Những Bằng Chứng Về Tái Sinh Qua
Những Trường Hợp Có Thật Đã Xảy Ra Khắp Nơi Trên Thế Giới:
Lịch sử về nguồn gốc của thuyết tái
sanh thật quá lâu đời, có thể nói thuyết này xuất hiện từ khởi thủy của nền văn
minh nhân loại, như Đại Đức Dhammananda đã phát biểu, tuy nhiên trước đây
thuyết này vẫn bị nhiều người cho rằng đó chỉ là một thuyết hoàn toàn có tính
cách tôn giáo mà thôi. Mãi đến sau này, các nhà nghiên cứu, nhất là các nhà
khoa học đã bắt đầu đi sâu vào lãnh vực tìm hiểu vấn đề tái sanh. Không ai
tưởng tượng được một vấn đề lúc đầu được xem là có tính cách tôn giáo, phiêu
linh và có khi còn gọi là mơ hồ nữa lại đã và đang được vô số các nhà khoa học
ở thế kỷ thứ 20 đổ xô vào nghiên cứu, phần lớn họ là những nhà vật lý, những
giáo sư, những bác sĩ, những nhà báo... Họ làm việc hết sức vô tư mà chủ đích
là mong tìm được lời giải đáp cho vấn đề, vì khắp nơi trên thế giới (chớ không
riêng gì một nơi nào) hiện tượng luân hồi tái sanh mãi mãi diễn ra như luôn
luôn thách thức và khêu gợi trí tò mò của họ.
Trường Hợp Của Chính Nhà Nghiên Cứu
Hiện Tượng Tái Sinh Ruth Simmons.
Paris Match là tạp chí có tiếng
không những ở nước Pháp mà còn khắp thế giới đã đăng tải câu chuyện lạ kỳ có
thật của cô Ruth Simmons là nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi tái sanh. Cô
đã nhờ nhà thôi miên lỗi lạc là Morey Bernstein giúp lại tiền kiếp của mình.
Sau những lần được đưa vào giấc ngủ thôi miên cô Ruth Simmons đã thấy rõ từng
giai đoạn thời gian mà cô đã trải qua nhất là từ năm 1 tuổi đến năm 10 tuổi. Cô
mô tả tiền kiếp của mình một cách chi tiết. Cô cho biết, kiếp trước mình là một
cô gái trẻ bình thường thuộc dòng họ Murphy người Ái Nhĩ Lan. Năm 1898 cô lấy chồng.
Người chồng tên là Brian Mac Carthy một giáo sư Luật. Nguyên quán của cô là Cork. Năm 1921 cô qua đời
nhưng năm 1923 cô mới lại tái sanh vào làm người con gái thuộc dòng họ Simmons
với tên là Ruth tại Hoa Kỳ. Khi được hỏi tại sao cô qua đời năm 1921 nhưng tái
sinh vào năm 1923 thì cô Ruth cho biết như sau: "Một người chết đi không
chắc là được tái sinh liền mà đôi khi còn trải qua nhiều năm chờ đợi, điều kiện
thuận hợp cho sự đầu thai của mỗi linh hồn, vì thế mà đôi khi có sự mất liên
tục. Cô còn cho biết: Sau khi đã được an táng, tôi chưa thể đầu thai trở lại
nên phải ở tình trạng dật dờ vô định, trạng thái mà con người thường gọi là
ma".
Ruth Simmons về sau nổi tiếng, các
nước Âu Châu, Mỹ Châu rất thích đọc sách của người đàn bà này vì chính cô là người
vừa nghiên cứu hiện tượng tâm linh siêu hình, vừa là người có kinh nghiệm về
những gì liên quan với lãnh vực ấy.
Trường Hợp Người Con Gái Con Ông Cả
Hiêu Ở Cà Mau (Việt Nam).
Thượng Tọa Thích Thiện Hoa đã nêu
lên một số bằng chứng về hiện tượng luân hồi, những bằng chứng này được ghi lại
trong cuốn Phật học Phổ Thông, xuất bản tại Việt Nam vào cuối năm 1990. Sau đây
là một trong những bằng chứng ấy:
Câu chuyện có thật này xảy ra tại
làng Tân Việt ở Cà Mâu (vùng Đầm Giơi). Ở đây có một gia đình gồm hai vợ chồng
và 3 người con. Người cha trong gia đình này là ông Cả Hiêu. Cô con gái trong
gia đình được ông Hiêu cưng chìu nhưng trứng mỏng, nhưng không may, cô bị bệnh
và qua đời lúc 19 tuổi. Cả nhà ai cũng đau buồn, thương xót, ông Cả Hiêu thì
như điên như dại.
Câu chuyện không chấm dứt ở sự qua đời của cô gái mà lại là chuyện bắt đầu vì
do sự trùng hợp nào đó, (mà sau này người trong hai vùng này mới tìm thấy thêm
chi tiết), ở làn Tân Việt khoảng 100 cây số là làng Vĩnh Mỹ Bạc Liêu cũng có
một cô gái bị bệnh (cùng thời gian với cô con gái ông Cả Hiêu) và qua đời.
Người nhà khóc lóc lo việc tẩm liệm thì bất ngờ ngày hôm sau cô gái sống lại,
làm mọi người vừa mừng vừa sợ, cô gái tự nhiên mạnh khỏe, như không có gì gọi
là đau ốm bệnh hoạn cả. Điều lạ lùng là từ khi sống lại, cô gái này cứ một mực
đòi người trong gia đình đưa cô đến nhà ông Cả Hiêu. Mọi người trong nhà đều
hết sức ngạc nhiên vì không biết ông Cả Hiêu là ai. Khi hỏi cô gái thì cô cho
biết cha của cô chính là ông Cả Hiêu, người làng Tân Việt. Người nhà nghĩ rằng
cô gái có lẽ bị ma nhập, quỉ ám, nên lo sợ, đi tìm thầy về cúng và trừ tà.
