải
hễ thấy một người đau tim là vội bảo kiếp trước người này đã đàn áp kẻ yếu hay
thấy người câm điếc là bảo người này trước đây đã tàn nhẫn làm ngơ trước những
yêu cầu của kẻ khác hay người bị bệnh xuất huyết là do trước đây người ấy đã
gây tổn thương, máu chay cho kẻ khác. v.v... dĩ nhiên có những loại bệnh tương
tự phát sinh từ nguyên nhân bên ngoài hoặc do hoàn cảnh, môi trường, hóa chất,
vi trùng chẳng hạn... Tuy nhiên nếu theo đúng suy luận diễn dịch của thuyết
luân hồi quả báo thì bất cứ nguyên nhân nào gây bệnh, người mắc phải bệnh
trọng, nhất là bệnh nan y hoặc các tổn thương thân xác lớn như bại liệt, cụt
chân, cụt tay, mù mắt... đều có nguyên nhân sâu xa của nó, đó là kết quả của
hành động từ kiếp trước của họ. Đó chính là nguyên nhân tiềm ẩn sâu xa của bệnh
tật.
Từ ngàn xưa người Ấn cho rằng: có
những bệnh biểu lộ rõ ràng tên thân thê của một người bằng chứng hiển nhiên cho
thấy đó là kết quả của những tội lỗi mà ở kiếp trước người đó đã gây ra. Những
tật bệnh lộ rõ ấy chính là dấu ấn của tiền kiếp, có thể đó là bản sao của những
tội lỗi trong quá khứ. Trên thế giới có vô số người bị tật nguyền hay mắc phải
những chứng bệnh lạ lùng số lượng những kẻ bị tổn thương thân xác đến khổ sở ấy
rất nhiều và từ lâu đã là một thắc mắc lớn lao cho tất cả mọi người: "Tại
sao người này bị mà người khác lại không? Phải chăng đó là số kiếp đọa đày hay
là kết quả những gì họ đã gây ra từ trước nay phải chịu quả báo?" Chính
bản thân những người đã bị tàn phế, bị những dị tật, những chứng bệnh lạ lùng
cũng cảm nhận điều đó và trong thâm tâm họ cũng đã nhiều lần tự hỏi: "Phải
chăng những gì mình đang gánh lấy là kết quả của những gì mà chính bản thân
mình đã gây ra?"
Hiện nay luân hồi quả báo biểu hiện
qua tật bệnh còn có những ý nghĩa sâu xa hơn nữa khi có những bệnh và những
biểu hiện bệnh lạ lùng ghê sợ xuất hiện ở một số người, những bệnh không những
vừa gây đau đớn, mà còn làm cho cơ thể trở nên dị kỳ, gớm ghiếc, xấu xa khiến
bệnh nhân phải đau khổ triền miên và đôi khi ẩn trốn trong nhà không dám ló mặt
ra đường hay bị mọi người xa lánh. Đối với thuyết luân hồi, quả báo thì cách
giải thích vẫn là do nghiệp quả gây nên những kẻ đã từng đày đọa kẻ khác bắt họ
lao động khổ sở, xách vát đầy đồ vật nặng, hay giam giữ người trong tù ngục với
những quả báo tương xứng nặng nề như bại liệt chân tay, phải ngồi hay nằm một
chỗ hay tay chân phồn lên hoặc lở loét quanh năm đau đớn. Bệnh phù chân voi là
một dạng mà biểu hiện của quả báo thường nhắc đến. Bệnh phù chân voi
(elepantiasis, elephantoid) là bệnh làm cả bàn chân và bàn tay hay các ngón tay
đều phát triển to không thể đi đứng hay làm gì được. Bệnh này giống như bệnh
trương mạch bạch huyết (dạng Lymphedema) khiến cho hai chân phù to trông vô
cùng khủng khiếp khiến người bệnh đi lại khó khăn.
Các tài liệu y khoa cho thấy rất
nhiều dạng thể bệnh tật lạ lùng thuộc một phần của cơ thể phát triển to lên một
cách bất thường khiến người bệnh phải khổ sở vì phải mang nó một cách nặng nề.
George M. Gould và Walter L. Pyle là hai nhà sinh vật học có tiếng đã sưu tập
vô số hình ảnh về các dạng bệnh trong cuốn: Medical Curiositles (nhà xuất bản
Hammond 1982) Trước đây, từ năm 1896 một số lớn nội dung đã được W. B Sauders
phổ biến.
Trong các tài liệu thu thập được có
một hình ảnh đặc biệt do bác sĩ Jemes Thorington chụp một bệnh nhân ở đảo Fiji,
người đàn ông này đặc bie65ct có cái bìu dái (serotum) trương nở to như một cái
nồi lớn. Với cấu tạo dị tướng đó, người thanh niên này vô cùng đau khổ và anh
ta cảm thấy cuộc đời mình tàn tạ, mỗi ngày phải kéo lê một vật nặng như thế quả
là một điều khó khăn. Người dân Fiji
thường tin vào sự luân hồi quả báo. Mẹ người thanh niên này đã nghĩ rằng kiếp
trước bà đã làm điều ác nên nay mới khiến bà sinh con chịu cảnh khổ đau ấy. Còn
người thanh niên ấy lại tin rằng chính anh ta đã tạo nghiệp dữ trong tiền kiếp
và nay phải chịu trả quả. Những trường hợp như trên cũng được báo cáo (y học) ở
bệnh viện Mardas, ở pháp, ở Anh, ở Hoa Kỳ, ở Đức... Ngoài ra hiện tượng phát
triển quá đáng về bộ phận sinh dục còn thấy ở nữ giới như trường hợp một người
đàn bà có bộ phận sinh dục phát triển lớn ở hai âm môi của âm hộ làm kéo dài
xuống tận đầu gối. Phần nở lớn này nặng đến 55 ký. Năm 1962, các nhà y học còn
ghi nhận một trường hợp tương tự mà toàn bộ phần nở lớn từ mép âm hộ nặng đến
gần cả 100 ký. Nhiều nơi khác trên thế giới cũng có những báo cáo như thế. Câu
hỏi được đặt ra là tại sao lại có sự bất thường phát sinh từ cơ quan sinh dục
của người này? Đối với các nhà y học thì câu trả lời thần sinh lý học cơ thể.
Đó là sự lệch lạc về cấu tạo cơ thể do thể tượng di truyền, hiện tượng đột
biến, do gen, nhiễm sắc thể v..v... nhưng các nhà nghiên cứu và tìm hiểu về
hiện tượng, luân hồi quả báo thì lại nghĩ đến những nguyên nhân, những cội
nguồn sâu xa hơn nữa. Vì thế câu hỏi tuy dè dặt nhưng vẫn được đặt ra là phải
chăng đó là hình ảnh về những nghiệp báo luân hồi? Nhiều trường hợp còn lạ kỳ
hơn nữa khiến những người tin vào thuyết luân hồi cảm thấy câu giải đáp như chỉ
cần bằng hình ảnh khi tìm thấy được một số báo cáo y học về sự phát triển phì
đại của cái lưỡi (hiện tượng Macroglossia) ở một số bệnh nhân khiến người này
rất khó khăn khi nói hay ăn uống, có người cổ và ty trương phù khiến rất khó
xoay chuyển đầu, có người sau lưng bị nở phồn lên nên khi đi phải cong người
như phải gánh vác một vật nặng to lớn. Tóm lại một trường đại học ở Philadelphi
(Hoa Kỳ) có một bức ảnh chụp người thiếi nữ Trung Hoa hầu như không thể di
chuyển được vì bị một khối u lớn phát triển ở bụng. Khối u này to như một quả
bóng năng 90 ký lô trong đó chứa đến 22 gallons nước. Một người đàn bà da đen
khác có vú và bụng nối liền nhau và trương nở lớn ra nặng đến 153 pounds (1
pound bằng gần nửa ký).
Vì phải mang một vật nặng nề như
thế nên mỗi lần di chuyển, người đàn bà này rất khổ sở, khó khăn. Một trường
hợp khác, một người đàn bà da trắng có phần bụng trương nở lớn cân nặng đến 149
pounds nên bà không di chuyển được phải nằm trên giường.
Có người sinh ra và lớn lên mang
theo mình một khối lớn do một phần của cơ thể phồng to lên. Người này chỉ nằm
và do người nhà cho ăn uống. Họ sống trong khổ đau với cái khối nặng đè lên
mình cho tới chết. Nghiệp quả trong những trường hợp này có thể được hiểu như
là những gì mà ở kiếp trước đã gieo nay phải gánh lấy quả báo tương ứng (như đã
đày đọa những người nào đó (kẻ tôi tớ, các người tù, lao công...) bắt họ gánh
vác, làm việc mệt nhọc không ngơi nghỉ và nhẫn tâm trước khổ đau thể xác của
họ.
Riêng về các trường hợp những người
sinh ra có thân hình hay gương mặt kỳ quái thì những trường hợp này y khoa gọi
là những quái thai. Nhưng những người tin vào thuyết luân hồi quả báo thì có
một nguyên nhân sâu xa nào đó đã gây nên những quái trạng ấy. Nguyên nhân ấy
chính là nghiệp quả mà trước đó người ấy đã tạo nên vì thế quả báo đã quay
ngược trở lại để tác động lên chính bản thân người ấy. Do đó, có người sinh ra
với gương mặt xấu xí ai cũng ghê sợ phải lánh xa. Ở Ấn Độ năm 1970 có loan
truyền trong dân chúng tại Bombay câu chuyện một người hành khất có gương mặt
vô cùng ghê sợ, hai mắt như nối liền nhau, răng và xương hàm lộ ra nên trông
như có miệng rộng thấu đến hai tai. Người này vừa bò ở chợ vừa kể lể: "Hãy
thương xót tôi, trước đây chính tôi đã tạt axit vào mặt nhân tình của vợ tôi
nên đã bị quả báo ở kiếp này. Tôi là kẻ đáng ghê tởm hãy khinh ghét lòng dạ tôi
nhưng hãy cứu lấy thân xác tôi..."
Thường thì những người dị tướng ít
khi dám ra đường vì thế hiếm thấy, tuy nhiên các tài liệu y khoa cho biết trên
thế giới có rất nhiều người loại này. Họ chỉ là những người luôn luôn cảm thấy
đau khổ, họ không dám nhìn mình trong gương, không dám tiếp xúc với ai vì quả tình
không ai dám đến gần họ. Không phải họ độc ác, nghèo hèn mà vì học có thân hình
hay gương mặt dị hợm lạ lùng khác người. Bác sĩ Robert W. King là người tiếp
xúc nhiều với những người dị tướng phát biểu như sau: "Tâm trạng của những
người này luôn luôn ở tận cùng đau khổ. Họ thường than thân trách phận rằng
thàm làm quỉ, làm thú vật, còn hơn làm người mà lại dị dạng nhất là gương mặt
xấu xí ghê sợ. Phần lớn những người này đã tìm đến với tôn giáo và họ nghĩ rằng
họ đang bị đấng tối cao trừng phạt về những tội lỗi mà họ đã gieo trước đó. Đó
là nguồn an ủi duy nhất cứu họ thoát khỏi sự tự vẫn. Vì dù bị hất hủi đến mấy,
họ vẫn ham sống và thích được sống.
Câu phát biểu sau cùng của bác sĩ
Robert W.King đã gợi ý cho một câu hỏi và câu trả lời tiếp theo của nhữn nhà
nghiên cứu về thuyết luân hồi.
Tại sao những người dị tướng sống
trong khổ đau tủi hận lại vẫn ham thích sống?
Phải chăng đó là bản năng của tất
cả mọi loài sinh vật hay phải chăng đó là nghiệp quả mà những người đó đã tạo
ra thì phải gánh lấy theo đúng thời gian nào đó? Họ phải sống để chịu khổ đau
hay nói khác đi là phải sống để trả quả báo.
Trở lại những hình ảnh về người dị
tướng, các tài liệu y học đã nêu khá nhiều. Những hồ sơ lưu trữ tại các viện y
học, các bệnh viện, các đại học y khoa khắp thế giới cho thấy có vô số những
hình ảnh về người dị tướng. Sách Medical curiosities của Waller L. Pyle và
George M. gould có in lại hình ảnh của người đàn ông có cái mũi to lớn kỳ dị
thoạt trông giống như mũi két. Người này có tên là Thomas Wedders có cái mũi
dài đến 7 inches rưỡi.
Có người mặt giống như con hà mã,
như một người đàn ông ở Philadelphia
có mũi và miệng môi kéo dài ra phía trước một cách lạ lùng. Trong một báo cáo y
khoa. Ohmann Dumesnil đã trình bày những trường hợp đặc biệt, theo đó những người
có gương mặt rất giống con tê giác. Có người đôi môi dài ra và nhỏ lại như mỏ
chim có người mũi kéo dài giống như mũi voi. Có người gương mặt hoàn toàn giống
sư tử mà bác sĩ Moor đã báo cáo về trường hợp này ở một người có gương mặt lạ
lùng; mũi to từ sống mũi chạy dài từ trán xuống gần miệng trong khi hai mắt
dang ra gần hai bên thái dương. Ở bệnh viện Luân Đôn (Anh Quốc) cũng có một báo
cáo về 1 người tên là Merrick, người này sinh tại Leicester
có gương mặt giống voi...
Tất cả những hình ảnh ấy càng khiến
cho những người tin vào thuyết luân hồi nghĩ đến những nguyên nhân nào đó từ
kiếp trước mà người có gương mặt giống thú đã gây ra và giờ đây họ phải nhận
quả báo bằng cách mang lấy hình hài hay diện mạo của loài thú. Câu hỏi được đặt
ra là phải chăng những người ấy là từ loài thú đầu thai mà thành nhưng vì lý do
gì mà chưa gột bỏ được hoàn toàn xác cũ? Hoặc là những người này ở kiếp trước
đã tàn hại một cách dã man không thương tiếc những loài thú?...
Tóm lại những bệnh tật, những khổ
đau xác thân, theo thuyết luân hồi là kết quả của những gì đã gây lên từ tiền
kiếp. Không lý do gì cũng đều là loài người như nhau mà có người luôn luôn được
khỏe mạnh an vui, lại có người bệnh tật khổ đau dày vò. Tại sao lại có sự bất
công lạ lùng tàn nhẫn đó. Chỉ cần nhìn hình ảnh của một con người như hình chụp
dưới đây về một thanh niên có tên là Rosa Lee Plemons mới 18 tuổi, với tuổi trẻ
đáng lý phải vui tươi tràn đầy nhựa sống, anh ta chỉ nặng khoảng 27 pound (chưa
đầy 14 ký lô) vì cơ thể chỉ có da bọc xương không phải vì đói khát mà từ lúc
sinh ra đến 18 tuổi, dù được nuôi nấng cơ thể vẫn thế. Giới y khoa rất ngạc
nhiên vì anh ta chẳng có bệnh tật gì? Câu hỏi lại được đặt ra là tại sao người
thanh niên này lại phải chịu cảnh đau khổ đó? Với một nắm xương khẳng khiu ấy,
anh ta sẽ hoạt động ra sao trong suốt cuộc đời mình? anh ta còn làm bạn được
với ai? và tại sao anh ta phải chịu đau khổ như vậy? Ngoài câu giải đáp của
giới y khoa về sự lệch lạc trong cấu tạo cơ thể thì giải đáp từ thuyết luân hồi
quả báo vẫn là giải đáp có ý nghĩa sâu xa.