Nhưng cô gái vẫn khăng khăng đòi đi gặp cha mình và bảo rằng cô biết đường đến
nhà ông Cả Hiêu. Cô mô tả đường đi, tả ngôi làng, tả cái nhà, số nhà từng chi
tiết và kể về những người nhà ông Cả Hiêu nữa. Cô gái bảo ông bà Cả Hiêu là cha
mẹ ruột của mình, cuối cùng cha mẹ cô gái buộc lòng phải cùng đi theo chuyến xe
đò đến làng Tân Việt để tìm hiểu thực hư. Khi đến bến xe, mọi người xuống xe
còn đang bở ngỡ không biết đi theo hướng nào để về nhà ông Cả Hiêu thì cô gái
nói: "Đừng có ngại, để con dẫn đường cho". Thế rồi khi đến cổng nhà
ông Cả Hiêu, cô gái tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng và chạy nhanh vào nhà. Cô gái chạy
lại ôm chầm lấy ông Cả Hiêu vừa khóc vừa nói: "Ba ơi, con đây ba
ơi!". Hai vợ chồng ông Cả Hiêu còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy
ra thì vừa lúc cha mẹ cô gái bước vào nhà kể lại chi tiết câu chuyện cho vợ
chồng ông Cả Hiêu nghe. Ông Cả Hiêu lấy làm lạ, cũng kể lại chuyện con gái mình
bị bệnh qua đời cho cha mẹ cô gái nghe. Ông còn chỉ tay lên bàn thờ có đặt tấm
ảnh của cô gái con ông. Trong khi đó cô gái mới đến cứ đi lại trong nhà tự
nhiên như là người đã ở đó lâu lắm rồi. Câu chuyện đã đến hồi kết thúc khi sự
kiện đã rõ ràng; cô gái nhất quyết ông bà Cả Hiêu là cha mẹ mình và ông bà Cả
Hiêu cũng chấp nhận điều đó vì cô gái nói rõ những chi tiết mà ngoài con gái
ông Cả Hiêu ra khó ai có thể biết rõ chuyện gia đình ông bà. Thế là hai gia
đình kết thân với nhau. Dân chúng hai vùng Cà Mâu, Bạc Liêu biết được một
chuyện lạ lùng hãn hữu trên thế gian, họ bảo cô gái ấy có hồn là con gái của
ông bà người làng Tân Việt nhưng thân xác lại là con của ông bà người làng Vĩnh
Mỹ.
Trường Hợp Của Nhà Báo Ray Bryant
(Anh Quốc).
Trong tạp chí Yêu (phát hành vào hạ
tuần tháng 8 năm 1992 tại Hoa Kỳ) có đăng tải một câu chuyện có thật về những
bằng chứng của tiền kiếp. Theo đó thì Ray Bryant là nhà báo người Anh, 44 tuổi
tự nhiên nhớ lại tiền kiếp của mình rất rõ. Theo Ray Bryant thì khoảng năm
1855, anh ta là một trung sĩ tên là Reuben Stafford và đã tham dự nhiều trận
đánh kinh hồn trong đó có trận Crimée vô cùng khủng khiếp. Đó là trận chiến dữ
dội nhất giữa quân Nga và quân Anh, Pháp, Thổ. Trong trận này quân Anh bị quân
Nga tiêu diệt 700 người. Trường hợp nhà báo Anh Ray Bryant nhớ lại tiền kiếp đã
là một thời làm xôn xao nước Anh.
Lúc bấy giờ chính bộ quốc phòng Anh
phải nhờ đến đại tá John Bird đích thân tìm hiểu sự thật. Đại tá này đã cùng
với một số sử gia lục lọi các tư liệu trong nha văn khố, quốc phòng bảo tàng
viện chiến tranh, các thư viện quốc gia, các tài liệu xưa và đã đi đến kết luận
là câu chuyện không phải bịa đặt vì họ đã tìm thấy tên của một trung sĩ tên là
Reuben Stafford. Điều chính xác là qua giấc ngủ thôi miên, nhà báo Anh này còn
cho biết tiền kiếp của mình là trung sĩ Stafford, đã chết ở Sebastopol thì
trong tài liệu tìm được tại bảo tàng viện chiến tranh Anh quốc cũng có sự kiện
này. Đó là chưa kể những trường hợp lạ lùng ăn khớp với nhau về những gì mà nhà
báo Anh này đã mô tả vào thời đó: nào là chuyện gia đình, đời sống trong quân
đội, tên người chỉ huy, các loại súng, lương tiền và cả huy chương nữa.
Trường Hợp Của Bé Gái Jimmy Ở Canada.
Jimmy là cháu của bà Emma Michell
82 tuổi sống ở British Columbia.
Bà này đã kể lại cho nhà nghiên cứu về sự chết là Jeffrey Iverson câu chuyện dị
kỳ có thật sau đây:
Một hôm, Jimmy đang ngồi chơi trong
nhà thì bỗng nhiên nghe tiếng chuông nhà thờ rung. Bé hỏi rằng: tại sao không
có gì mà chuông nhà thờ đổ, thì bà cho biết: Hôm nay có đám ma của một người
địa phương đã qua đời. Bé Jimmy bỗng đứng dậy nhìn qua cửa sổ và nói:
Bà biết không? Chính người chết ấy
đã thuê người đánh đập con và liệng xác con xuống sông đó! Bà Emma ngạc nhiên
về câu nói của đứa cháu gái, nên hỏi:
Tại sao con lại thốt lên những lời
kỳ dị ấy? Bé Jimmy ngồi lên ghế rồi nói như phân trần.
Để con kể cho bà nghe về chuyện một
người cậu, ông cậu này là người đã bị người ta đánh đập dữ dội đến chết và thân
xác ông đã được tìm thấy ở sông Bulkeley. Khi người này bị đánh chết và bị
liệng xuống sông thì lúc đó con chưa ra đời. Nhưng giờ đây con biết được mọi
chuyện là do bởi con chính là người cậu ấy!
Bà Emma nghe Jimmy nói thì vô cùng
kinh ngạc và run sợ vì bà nghĩ là cháu bà bị ma nhập. Hơn nữa, quả thật trong
gia đình bà có người đã bị kẻ lạ mặt nào đó đánh chết liệng xuống sông và lúc
đó, đúng như lời cháu bà nói thì Jimmy chưa chào đời.
Điều cần lưu ý là gia đình dòng dõi
của bà Emma Michell là một gia đình kiểu mẫu, nghiêm túc ở vùng Bắc Mỹ Châu, họ
tin tưởng rằng con người khi chết vẫn có thể lại tái sinh và sự tái sinh ấy
thường quay lại trong gia đình dòng họ.
Trường Hợp Thai Nhi Có Dấu Tích
Luân Hồi.
Câu chuyện có thật này xảy ra trong
gia đình Traveed ở nước Pháp. gia đình bà Traveed rất đau buồn vì sinh con hai
lần nhưng lần nào đứa con mới ra đời được vài giờ cũng đều chết cả. Hai vợ
chồng rất buồn.Họ ngày đêm cầu nguyện Chúa. May mắn là chưa đầy một năm sau khi
đứa con thứ hai qua đời,bà Traveed lại chuyển bụng.Đây là đứa con thứ ba. Cả
hai vợ chồng đều hồi hộp. Họ chẳng mong chi con trai hay con gaí, con nào cũng
được, miễn rằng đứa bé ra đời mạnh khoẻ sống lâu là hai vợ chồng vui sướng
rồi.Quả thật trời không phụ lòng họ,đúa con sinh ra lần này trông vui vẽ, khoẻ
mạnh.Hai vợ chồng đặt tên cho con là Paul Traveed. Điều kỳ lạ chỉ có bà Traveed
để ýtheo dõi là trên ngực Paulcó cái vết giống cái vết mà đứa cun thứ hai của
bà lúc chào đời cũng có. Thật ra lúc đó bà có làm một dấu chấm màu xanh như vết
chàm lên ngực đứa con đã chết này vì trong thâm tâm bà bà nghĩ rằng đứa con thứ
hai này chết đi thì đứa co kế tiếp cũng có thể là nó sẽ lại ra đời. Bà Travee
làm dấu ấn như vậy để xem thử lần sinh thứ ba hài nhi ra đời có còn mang dấu
vết ấy không, nếu không thì điều bà nghĩ không đúng. Giờ đây khi thấy dấu chấm
màu xanh hiện rõ trên ngực đứa con thứ ba thì bà Travee vô cùng lo lắng vội vã
gọi chồng và nói:
- Anh ơi, xem này, thằng bé cũng có
dấu chấm xanh ở ngực giống cái dấu mà em đã làm lên ngực đứa con bất hạnh thứ
hai của mình. Vậy cái dấu chấm này là gì? Có phải là dấu trước đây không? Hay
là... Paull chính là đứa con thứ hai của mình? Ngoài ra thằng Paull lại còn có
thêm một vết thẹo dài ở bắp đùi mà lúc sinh ra mình đã thấy đó. Người chồng
nghe vợ nói thì chạy lại nhìn chăm chăm vào ngực đứa bé. Trên bộ ngực trắng
hồng mơn mởn của Paull rõ ràng có một dấu chấm màu xanh.
Hai vợ chồng bà Traveed từ đó sống
trong lo âu hồi hộp, họ chờ đợi từng giờ từng phút sự ra đi của đứa con. Nhưng
thế rồi suốt trong 12 năm dài đăng đẳng, Paull vẫn khỏe mạnh, ăn ngủ, học hành
đi chơi bình thường như bao đứa trẻ khác. Điều kỳ lạ là mặc dầu còn trẻ con
nhưng dáng dấp, cử chỉ lời nói của Paull lại giống như người lớn. Thỉnh thoảng
ngồi trước mặt mọi người trong gia đình, Paull thường phát biểu những câu mà
không ai có thể ngờ được rằng ở tuổi nó lại có những câu nói như thế.
Một hôm bé Paul hỏi mẹ:
- Mẹ à! Bên cạnh cửa ngõ vườn nhà
mình trước đây có một cây lớn tốt tươi nhưng nay lại không còn. Vậy ai đã chặt
nó vậy?
Bà Traveed vô cùng kinh ngạc khi
nghe con nói câu đó vì thật sự cái cây con bà nhắc đến đã bị chồng bà đốn ngã
trước khi Paull ra đời. Tuy vậy bà Traveed cũng lấy làm tò mò, bà hỏi Paull:
- Tại sao con lại biết cây này vì
lúc ba con đốn ngả nó thì con chưa ra đời mà?
Paull nhăn mặt tỏ vẻ bực tức và
nói:
- Tại sao ba lại đốn cây ấy đi?
Bà Traveed giải thích:
- À! Là tại vì cây này dễ trở thành
chỗ thuận tiện cho kẻ trộm leo vô nhà.
Paull dằn từng tiếng rõ ràng:
- Trong số những đứa trộm ấy có đứa
bị ba đâm chết mẹ có nhớ vụ đó không? Đứa bị đâm chết ấy tên là Jainqeville.
Bà Traveed vừa kinh ngạc vừa lo sợ.
Hai tay bà ôm lấy ngực mồm há hốc, bà hỏi Paull dồn dập.
- Này con! Ai đã chỉ vẽ lời nói bậy bạ ấy cho con! Ai? nói cho mẹ biết đi...
Paull nói như phân bua:
- Việc này đã xảy ra lâu rồi má à!
Con biết rõ điều này. Không ai kể cho con nghe hết. Con đã biết rõ sự việc là
ba dùng dao đâm Jainquevill chết gục nơi gốc cây ấy. Jainquevill có một vết sẹo
ở bắp đùi.
Bà Traveed quá sợ hãi nên dùng tay
che miệng con lại và nói:
- Thôi đi! Con nói nghe ghê quá! Ai
dạy con nói thế? Từ nay con đừng nói bậy nữa nhé!
Paull vẫn tiếp tục nói có vẽ hằn
học:
- Con phải nói: vì đó là sự thật.
Con cũng có vết sẹo ở bắp đùi mà ba má thường thấy đó.
Sau đó, Paull đợi người cha đi làm
về và cũng nói tất cả những lời mà nó đã nói với mẹ mình. Tự nhiên ông Traveed
lo sợ thấy rõ. Ông có cảm tưởng như tên cướp Jainquville đã nhập vào thân xác
Paull để nói chuyện với ông. Từ đó ông ít khi tiếp xúc với đứa con. Trong khi
đó Paull thường tỏ ra lầm lì. Thường ngày nó chỉ loay hoay chơi với một con dao
nó mua ở đâu đó. Hết mài lại ngắm nghía. Ông bà Traceed thấy con như vậy càng
thêm lo sợ.
Thế rồi một hôm, Paull từ đâu không
biết chạy bay về nhà. Bà Traveed kinh ngạc kêu lên: Paull gì thế con, có việc
gì xảy ra thế? Paull vừa khóc vừa đưa cho mẹ xem tờ giấy nhỏ có chữ viết. Trong
thư lời lẽ của ông Traveed thuê người đầu bếp nơi trường học tìm cách giết
Paull để phi tang mọi chuyện.
Bà Traveed thấy rõ ràng chữ của
chồng mình viết chớ không ai xa lạ. Bà lo sợ quá nói với Paull: Trời ơi! có
chuyện gì xảy ra quá ghê gớm lạ lùng như vậy? Vậy con cứ ở đây với mẹ, đừng đi
đâu cả. Paull vừa khóc vừa nằm xuống chiếc ghế trường kỷ cạnh giường mẹ, Sáng
hôm sau, trời còn tinh mơ, bà Traveed tự nhiên choàn tỉnh dậy, bà không thấy
Paull đâu. Hoảng hốt, bà xô cửa đi tìm, căn nhà vắng lặng, bà cất tiếng gọi, chỉ
có người giúp việc chạy lên. Không nghe tiếng Paull cũng không như ông Traveed
lên tiếng trả lời. Bà Traveed và người giúp việc liền phá cửa buồng của Paull.
Cánh cửa mở toang, một cảnh tượng rùng rợn hiện ra: Ông Traveed và thằng Paull
đều nằm chết dưới sàn nhà, máu lênh láng. Nơi ngược ông Traveed, con dao mà
thằng Paull thường mân mê hàng ngày cắm sâu đến tận cán.
Câu chuyện có thật trên đã được tờ
báo của Pháp tên là Revue des Deux Mondes đăng tải vào năm 1989 và mới đây được
tác giả Thiện Nhựt lược thuật lại trong một đặc san Phật Đản xuất bản tại Hoa
Kỳ.
Trường Hợp Cậu Bé George Fild.
George Fild là một cậu bé Hoa Kỳ.