Trở lại vấn đề chữa bệnh của ông
Cayce tại Hoa Kỳ, ông này có năng khiếu lạ lùng là có thể, qua giấc ngủ thôi
miên, tìm lại tiền kiếp của người bệnh và truy nguyên ra nguồn gốc gây ra bệnh,
dĩ nhiên chỉ những bệnh nan y, còn những bệnh phát sinh bình thường thì phần
lớn chỉ đơn thuần chữa trị theo phép y khoa. Ông Cayce đã thực hiện hơn hai
nghìn cuộc chữa bệnh bằng phương pháp thôi miên tìm về tiền kiếp và của bệnh
nhân trong vòng hai mươi năm trời, nhờ năng khiếu thần nhãn lạ lùng ma ông biết
được nhiều sự kiện qua các cuộc "soi kiếp" đó để có được một số kết
luận mới lạ và giá trị như sau: sự khổ đau, bệnh tật xuất hiện ở kiếp hiện tại
nhưng nguyên nhân lại ở tiền kiếp, có nghĩa là nguồn gốc của sự đau khổ cũng
như những căn bệnh (nhất là bệnh nan y hiểm nghèo) chính là do những hành động
ở kiếp trước tạo nên.
Giữa thể xác và tâm hồn luôn luôn
có sự tương quan mật thiết với nhau. Khoa tâm bệnh học gọi là Psychosomatique
chuyên nghiên cứu về vấn đề này. Bệnh tật thật sự không phải hoàn toàn phát
sinh từ nguyên nhân thuộc về sinh lý học mà còn liên quan đến tâm thần, vì thế
mà khoa tâm thần học phát sinh. Nhiều căn bệnh phát sinh do tinh thần bị nhiễu
loạn. Khi tinh thần bị rối loạn, căng thẳng, sẽ dễ biểu lộ qua những gì liên
quan đến thể xác, có người hay bị hồi hộp, hốt hoảng, uất nghẹn trong khi ngủ,
khi nói, khi ăn,o phần lớn đều có nguyên nhân rối loạn tinh thần. Ngoại trừ
trường hợp sự hồi hộp, uất nghẹn ấy phát sinh do chất thuốc, do thức ăn nuốt
quá mau, nghĩ là thuộc về sinh lý cơ thể thì không nói.
Theo ông Cayce, khi chẩn bệnh cho
một người bị bệnh suyễn, ông truy nguyên từ kiếp trước của người này và thấy
rằng trong tiền kiếp, ông ta là người đã từng áp bức, hà hiếp kẻ khác những kẻ
cô thế thường phải đau khổ, nín răng chịu đựng qua kiếp này, ôn ta phải chịu
luật nhân quả và những gì ông đang gặp phải như sự đè nặng ở tim, hồi hộp, đau
khổ, bực bội, khó thở... Chính là hình thức quả báo phát sinh do những hành
động từ tiền kiếp mà ông đã gây ra. Như vậy, phần lớn những điểm về bệnh lý
thấy ở mỗi người là những biểu hiện tượng trưng của những gì người ấy đã hành
động ở kiếp trước.
G) Có nhiều bệnh được y học chữa
khỏi nhưng cũng có rất nhiều bệnh mà y học đành chịu bó tay. Nguyên nhân là
những bệnh này thuộc về lãnh vực tâm linh chớ không phải thuộc về sinh lý học
của thân xác. Bệnh có thể tiềm ẩn, có thể biểu lộ qua thân xác nhưng y học nếu
có thể phát triển mạnh cũng chỉ làm cho bệnh giảm bớt sự lan rộng chớ không thể
lành bệnh. Muốn lành bệnh thì cách chữa phải áp dụng vào lãnh vực tinh thần, có
nghĩa rằng bệnh nhân phải tự soi sáng tâm hồn mình và hiểu rằng mình đã có
những hành động xấu xa nào đó ở kiếp trước và bây giờ phải nhận lấy nghiệp quả
khổ đau, vì thế phải sống bằng hành động tự cứu chuộc qua việc làm từ thiện, giúp
đỡ mọi người với tất cả tấm lòng khoan dung độ lượng, nhân hòa...
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi
bệnh tật đều do có nguyên nhân từ tiền kiếp như đã nói từ trước, cũng như mọi
bệnh tật đều không thể chữa bằng phương pháp y học. Tốt nhất là sự hỗ trợ hài
hòa của phương pháp chữa bệnh theo lãnh vực sinh lý học thuộc về y học và
phương pháp chữa bệnh thuộc tâm linh.
Ứng Dụng Của Hiện Tượng Tiền Kiếp
Vào Phép Trị Bệnh.
Cách đây khoảng hơn 30 năm vấn đề
này hầu như chỉ thuộc lãnh vực lý thuyết được gọi là mơ hồ ở một số tôn giáo và
sau đó nhiều nhà tâm lý và tâm thần học lưu tâm kết hợp phần nào và khoa chuyên
ngành của mình mà thôi, tuyệt nhiên các nhà khoa học cơ hồ không dính dấp vào
hiện tượng luân hồi, tiền kiếp, tái sinh không thể nào có thể chứng minh được
từ phòng thí nghiệm khoa học. Tuy nhiên về sau, trong số các nhà khoa học đã có
một vài nhân vật xé rào. Họ cảm thấy trong vấn đề được coi là mơ hồ có tính
cách tôn giáo ấy hình như có cái gì đó cần được khám phá tìm hiểu. Mặc dầu vậy,
những người này chỉ đang trên con đường dò dẫm và thu thập sự kiện. Có thề còn
lâu vấn đề mới sáng tỏ. Bác sĩ Ian Stevenson mà giới khoa học đều biết danh
phát biểu như sau: "Ngày xưa lúc khoa học chưa phát triển nhiều hiện tượng
lạ lùng bí hiểm đều ấn nhập mãi trong dân gian, trong tôn giáo như là hiện
tượng huyền bí. Ngay cả sấm chớp, sóng thần, mưa đá cũng là chuyện lạ... Ngày
nay khoa học đã khám phá và chứng minh được nguyên nhân của sự kiện và còn áp
dụng những gì có tính cách mơ hồ siêu linh huyền bí vào trong cuộc sống để nâng
cao cuộc sống. Điều đó không lạ gì khi vấn đề tiền kiếp, tái sinh, luân hồi
đang trong giai đoạn sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu ngay cả trong phòng thí
nghiệm tuy chưa đi đến giải đáp chung cuộc nhưng ứng dụng phát sinh từ hiện
tượng lại được phát triển tốt lành. Thí dụ rõ nét nhất của vấn đề là mới đây,
các nhà khoa học và tâm sinh lý học đã bắt đầu áp dụng phương pháp trị liệu mới
về tâm thần và bệnh lý thông qua điều họ gọi là tiền kiếp hay kiếp trước. Những
nhà khoa học và tâm sinh lý tiên phong mạnh dạn nhất phải kể là Fiore, Emie
Pecci. Morris Netheton (Hoa Kỳ), Dennis Kelsey, Joan Grant, Joe Scranton (Anh
quốc)... Ở lãnh vực này cũng nên nhắc đến hai nhân vật quan trọng không nhưng
chú tâm nghiên cứu sự kiện và áp dụng vào việc chữa trị mà còn là người có khả
năng "xuất hồn" đó là Edgar Cayce và Robert Monroe (cả hai đều là
người Hoa Kỳ)...
Các nhà nghiên cứu vừa kể trên
trong đó có bác sĩ tâm thần Ernie Pecci (california)
đã có công thành lập hiep hội nghiên cứu và điều trị qua tiền kiếp. Mặc dầu
hiệp hội mới thành lập chưa được bao lâu nhưng số hội viên và bệnh nhân đến với
hội ngày càng đông đảo vượt sự tưởng tượng ban đầu.
Theo các chuyên gia của hiệp hội
này thì các nhà khoa học đã lưu ý đến các nhịp sóng Alpha xuất hiện ở não khi
con người suy nghĩ, nhớ lại sự kiện và ngay trong một số giai đoạn của giấc
ngủ. Nếu nhịp sóng não này có chu kỳ đống bộ tạo sự giao thoa tương ứng với
những chu kỳ âm thanh nào đó sẽ tạo nên một trạng thái thanh thản tự nhiên để
thuận lợi cho các năng lượng tiềm tàng trng con người được thức tỉnh, giúp ý
thức có điều kiện đi vào thời gian trước đó. Khi áp dụng phương thức khơi dậy
năng lượng và ý thức trỗi dậy để đi sâu vào quá khứ trong phép trị liệu, các
nhà tâm sinh lý và khoa học đã chú tâm vào vấn đề thể chất. Đó chính là khởi
điểm. Nếu bệnh nhân cảm thấy đau đớn, khổ sở, lo lắng, sợ sệt về căn bệnh của
mình thì cách hay nhất là để "cơn đau tự diễn tả" với lý do nào đã
sinh ra nó và thường thì cơn đau liên hệ với sự kiện đã xảy ra trong quá khứ cái
quá khứ xa xăm mà người ta thường gọi là tiền kiếp. Các sự kiện này được quay
về với ký ức như một cuốn phim được quay trở lại rõ ràng.
Công trình đáng kể nhất về lãnh vực
này có thể nói là nhà Vật Lý học P. Drouot.
Theo nhả Vật Lý học P. Drouot thì
phần lớn các sự kiện xảy ra ở quá khứ hay tiền kiếp đều có liên hệ mật thiết
với hiện tại. Điều thấy rõ nhất trong bệnh này, theo P. Drouot thường do kết
quả của những hiện tượng nào đó xảy ra từ tiền kiếp.
Phương pháp mà nhà Vật Lý học Pháp
đang ứng dụng để chữa bệnh thật ra không phải là mục đích tối hậu của ông, theo
ông, có thể chứng minh cho tiền kiếp hay hậu kiếp qua những phương pháp chữa
bệnh của mình. Phương pháp mà ông đang áp dụng để tìm hiểu tiền kiếp một người
nào đó xem ra đơn giản nhưng lại thật sự là do sự phối hợp của các ngành vật lý
học, toán học, điện học, âm học, tâm lý học và cả pháp môn thiền định Yoga nữa.
Người chịu thí nghiệm sẽ được nằm thoải mái ở trạng thái thư giãn trên một cái
giường êm ả. Nơi đây, có một máy ghi âm phát ra một điệu nhạc mà chu kỳ ứng với
nhịp sóng alpha phát sinh từ não bộ của người thí nghiệm đang chìm dần vào giấc
ngủ nhẹ nhàng. Tuy nhiên, trong tiềm thức người ấy lại đang khơi dậy những hình
ảnh và năng lượng tiềm ẩn sâu trong bộ não và nhờ đó mà một phần ý thức đã quay
về với thời gian giúp ta biết được những gì của quá khứ và người thí nghiệm sẽ
kể hết (cuộc đời quá khứ" hay "tiền kiếp" của mình vào một thời
gian nào đó. Một máy ghi âm khác sẽ ghi lại tất cả những lời kể ấy.
Điều này mới nghe qua, quả thật quá
mơ hồ, kỳ lạ, nhưng thực tế đã và đang được áp dụng tại một vài bệnh viện lớn ở
Pháp. Người đề xướng ra phương pháp chữa bệnh là lùng này chính là nhà vật lý
học nổi tiếng của Pháp là Patrich Drouot. Ông đã lưu tâm nhiều về thuyết luân
hồi của Phật giáo từ lâu và muốn đi sâu vào cái thế giới đầy sự lập lại này,.
Mãi tới khi thuyết của nhà thiên văn học Anh là David nêu ra, ông mới cảm thấy
đã đến lúc dấn thân vào việc nghiên cứu vấn đề tiền kiếp hậu kiếp của con
người. Khi dược báo chí phỏng vấn, nhà Vật Lý học này cho biết rằng việc làm
của ông không phải là đưa con người vào cõi mê tín huyền hoặc mà chỉ dùng khao
học thực nghiệm để đưa ra ánh sáng một số vấn đề sôi nổi từ lâu nhưng đến nay
vẫn chưa giải quyết rõ ràng, dứt khoát, theo Pactrick Drouot thì công cuộc nghiên
cứu của ông phần nào đã ảnh hưởng tới vấn đề y học và không chừng sẽ giúp một
cách đắc lực cho ngành này trong vấn đề chữa bệnh. Quá trình thử nghiệm phân
tích tâm lý học, chính điều này từ lâu đã được nhiều nhà khoa học lưu tâm hỗ
trợ và hưởng ứng.
Năm 1989, tạp chí Paris Matchh của
Pháp đã đăng một bài rất dài trình bày về vấn đề trên, trong đó có nêu ra những
trường hợp là lùng như sau:
1) Trường hợp nữ ca sĩ Ariane: Đây
là nữ ca sĩ ăn khách của những năm thuộc thập niên 80, tuy nhiên cô này lại hay
hủy bỏ các chuyến lưu diễn một cách bất thường mà lý do là vì đau cổ họng và
cảm thấy hồi hộp khó tả ở ngực nhất là mỗi khi cô được đám đông khán giả vỗ tay
la ó tán thưởng, cô đã gặp nhà tâm thần học Dennis Kelsey của hội nghiên cứu và
điều trị qua tiền kiếp, tại đây, cô đã được áp dụng phương pháp đặc biệt giúp
ký ức quay về tiền kiếp và với sự trợ giúp của các nhà nghiên cứu, cô đã từ từ
thiếp đi vào cơn mê và đã kể lại đời mình một cách tự nhiên không vấp váp, theo
lời kể của Ariane thì lúc bấy giờ cô sống ở thời đại cách mạng Pháp đang bùng
nổ mạnh. Cô cùng một số nhân vật khác bị bắt chuẩn bị lên đầu đài. Khi cô bị
dẫn tới gần máy chém, đám đông la ó vỗ tay vang dậy vì họ hân hoan trông thấy
cô và những người khác sắp phải đền tội... giờ đây, ở kiếp tái sinh này, cô là
một ca sĩ, nhưng cứ mỗi lần sắp tiếp cận với đám đông hay nghe tiếng la ó ồn ào
là y như dầy thanh quản trong cổ cô co rút lại rất dữ dội đến choáng vàng và cô
muốn ngất xỉu. Điều kỳ lạ là sau cuộc thử nghiệm ấy, cô Ariane như thở phào nhẹ
nhõm vì đã giải tỏa tất cả những gì bấy lâu tiềm ẩn trong ký ức mình và cũng từ
đó, cô không còn bị đau cổ như những lần lưu diễn nữa. "... Điều đặc biệt
là sau khi nguyên nhân bí ẩn gây đau ấy đã được phơi bày rõ ràng thì tôi lại
bỗng nhiên cảm thấy không còn bị đau ở cổ nữa"... Phải chăng đó là sự tự
kỷ ám thị từ tiền kiếp nay đã bị xóa tan.
2) Một cô gái trẻ đã đến nhờ Hiệp
Hội tìm nguyên nhân sâu xa của căn bệnh suyễn như đang đi vào giai đoạn kinh
niên của mình. Nhờ cuộc thí nghiệm mà cô biết rằng cô đã hiện hữu qau cở thể
một cô gái cách đây 8 thế kỷ. Lúc bấy giờ cô thuo6c dân của một bộ lạc và không
may bị một tảng đá lăn đè lên ngực khiến cô luôn luôn bị khó thở và tức ngực,
triệu chứng ấy giờ đây biểu hiện qua bệnh suyễn kinh niên. Chứng bệnh bộc phát
mạnh lúc cô 27 tuổi. Qua cuộc thí nghiệm, cô gái cho biết rằng lúc cô còn là
dân bộ lạc, và bị tảng đá đè lên ngực lúc cô 27 tuổi. Như vậy chu kỳ lập lại
còn kéo theo cả giai đoạn thời gian tương ứng xảy ra sự việc nữa. Điều này cho
thấy có một mối tương đồng nhân quả lạ lùng liên quan giữa kiếp hiện tại và
tương lai...