Năm 15 tuổi, Fild bắt đầu có những cảm giác và hình ảnh lạ lùng chợt ẩn chợt
hiện trong trí và luôn luôn cậu tỏ ra áy náy, thắc mắc, băn khoăn về những gì
giống như mình đang rơi vào mộng ảo. Lúc bấy giờ có nhà thôi miên nổi danh tên
là Williams. Ông này yêu cầu được giúp George Gild khơi dậy các hình ảnh từ
tiền kiếp. Qua giấc ngủ thôi miên, George Fild đã kể lại rất rành rọt những gì của
tiền kiếp mình như sau:
- Lúc bấy giờ tôi là người dân vùng
Bắc Carolina tôi là một nhà nông bận rộn đủ mọi thứ việc đồng áng. Trên tôi lúc
đó là Jonathan Powell, cuộc sống thật buồn bã vô vị. Tôi sống lẻ loi cô độc như
kẻ lạc vào chốn hoang vu. Tôi nhớ rõ mình sinh vào năm 1832 tại thị trấn
Jefferson và 31 năm sau tức là vào 1863 trong cuộc nội chiến, tôi vào quân ngũ
và bị giết chết khi một đám lính nổi loạn tôi nhớ mãi những nơi tôi đã đi qua
và nhất là vùng đồng cỏ Bắc Carolina hiu quạnh.
Nhà thôi miên Williams đã kiểm soát lại các tài liệu, hồ sơ, giấy tờ ở các thư
viện, các văn khố, các vùng liên quan đến Jonathan Powell và biết được rằng
những gì cậu bé mô tả đều đúng cả. Điều kiểm chứng lại rõ ràng hơn, nhà thôi
minh đã cùng George Fild đến ngay thị trấn Jefferson tại đây, trước sự hiện
diện của nhà Địa phương chí trong thị trấn, cậu bé George Fild lại được nhà
thôi miên đưa vào giấc ngủ thôi miên lần nữa và lần này cậu bé còn nêu tên cả
những địa danh trong thị trấn cùng những người có tiếng ở đó, đặc biệt, cậu bé
còn mô tả quang cảnh và nhà cửa đường sá của thị trấn rõ ràng. Tất cả những gì
George đã kể đều đã được nhà Địa phương chí hiện diện xác nhận là đúng. Ngoài
ra cậu bé còn cho biết danh tánh của bà nội Jonathan là Mary Powell. Trong tài
liệu còn lưu trữ tại nhà văn khố thì Mary Powell là một người đàn bà đã đứng
tên mua một khu đất ở vùng Jefferson. Hồ sơ ghi năm 1803. Điểm đáng quan tâm là
về sau, cậu bé George Fild có nhận được một lá thư của người trong dòng họ
Jonathan Powell gởi đến kể lại rất chi tiết về cuộc đời sự nghiệp của Jonathan
Powell. Trong thư có đoạn viết như sau: "Các tư liệu này được lưu giữ cẩn
thận trong gia phả dòng họ tôi. Theo nhưng gì ghi trong gia phả thì ông
Jonathan chính là ông của tôi và ông bị những người lính Mỹ giết năm
1963."
Trường Hợp Cậu Bé Nicola
Khoảng năm 1800 tại thành phố
Haworth Anh Quốc, có một gia đình mà người chồng tên là Benson. Hai vợ chồng
Benson có hai người con gái và một người con trai. Người con trai tên là John
Henry. Một hôm John Henry chạy băng qua đường rầy xe lửa thì bị xe lửa cán chết
thê thảm. Sự kiện đáng thương tâm này rồi cũng theo thời gian mà xóa mờ dần.
Nhưng không lâu sau đó, một gia đình ở vùng kế cận HaWorth có người đàn bà tên
là Kathleen Wheaters, bà bày sinh hạ được một bé gái đặt tên là Nicola. Bé
Nicola sống bình thường như bao nhiêu bé khác nhưng điều lạ lùng là lúc lên 5
tuổi. Nicola có cử chỉ và lời nói chững chạc giống như người lớn. Vào một buổi
trưa, bé Nicola đang ngồi chơi với mẹ bỗng nhiên bé hỏi một câu:
- Mẹ ơi! Con đâu phải là con gái?
Con là con trai mà? Trước đây con là John Henry, mẹ con là bà Benson rất mộ đạo
và hay đi nhà thờ. Ba con là thợ đường rầy xe lửu. Con bị xe lưu cán chết và
bây giờ con trở thành bé Nicola của mẹ. Tại sao mẹ không dẫn con đến nơi mà
trước đây con đã ở. Con biết ngôi nhà đó mà
Bà Kathleen nghe con nói rất kinh
ngạc cứ tưởng Nicola nói mê sảng nên sợ lắm. Nhưng Nicola cứ thỉnh thoảng lại
nêu lên câu hỏi tương tự khiến bà Kathleen quyết định tìm thử thật hư. Hai
tháng sau, bà cùng Nicola đến Haworth để dò la tin tức về gia đình nhà Benson.
May mắn là bà Kathleen có quen biết với một vị chức sắc torng Đạo Cơ Đốc nên
nhờ nhà thờ chính cổ xưa ở Harworth lục lại hồ sơ và biết được gia đình Benson
có ba người con nhưng có một người con bị tai nạn xe lửa mà qua đời. Người con
ấy là John Henry.
Trường Hợp Của Bé Gái Manju Sharma
Đây là một trường hợp tái sinh khá
lạ lùng. Câu chuyện có thật này do bác sì Pasricha thuật lại như sau:
Manju Sharma là một cô gái Ấn Độ,
sinh ra và lớn lên ở tại thành phố Brindevan (phía Bắc Ấn Độ). Manju Sharma
thường nhớ lại quá khứ. Nhưng ở đây, Manju không phải nhớ lại quá khứ đời mình
mà là những gì đã xảy ra ở kiếp trước. Manju kể như sau:
"Tôi cứ nhớ hoài hình ảnh mình
bị rơi xuống giếng nước tại làng Chaumula. Lúc tôi vừa đúng 10 tuổi hồi đó tôi
tên là Krishna chớ không phải là Manju Sharma như bây giờ. Tôi đã tái sinh trở
lại.
Tôi đã gặp chú tôi, người chú tiền
kiếp tên là Tanji. Tôi nhận ra người chú ấy ngay và đã nói chuyện rất lâu với
chú ấy mặc dầu chú Tanji không nhận ra tôi là cháu của chú trước đây. Khi tôi
nhắc đến Krishna thì chú nhớ và tỏ dấu tiếng thương vô cùng. Tuy không tin
chuyện tôi là Krishna tái sinh nhưng chú tôi đã đồng ý để người mẹ tiền kiếp
của tôi gặp tôi. Bà ta đến, tôi ngồi bên bà và kể lại những nỗi bất hành đã đến
trong đời tôi cho bà nghe. Bà xoa đầu tôi và tỏ vẻ thương yêu tôi nhiều khi
nghe tôi nhắc đến Kishna. Tôi ngỏ ý muốn theo bà, người mà tôi khẳng định là mẹ
tiền kiếp của tôi. Ý muốn của tôi được thỏa mãn và tôi đã trải qua mười năm
sống với ba má tiền kiếp tôi. Về phần ông bà thì sẵn lòng đón tôi về sống chung
vì hai người luôn luôn nhìn tôi qua hình ảnh của đứa con thân yêu bị chết sớm.
Bác sĩ Pasricha và một số nhà khoa
học Ấn Độ đã đến gặp Manju lúc đó Manju đã là một người đàn bà có chồng và đã
có 2 con. Khi hỏi người cha tiền kiếp về cảm tưởng của ông đối với Manju ra sao
thì ông này cho biết như sau:
- Chúng tôi gọi Manju là Kishna
Devi. Chúng tôi tin tưởng rằng đó là con gái của chúng tôi. Các con của Manju
gọi tôi là ông ngoại và vợ tôi là bà ngoại. Chúng tôi sống với nhau rất thuận
hòa.
Theo bác sĩ Pasricha thì Manju là con gái trong một gia đình người Bà La Môn
(Brahmin) là một người đẳng cấp rất cao đối với người Hindu. Đây là một tấp cấp
ở Ấn Độ và một thời vượt lên trên các tập cấp khác (theo Will Durang) trong xã
hội Ấn. Nhưng Manju lại chịu đến sống với gia đình thuộc đẳng cấp thấp hơn rất
nhiều. Như vậy không thể nào nghĩ rằng trường hợp Mánju là trường hợp tạo dựng
ra sự kiện luân hồi tái sinh để mưu cầu lợi nhuận hay sung sướng cho đời mình
được vì thông thường nghèo thường muốn tìm đến nơi người giàu. Ở đây, trường
hợp của Manju thì ngược lại.
Trường Hợp Tái Sinh Của Sudeih Babu
Tại thành phố Baranes (Balanại)
thuộc xứ Ấn Độ (lúc bấy giờ Ấn Độ là thuộc địa của người Anh) có nhiều nhà
chiêm tinh, nhiều Đạo sĩ nhiều vị chân tu nhưng nổi tiếng nhất về lãnh vực
chiêm tinh, ngoài Bhrigu ra, kế đến phải kể Sudeih Babu. Sudeih Babu là một nhà
hiền triến cũng là một nhà chiêm tinh lừng danh của Ấn Độ. Dân chúng Ấn, nhất
là người Ấn Độ giáo đã xem Sudeih Babu như một vị Thánh Sống. Ông thường ngày
xem sách cổ và tĩnh tọa trong một ngôi nhà nhiều phòng với hàng vạn cuốn sách
cổ bí truyền. Chính vào thời đó một phái đoàn khoa học gia người Anh Gồm các
giáo sư tiến sĩ đến xin gặp ông và đã nghe ông thuyết giảng về mọi vấn đề thuộc
lãnh vực khoa học, kỹ thuật, sinh vật tự nhiên và các hiện tượng siêu nhiên,
chính Sudeih Babu đã tiên đoán rằng từ năm 1957 trở đi thế giới vẫn tưởng rằng
chủ nghĩa duy vật sẽ phát triển bành trướng khắp nơi. Nhưng sự thật, thuyết duy
vật chỉ cực thịnh vào thời kỳ đầu và giữa của thế kỷ 20 mà thôi. Dần dần phong
Duy tâm lại bắt đầu nở rộ hơn và đến cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa Duy vật sẽ hoàn
toàn sụp đổ khi đó những gì thuộc về Tâm linh sẽ nẩy nở và phát triển nhanh.
Nhiều nhà khoa học đã quay về nghiên cứu các hiện tượng siêu hình với tinh thần
hăng say thẳng thắn vì theo Sudeih Babu thì những nhà khoa học này chính là
những hạt giống đang được gieo để sau nảy mầm đơm hoa kết quả phát tán khắp thế
giới. Cũng theo nhà chiêm tinh này thì trong vòng 25 năm cuối thế kỷ 20 (kể từ
năm 1975) thế giới sẽ có nhiều thay đổi lớn.
Sudeih Babu ngoài tài tiên tri ông
còn là người cứu giúp vô số những người cùng khổ ở Ấn Độ bằng nhiều phương các
khác nhau theo những tài liệu và những lời truyền khẩu thì Sudeih Babu đã từng
làm nhiều phép lạ. Ông còn biết trước ngày qua đời và ghi rõ từng ngày giờ
tháng năm và những gì ông căn dặn mọi người sau khi ông mất. Vị Thánh Sống
Sudeih Babu đã viên tịch đúng vào năm ông loan báo truớc, đó là năm 1918. Lời
di chúc của ông là Dân tộc Ấn nên đoàn kết và nếu cần, nên hợp nhất tôn giáo.
Ông cho hay: đất nước Ấn Độ sẽ còn nhiều xáo trộn và đau khổ, nạn đó và sự phân
chia giai cấp, kỳ thị tôn giáo còn nhiều và sẽ có nhiều xô xát đẫm máu xảy ra.
Ông khẳng định với các tín đồ Ấn Độ giáo rằng sẽ tái sinh vào năm 1926.
Thời gian trôi qua, lời di chúc như
chìm dần vào quên lãng. Nhưng thời gian vẫn tiến và năm 1926 nhằm ngày 23 tháng
11, có một cháu bé chào đời tại một ngôi làng nhỏ ở Ấn Độ, cháu được đặt tên là
Satyanarayana Raju cháu bé mạnh khỏe không đau ốm gì. Sau khi bỏ bú sữa cháu
lớn nhanh nhưng tuyệt nhiên không bao giờ chịu ăn thịt. Tuy còn nhỏ nhưng dáng
dấp của chỉ của Raju giống người lớn, thường có vẻ đăm chiêu, tư lự và thích
chơi một mình. Mỗi lần trông thấy người ăn xin qua đường là Raju vội vã chạy ra
dẫn vào nhà lấy cơm cho ăn. Càng lớn Raju càng thích đến lễ bái ở các đền thờ
và cung cách hành lễ rất rành rẽ mặc dù chưa học qua lần nào, điều này đã khiến
cha mẹ Raju và ngáy các bà con bạn bè cũng lấy làm kinh ngạc. Dân chúng quanh
vùng đều bắt đầu bàn tán về chú bé lạ lùng Raju. Thế rồi việc gì đến sẽ đến...