3) Georges là một trường hợp đáng
lưu tâm, ông ta là một người khỏe mạnh nhưng hay cảm thấy bực bội, cáu khỉng
bất hợp ý. Ông bị chứng khó tiêu một cách trầm trọng. Mỗi lần nuốt thức ăn và
sau bữa ăn luôn luôn cảm thấy khó chịu lạ lùng. Vấn đề này khéo dài từ lúc còn
uống sữa cho đến khi ông vừa 50 tuổi.
Qua cuộc thí nghiệm, ông Georges
cho biết rằng, cách đây gần 200 năm. Ông theo một con tàu cướp biển hoạt động
trong vùng Đại Tây Dương. Về sau trong một chuyến hải hành, tàu bị mắc kẹt
trong vùng biển rong dày đặc thường gọi là biển Sargasses và họ phải chịu cầm
chân tại đó trong khi nước uống và thức ăn ngày càng cạn kho lương thực được
lệnh khóa lại và canh giữ vô cùng nghiêm ngặt- riêng chìa khóa thì được giao
cho ông Georges giữ, vì cơn đói hoành hành giữ dội đến mê mờ nên sẵn chìa khóa
trong tay, Georges đã lén mở kho lương thực và mặc dù chỉ đánh cắp một nắm thức
ăn để qua cơn đói, nhưng hành động ấy đã bị bắt gặp và luật biển đã không tha
thứ kẻ phạm tội. Georges bị ném xuống biển, nơi đầy rong như tóc rối không thể
nào xoay xở hay bơi lội được.
Sau khi những gì tàng ẩn nơi tiềm
thức thâm sâu của quá khứ được làm sống dậy, sáng tỏ, Georges cảm thấy bao tử
mình trở nên thoải mái hơn, cơn đau đè nặng nơi bộ máy tiêu hóa giảm dần và ông
thoát khỏi những dư âm ám ảnh trong suốt 200 năm và bắt đầu cảm thấy dễ chịu
sau các bữa ăn.
4) Một kỹ sư xuất thân từ một đại
học nổi danh nhưng lại luôn luôn cảm thấy tự ti mặc cảm, u buồn, và nhất là
không chịu đứng ra nhận lãnh một chức vụ lớn lao mặc dù anh ta là người rất
thông minh, mực thước và có trình độ. Điều kỳ dị là mỗi lần trong các phiên họp
bình bầu, mỗi khi anh được mọi người đề nghị đảm trách một công việc lớn lai
hay đứng ra nhận lãnh một trách nhiệm quan trọng nào đó thì anh ta tái xanh mày
mặt và tỏ thái độ lo lắng, sợ sệt thấy rõ.
Tình trạng kéo dài rất lâu cho đến năm anh ngoài 40 tuổi. Một hôm, tình cờ anh
được giới thiệu về Hiệp Hội nghiên cứu mà điều trị qua tiền kiếp. Viên kỹ sư
này liền đến gặp các nhà nghiên cứu ở đây và yêu cầu được biết nguyên nhân sâu
xa của hiện tượng bất ổn tinh thần của mình. Sau nhiều cuộc thí nghiệm, anh ta
được biết rằng vào thế kỷ thứ 18, anh là một giám đốc người Anh cai quản một cơ
sở rộng lớn. Một hôm, một tai nạn đã khởi phát từ nhà máy. Lửa bùng cháy và lan
rất nhanh, vì quá sợ hãi, ông giám đốc đã vội vã thoát lấy thân không ra lệnh
cho các nhân viên di tản. Vì sự chậm trễ ấy mà có đến mấy mươi nhân viên đã bị
chết thiêu. Chính sự kiện ấy đã làm tạo nỗi kinh hoàng, lo sợ và mối ân hận
không nguôi về những gì mà một giám đốc đã không chu toàn trách nhiệm. Sự kiện
ấy đã ăn sâu vào tiềm thức, ám ảnh mãi không nguôi gần 200 năm để rồi giờ đây,
là một kỹ sư giỏi nhưng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ và nỗi dằn vặt ở tiền kiếp
đã khiến anh ta không dám đứng ra nhận lãnh trách nhiệm lớn lao này. Tuy nhiên,
qua các thí nghiệm, nguyên nhân sâu xa của hiện tượng bất ổn tinh thần đã được
thấy rõ, tự nhiên người kỹ sư cảm thấy như đã giải thoát mọi trách nhiệm ràng
buộc trước đây và từ đó anh yên tâm hăng hái trong công việc làm và sẵn sàng
đứng ra nhận lãnh mọi trách nhiệm lớn mà không còn phải cảm thấy lo âu sợ sệt
nữa.
Tại đại học y khoa Toronto
(Canada)
giáo sư Joel L Whitton đã bỏ ra nhiều để nghiên cứu vấn đề liên quan đến hậu
kiếp và tiền kiếp. Theo giáo sư thì giữa tiền kiếp và hiện kiếp thường có sự
liên hệ với nhau và hiện kiếp sẽ có ảnh hưởng nhiều ở kiếp lai sinh. Vì các sự
liên hệ ràng buộc đó nên có thể giúp chữa những bệnh tật ở kiếp hiện tại bằng
cách truy nguyên nguồn gốc của bệnh ở kiếp trước. Từ lâu có người bị những
chứng bệnh lạ lùng đến độ khi khám bệnh kỹ lưỡng bằng máy móc tinh vi cũng
không khám phá ra được người ấy bị bệnh gì. Những bệnh nan y thông thường theo
giáo sư Witton đều phát nguôn từ tiền kiếp. Đặc biệt những bệnh thuộc về tâm
thần thường có nguyên nhân sâu kín tiềm tàng từ ở tiền kiếp, có người luôn luôn
u sầu ảm đạm, rầu bỉ bi ai dù họ không bị một sự kiện nào tác động trong hiện
tại. Những người này thường lo lắng, lúc nào cũng cảm thấy mình như có một vấn
đề gì thắc mắc trong lòng, hoặc cảm thấy như bị dày vò bởi một lỗi lầm nào đó
mà chính họ cũng không rõ thì theo giáo sư Whitton chính những người này đã có
một vấn đề gì đó từ tiền kiếp và dấu ấn của sự kiện vẫn hằn sâu trong tiềm thức
vẫn thỉnh thoảng dấy động dày vò họ trong kiếp hiện tại.
Những uẩn khúc này nếu được khơi
dậy bằng phương cách nào đó như đưa họ vào giấc ngủ thôi miên để họ nhớ lại
toàn bộ sự việc trong kiếp sống trước đó thì chắc chắn họ sẽ được thanh thản
tâm hồn không còn bị dằn vặt, đè nặng bởi những uẩn khúc phát sinh từ tiền kiếp
nữa. Cho đến nay, nhiều cơ sở nghiên cứu các lãnh vực siêu hình huyền bí về
tiền kiếp được thành lập mà các chuyên gia nghiên cứu lại thường là những nhà
khoa học vì thế câu hỏi được đặt ra ngay sau khi áp dụng vào khoa học trị liệu
các loại bệnh như đã trình bày ở trên có kết quả tốt đẹp. Câu hỏi đó là tại sao
sau khi biết được những sự việc xảy ra ở tiền kiếp của mình thì căn bệnh ở kiếp
hiện tại sẽ không còn?
Theo các nhà tâm lý học thì vấn đề
hoàn toàn thuộc lãnh vực tinh thần. Phật giáo thường cho rằng "mọi sự tại
tâm". Khoa tâm sinh lý cũng cho thấy có nhiều cảm giác do sự tưởng tượng
mà không thật. Cảm giác còn do tinh thần chi phối. Trời lạnh nhưng nếu ta nghĩ
đến sẽ lạnh lẽo rét buốt, ẩm ướt thì "cái lạnh" sẽ gia tăng. Bước vào
một tòa lâu đài hoang vắng cái sợ hãi len lỏi vào người vì sự tưởng tượng về
những gì thuộc về hồn ma bóng quế đã nảy sinh, do đó các nhà y học từ cổ đại đã
nêu ra vấn đề tâm bịnh. Ngoài ra phương pháp chữa bệnh không loại trừ việc kết
hợp chữa bệnh không cần thuốc mà chỉ cần nâng cao tinh thần tin tưởng "sẽ
lành bệnh" từ người bệnh. Cũng vậy những gì đã xảy ra từ tiền kiếp, nếu đó
là những sự kiện tạo nên những kỷ niệm gây nên các chấn thương nhức nhối cho
tinh thần mà ý thức muốn quên đi và dồn nén vào sâu trong cõi tiềm thức. Những
sự kiện bị dồn nén này sẽ phản ứng lại qua những biểu hiện rối loạn tâm thần
hay tác động lên những cơ quan, bộ phận nào đó trong cơ thể. Đó là nguyên nhân
phát sinh những bệnh lạ lùng mà bệnh trạng và nguồn gốc sinh bệnh không thể
thăm dò, phát giác được chừng nào những sự kiện, những kỷ niệm bị dồn nén này
không được giải tỏa thì người bệnh sẽ còn "vướng bệnh mãi mãi và trở thành
bệnh nan y". Nhưng nếu những sự kiện dồn nén này được giải phóng nghĩa là
được trả lại cho ý thức thì các rối loạn do ức chế sẽ không còn nữa. Đây là một
phát hiện rất giá trị về mặt tâm thần và ngay cả mặt vật chất cũng vậy. Nếu ta
nén một lò xo thì sự dồn nén này sẽ phát sinh phản lực. Sự dồn nén sẽ phản ứng
lại qua những biểu hiện nào đó. Chính ông Edgar Cayce cũng đã lưu ý mọi người
về vấn đề này chính là nhờ phát hiện ra điều này mà đã có hàng vạn bệnh nhân
với những căn bệnh trầm kha, lạ lùng đã được chữa khỏi mặc dầu trước đó họ đã
chạy chữa đủ thầy đủ thuốc từ các bệnh viện nổi tiếng nhưng vẫn không khỏi. Chỉ
riêng ông Cayce thôi, dùng phương pháp chữa bệnh khơi dậy nơi họ sự nhớ lại
những gì đã xảy ra trong tiền kiếp và những biểu hiện thể hiện qua căn bệnh ở
kiếp hiện tại bằng giấc ngủ thôi miên, ông đã chữa khỏi cho khoảng hai chục
nghìn người. Sau này, các hiệp hội khác, hỗ trợ bởi các nhà khoa học, các nhà
tâm lý học... các bác sĩ... đã phát hiện thêm các phương thức chữa bệnh theo
đường lối khơi dậy, phóng thích kỷ niệm bị chôn vùi từ tiền kiếp để chữa bệnh
cho kiếp hiện tại ngày càng thành công. Dĩ nhiên phương thức chữa bệnh chỉ dành
riêng cho lãnh vực bệnh loại tâm thần, bệnh nan y khó chữa. Còn những bệnh do
nguyên nhân trực tiếp gây ra nguyên nhân chính là do vi trùng xâm nhập hoặc ngay
cả bệnh tâm thần phát sinh do chấn thương làm tổn hại đến thần kinh thì không
phải chữa trị theo cách này mà chỉ cần chữa bệnh theo phương pháp y khoa thông
thường mà thôi.
Dấu Tích Luân Hồi Biểu Hiện Qua Tài
Năng.
Vấn đề năng khiếu và thiên tài từ
lâu đã tạo nên nhiều thắc mắc lớn đối với con người.
Thật vậy, làm sao không ngạc nhiên
được khi cùng là con người cả nhưng có kẻ tài ba xuất chúng, có năng khiếu vượt
bực lại có kẻ vô cùng tối dạ, ngu dốt đến lạ lùng.
Những tài năng xuất chúng:
Không phải riêng gì người lớn mà
ngay cả trẻ em cùng có hiện tượng lạ lùng này. Từ xưa đến nay, có không biết
bao nhiêu thần đồng đã được nêu tên như Mozart thần đồng âm nhạc đã phát triển
tài năng từ lúc mới 5 tuổi Beathoven đã xuất hiện trước công chúng để trình diễn
nhạc khác lúc lên 7 tuổi. Em bé Dorothy Straight mới 4 tuổi đã viết sách và đã
được nhà xuất bản Pantheon Books ở New
York in và phát hành. Bé John Stuart Mill sinh năm
1806 được xem như là một thần đồng về ngôn ngữ và triết học. Mill bắt đầu học
sinh ngữ năm lên 3 tuổi, William Jamessidis nói được 4 thứ tiếng An, Pháp, Đức,
Nga lúc lên 2. Kim Ung Yung là một bé trai nổi danh về tính toán. Mới hơn 4
tuổi cháu đã biểu diễn tài năng tính toán cực kỳ nhanh trên đài truyền hình Tokyo. Kim Ung Yung còn
nói được 4 thứ tiếng Anh, Đức, Nhật và Triều Tiên. Một thiếu niên khác tên là
Colin MeLaurin (người Scotland)
đã trở thành giáo sư toán học tại đại học Marischal, Aberdeen năm 1717, lúc đó mới 19 tuổi. Đến
năm 25 tuổi chuyển qua dạy tại đại học Ediburgh qua sự tiến cử của Sir Isaac
New (nhà vật lý nổi danh thới bấy giờ). Đặc biệt hơn nữa bé gái Betty Bennett
mới 10 tuổi như tự động mình lài chiếc máy bay nhỏ bay lượn trên bầu trời Cuba vào ngày 4
tháng giêng năm 1957. Còn Thomas Dobney là một thiếu niên đã gia nhập hải quân
Hoàng gia Anh vào năm 1907 đã vào đại học Glasgow
năm mới có 10 tuổi. Cháu Henry Alban Chambers mới 11 tuổi nhưng lại là người
chủ chốt đánh đàn dương cầm cho nhà thờ Leed ở miền Tây Yorkshire (nước Anh năm
1913). Arthur Ramian Drisoa mới 14 tuổi đã trở thành nhà toán học đại tài. Em
được viện đại học Paris
mời gia nhập vào nhóm nghiên cứu toán học và đỗ bằng tiến sĩ toán. Hiện Arthur
sống với bố mẹ và người em gái tại Nogent Sur Marne thuộc ngoại Paris (Pháp quốc).
Bé Shaira Luna (Phi Luật Tân) mới 3
tuổi vào đại học lớp sáu tại một trường trung học ở Manila. Sau khi sinh ra được 5 tháng bé
Shaira đã biết nói. Năm cháu lên hai tuổi đã có thể chỉ mọi bộ phận trên cơ thể
người và gọi bằng tên khoa học rất rõ ràng. Điều lạ lùng là cháu Shaira thuộc tên
của các quốc gia trên thế giới, quốc kỳ của các quốc gia đó và nhất là đọc tên
các vị nguyên thủ quốc gia không chút nào lầm lẫn. Theo báo Asia Magazine thì
Shaira Luna là một thần đồng lạ đời vì không thích đồ chơi cũng như nô đùa với
chúng bạn mà chỉ thích chơi với sách vở.
Báo Sự thật của Nga Sô (1990) có
đăng tin một em bé Hoa Kỳ tên là Etregun Istwist mới chào đời được một tháng
rưỡi nhưng đã nói được. Khi lên 3 tuổi, bé đọc sách và viết chữ thông thạo năm
11 tuổi bé vào Đại học tổng hợp và đậu hạng ưu. Bé theo học ngành toán học
thiên văn và nghiên cứu vũ trụ. Bé Luis Antonio de Borbon nổi tiếng về tài năng
và được tôn vinh chức Hồng y vào năm mới 8 tuổi tại Rome vào năm 1735... Thomas Macaulay viết
sách lịch sử lúc lên 7 tuổi. Thần đồng Doron mới 4 tuổi mà chỉ số Trí tuệ của
bé đã đo được 200 điểm. Trong khi một nhà Khoa đoạt giải Nobel chỉ có số Trí
tuệ cao nhất là 130 thôi.