năm Satyanarayana Raju đúng 13 tuổi bỗng có một sự kiện lạ lùng xảy ra. Câu bé
đang ngồi suy tư thì bỗng nhiên vụt kêu thét lên một tiếng lớn rổi lại đi đứng
tự nhiên như không có gì xảy ra. Người nhà lo sợ hỏi nguyên do thì chú bé chỉ
lắc đầu im lặng. Qua đến chiều hôm sau, bỗng nhiên chú bé té xuống đất bất tỉnh
nhân sự. Gia đình lo việc chạy chữa đến gần khuya chú bé Raju mới tỉnh lại. Lần
này Raju có vẻ ngỡ ngàng xa lạ. Mọi việc quá khứ Raju đều không nhớ. Ngay cả đồ
vật dùng hàng ngày cũng không biết để đâu. Rõ ràng lần này Raju đã là con người
khác, chỉ có thể xác hình hài là của Raju mà thôi. Từ ngày đó trở đi, người nhà
chứng kiến chuyện lạ này đến chuyện lạ khác nào Raju hát những bài hát xa xưa
lạ lùng hay đọc những câu kinh dài và khó đọc. Đặc biệt nhiều khi Raju yêu cầu
cả nhà ngồi quanh mình để nghe thuyết giảng những bài kinh bằng tiếng Phạn, thứ
tiếng mà ngay cả cha mẹ Raju cũng công nhận là rất khó thì làm sao Raju đọc
được? Cha mẹ sợ cậu bé bị ma nhập nên tìm thầy hóa giải nhưng mọi cố gắng đều
vô hiệu. Trong khi đó, càng ngày cậu bé Raju vàng có nhiều hành động lạ lùng
hơn nữa. Rồi vào một buổi trưa đứng bóng, cậu bé Raju bước ra sân, dang 2 tay
rộng ra như hít thở dưỡng khí và chậm rãi tuyên bố:
- Tôi không phải là Satyanarayana
Raju, tôi chính là Sudeih Babu.
Sau đó, để mọi người tin chắc mình
là hóa thân của Sudeih Babu, Raju đã mô tả những gì mà trước kia mình đã sống
như cảnh tượng thành phố Ben nares, ngôi nhà nhiều phòng của vị thánh sống, các
tủ gỗ đầy ắp sách cổ, tên tuổi nhưng người nổi tiếng vào lúc đó nhất là đọc lại
lời di chúng mà Sudeih Babu đã viết trước khi qua đời vào năm 1918... Và hình như
để tăng cường cho niềm tin của mọi người, vị thánh sống này đã dùng tay không
lấy từ không khí ra nhiều đồ vật và yêu cầu mọi người lần lượt nêu tên những
thứ mình ưa thích để ông biếu tặng cũng bằng cách lấy từ không khí ra. Chính
các ảo thuật gia nổi danh thế giới khi nghe tiếng của Babu đã không ngại xa xôi
tốn kém tìm đến để quan sát và tìm hiểu vì họ nghĩ rằng Babu cũng chỉ là một ảo
thuật gia và đã áp dụng một phương cách biểu diễn khác lạ nào đó mà họ cần phải
đến quan sát tận mắt để phê phán hay học hỏi. Tuy nhiên, khi đối diện trước con
người kỳ lạ đó, những nhà ảo thuật đã phải lắc đầu thán phục vì dù họ có tài ba
điệu nghệ trong màn trình diễn lấy đồ vật từ không khí thì họ cũng chỉ giới hạn
trong vài thứ mà họ đã định sẵn. Còn riêng Sudeih Babu (tức là Raju hóa thân)
thì có thể lấy bất cứ thứ gì mà người khác yêu cầu. Có lần giữa đám đông người
có một Fakir tỏ ý thách thức nên yêu câu Babu hãy lấy từ không khí ra cho mình
một thứ đồ vật trong vòng 5 phút. Babu đưa tay ra lấy từ không khí ra một nắm
đinh sắt và vui vẻ nói:
"Đây là vật ông bị thiếu chứ
không phải bị mất, tất cả 5 cái đinh và ở bàn chông của ông".
Vị Fakir giật mình khiếp sợ vì quả
thật ông đang kiếm vật đó. Hiện nay qua thân xác Satyanarayana Raju, Sudeih
Babu đã có hàng triệu tín đồ theo ông. Ông có tài tiên tri và thường nhắdc nhở
các tín đồ làm việc thiện cứu giúp người cùng khổ. Ông thường dùng đôi tay chữa
bệnh nan y cho nhiều bệnh nhân và nhiều tín đồ còn cho biết có lần một người
chết đuối quá lâu, bác sĩ vô phương cứu chữa, ông nghe tin vôi vã đến bên
giường xoa nắn lưng ngực và mũi người chết, chỉ trong 15 phút người ấy cựa quậy
thở ra hơi và sống lại. Những sự kiện về Raju đã làm sôi nổi dư luận Ấn và cả
thế giới. Nhiều khoa học gia đã tìm đến quan sát, nghiên cứu và hầu hết đều cho
rằng: "Đây là vấn đề vượt khỏi lằn ranh của khoa học thực nghiệm"
Chính Colin wilson, một người luôn tìm tòi nghiên cứu những vấn đề khúc mắc
cũng đã viết như sau:
"Raju là hiện thân của vị
Thánh Sống Ấn Độ"
Trường Hợp Của Michael Wright
Walter Miller là một thanh niên
bảnh trai có nhiều nhân tình. Tuy nhiên trong số các người tình, anh ta yêu
nhất là cô gái bạn học cũ. Hai người yêu thương nhau rất mực. Không may, vào
năm 1967, Walter Miller bị tai nạn xe hơi và qua đời. Cô gái nghe tin bất tỉnh
mấy lần. Cô quên ăn bỏ ngủ, khóc lóc suốt ngày suốt đêm. Thế rồi liên tiếp mấy
đêm liên cô ta nằm mơ thấy Walter Miller trở về đức trước mặt cô nét mặt hớn hở
và nói: "Em à! anh sẽ trở lại với em!". Cô gái mỗi lần tỉnh giấc đều
buồn chán vì nghĩ rằng đó chỉ là giấc mơ vì không bao giờ người yêu của cô lại
có thể trở về với cô lần nữa. Walter Miller đã chết và nấm mồ anh đã bị phủ
biết bao lá rụng mùa thu rồi.
Bốn năm sau cô gái lấy chồng và
sinh hạ một bé trai kháu khỉnh đặt tên là Michael Wright. Khi đứa bé đúng 3
tuổi nó trở nên khôn ngoan lạ lùng và nói chuyện như người lớn. Một hôm Michael
nói: "Con chính là Walter Miller. Các đây khoảng ba bốn năm đã bị tai nạn
xe hơi, chiếc xe lăn xuống dốc, cửa kính vỡ tan..." Sau đó, Michael kể hết
tất cả những gì về mình, về cô nhân tình (giờ đây chính là mẹ của Michael) và
còn nói rõ ràng tên người em gái của Walter Miller nữa, đã mô tả rõ ràng thành
phố mà Walter Miller đã cùng bạn người bạn dừng lại nghỉ ngơi trước khi tiếp
tục lại xe lên đường rồi tai nạn chết người xảy ra... Câu chuyện này đã được
tác giả Quỳnh Châu lược thuật trong Tiền Phong (1991 Hoa Kỳ).
Trong cuốn Have We lived beford của
Linda Atkinson, vị nữ giáo sự triết học này đã nêu lên một số bằng chứng về sự
kiện luân hồi tái sinh (tác giả Nguyên Minh đã dịch lại năm 1995 do hội Phật
học Quan Âm ở Canada ấn hành). Chúng tôi xin tóm lược 5 trường hợp tái sinh có
thật như sau:
Trường Hợp Bà Bridey Murphy
Nhà thôi miên nổi tiếng Monrey
Bernstein đã dùng phương pháp thôi miên để dẫn dụ bà Virgina Tighe đi vào giấc
ngủ và tìm về quá khứ xa xăm của mình. Bà Virgina Tighe là một người đàn bà trẻ
đẹp thông minh, sáng trí. Qua giấc ngủ thôi miên bà đã nhớ lại một tiền kiếp
của mình lúc đó bà là một cô gái trẻ tên là Bridey Murphy. Cô là người Ái Nhĩ
Lan, sinh năm 1798 tại Cork. cha cô tên là Duncan Murphy và mẹ tên là Kathleen.
Cô có một người anh cũng có tên là Duncan. Vào thời đó gia đình Bridey sống
hạnh phúc trong một căn nhà gỗ xinh xắn. Về sau Bridey lấy chồng. Người chồng
là một luận sư tên là Brian Mc Carthy. Cả hai đến Belfast sinh sống. Số phận
không may, Bridey qua đời khiến người chồng đau khổ không nguôi. Qua giấc ngủ
thôi miên, bà Virginia Tighe cho biết rằng: "Lúc bấy giờ tôi (Bridey
Murphy) tuy đã chết nhưng linh hồn tôi vẫn lẫn quất trong nhà, ở ngay đấy với
Brian một thời gian nên biết Brian đau khổ vì nhớ thương tôi nhưng anh ta lại
chẳng bao giờ thấy được tôi. Tôi cũng trở về Cork thăm anh tôi, tôi ở ngay bên
cạnh anh ấy, nói chuyện với anh ấy nhưng anh ta chẳng thấy tôi và chẳng nghe
được tôi nói.
Nhà thôi miên Morey Bernstein đã
đưa bà Virginia Tighe vào giấc ngủ thôi miên nhiều lần nữa. Ông đã ghi âm lại
tất cả những lời kể của bà. Và hỏi ý kiến những nhà luật sư, bác sĩ, giáo sư,
ký giả về trường hợp lạ lùng này bằng cách để những người này nghe những lời kể
của bà Virginia Tighe về tiền kiếp của mình qua các cuộn băng ghi âm lại. Sau
đó, nhà thôi miên Morey quyết định viết một cuốn sách về trường hợp Virginia và
Bridey Murphy. Để cuốn sách có giá trị trung thực chớ không phải là viết chuyện
bịa đặt, một nhà xuất bản đã đứng ra lãnh nhiệm vụ kiểm chứng sự việc. Nhà xuất
bản này đã liên lạc với các cơ sở có liên hệ trong việc kiểm chứng sự kiện và
hợp tác với một số nhân vật đáng tin cậy khác ở Ái Nhĩ Lan, như thư viện để
kiểm tra về nhân vật Bridey Murphy cùng những sự kiện cùng liên quan mà qua
giấc ngủ thôi miên, bà Virginia Tighe kể lại rõ ràng.
Kết quả cho biết rằng các tài liệu
sổ bộ ở Cork ghi rõ năm 1800 có luật sư tên John Mc Carthy làm việc ở đó. Ngoài
ra trong cuốn niên giám có ghi tên 2 tiệm tạp hóa mà qua giấc ngủ thôi miên bà
Virginia có nhắc đến. Đó là tiệm tạp hóa ở Belfast tên là Fari's và một tiệm
tên là John Carrigan's. Về những địa danh khác mà bà Virginia nhắc đến qua giấc
ngủ thôi miên thì phần lớn đều được xác nhận là đúng.
Cuốn sách do nhà thôi miên Morey
viết nhan đề là The Search for Bridey Murphy lúc bấy giờ (khoảng thập niên
1950) được coi là sách bán chạy nhất. Các báo chí đua nhau đăng tải và bình
luận về chuyện lạ của Virginia Tighe, người đã nhớ lại tiền kiếp mình. Hồi đó
tại Hoa Kỳ, phát sinh hai phe, một phe chống đối, bài bác, một phe bênh vực,
ủng hộ mạnh mẽ về chuyện bà Virginia Tighe và cho hiên tượng tái sinh là có
thật. Chuyện tái sinh của bà Virginia mới đây còn được đăng tải lại trong cuốn
The People's Almanac của David Wallechinsky và Irving Wallace Battaw Books xuất
bản.
Trường Hợp Của Hai Người Không Quen
Biết Nhau: Phil và Ann
Đây là một trường hợp ngẫu nhiên,
lạ lùng đã xảy ra bắt đầu từ cuộc gặp gỡ của hai người chưa từng quen biết nhau
bao giờ, một người tên là Phil một người kia tiên là Ann.
Một hôm Phil lái xe hơi đến Maliba
thì bị lạc đường. Phil còn đang ngơ ngác thí thấy một người đang đứng bên lề
phố nên dừng xe hỏi thăm. Mặc dầu người này không biết rõ đường để chỉ vì thật
ra cô ta không phải là dân ở đây nhưng vào lúc này tự nhiên Phil không quan tâm
nhiều vào chuyện lạc đường nữa vì hai người tự nhiên cảm thấy cảm tình với nhau
ngay mặc dầu mới gặp nhau lần đầu. Cô gái tự giới thiệu tên là Ann. Họ rủ nhau
đi chơi đến chiều thì chia tay Phil về Los Angeles còn Ann thì về Monterey. Hai
người lại gặp nhau và tuần kế tiếp, lần này, trước khi chia tay Ann buồn rầu
bảo rằng nàng sẽ về trường học tại tiển bang Arizona. Hai người đều buồn bả và
họ thấy thật sự đã thương yêu nhau rất nhiều, một thứ tình cảm lạ lùng đồng
điệu giữa hai người thật hiếm thấy trên đời, đặc biệt họ có cảm tưởng lạ lùng
như đã quen biết nhau từ thuở nào rồi và họ cảm tấhy bằng mọi cách phải sống
bên nhau...