Về người lớn số người có tài năng
vượt bậc cũng không hiếm, trên thế giới có khá nhiều người mà năng khiếu vượt
cả sự tưởng tượng của mọi người đó là những thiên tài. Có thể nêu ra một vài
trường hợp:
- Cô Ga li na da Kốp va (Nga Xô) có
trí nhớ lạ lùng cô ta có thể nhớ 500 địa chỉ trong khoảnh khắc, nên trong một
ngày, phân loại được 20.000 bức thư trong khi máy tính điện tử phải cần mã số
trên bao bì, còn cô thì chẳng cần.
- Ở Thụy sĩ, William Kellen tính
nhẩm 50 bài toán chỉ trong 64 giây thôi.
- Ở Nga: Yu ti Go rơ ni, 41 tuổi,
giải 50 bài toán trong 25 giây, anh ta có thể vừa viết thư bằng tay mặt vừa
chơi dương cầm bằng tay trái. Lạ nhất là anh đọc một tờ báo dài rồi nói ngay có
bao nhiêu chữ trong bài báo đó, và thêm một điều kỳ lạ nữa là anh có thể đọc
được ý nghĩ của người đứng trước mặt anh.
- Cô gái giỏi toán Ấn Độ là
Xakuhtala Devi đến Texas,
Mỹ để đua tài với máy tính điện tử cực nhanh: kết quả là khi khai căn bậc 25
của 1 con số gồm 201 chữ số, cô chỉ cần 50 giây còn máy tính điện tử giây mới
cho được kết quả.
- Viện sĩ Loffê Nga nhớ hết cả bảng
Lôgarit. Trong khi viện sĩ Tsa lư ghin có thể nhớ bất cứ số điện thoại nào ông
đã gọi dù đã qua 5 năm.
- Mozart, nhà soạn nhạc trứ danh,
chỉ cần nghe qua một bản nhạc dài có thể viết lại đầy đủ.
- Vào thời cổ đại, Alexande đại đế
được dân chúng yêu mến nhờ ông đã thuộc tên và nhớ mặt 20.000 dân sống trong
thủ đô. Gặp ai ông cũng dừng lại hỏi chuyện và thăm gia đình, kêu đích tên cha
mẹ, con cái họ không bao giờ sai. Hay những nhân tài đặc biệt khác trên thế
giới từ cổ đại đến nay, nào Hippocrate, Aristore, Platon, galileé, Archiwède,
Abu L Hassan Alial Masudi, Abu Al Rayhan Muhammad Ibn Ahmad al Biruni (Học giả
vĩ đại là sử gia, triết gia, vật lý gia, thiên văn gia, địa lý gia, vừa nhà
ngôn ngữ học, toán học và thi sĩ nưa), Leonard de Vinci, Von Brawm, Einstein,
vv... còn nhiều nữa những thân đồng và những thiên tài xuất hiện khắp nơi trên
thế giới.
Nguyên nhân sâu xa của những tài
năng vượt bực:
Câu hỏi được nhiều người đặt ra từ
cổ đại đến nay là do đâu mà có người tài ba lỗi lạc xuất chúng đôi khi đến dị
thường như thế? Phải chăng nếu luân hồi là có thật thì tài năng ấy đã có từ
tiền kiếp vì tài năng thường do sự học tập và rèn luyện cùng với sự hỗ trợ của
trí thông minh. Nhưng những đứa bé mới 2, 3, 5 tuổi thì làm gì có được sự học
tập rèn luyện cũng như trí óc chúng còn quá non nớt? Đối với các nhà khoa học
thì lời giải thích dựa vào thuyết di truyền nhưng nếu bảo là di truyền thì cần
phải có sự liên hệ của cha mẹ, ông bà. Nhưng đôi khi cha mẹ các thần đồng lại
bình thường, chẳng có gì xuất sắc về mọi lĩnh vực và nếu xét về phổ hệ cũng
không thấy ai trong giòng họ trước đây có tài năng cả. Xét về mặt trí thức, các
nhà khoa học và tâm lý học cho rằng ngoại trừ những người bị bệnh tâm thần ra
còn những ai đi học đều đặn từ các cấp theo chương trình nào đó thì dần dần họ
đều thu thập được kiến thức. Chỉ có sự khác biệt về sự thu nhân nhanh chậm khác
nhau mà thôi. Nhưng tại sao có những người còn đưa sự hiểu biết của mình đi xa
hơn, nghĩa là chư học tới đã biết. Trên thế giới có nhiều học sinh phải bỏ
nhiều lớp trung gian để lên học lớp trên vì các lớp dưới tuy chưa học nhưng đã
biết cả rồi... Tất cả những điều đó khẳng định rằng có một cái gì đó tàng ẩn
trong kho kiến thức của những con người ấy. Một thần đồng tài ba được hiểu như
là một học sinh đã học hè trước chương trình của năm tới thông suốt nên khi
nhập học sẽ hiểu hết những gì thầy cô giáo dạy trong năm. Các nhà nghiên cứu về
tiền kiếp và hậu kếp cho rằng những gì mà trong kiếp hiện tại một thần đồng đã
làm thì thật sự những hiểu biết vượt bực ấy đã có từ tiền kiếp, có nghĩa là ở
kiếp trước thần đồng ấy là một người có kiến thức rộng, có thể kiến thức này
cũng còn nhờ ở kiến thức từ kiếp trước đó nữa. (Vì luân hồi và một sự tiến
hóa). Nên khi đến kiếp hiện tại, sẽ nổi bật những gì mà trước đó đã có vốn
liếng sẵn rồi. do đó người xưa quả thật hợp lý khi nói: "Đầu tư bất cứ
lãnh vực kiến thức nào cũng đều có lợi về sau."
Nếu bảo rằng những người có tài
năng là do họ đã chăm chỉ học hành, nghiên cứu, tìm hiểu thì điều ấy chỉ đúng
một phần nào thôi, vì như đã nói từ trước, cùng một chương trình cho nhiều
người cùng học sẽ có sự tiếp thu sự hiểu biết khác biệt nhau ở mỗi người. Đó
chỉ là trường hợp xét về một chương trình đã định sẵn. Ở đây những nhân tài này
đã phát minh, phát kiến, phát triển ra nhiều vấn đề khác mà trong thời đại họ
khó có ai nghĩ đến. Những kiến thức vượt thời gian ấy do đâu mà có? Phải chăng
là do tích lũy từ tiền kiếp trong tiến trình luân hồi chuyển kiếp của những
kiếp người. Luân hồi là cả một sư tiến hóa dài. Các kiến thức thu thập và phát
triển từ một linh hồn nào đó qua nhiều kiếp thì sau một chặng đường dài của quá
trình chuyển kiếp họ sẽ thành những người có kiến thức, tài năng xuất chúng.
Biết đâu nhà bác học Einstein là hậu thân của những nhà khoa học ở tiền kiếp và
hậu kiếp, Einstein có thể lại tái sinh qua thân xác của một nhà khoa học khác,
và với những kiến thức tích lũy được qua nhiều kiếp, nhà khoa học mới xuất hiện
này sẽ còn có những khám phá, phát minh kỳ diệu hơn. Có thể rằng thuyết tương
đối của Einstein trong thế kỷ thứ 20 lúc ông đưa ra còn những thiếu sót nào đó
thì ở hậu kiếp, nếu lại tái sinh, chắc chắn nhà bác học này sẽ tiếp tục bổ túc
và hoàn chỉnh lý thuyết tương đối ấy. Sự tái sinh này cũng còn tùy thuộc vào
điều kiện và hoàn cảnh trên quả đất, chẳng hạn thế kỷ 21, lúc mà đời sống nhân
loại đang cần một khám phá mới hơn nữa về vũ trụ, lúc mà nạn nhân mãn gia tăng
khủng khiếp và việc con người di cư đến hành tinh khác được tiến hành... Nếu
Châu Atlantide, một vùng đất văn minh thời cổ đại theo truyền thuyết đã chìm
sâu dưới đáy Đại Tây Dương là có thật thì phải chăng những con người tài ba lỗi
lạc thời đó một số đã tái sinh vào các thế kỷ dau này trở thành những triết gia
những danh sư những nhà khoa học, những họa sĩ, nhạc sĩ đại tài như: Platon,
Aritote, Hippocrate, Hoa Đà, Biển thước, Leonard de Vinci, Atchimède, Mozart,
Beethoven, Einstein v.v...
Trong số những người tài giỏi ở
Châu Atlantide ở thời quá vãng vẫn còn có người chưa tái sinh vào thế kỷ này và
có thể một số lớn sẽ đồng tái sinh vào những thế kỷ tới để hỗ trợ cho loài
người về nhiều mặt nhất là về vấn đề tâm linh và khoa học vì những thế kỷ tới
chắc chắn sẽ có những thay đổi lớn, những vấn đề mới phát sinh về môi trường
sống trên quả đất, về nên đạo Đức và cả về ý thức của nhân loại nữa.
Nói tóm lại, theo thuyết luân hồi,
trong vũ trụ không có gì mất đi, sự mất đi chỉ là cái hình thức mà con người
thấy bằng đôi mắt phàm trần của sự tạn rã. Một cái cây mục nát, tan rã nhưng
những đơn chất cấu tạo nên nó như Carbon, Hydrogene, Oxygene, Nitơ, sulfune,
Phoosphor, Magnesium, Calci, Kali, Sắt v..v... lại đi vào không khí, trong đất...
và đó sẽ là những yếu tố để cấu tạo nên cây khác.
Tài năng, trí thức, khả năng cũng
vậy. Không có gì mất đi. Nhiều người đã tiếc rẻ những nhân tài vội sớm lìa cõi
thế, cái thân xác của thiên tài này tan rã nhưng tài năng vẫn còn đó sẽ lại
chuyển hóa ở cấp độ cao hơn khi tái sinh và ở lần tái sinh kế tiếp họ lại được
rèn luyện tích lũy hơn thêm.
Theo các nhà khoa học, nhất là
những nhà nghiên cứu về bộ não con người (ở Hoa Kỳ và ở Nga Xô đều có những cơ
sở nghiên cứu về óc não ở Nga, viện nghiên cứu óc não ở Moskva có lưu giữ các
bộ óc của Pavlov, Lenin, M. Gorki, Stalin...) thì cuộc đời của một con người từ
khi sinh ra cho đến lúc chết đi, dù có sống được 100 tuổi thì quả thật, người
ấy chưa sử dụng hến năng lực tư duy cũng như năng lượng của bộ não. Phần lớn
một đời người chỉ sử dụng có 1 phần 10 năng lực của bộ não. Vậy 9 phần còn lại
ấy sẽ đi đâu? Phải chăng phần còn lại ấy sẽ được lưu trữ để dành cho kiếp lai
sinh? Câu hỏi có phần mơ hồ trừu tượng, nhưng đối với các nhà nghiên cứu óc não
thì khi những ngõ ngách bí mật thâm sâu trong bộ não con người được khám phá
hoàn toàn thì những gì gọi là quá khứ và tương lai của đời người cũng sẽ được
biết rõ hơn vì những vùng ký ức của quá khứ xa xăm trong bộ não đang được các
nhà nghiên cứu dò dẫm khám phá.
Tuy nhiên, hiện tượng luân hồi cho
thấy có nhiều trường hợp rất đặc biệt về tài năng vốn có của mỗi người nhưng họ
không hẳn yêu thích hay đi theo những gì mà bản thân họ đã được chuyên môn hóa
hay đã có khả năng ấy. Câu giải đáp cũng quy vào vấn đề tài năng từ tiền kiếp
và mỗi người trong chúng ta ít nhất trong đời đã cảm nhận được điều này thường
xảy ra trong xã hội và đôi khi ngay cả bản thân ta nữa.
Nhiều người học hành giỏi có bằng
cấp, thay vì đi dạy, làm việc ở cơ sở nào đó thì người này lại chỉ thích buôn
bán thương mại mà thôi, và ở lãnh vực này lại rất giỏi. Có người là một bác sĩ
giỏi nhưng lại chỉ thích làm chính trị, có nhiều vị bác sĩ từ khi ra trường cho
đến khi chết đã chưa một lần hành nghề bác sĩ hay chữa bệnh cho ai, sự say mê
thích thú của một người nào đó về ngành nghề hay một lãnh vực nào đó đều có
nguyên nhân từ kiếp trước. Vì như trên đã nói, có nhiều người đi học ngành khoa
học nhưng chỉ say mê âm nhạc và cuối cùng thành lập một ban nhạc và chỉ hòa
mình vào cái đam mê đó mà thôi, có người rất thích sưu tập đồ cổ, có người rất
thích về máy móc, có người rất thích về biển cả hay nghề biển. Tất cả những sự
ham mê thích thú ấy đều có nguyên nhân, theo ông Cayce thì tiền kiếp những
người ấy đã có những khả năng thuộc về các lĩnh vực đó và qua thời gian dài của
kiếp người, những khả năng ấy đôi khi đi sâu dần vào trong tiềm thức vì thế ở
kiếp khác nếu có điều kiện, hình ảnh hay sự việc nào nhắc nhở đến những gì liên
hệ với khả năng thì tự nhiên các khả năng ấy bộc lộ ra dưới hình thức của sự thích
thú ham mê những lãnh vực mà đương sự có khả năng, dù cho lúc bấy giờ đương sự
đã tốt nghiệp một ngành nghề nào khác.
Do đó, lúc nào bản thân chúng ta,
con cái chúng ta bộc lộ sự ham thích say mê môn học nào, nghề nghiệp nào hay
lãnh vực nào thì đó là điều phải quan tâm và nếu được, nên để cho phát triển tự
nhiên vì đó là điều thuận lợi nhất.
Trong dân gian, từ lâu người dân
Việt Nam mỗi khi làm lễ "thôi nôi" cho con trẻ thường không quên bày
trên bàn cúng lễ những vật dụng tượng trưng như sách vở, bút giấy, kéo, kìm,
kim chỉ, tiền bạc, son phấn..v.v... để đứa bé chọn và tùy theo vật được chọn,
có thể suy đoán tương lai của đứa bé thích nganh nghề gì. Đây cũng là một hình
thức tin vào những tài năng đã có từ tiền kiếp và khi đứa bé chọn vật tượng
trưng cho ngành nghề gì đó như sách vở bút giấy chỉ về học hành, đỗ đạt, nhà
văn, thầy giáo... thì cha mẹ có thể biết được khả năng của con để hướng nghiệp
cho con.
Ngày nay, trong khi khoa học là
ngành sinh vật học và di truyền học tiến bộ vượt bực, những khám phá mới về bộ
não và cấu trúc của nhiễm sắc thể trong tế bào đã phần nào giúp các nhà khoa
học và các nhà tâm sinh lý biết thêm về những gì liên quan đến tri thức nhưng
quả thật vấn đề thiên tài, hay tài năng xuất chúng ở một người nào đó vẫn còn
nhiều bí ẩn về nguồn gốc phát sinh. Nếu thật sự khả năng của con người được nối
tiếp qua nhiều kiếp vì luân hồi là cả một sự tiến hóa dài của những kiếp người
thì chúng ta nên tận dụng những tài năng nào mà chúng ta đã sẵn có. Nghĩa là
những gì ta đã có khả năng và ham thích, vì như thế nếu ta bắt tay vào việc sẽ
càng mau tiến bộ phát triển thêm hơn là chạy theo những gì mà ta không có hay
chưa có khả năng, dĩ nhiên trong đời người, trong cuộc sống thường có những
trái ngược. Những gì ta có khả năng thì lại không đúng lúc đúng thời. Cách hay
nhất là theo môi trường sống mà học thêm cái mới nhưng nhớ rằng những gì mà ta
đã có năng khiếu thì cũng nên trau dồi phát triển vì sẽ có lúc dùng đến nó. Vì
không có gì dễ đem lại thành công bằng làm việc với sự đam mê ham thích và hợp
với khả năng mình...
Cũng theo các nhà nghiên cứu về
luân hồi thì các biểu hiên được xem như là dấu tích của tiền kiếp càng ngày
càng được phát triển qua nhiều hình thức. Ngoài những biểu hiện đã trình bày
như trên, còn có những biểu hiện có thể thấy rõ ở mỗi người qua sự chợt nhớ về
hình ảnh môi trường, sự yêu thích hay chán ghét nơi chốn nào đó.
Dấu Tích Luân Hồi Biểu Hiện Qua Sự
Yêu Thích Chán Ghét Hay Nhớ Lại Một Nơi Chốn Nào Đó
Những trường hợp điển hình.
Có một điều mà ai cũng nhận ra ngay
bản thân mình chúng ta nhiều khi cảm thấy yêu mến nơi mình đã sống hay một nơi
nào đó có một quốc gia mà ta chưa hề đến. Dĩ nhiên đối với quê hương xứ sở
nhiều người sẽ bảo rằng vì nơi ấy nhiều kỷ niệm đã in sâu vào trong trí óc ta
từ lúc trẻ thơ đến khi khôn lớn làm ta khó quên. Tuy nhiên có nhiều người dù ở
một nơi từ nhỏ đến già họ vẫn cảm thấy thích một xứ khác một nước khác. Có
người chỉ học địa lý các nước, tự nhiên họ cảm tình sâu đậm với nước nào đó dù
rằng nước ấy không giàu, không văn minh. Ngay trong một quốc gia, có người tự
nhiên cảm thấy yêu mến, cảm tình với một tỉnh lẻ nào đó qua tên gọi hoặc qua
phong tục tập quán hay khí hậu. Dù rằng những địa danh, phong tục, tập quán khí
hậu hay con người ở đó chẳng có gì đặc sắc cũng như họ chẳng có kỷ niệm nào. Ai
trong chúng ta cũng chẳng đã một lầy ý nghĩ ấy. Người ta tự hỏi do nguyên nhân
nào mà một vùng xứ sở kia lại có liên hệ với người này dù không đem lại lợi
nhuận hay kỷ niệm gì? Có những người đã vượt đại dương rời bỏ quê hương xứ sở
có khi rất trù phú để tới một vùng đấy xa lạ khốn khổ khô cằn và sống cho đến
già.
Trường hợp Jocélyn Crane: là một cô
bé ra đời vào năm 1959 tại tỉnh Saint
Louis. Lúc còn bé mỗi lần nhìn vào bảng đồ thế giới là
cô nói với mẹ: "Con thích chỗ này, con muốn tới đây", chỗ cô bé là
vùng đất Á Châu. Điều kỳ lạ là từ nhỏ cô bé đã ham thích các loài sinh vật,
điều mà cả gia đình chẳng có ai thích ấy. Khi lớn lên Jocélyn tốt nghiệp ngành
sinh vật học (1930) và sau đó đến sống ở Á Châu để nghiên cứu về sinh vật học.
Trường hợp bà Lise Meitner: là nhà
nữ vật lý học nổi tiếng ở thành phố Vienna
nhưng lại yêu mến nước Thụy Điển và bà đã nhập quốc tịch tại đây và chọn Thụy
Điển làm quê hương thứ hai của bà. Nhiều người Âu Mỹ tự nhiên ham thích và cảm
thấy yêu mến vùng đất Phi Châu hoang dã, nghèo nàn và quyết tâm đến sống chung
cùng các thổ dân xa lạ nhưng họ cảm thấy thích thú, hạnh phúc vô cùng. Hoặc
trường hợp của nhà lafcadio Heam người Hy Lạp nhưng lại chỉ thích qua Nhật sống
và biết rất rành về văn hóa Nhật.
Trường hợp bà Alexandra David Neel:
là một nữ phóng viên nổi tiếng. Từ nhỏ bà đã say mê đất nước Tây Tạng, không
phải vì đất nước này giúp bà viết những bài báo hấp dẫn lạ kỳ, huyền bí mà theo
bà, khi còn ở nhà trường, học lịch sử, nghe thầy giáo giảng về xứ sở của Đỉnh
Trời này thì tâm hồn của bà dậy lên lòng cảm mến dạt dào và bà ước có ngày sẽ
đặt chân đến đó. Mặc dầu vào những năm 1900, Tây Tạng được xem như là một xứ sở
khắc nhiệt về nhiệt độ, cuộc sống và luật lệ. Tại đây luật lệ đặt ra chặt chẽ,
không nhận sự hiện diện của một người ngoại quốc trên Tây Tạng nhất là những kẻ
"mặt xanh mũi lõ". Vậy mà vào năm 1914 bà Alexandra David Neel vẫn
quyết tâm tìm đường đến Tây Tạng, bà phải giả làm một người hành khất mới lọt
được vào sâu trong lãnh đạo đất nước này. Nhưng khi gần đến thủ đô, bà tìm đến
một ngôi chùa và vào đó xin cơm và may mắn gặp một nhà sư, bà ngỏ ý xin quy y.
Thế là bà trở thành sư nữ và cũng từ đó bà trở thành người Tây Tạng và dân
chúng quanh vùng đều biết đến bà. Trong cuốn nhật ký của mình bà có ghi chú những
câu đáng lưu tâm như sau:
"Tôi luôn luôn có cảm tưởng
rằng Tây Tạng là quê hương thân thuộc của mình. Tây Tạng như có mãnh lực lạ kỳ
lôi cuốn tôi theo. Điều kỳ dị là có nhiều vùng xa lạ nhưng tôi lại có cảm tưởng
như mình đã đi qua nhiều lần trong đời, điều đó làm tôi suy nghĩ rằng phải
chăng ở tiền kiếp tôi đã làm người dân Tây Tạng?
Có lần ông Cayce đã tìm hiểu tiền
kiếp của một Nha sĩ khi thấy ông này ham thích vùng đồng quê hoang vắng, giấc
ngủ thôi miên đã giúp ông Cayce biết được tiền thân của ông này là một người
Đan Mạch di cư đến vùng Bắc Mỹ trong thời kỳ có chiến tranh thuộc địa. Hình ảnh
những vùng hoang dã, tĩnh mịch đã đi sâu vào ký ức ông đến độ ở kiếp hiện tại
vẫn còn ảnh hưởng khiến ông ham thích môi trường sống cũ một cách say mê.
Một trường hợp lạ lùng khác mà
nhiều người trong chúng ta ai cũng đã một lần trải qua. Đó là đôi khi đến một
vùng nào đó tự nhiên trong tâm trí ta xuất hiện câu hỏi rằng chỗ này hình như
có lần ta đã đến đó rồi, cũng hàng câu ấy, dãy nhà ấy, khúc đường ấy ánh nắng và
tiếng động ấy... không phải ngay trong một tỉnh khác và ở nước khác nữa hình
ảnh, nơi chốn, không gian, thời gian khiến ta như chợt nhớ rằng nơi đây mình đã
sống qua hay đã đi qua.
Phải chăng đó là dấu tích của tiền
kiếp? Câu hỏi tại sao mọi người trong chúng ta ai cũng đã một vài lần cảm nhận
điều đó thì câu trả lời có thể rằng mọi người ai cũng đều phải trải qua nhiều
kiếp và trong tiền kiếp có lần ta đã sống ở đó, ghé lại đó và hình ảnh ấy vẫn
còn tồn tại trong tiềm thức tuy không rõ ràng ở kiếp hiện tại. Chính hình ảnh
môi trường chợt hiện lên trong trí óc ta đó là dấu tích của luân hồi.
Trường hợp bé David: Đại Đức Dhamananda đã thuật lại câu
chuyện lạ lùng về một cậu bé tên là David sống ở Luân Đôn (Anh Quốc) như sau:
Lúc cậu bé David vừa tròn 5 tuổi,
cậu đã làm cho gia đình ngạc nhiên nhiều lần vì lời phát biểu của cậu, cậu bé
thường nói một cách tự nhiên:
"Hồi trước con làm việc nhiều
lắm, lúc đó, con là một người chuyên đi xem xét kiểm tra đôn đốc các hàng hóa,
con còn được đi thăm nhiều nơi và hồi đó con còn gặp nhiều điều lạ lùng".
Một hôm, David được mẹ dẫn đi theo
trong một chuyến du lịch sang La Mã. Tại đây, hai mẹ con đi theo một nhà khảo
cổ để đến một ngôi làng vừa mới được các người phu khai quật lên. Khi đến một
gian phòng nọ, David bỗng thấy cái bồn tắm xưa cũ vội chạy đến lần mò tìm kiếm
các chữ khắc trên thành bồn, rồi cậu la lên: A! Đây chính là cái bồn tắm của
con! Người mẹ nghe nói chẳng hiểu cậu nói cái gì chỉ kêu: "Ái chà! Con nói
gì tầm phào thế, thôi dậy đi thôi...
Nhưng David vẫn không đứng dậy, cậu
mân mê miếng ngói vỡ vừa nhặt lên trong tay vừa nói với mẹ: "Mẹ ơi! Hồi đó
con thường lấy các mảnh ngói như thế này để chơi, mỗi mảnh chúng con đập cho có
dạng thể một con vật... A! Đây là mảnh giống con cá, ngày xưa Macus rất thích
mẫu cá...
Có lần, David được dẫn đi viếng một
động đá huyền bí trên đảo Channel thuộc Guernsey,
(một vùng đảo nằm ở vị trí gần bờ biển nước Pháp). Sau khi đi một vòng trước
động đá, David bỗng như nhớ ra điều gì, chạy lại nắm tay mẹ nói:
"Trong động này có một người
tù bị lính Pháp dẫn vào đây để giết, bọn lính Pháp đóng đinh người tù vào thành
động rồi xây gạch bít kín lại". Người mẹ vừa sợ vừa không tin nên bảo
David đừng nói bậy, nhưng cậu bé vẫn nhất mực quả quyết đó là chuyện có thật...
Cậu phân bua với mẹ:
"Hồi đó, con là một lao công
chiến trường, chính con đi theo đoàn lính này khuân đồ đạc..."
Về sau, chính quyền của xứ Guernsey đã cho người tới quan sát động đá và khám phá ra
điều cậu bé David đã nói với mẹ. Cuối động đá, sau một bức vách được xây thêm
là bộ xương của một người đàn ông bị đóng đinh dính vào vách động đá.
Tuy nhiên, mẹ của cậu bé David lúc
nào cũng nhìn con trai mình qua hình ảnh một cậu bé con mà thôi. Có lần, David
theo mẹ đi thăm viện bảo tàng nước Anh. Khi đến khu vực trưng bày các đồ vật
xưa cổ thuộc xứ Ai Cập huyền bí, cậu bé vội vã chạy ngay đến bên những chiếc
hòm gỗ, chỉ cho mẹ xem rồi nói:
"Mẹ biết không! Hồi con còn
làm chức vụ thanh tra, con thường kiểm soát nhiều hàng hóa đồ vật. Chính các
hòm này phải qua sự kiểm nhận của con. Nếu mẹ không tin, thì hãy lật xem ở dưới
đây các hòm này đều có dấu kiểm nhận của con cả. David muốn mẹ tin mình hơn nên
đã dùng cái que nhỏ viết lên nền viện bảo tàng những mẫu chữ tượng hình Ai Cập.
Những mẫu chữ mà từ ngày được sinh ra đến bây giờ, cậu bé chưa bao giờ biết tới
cũng chưa bao giờ được thấy.
Trong một tài liệu tương tự đã kể lại trường hợp một người Anh tên là Lawrence, người này mặc
dầu là dân Anh chính gốc nhưng từ nhỏ chỉ thích giao du với người Ả Rập mà
thôi. Khi khôn lớn, ông quyết định rời bỏ quê hương mình để đến đất nước xa xôi
cằn cỗi của vùng bán đảo A Rập để có dịp sống chung với người dân xứ này. Từ đó
ông ăn mặc và hành xử hoàn toàn giống như người Ả Rập.
Báo chí Hoa Kỳ trong năm 1992 cũng
đã đăng tải một câu chuyện liên quan đến vấn đề nêu trên, đó là trường hợp
Derek Klinger: Câu chuyện có thật do chíng Derek Klinger, giáo viên người Anh
dạy học tại trường trung học ở Waterford
kể lại. Lúc còn bé ông đã có cảm tình với nước Đức nhưng ông cũng không hiểu
tại sao. Càng lớn lên, ý nghĩ ấy vẫn không giảm trong trí óc ông. Thế rồi nhân
một lần nghỉ hè, ông quyết định đi du lịch nước Đức (lúc đó ông 32 tuổi). Tại
Đức ông đã đi nhiều nơi và điều kỳ lạ là có nơi khi đến ông có cảm tưởng như đã
đến đó một vài lần. Cảnh trí nơi ấy đối với ông có vẻ rất quen thuộc. Tuy nhiên
vấn đề không làm ông quan tâm. Hôm gần quay về nước Anh, ông tìm tới một tiệm
đồ cổ mong mua được một vài thứ lạ làm kỷ niệm vì ông rất thích đồ xưa. Tiệm đồ
cổ này nổi tiếng ở Munich
vì có đủ thứ. Tại đây ông đã trầm ngâm trước một tấm ảnh chụp rất xưa, nước
thuốc đã ngả sang màu nâu vàng. Tấm ảnh chụp 14 người lính Hải Quân Đức. Nhưng
đối với ông lại vô cùng kỳ lạ vì làm ông nhớ lại quá khứ xa xôi vào khoảng thời
gian mà ông là một trong 14 người lính đó. Dần dần ông nhớ lại tên từng người
một trong ảnh. Ông đứng ngẩn ngơ chăm chăm nhìn bức ảnh và ông nhớ lại năm đó
là 1942 ông cùng 13 đồng đội, cùng ở trong một chiếc tàu ngầm và đang có cuộc
hải chiến trong vùng. Một chiến hạm Anh đã phóng ngư lôi vào trong vùng. Một
chiến hạm Anh đã phóng ngư lôi vào ngay bụng chiếc tàu ngầm làm cho nổ tung lên
khiến ông và 13 đồng đội tử thương... Ông Derek vội vã mua ngay tấm ảnh và tức
tốc hỏi nhân viên cảnh sát Đức địa điểm của vân khố chiến tranh rồi tìm đến để
hỏi về trường hợp chiếc tàu ngầm. Được biết cơ sở này là nơi lưu trữ,sưu tập,
phân tích các sư kiện đã xãy ra trong cuộc chiến tranh giữa cuộc chiến tranh
giữa Đức và Đồng Minh. Cơ này có vô tài liệu và tự hào là có thể trả lời trong
một thời gian ngắn về những gì có liên quan tới cuộc chiến tranh, kể cả các
cuộc hành quân của Đức. Khi Derek Klinger yêu cầu muốn biết số phận của các
chiếc tiềm thủy đỉnh mà ông đã nhớ số hiệu và cuộc hải hành cùng năm tháng thì
được chuyên viên văn khố chiến tranh cho biết như sau: "Chiếc tàu ngầm này
có 14 người. Đó là tàu ngầm chữ U của Đức, tàu ngầm này bị Hải Quân Anh đánh
chìm ở Bắc Hải và trước khi tàu chìm, trung tâm hành quân thuộc bộ Hải Quân có
nhân được điện kêu cứu..." Ngày nay, Derek Klinger vẫn còn lưu giữ tấm ảnh
lạ lùng này nhưng ông rất sợ nhìn nó vì theo ông, mỗi lần nhìn vào tấm ảnh ông
lại có cảm tưởng xao xuyến lạ thường và bên tai như có tiếng nổ vang rền và
tiếng la hét của 13 người đồng đội. Ông nói với các phóng viên nhà báo như sau:
"Tôi thấy rõ hình ảnh tôi lúc
đó trong ảnh. Đó là hình ảnh của tôi ở tiền kiếp. Khi đó tôi là 1 quân nhân
Đức. Giờ đây tôi là một giáo viên người Anh. Tôi chắc chắn lúc trước tôi là
người Đức, điều dễ hiểu là từ nhỏ tôi đã có cảm tình với nước Đức và trong lần
du lịch sang Đức, nhiều nơi tự nhiên có vẻ rất quen thuộc đối với tôi. Lúc đó
tôi có phần ngạc nhiên nhưng giờ tôi đã biết rõ vì sao..."
Trường hợp của danh tướng George S.
Paton.
George S. Paton là một danh tướng,
một nhà chiến lược kỳ tài mà cả thế giới đều biết. Tánh tình nghiêm khắc và
luôn luôn chỉ biết có "kỷ luật sắt, kỷ luật là sức mạnh của quân
đội". Con người hùng ấy lại có một bộ óc lạ lùng là luôn luôn tin vào
thuyết luân hồi. Ông thường bảo: "cuộc đời và cuộc sống là cái vòng tuần
hoàn chuyển tiếp nhau. Đời tôi cũng nằm trong một cái vòng tuần hoàn chuyển
tiếp đó".
Một sĩ quan cao cấp đã kể lại câu
chuyện có thật về tướng Patton: "Hôm đó tướng Patton đến thăm một vùng đất
lịch sử tại Ý. Đó là vùng đất nằm cạnh sông Métaure, nơi mà xưa kia, trong trận
chiến hãi hùng giữa Carthage và Rome với những đoàn quân dũng mạnh của 2 phe đã
để lại trên chiến trường hàng ngàn tử thi đẫm máu, mặc dầu hai bên đều đã được
những chiến lược gia, những danh tướng điều khiển.
Hình ảnh hùng tráng rùng rợn ấy đã
đi vào quá khứ và cách thời đại của tướng Patton đến 1800 năm nhưng khi tướng
Patton cùng các tướng lãnh và số sĩ quan chuyển về sử học tháp tùng đến thăm
vùng đất này và thử ôn lại những chiến thuật và chiến lược của trận đánh ấy thì
điều kỳ dị mới xảy ra. Nhân lúc một Đại Tá trình bày những nơi đóng quân của
hai phe Carthage và Rome cho tướng Patton nghe thì ông này nhiều
lần tỏ ý không hài lòng. Sau cùng tướng Patton cắt ngang lời viên Đại Tá và nói
như sau: "Tôi xin lỗi Đại Tá, mặc dầu Đại Tá là chuyên gia nghiên cứu về
các trận chiến trong cuộc chiến tranh La Mã nhưng tôi khẳng định rằng đoàn kỵ
binh của tướng Hasdrubul lúc bấy giờ (trong trận này) không phải đóng tại địa
điểm mà Đại Tá đã trình bày mà là ở vị trí đầu kia kìa. Tôi quả quyết điều đó
vì... một điều rất dễ hiểu là thời đó, chính tôi đã có mặt ở đó..."
Và để tăng cường cho sự tin tưởng
của mọi người có mặt quanh mình, tướng Patton nghiêm nét mặt, đưa cao chiếu can
cầm ở tay lên chỉ về một điểm ở trước mặt và lập lại câu nói thậm chậm rãi, rõ
ràng.
"Đó! Địa điểm mà đoàn kỵ binh
của Hasdrubul là ở đó và tôi nhắc lại là lúc ấy tôi đã ở đó!".
Trong những lần dừng chân nơi chiến
trận hay những lúc nghỉ ngơi, tướng Patton thường nói đến những địa danh và
những mặt trận cổ xưa mà ông đã có mặt tuy rằng những nơi đó đã đi vào quá khứ
xa xăm hay chỉ còn lại trong các bộ sử nơi thư viện.
Trong nhật ký của mình, tướng
Patton thường gi lại các cảm nghĩ lạ lùng của mình về những gì mà ông gọi là
kiếp trước, có đoạn viết:
"Tôi tin là có tiền kiếp và
hậu kiếp, tôi tin, thật sự là tôi biết rằng tôi đã có ít nhất là một quãng đời
trước đây trong binh nghiệp và hiện nay tôi lại "Đầu thai" lần nữa
vào đời binh nghiệp..."
Về sau, trong một hội nghĩ Quốc Tế với chủ đề là "Ứng dụng về khoa tâm lý
học" tổ chức lần thứ 14 vào năm 1961, một nhân vật có tên tuổi là Aldous
Huxley đã trình bày những trường hợp của tướng Patton cùng câu chuyện lạ lùng
xảy ra trong lần đi thăm chiến trường La Mã cổ xưa ấy. Trường hợp này đã được
báo Paris Match đăng tải và bình luận ngày 23 tháng 3 năm 1989). Trong lần diễn
đàn này, Aldous Huxley đã phát biểu như sau: không riêng gì tướng Patton, mà
ngay cả chúng ta đây, đôi lúc ở một thời điểm nào đó trong đời ta bỗng có cái
cảm giác, cái suy nghĩ, cái nhìn kỳ lạ mà ý thức của chính ta như bỗng nhiên hé
mở có khi ta bắt gặp một hình ảnh, một sinh hoạt, một tiếng nói, một cảnh
tượng, một con người mà hình như có lần ta đã thấy, đã nghe, đã ở, đã đi qua,
mặc dầu trong cuộc đời chưa hề gặp bao giờ. Đó là quá khứ, quá khứ ấy không
phải trong một cuộc đời hay nói khác đi là trong "một kiếp" mà trước
đó nữa. Cảm nhận ấy đôi khi vượt ra khỏi cái cảm nhận của giác quan thông
thường ở mỗi con người... để đi về quá khứ xa xăm hay có thể gọi là tiền
kiếp..."
Những dấu tích luân hồi thật ra
bàng bạc, tản mạn trong mỗi đời người. Nó như dấu ấn chứng nhận cho một người
phải đi qua nhiều trạm gác, nhiều biên giới của các quốc gia, chúng ta cũng còn
thấy được dấu tích ấy ở mối liên hệ cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bè
bạn.v.v. và có thể nói đó là dấu tích luân hồi rõ ràng và thâm diệu nhất.
Dấu Tích Luân Hồi Biểu Hiện Qua
Những Người Liên Hệ, Thân Thuộc
Những người liên hệ thân thuộc là
những người liên quan về gia đình như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bạn
bè. v.v... Nhìn chung, những người đó chỉ có sự ràng buộc về huyết thống, tình
nghĩa. Mỗi người thường có cuộc sống và thể cách riêng. Tuy nhiên từ lâu trong
dân gian và ngay cả những nhà nghiên cứu về nhân chủng học, tâm lý học, đều có
một nhận xét về sự tương quan nào đó thuộc về dáng dấp, diện mạo của những
người ấy với nhau. Nếu xét về mặt di truyền học thì dĩ nhiên con cái có những
nét giống cha mẹ. Ở đây chỉ xét về trường hợp vợ chồng.
Trường Hợp Vợ Chồng.
Trên thế giới nhiều người đã có sự
nhân xét giống nhau về một vấn đề: đó là sự tương quan về nhân dáng diện mạo
giữa vợ và chồng. Phần lớn một cặp vợ chồng thường có những nét giống nhau về
gương mặt và đôi khi cả tính tình. Có nhiều vợ chồng thoạt mới nhìn qua ai cũng
tưởng đó là hai anh em. Nếu xét riêng về mặt tính tình thì có thể bảo rằng vì
sống gần nhau họ sẽ chịu ảnh hưởng về cá tính của nhau. Nhưng trên thế giới,
thật sự những người có tánh tình tương tự nhau mới hợp được nhau, mới khiến họ
tìm đến nhau và dễ tiến tới hôn nhân (đồng thanh tương ứng, đồng chí tương cầu
là vậy). Nếu xét về diện mạo thì khó mà giải thích theo lập luận nào. Vì quả
thật vợ chồng không chung huyết thống, mỗi người thuộc một dòng dõi riêng. Vậy
mà như đã trình bày ở trên, có lắm cặp vợ chồng có gương mặt tương tự nhau và
ai trong chúng ta cũng có lần thấy rõ điều đó. Nguyên nhân nào đã khiến những
người này liên hệ, kết hợp với nhau để thành vợ chồng? Theo các nhà tâm lý học
thì một trong những nguyên nhân đáng kể là sự "gặp lại hình ảnh của chính
mình". Những cặp vợ chồng ấy trước đây sống riêng lẻ, khi mới gặp nhau,
quen biết nhau, họ đối mặt nhau và mỗi người tự cảm nhận một hình ảnh thân
thuộc lạ lùng từ người kia mà họ chưa định rõ là gì. Cái hình ảnh thân thuộc ấy
chính là những nét giống họ về gương mặt mà thường ngày họ bắt gặp trong lúc
soi gương... Tuy nhiên, điều cần lưu ý là không phải cặp vợ chồng nào cũng đều
có gương mặt tương tự nhau mà trái lại có những cặp vợ chồng lại khác nhau một
trời một vực về diện mạo và cả tính tình. Những nhà nghiên cứu về các hiện
tượng siêu linh đã dựa vào một vài thuyết tôn giáo, trong đó có thuyết luân hồi
để giải thích và làm sáng tỏ phần nào vấn đề này.
Hôn nhân có nguồn gốc từ tiền kiếp.
Ở kiếp này khi hai người nam nữ cùng nhau đi đến hôn nhân vợ chồng, quyết định
sống bên nhau trọn đời thì thật ra điều đó không có nghĩa là điều mới được
quyết định, theo thuyết luân hồi, chính nhân duyên từ kiếp trước đã quyết định,
thế nào họ cũng gặp nhau vì nhân duyên (nhân duyên được hiểu giản đơn là Nhân
cái này mà sinh ra cái kia (quả) như nhân có hạt giống mà sinh ra quả.
Nhân duyên có 12 thứ: vô minh, hành,
thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, thủ, hữu, sinh, lão và tử, xem ý nghĩa 12
nhân duyên Duyên giữa trai gái để trở thành vợ chồng. Nguyễn Du có câu thơ: Có
nhân duyên, có vợ chồng).
Chính sợi dây duyên nghiệp sẽ nối
kết trói buộc hai người này lại với nhau. Khi hai người nam nữ gặp nhau, cảm
tình với nhau, mong ước được cùng nhau sống hạnh phúc dưới một mái nhà, họ vẫn
tưởng họ là hai người xa lạ không quen biết nhau mà chỉ gặp nhau qua sự giới
thiệu hoặc sự tình cờ nhưng thật sự họ ĐÃ QUEN BIẾT NHAU TỪ KIẾP TRƯỚC, hay nói
khác đi là họ đã có duyên nghiệp với nhau từ kiếp trước. Duyên nghiệp gồm có
nghiệp và duyên theo nhau để tạo nên quả báo. Có thể trước đây người này đã gây
đau khổ cho người kia (về khía cạnh nào đó) và trái lại. Hoặc trước đây hai người
vẫn còn mối liên hệ ràng buộc nào đó chưa dứt cần phải có thêm thời gian nữa
mới mong trả hết cho nhau. v.v... Vì thế mà họ phải gặp nhau lại ở kiếp kết
tiếp. Có thể trước đó họ là anh em trong một nhà, hay cùng một giòng giõi, thân
thuộc, do đó không lạ gì khi có những ca85p vợ chồng có gương mặt thưởng giống
nhau như hai anh em. Ngoài ra tùy theo duyên nghiệp mà cặp vợ chồng sống với
nhau thuận hòa hạnh phúc hay lại xung đột, cãi vã, bất hòa khổ đau, chán chường
để rồi đi đến ly hôn, ly dị, đôi khi còn coi nhau như kẻ thù, có những cặp vợ
chòng mới cưới nhau một thời gian ngắ đã vội lìa nhau. Thời gian chung sống với
nhau ấy tùy thuộc vào nghiệp quả (giống nghiệp báo chỉ sự báo ứng của những gì
mà trước đó người này đã tác động lên người kia nhiều hay ít, dữ hay lành...)
Nhiều người ở tiền kiếp đã có nhiều nghiệp duyên với người khác và nếu chưa trả
hết thì đến kiếp này họ phải trả. Vì thế có nhiều người đã phải trải qua nhiều
cuộc hôn nhân mà không được hưởng hạnh phúc của một vợ một chồng. Theo những nhà
nghiên cứu và thực hành phương pháp tìm về quá khứ hay tiền kiếp của con người
như nhà vật lý học Pháp P. Drouot, Morris Nettherton, Cayce, N. Kchan... thì
nhiều người trong những thời gian của những tiền kiếp khác nhau đã là vợ chồng
của nhau nên bị cái hấp lực mạnh của nhau tác động vào vì thế đến kiếp này họ
vẫn còn liên hệ ràng buộc với nhau theo kiểu tự nguyện. Dĩ nhiên phần lớn những
trường hợp này họ dễ hòa thuận với nhau hơn là xung khắc vì họ đã biết nhau
nhiều hơn qua nhiều kiếp và chắc chắn họ sẽ dễ đạt thành công trên đường đời.
Có nhiều trường hợp ở tiền kiếp người này vì có nghiệp duyên với người kia quá
nặng nên đến kiếp này họ tự nhiên bị ám ảnh bởi một sự hối thúc tìm gặp người
kia và đôi khi người kia chẳng hề biết.
Ông Lê Xuân Nghĩa là một giáo viên
đã kể một câu chuyện mà ông bảo rằng hoàn toàn có thật về người chị của mình là
Lê Thị Mỹ người Mỹ Tho, sinh năm 1938. Chị là người tuy không đẹp nhưng lại rất
có duyên. Nhiều chàng trai trong vùng ngấp nghé và nhiều nơi đến dạm hỏi nhưng
chị không quan tâm. Mỗi lần gia đình hối thúc việc chồng con thì chị lại cương
quyết từ chối bằng câu: "con đã có chồng và con phải tìm anh ấy." Gia
đình anh Nghĩa tưởng chị Mỹ nói đùa nhưng rồi một hôm cả nhà đang ngồi ăn cơm,
chị Mỹ tuyên bố: "chồng con hiện đang bị giam ở khám chí hòa, con phải đi
thăm anh ấy..." Cả nhà ngạc nhiên vô cùng khi nghe chị Mỹ nói, sự ngạc
nhiên càng gia tăng khi chị Mỹ kể lại chi tiết câu chuyện như sau: "nhiều
đêm nằm ngủ cô thường mơ thấy một người, người này cao và ốm, gương mặt choắt,
đôi lông mày rậm, cổ đeo sợi dây chuyền có gắn cái vòng và giữa vòng là một chữ
A hoa. Mặt người ấy luôn luôn buồn và mỗi lần người ấy hiện ra trong giấc mơ là
cô lại nghe văng vẳng bên tai lời nói thì thầm: "người này là chồng của cô
đó". Mấy tháng nay cô lại mơ thấy anh ấy. Lần này trông anh ta ốm yếu hơn,
tội nghiệp hơn, rồi cô lại nghe văng vẳng bên tai lời nói lạ lùng ấy:
"chồng cô đã bị đi tù và hiện vị giam ở khám Chí hòa, phải tìm cách đến
thăm anh ấy không thì quá muộn... anh ấy tên là Phan Thái An..." Liên tiếp
nhiều đêm cô đều mơ một giấc mơ như thế và cô tỏ ý muốn đi thăm người chồng
trong giấc mơ mộng với lòng quyết tâm lạ lùng của cô. Người nhà lúc đầu không
chịu nhưng anh Nghĩa là một giáo viên, anh là là người sống nội tâm và hay tìm
hiểu về các vấn đề siêu linh, nhà anh sách vở nhiều như thư viện nhỏ, chính anh
đã thuyết phục gia đình và chịu dẫn chị Mỹ lên Saigon đến khám chí hòa thăm
người "anh rể" trong mộng của chị mình. Tại Saigon, hai chị em trú
tại nhà một người bà con ở đường Trương Minh Giảng chờ đi thăm nuôi, chị Mỹ có
vẻ sốt ruột mong sớm gặp mặt "người chồng trong mộng". Ngày thăm
nuôi, hai chị em dậy sớm để cho đi cho kịp giờ. Chị Mỹ đã mua đủ thứ để bới
xách, vì thật sự chị cũng chưa biết "anh ấy" thích món ăn gì và cần
thứ gì. Khi gặp nhân viên lo việc thăm viếng thân nhân ở trại giam, chị Mỹ xin
được gặp anh Phan Thái An để thăm nuôi. May mắn người giữ trật tự là học trò cũ
của anh Lê Xuân Nghĩa nên chị được phép gặp người tù Phan Thái An dễ dàng. Mười
phút sau anh An xuất hiện sau vòng dây kẽm gai và rồi người học trò dẫn anh ta
ra gặp hai chị em tại phòng thăm nuôi. Thật là một cuộc thăm viếng lạ kỳ, không
ai biết ai, chỉ có một mình chị Mỹ là nhận ra anh An mà thôi. Anh An cũng ngơ
ngác không hiểu gì cả trong khi chị Mỹ nước mắt lưng tròng. Anh Nghĩa vội kể
lại câu chuyện mà chị Mỹ đã kể lại cho anh An nghe. Nghe xong câu chuyện, anh
An vẫn không hiểu ất giáp gì cả nhưng tỏ vẻ cảm động. Chị Mỹ đột nhiên nhìn vào
mắt anh An và hỏi: trước khi bị bắt, anh có đeo sợi dây chuyền ở cổ không? anh
An ngạc nhiên trả lời: "có sao cô biết?" chị Mỹ lại hỏi: Trên sợi dây
chuyền ấy mang cái vòng có chữ A hoa phải không? anh An đáp "phải!"
câu chuyện đã khiến cho Nghĩa và An vô cùng kinh ngạc. Anh Nghĩa nói:
- Dù câu chuyện thế nào thì sự thật
vẫn có anh An đó và chị Tôi đây, biết đâu đó là vấn đề có liên quan đến kiếp
trước của anh và chị tôi. Anh đừng ngại ngùng chi về cuộc viếng thăm này và nên
nhận chút quà mà chị em tôi đem từ Mỹ Tho lên... Anh An vô cùng cảm động, anh
nói:
- Tôi bị bắt oan, người ta nghi tôi
là Cộng Sản nằm vùng vì có liên hệ tới một người hoạt động cho Cộng Sản. Anh ấy
là bạn tôi nhưng tôi không biết anh là Cộng Sản, tôi thường đi chơi và chụp
hình chung với anh ấy nhưng tôi không ngờ mỗi chuyến đi, anh ta đều chuyển tài
liệu mật cho mật khu...
Câu chuyện không chấm dứt ở đó vì
hai tháng sau, chị Mỹ nghe tin người ta chuyển toán từ nhân Cộng Sản về giam ở
đảo Côn Sơn trong đó có anh An. Trên đường di chuyển không hiểu sao anh An lại
có thể nhảy được ra khỏi xe để trốn thoát, nhưng vì xe chạy quá nhanh nên anh
đã chết. Từ đó chị Mỹ như người mất hồn và mãi 6 năm sau, tức là vào năm 36
tuổi chị mới lấy chồng.
Trường hợp Cha Mẹ, Anh Chị Em, Con
Cái.
Đối với trường hợp cha mẹ anh em
cũng vậy, đã có những sự liên hệ nhân quả nào đó giữa cha, mẹ, anh em, con cái
với nhau ở tiền kiếp. Cha mẹ dĩ nhiên có liên quan với con cái không phải xét
về mặt di truyền và tình cảm ruột thịt mà xét về mặt luân hồi. Con cái và cha
mẹ có những sợi dây liên hệ ràng buộc nhau, có thể kiếp trước người cha, người
mẹ, những người có con có nghiệp căn nào đó và kiếp này gặp lại nhau để tiếp
tục hoàn tất những gì thoe nghiệp quả báo ứng. Chuyện cái cân thủy ngân là câu
chuyện giả tưởng trong dân gian một phần nào đã nói lên hình thức báo ứng của
cha mẹ và con cái. Ngoài ra cũng phải hiểu thêm rằng để có cơ hội gần gủi sâu
xa hơn, những đứa con đã mượn chỗ đầu thai ở cõi trần của kiếp này qua phương
tiện là cha mẹ. Sự liên hệ của người con không phải luôn cả với cha và mẹ mà có
thể người con chỉ có sự liên hệ nghiệp quả ràng buộc với người mẹ mà không phải
người cha hoặc có khi trái lại. Vì thế thường có trường hợp có sự bất hợp ý hay
dửng dưng, tẻ nhạt hoặc thương yêu, gắn bó mật thiết giữa mẹ con hay cha con
tùy theo duyên nghiệp phát sinh từ tiền kiếp. Trong dân gian thường cho rằng,
cha mẹ, con cái, vợ chồng thật ra đều là oan trái nghiệp quả của nhau cả. Những
kẻ cùng sống chung một nhà hay tranh cãi, xung khắc, bất hòa chán gét nhau cũng
đều có nguyên nhân từ tiền kiếp, có thể họ đã gây đau khổ cho nhau nên mới trả
quả đã gây ra.
Thuyết luân hồi nhân quả còn cho
rằng "có thể nhìn cuộc sống của con cái và cha mẹ với nhau trong một gia
đình, cách đối xử, nuôi nấng, chăm sóc, tình phủ tử, mẫu tử nồng nàn hay tẻ
lạnh của họ mà đoán được sự liên hệ ràng buộc của những con người ấy với nhau ở
tiền kiếp. Ở kiếp trước có thể họ là anh em, là chị em, là cha con, là mẹ con,
là bạn bè với nhau và đã tạo ra những nghiệp quả nào đó nên kiếp này vẫn phải
còn liên hệ ràng buộc để hoàn tất những gì chưa giải quyết hết. Riêng về anh,
chị em trong gia đìng cũng như thương yêu, ganh ghét, hay đôi khi xung khắc căm
thù nhau đều là những dấu vết biểu hiện của luân hồi. Có thể ở kiếp trước họ là
những người khác nhau về chí hướng, chủng tộc hoặc có sự tranh chấp đố kỵ nhau,
hay cũng có thể ở kiếp trước họ là hai vợ chồng hoặc hai người bạn thân.v..v..
Câu chuyện có thật sau đây xảy ra
tại Hoa Kỳ và đã được báo chí ở Hoa Kỳ đăng tải vào năm 1991. Bà Gillian sống ở
tiểu bang Colorado,
năm 1986 bà sinh hạ được một cháu bé kháu khỉnh đặt tên là Mandy. Nhưng không
may cho bà Gillian, cháu bé chỉ sống được bốn tháng thì qua đời. Bà Gillian vô
cùng đau khổ, bà khóc than vật vã bên mộ huyệt, bà đã té xỉu và khi tỉnh dậy
lại muốn nhào xuống huyệt theo con... Một thời gian sau, bà Gillian có chuyện
bất hòa với chồng, họ ly dị nhau và sau đó bà Gillian có thai với người chồng
thứ hai. Lần này bà cũng sinh hạ được một cháu bé kháu khỉnh và bà lại đặt tên
là Mandy để nhớ lại đứa con gái bất hạnh của mình trước đây.
Năm Mandy lên bốn tuổi, bà Gillian
đưa cháu đến nghĩa trang để thăm mộ Mandy, chị gái cháu bé. Khi vừa đến gần mộ
chị, bé Mandy bổng nhiên nói to lên có vẻ thích thú: "Má, Má! đây là nơi
mà ngày trước má đã đặt co xuống dưới cái hố sâu trong đất. Lúc đó má khóc nhiều
lắm, và má suýt rơi xuống cái hố đất ấy rồi, má có còn nhớ không?..."
Bà Gillian vừa ngạc nhiên vừa kinh
hãi, bà không ngờ co bà mới bốn tuổi mà đã nói lên câu nói lạ lùng và trôi chảy
như người lớn. Điều kỳ dị là bà chưa bao giờ kể chuyện bé Mandy, con gái đầu
lòng của bà chết ra sao và an táng thế nào cho bé Mandy, đứa con thứ hai của bà
nghe cả.
Vậy phải chăng bé Mandy con bà hiện đang sống với bà chính là bé Mandy ngày
trước và đã lìa đời? Phải chăng bé Mandy đứa con thứ hai của bà là hậu thân của
đứa con gái thứ nhất của bà? Từ đó bà Gillian cảm thấy sung sướng yêu đời bà
thường ôm Mandy vào lòng và nói: Tôi cảm thấy có được tất cả và coi tôi là tất
cả..."Câu chuyện có thật ấy là một chứng cớ điển hình về những gì thuộc về
tiền kiếp và hậu kiếp. Thời gian chuyển đổi từ kiếp này qua kiếp khác đôi khi
rất xa hay đôi khi rất gần. Ngoài ra người thân thuộc trong một gia đình có khi
lìa đời rồi vẫn có thể quay trở lại, đầu thai làm con hay cháu trong gia đình.
Ở Việt Nam năm 1942 dân chúng vùng Cầu Hai
Nước Ngọt (lúc đó còn rất thưa thớt) kể lại cho nhau câu chuyện lạ lùng về gia
đìng ông Nghênh. Hai vợ chồng ông Nghênh mới làm lễ thành hôn cho đứa con trai
được bốn ngày thì người cha của ông Nghênh qua đời.
Một năm sau, con dâu ông Nghêng
sinh hạ một người con trai. Đứa bé khi lên sáu tuổi tự nhiên ăn nói rất khôn
ngoan, cử chỉ dáng điệu trầm mặc như người lớn và thường thích dậy sớm uống trà
dù trời có lạnh lẽo đến thế nào. Một hôm đang ngồi chơi, bổng đứa bé nhìn quanh
rồi hỏi người nhà: "Bộ ly tách của tôi sao cứ để trên bàn thờ mãi thế, đem
xuống cho tôi đi!" cả nhà nghe câu nói lạ lùng đó sợ quá, nhưng khi hỏi
đứa bé nguyên nhân thì nó chỉ yên lặng. Về sau, gia đình ông Nghêng còn chứng
kiến những cử chỉ và nghe những lời nói lạ lùng của đứa bé hoàn toàn giống với
ông cố nó ngày nào thì lại tưởng là đứa bé bị ma nhập nên lo bán vườn, nhà
chuyển vào sống ở vùng Lăng Cô Đà Nẵng. Câu chuyện này phần nào trùng hợp với
câu chuyện có thật xảy ra tại Hoa Kỳ năm 1979: Bà Diane Williams sinh một bé
gái đặt tên là Kelly. Năm Kelly vừa tròn bốn tuổi thì nó đã ăn nói rất sành sỏi
như người lớn. Một hôm bà dì tên là Pam đã bế Kelly đặt lên đùi mình và nô giởn
với nó thì bổng nhie6n Kelly vừa cười vừa hỏi: "Này! cháu có còn nhớ ngày
xưa cháu cũng đã ngồi lên đùi bà như thế này không?" Dì Pam hỏi: con nói
gì thế" thì Kelly nói rõ ràng từng chữ một làm bà Pam và bà Diane Williams
há hốc mồm ra vì kinh ngạc. Bé Kelly nói như sau: "Chắc chắn các cháu
không nghĩ được rằng ta chính là bà ngoại của các cháu đâu!"
Những câu chuyện trên mới nghe qua
quả thật vượt quá sự tưởng tượng của con người vì có vẻ mơ hồ, tuy rằng một
phần chứng cớ vẫn còn đó. Lý do là tận cùng của vấn đề hiện nay vẫn chưa được
lý giải hoàn toàn, tiến sĩ Ian Stevenson đã cho rằng không riêng gì ở một vài
nơi xảy ra sự việc (có liên quan về vấn đề luân hồi tái sinh) có giới hạn mà
khắp nơi trên thế giới, hầu như quốc gia nào, vùng đất nào cũng đã và đang xảy
ra những sự việc như đã trình bày ở trên. Tại Ấn Độ, Nga Sô, Trung Hoa, Việt
Nam, Canada, Anh Quốc, Thụy Điển, Ý, Đức, Nhật cũng không hiếm xảy ra những vấn
đề liên quan đến lãnh vực đầu thai gây kinh ngạc cho nhiều gia đình và đôi khi
còn gây xôn xao dư luận. Nhà vật lý học nổi tiếng của Pháp là Patrick Drouot
phát biểu như sau về vấn đề này: "Nếu chúng ta xem vấn đề luân hồi tái
sinh cũng giống như chu kỳ của vũ trụ, sự lập lại của những tình huống nào đó
của những chu kỳ của sự sống thì điều đó cũng không đến nỗi phải làm chúng ta
kinh ngạc. Điều tốt nhất trước mắt là hãy mạnh dạn đi sâu vào vấn đề để tìm
hiểu, nghiên cứu, gạt bỏ những gì có tính cách mê tín huyền hoặc và ghi nhận
những gì khả dĩ đem lại những giải đáp hữu lý cho vấn đề..."
Dấu Tích Luân Hồi Biểu Hiện Qua
Giấc Mộng
Hiện tượng luân hồi biểu hiện dưới
nhiều hình thức và sự khơi dậy về những gì thuộc về tiền kiếp cũng xảy ra qua
tác động như nhau. Nhiều người tự nhiên nói lên những gì đã xảy ra về tiền kiếp
của mình. Qua các cuộc nghiên cứu về hiện tượng này, giáo sư tiến sĩ Ian
Stevenson cho rằng: phần lớn trẻ em có khả năng nhớ lại tiền kiếp tốt hơn người
lớn. Riêng đối với người lớn thì phần nhiều phải nhờ những tác động từ bên
ngoài như thôi miên hoặc qua giấc mộng mới giúp họ nhớ được tiền thân của mình.
Theo các nhà nghiên cứu về hiện
tượng luân hồi, tái sinh thì trên thế giới đã có vô số trường hợp con người lại
thấy được tiền kiếp mình qua giấc mộng.
Sau đây là một vài trường hợp điển
hình:
Trường hợp bà Georgia Rudolph:
Bà Georgia Rudolph là nữ y tá kỳ
cựu tại một bệnh viện lớn ở thành phố Atlanta
(Hoa Kỳ). Bà là một con người bình thường giống như bao nhiêu người khác, nhưng
có một điều rất lạ ám ảnh tâm trí bà đó là những giấc mơ kỳ dị đã nhiều đêm
liên tiếp hiện rõ trước mắt mình. Theo bà Georgia thì ngay lúc còn bé khoảng
5,6 tuổi bà cũng đã từng nằm mơ cùng một giấc mơ đó. Trong giấc ngủ bà thấy một
cô gái trẻ độ 15 tuổi mặc bộ y phục màu trắng đứng trước một ngôi giáo đường.
Bị ám ảnh bởi hình ảnh ấy cho đến
năm bà 40 tuổi, bà cảm thấy phân vân lo lắng trong lòng. Một hôm có một vị giáo
sư dạy về tâm lý học đã giúp bà bằng cách giới thiệu cho bà một nhà phân tâm
học nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Nhà phân tâm học này đã áp dụng phương pháp thôi miên
giống như giáo sư tiến sĩ vật lý Patrick Drouot đã thực hiện tại Pháp. Qua cuộc
thôi miên ấy, bà Georgia đã thấy lại tiền kiếp của mình, lúc ấy bà là một cô
gái dễ thương tên là Sandra Jean Jenkins, Sandra là một cô gái đa tình, đa cảm
và lãng mạn luôn luôn thích thơ văn thích cảnh gió trăng mây nước, nên thơ
thích mặc toàn đồ trắng tuy còn nhỏ nhưng lại hay đến nơi yên tĩnh vắng lặng
như nghĩa trang, công viên, nhà thờ... Trong lúc bị thôi miên, bà Georgia còn nói rõ năm sinh của chính mình lúc
đó là cô gái Sandra) là vào năm 1895 và sinh quán là thị trấn Mariette thuộc
tiểu bang Ohio.
Năm Sandra 19 tuổi, cô gái có yêu một chàng trai, họ quấn quít bên nhau như
bóng với hình. Nhưng đau đớn thay, chàng trai gặp tai nạn và qua đời khi Sandra
mang thai được một tháng. Nỗi bất hạnh kế tiếp lại giáng vào chính cô gái, một
hôm, Sandra ra tắm ở một con sống cạnh nhà rồi bị chết đuối...
Bà Georgia kể đến đó thì tỉnh lại. Nhà
phân tâm học đã hỏi rằng bà có nhớ rõ gương mặt cô gái Sandra Jean Jenkins
không thì bà Georgia
gật đầu nhiều lần và bảo: Tôi nhớ rất kỹ vì gương mặt đó chính là gương mặt cô
gái mà tôi thường thấy trong những giấc mơ qua suốt thời gian dài. Nhà phân tâm
học liền đề nghị bà Georgia
nếu thuận lợi nên đến thị trấn Mariertta để nhờ nhân viên tòa thị chánh lục lại
hồ sơ các gia đình ở vào khoảng các năm 1895, 1896, 1897 thử ra sao. Bà Georgia
liền đến thị trấn Mariette và tại tòa thị chánh bà đã thấy được hồ sơ lý lịch
hộ khẩu của gia đình cô gái có tên là Sandra Jean Jenkins đã sống tại thị trấn
này. Câu chuyện lạ lùng về giấc mơ kỳ lạ và tiền kiếp của bà Georgia Rudolph
được báo chí loan truyền rất nhanh. Điều kỳ lạ tiếp theo là nhờ qua báo chí mà một
người trong dòng họ của cô Sandra đã tìm gặp bà Georgia và cho bà xem một bức ảnh
chụp toàn gia đình Sandra. Bà Georgia
nhìn bức hình và đã tìm thấy một cô gái khoảng 13, 14 tuổi mặc bộ đồ trắng đứng
bên người đàn ông lớn tuổi có lẽ là cha cô gái. Bà Georgia vô cùng kinh ngạc, trong
người bà tự nhiên như có một luồng điện chạy và tay chân bà như nổi gai ốc vì
cô gái trong bức hình chính là cô gái Sandra bà mô tả qua buổi thôi miên, đó là
hình ảnh thực sự của bà trong tiền kiếp. Câu chuyện có thật về tiền kiếp của bà
Georgia
đã được đài truyền hình Hoa Kỳ chiếu đi chiếu lại nhiều lần trong những năm
1990, 1991, 1992.
Trường hợp cô bé Winnie Eastland sinh năm 1955 tại Virginia cũng rất kỳ lạ.
Năm 1961 cô bé bị xe hơi cán khi chạy băng qua đường. Mặc dầu được các bác sĩ
tận tình cứu chữa, cô bé vẫn hôn mê trong một tuần lễ rồi sau đó qua đời. Người
mẹ của Suzane là bà Eastald vật vả khóc lóc thảm thương và đã nhiều lần nhảy
xuống mộ huyệt quyết chết theo con. Người nhà và bạn bè hết lời khuyên giải
nhưng người mẹ vẫn khóc lóc đau khổ khôn nguôi. Một năm sau, bà Eastland nằm mơ
thấy con mình là Winnie nhẹ nhàng bước vào nhà vừa mỉm cười vừa nói: "mẹ
yêu quý, con sẽ trở lại với mẹ một ngày gần đây!". Không riêng gì mẹ
Winnie thấy con mình trở về mà người con gái lớn của bà cũng nằm mộng thấy em
gái mình trở về nữa. Năm 1964, bà Eastland sinh ra một bé gái và đã nhớ đến
người con yêu dấu 3 năm trước đây, bà đặt tên là Winnie. Một sự lạ lùng sau đó
xảy ra khi bé Winnie 2 tuổi đã nói lên một câu làm cả nhà phải ngạc nhiên:
"năm nay con đã 6 tuổi rồi..." Câu nói thật kỳ dị vì lúc đó Winnie
mới 2 tuổi hay là cháu bé đã nhắc lại kỷ niệm xưa lúc Winnie bị đụng xe chết
vào năm 6 tuổi? Về sau, bé Winnie còn nhắc lại những gì đã xảy ra lúc nó chưa
ra đời nghĩa là những gì mà bé Winnie đầu tiên đã sống. Điều kỳ lạ la bé Winnie
đã kể lại vụ đụng xe, nó nói như nó là nhân chứng: Hôm đó con chạy qua đường và
bất ngờ chiếc xe lao tới con tối tăm mặt mày. Con thấy nhiều người tụ tập lại
quanh co rồi con được đưa lên băng ca chở vào bệnh viện... rồi sau đó con lang
thang và báo cho mẹ biết rằng con lại quay về..." Bác sĩ Ian Stevenson đã
ghi chú một phần quan trọng về câu chuyện có thật này như sau:
Các chuyên viên nghiên cứu về hiện
tượng tái sinh, luân hồi đã lưu ý đến một vết nám bên hông cháu bé. Đó là dấu
tích luân hồi, dấu tích vết thương lớn của tiền kiếp cháu bé bị về vụ đụng xe
gây thương tích trầm trọng và khiến bé qua đời. Chính các bác sĩ giải phẫu ở
bệnh viện cũng đã quan sát dấu vết ấy và họ cho biết: "các vết sẹo thường
khi co rút, thu nhỏ lại. Đây cũng là một vết tích về một tai nạn hay mổ xẻ
nhưng vì xảy ra quá lâu nên dấu vết không lộ rõ nét".
Trường hợp kỹ sư Frank.M.Balk
Câu chuyện có thật sau đây còn lạ
lùng hơn nữa. Một kỹ sư người Hoa Kỳ có tên là Frank.M.Balk đã vô cùng ngạc
nhiên vì ông thường nằm mộng thấy một người đàn bà mặc áo trắng đến bên giường
bảo rằng: "ngươi hãy mau mau đến một đất nước có tên là Việt Nam để gặp
lại cha mình, người ấy giống ngươi như tạc, đó chính là người cha tiền kiếp,
ông ta là một nhà sư và hiện đang trụ trì tại một ngôi chùa trên một ngọn đồi
gần thành phố!". Giấc mộng tiếp diễn nhiều đêm và nội dung đều giống nhau.
Lúc đầu viên kỹ sư tưởng mình bị ám ảnh bởi vài một vấn đề nào đó nhưng khi
nghĩ lại, ông ta thấy nội dung giấc mơ không liên quan gì đến công việc hàng
ngày cũng như cuộc sống và vấn đề tình cảm của mình cả. Viên kỹ sư là một nhà
khoa học nên ông không tin những gì có tính cách mơ hồ, huyền bí, nhưng lại
nghĩ rằng có lẽ mình yếu thần kinh hay có sự xáo trộn, lệch lạc về tinh thần
nên đã tìm đến bác sĩ khám bệnh thử. Kết quả bác sĩ cho biết "không có dấu
hiệu gì chứng tỏ có sự mất quân bình về tâm, sinh lý cũng như não bộ về hệ thần
kinh. Sức khỏe tốt" Nhưng rồi một thời gian ngắn sau đó, viên kỹ sư lại
nằm mơ và bên tai lại nghe văng vẳng tiếng thúc dục "hãy mau mau đi tìm
người cha của tiền kiếp..." Giấc mộng lạ lùng ấy cứ tái diễn nhiều lần vào
năm 1956 (thời tổng thống Ngô Đình Diệm) viên kỹ sư này cảm thấy không thể an
ổn được tâm thần khi chưa tìm ra sự thật về giấc mộng kỳ dị ấy. Thế rồi ông
quyết định xin được công tác ở Việt Nam. Thời đó, tại Hoa Kỳ có rất
nhiều đoàn chí nguyện đến Việt Nam để công tác và giúp đỡ đất nước này sau hiệp
định Geneve (1954), một đất nước bắt đầu xây dựng về đủ mọi lãnh vực sau bao
đau thương tang tóc vì chiến tranh. Tại Việt Nam, kỹ sư Frank.M.Balk làm việc ở
một cơ quan xây dựng, tạo tác và thiết kế nhưng công tác của ông lại phải
chuyển đổi luôn vì thế rất thuận lợi cho việc "đi tìm người cha tiền kiếp
của ông theo như giấc mộng. Kỹ sư Fark.M.Balk đã đi nhiều nơi ở miền nam Việt
Nam và nơi nào ông ta cũng tìm đến các ngôi chùa tọa lạc trên các ngọn đồi, tuy
nhiên từ miệt Cần Thơ, An Giang, Châu Đốc, Tây Ninh cho đến Vũng Tàu, Saigon...
nơi nào viên kỹ sư này cũng đều đặt chân tới và vào tận trong chùa tìm gặp vị
trụ trì nhưng chẳng thấy nhà sư nào giống mình cả. Mãi đến một hôm công tác tại
Nha Trang, dù bận rộn viên kỹ sư này cũng đã sắp xếp công việc để có thời gian
đi viếng các ngôi chùa. Nơi xứ thùy dương cát trắng này, có một vài ngôi chùa
tọa lạc trên đồi. Sau hai ngày đi thăm các chùa, viên kỹ sư vẫn chưa gặp được
vị sư nào đã thấy qua giấc mộng. Ngày thứ ba viên kỹ sư bước vào một ngôi chùa
nằm trên ngọn đồi lớn nằm ở vùng Mã Vòng đó là chùa Hải Đức. Trên đồi này là
một trung tâm hoằng pháp thuộc giáo hội Phật giáo đang khuếch trương lớn để trở
thành trung tâm phật học của Nha Trang sau này. Nhiều cơ sở được dựng lên và
nơi đây có nhiều nhà sư trẻ có kiến thức văn hóa cao trú ngụ. Viên kỹ sư đã may
mắn gặp được một số thầy, biết tiếng Anh nên sau khi tự giới thiệu và trình bày
sự việc với nhà chùa viên kỹ sư được đưa vào chánh điện để gặp vị trụ trì. Lúc
này trụ trì chùa là Sư Thích Phước Huệ. Vị sư này tuổi độ 70 đang ngồi tụng
niệm trước bàn thờ Phật. Viên kỹ sư yên lặng đứng bên cây cột sau lưng vị sư
già chờ đợi và quan sát. Trong khi đó các thầy, các chú, các sư tăng trong chùa
cứ ngấp nghé quan sát viên kỹ sư vì ai cũng lấy làm lạ tại sao hai người: sư
Phước Huệ và viên kỹ sư mỗi người một quốc gia riêng biệt, khác tôn giáo, phong
tục tập quán, tiếng nói nhưng lại có gương mặt giống nhau như hai cha con?
Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, sư
Phước Huệ tụng kinh xong đứng dậy. Chú tiểu vội ra dấu cho viên kỹ sư trở xuống
hậu liêu chờ đợi. Sư Phước Huệ được các thầy trong chùa kể lại sự việc, rất
ngạc nhiên nên vội vả xuống gặp viên kỹ sư. Cuộc hội ngộ lạ lùng đã diễn ra sau
đó. Viên kỹ sư đã trình bày mọi việc cho sư Phước Huệ nghe, từ chuyện nhiều đêm
thấy giấc mộng lạ kỳ cũng như những cuộc đi tìm người cha tiền kiếp trong mộng
qua các ngôi chùa tọa lạc trên các đồi ở các tỉnh miền nam Việt Nam. Dĩ nhiên
cuộc đối thoại ấy đã được các thầy, các chú ở chùa Phật học thông dịch. Sau
cùng viên kỹ sư mong mỏi được gọi sư Phước Huệ là cha và còn xin được quy y làm
đệ tử.
Hôm đó là ngày chủ nhật 27 tháng 4
năm 1958 lúc 4h30 phút chiều.
Thế rồi, hai tuần sau, một buổi lễ
quy y cho viên kỹ sư Hoa Kỳ Frank. M. Balk được tổ chức tại chùa Hải Đức. Sư
Phước Huệ đã chọn pháp danh cho viên kỷ sư này là Chơn Trí. Viên kỹ sư được sư
Phước Huệ trao cho một chiếc áo tràng màu lam và chiếc quần dài nâu sòng. Sau
đó "hai cha con" đã chụp chung một tấm ảnh kỷ niệm ngày hội ngộ. Bức
ảnh được phóng lớn treo ở hai ngôi chùa có cùng tên là Hải Đức, một ở Nha Trang
và một ở Huế. Ngày nay, du khách đến Nha Trang hay Huế, nếu ghé thăm chùa Hải
Đức sẽ thấy bức ảnh này treo ở nhà khách của chùa. Nhìn bức ảnh ai ai cũng ngạc
nhiên thấy sự trùng hợp lạ lùng về hai con người xa lạ kẻ góc biển, người chân
trời nhưng lại có hai gương mặt giống nhau như tạc từ mắt, mũi, miệng, tai và
khuôn mặt. Dưới bức ảnh có đề hai hàng chữ bằng tiếng Pháp và tiếng Việt Nam,
(Le fils perdu et retrouvé dimanche, le 27 Avrill 1958 - 4hl/2PM Đứa con mất đã
tìm lại được chúa nhật 27 - 4 - 1958 - 4h30 chiều).
Một thời gian sau, vì cảm thấy quá già
yếu nên sư Phước Huệ ra Huế trụ trì tại chùa Hải Đức gần chùa Từ Đàm và viên
tịch tại đây. Thi hài đã nhập tháp gần cạnh chùa.
Trong suốt thời gian công tác tại
Việt Nam, viên kỹ sư này đã vẽ kiểu và xây dựng một ngôi bảo tháp trên đồi bên
chùa Hải Đức gọi là chút lòng thành cúng dường Tam Bảo và cũng để kỷ niệm ngày
gặp gỡ người cha tiền kiếp của mình. Câu chuyện lạ lùng đó lan truyền khắp Việt
Nam, chánh quyền thời đó (thời T.T. Ngô Đình Diệm) đề tiền kiếp sẽ tạo lợi điểm
cho Phật Giáo nên tìm cách để chính quyền Hoa Kỳ triệu hồi về nước sớm. Cuộc
chia ly thật cảm động. Sư Phước Huệ đã nắm chặt tay đứa con tiền kiếp. Cả hai
đều rơm rớm nước mắt. Từ đó, viên kỹ sư thường liên lạc thư từ cùng vị cha tiền
kiếp của mình.
Ngày rằm tháng tư năm 1963, sư Phước Huệ viên
tịch. Nhà chùa có đánh điện qua Hoa Kỳ báo tin buồn cho viên kỹ sư nhưng vào
thời gian này tại Huế và Saigon xảy ra cuộc
tranh đấu của Phật giáo. Vì thế việc trở lại Việt Nam của viên kỹ sư để đưa tiễn
người cha tiền kiếp về nơi an nghỉ cuối cùng không thành.