Thế rồi trong giấc mơ tự nhiên Phil
thấy Ann xuất hiện. Trong mơ rõ ràng Phil và Ann sống vui vẻ bên nhau. Phil lúc
ấy có tên là Walter Morris và Ann là Martha Williams. Walter Morris là một mục
sư thường đi diễn thuyết ở nhiều nơi và được nhiều người kính nể. Walter Morris
có vợ nhưng ông ta ly dị vợ để theo sống với Martha Williams và Walter đã cùng
Martha qua Trung Hoa làm việc chung với nhau trong Giáo Hội cứu giúp những
người đau khổ bệnh tật. Thế rồi quân Nhật tiến chiếm Trung Hoa. chúng bắt bớ và
sát hại vô số người. Mục sư Walter và Martha đã tính đến chuyện đưa một số trẻ
em mồ côi xuống tàu để đến Hoa Kỳ nhưng tàu vừa rời bến đã bị chiến hạm Nhật
chận bắt và giết hại trong số đó có cả Martha. Mục sư vô cùng đau xót và uất
hận nên đã liên kết với những người bị Nhật bắt trói trên tàu nửa đêm thình
lình tấn công các thủy thủ Nhật. Cuộc tàn sát diễn ra, nhưng sau một chiếu tàu
khác của Nhật đã đến tiếp ứng nên toàn thể người nổi loạn đều bị chết. Mục sư
bị rơi xuống biển và cố bơi thật xa torng đêm. Sáng hôm sau được một chiếc tàu
bi qua vớt lên và qua bao gian khổ, mục sư đến được Hoa Kỳ và chết ở đó sáu
tháng sau. Cái chết của mục sư Walter, tự nhiên làm Phil tỉnh giấc và từ đó
giấc mơ cứ ám ảnh Phil hoài. Phil tự hỏi đó có phải chính là cuộc đời của mình
không? Đó có phải là tiền kiếp của mình không? Nhưng đó chỉ là giấc mơ. Tuy
nhiên tại sao giấc mơ lại đủ chi tiết như thế? Cái tên Walter Morris hiện ra rõ
ràng trong trí Phil, các hình ảnh sự việc, địa danh, năm tháng đều đầy đủ. Chỉ
có cách kiểm chứng lại qua các sổ bộ thành phố tỉnh hạt liên quan, thế rồi Phil
viết thư hỏi phòng sổ bộ thành phố này và được trả lời rằng Walter Morris là
một mục sư sống ở đây khoảng thập niên 1930. Phil còn được cho biết tại thành
phố này vẫn còn cháu chắt họ hàng liên quan đến mục sư Walter Morris. Phil liền
nghĩ việc gửi thư liên lạc với những người này theo những địa chỉ đã được các
viên chức trả lời thư của Phil trước đây cho biết.
Một thời gian sau, Phil nhận được
một số thư trả lời trong đó có thư của một người đàn bà cho biết trong khoảng
thập niên 1930 bà ở gần Walter Morris từ lúc mục sư đi qua Trung Hoa cứu giúp
những người nghèo và trẻ mồ côi cho đến khi người Nhật xâm lăng Trung Hoa. Một
người đàn bà khác tên là Crawley ở South Carolina thì cho biết bà ta là con gái
của Mục sư Walter Morris. Khi đọc thư của người đàn bà tên Crawley này, Phil
vừa kinh ngạc vừa hồi hộp vừa lạ lùng vì bà cho biết: "cha tôi đã bỏ mẹ
tôi khi bà còn đang mang thai để theo một người đàn bà khác, mặc dầu vậy, ba
tôi lại thường gởi thư về cho má tôi. Ông tả rất chi tiết những gì ông đã trải
qua...
Thế rồi, Phil yêu cầu được đến
South Carolina để gặp mặt Crawley. Phil được bà này trao cho một xấp thư dày
của mục sư Walter Morris gởi cho mẹ bà lúc đó. Đọc cẩn thận cả tập thư Phil vô
cùng kinh ngạ vì tất cả những gì mục sư viết trong thư đều giống hệt các sự
việc mà Phil đã thấy rõ từng chi tiết trong giấc mơ. Tự nhiên Phil linh cảm
được rằng mình chính là mục sư Walter Morris chính nhờ sự gặp Ann mà châu
chuyện hiện ra rõ ràng từ đầu tới cuối trong ký ức của Phil. Như thế Ann và
Phil đã có một thời sống bên nhau ở kiếp trước... và bà Crawley phải chăng là
con của Phil ở kiếp trước?
Trường Hợp Người Đàn Bà Diane
Strom.
Bà Diane Strom có chồng, gia đình
sung túc nhưng luôn luôn bà bị một nỗi lo âu dằn vặt trong lòng về vấn đề tiền
bạc. Mỗi khi có điều gì liên quan đến tiền là bà sợ sệt lo lắng mất ăn mất ngủ
nhất là phải nợ ai dù số tiền nhỏ mọn bà cũng vẫn canh cánh bên lòng vì bà linh
cảm như mắc nợ ai thì rồi sẽ có một sự khủng khiếp ghê rợn xảy đến với bà. Nổi
lo lắng lạ lùng ấy cứ xảy ra mãi làm bà Diane Strom trở lên một con người luôn
luôn suy nghĩ, sợ hãi, hồi hộp như bà bị bệnh về giáp trạng tuyến bị tổn
thương. Nhưng khi đến bác sĩ khám nghiệm thì kết quả bà chẳng có bệnh gì cả.
Cuối cùng người bạn mách cho bà đến bác sĩ Morris Netherton người đã từng áp
dụng phương pháp khơi dậy ký ức xa xăm hay nói khác đi là tiền kiếp của những
người bị khủng hoảng tinh thần vô căn cứ. Khi truy nguyên được nguyên nhân thì
sự khủng hoảng ấy sẽ mất dần đi.
Nghe lời bạn, bà Diane đến gặp bác
sĩ ẩn khuất trong lòng cho bác sĩ nghe. Bác sĩ Morris thuyết phục và khuyên dụ
bà Diane xem thử nghĩ sâu xa về cuộc đời mình ngược về quá khứ để xem thử
nguyên nhân nào đã gây nên sự lo sợ lạ lùng trong cuộc sống hiện nay của bà.
Nhiều tuần lễ trôi qua. Nhờ phương pháp dẫn dụ ấy của bác sĩ Morris mà bà Diane
có thể tập trung được tư tưởng mình và phát hiện được những cảm giác và hình
ảnh lạ mà từ lâu bà chưa từng biết tới. Bà thấy mình là một bé gái ngây thơ tên
là Rita. Rita là một đứa con rơi vì bị mẹ là một nữ kịch sĩ ở NewYork bỏ rơi
khi vừa hai tuổi. Lúc ấy Rita được một cặp vợ chồng ở Pensylvania nhận về nuôi.
Năm lên 13 tuổi, Rita lại bơ vơ lần nữa vì cha mẹ nuôi bị tai nạn xe hơi qua
đời. Bé Rita sống lạc loài không nơi nương tựa đến 6 năm trời và đến năm 20
tuổi Rita gặp một người đàn ông tên là Keith Mc Culluw, họ yêu nhau và cưới
nhau. Rita sinh hạ một trai, nàng cảm thấy hạnh phúc về mọi mặt vào lúc này,
nàng lại có một công ăn việc làm đàng hoàng. Rita chuyên vẽ kiểu thời trang và
tự cắt may lấy một tiệm may mặc tại đại lộ thức bảy ở New York. Nhưng cuộc sống
sung sướng hạnh phúc không kéo dài được bao lâu. Mùa đông năm 1928 chồng Rita
qua đời rồi năm sau đứa con nàng cũng bị bệnh rồi mất. Trong khi đó, khắp Hoa
Kỳ, tình trạng khủng hoảng kinh tế gia tăng trầm trọng. Rita bị vỡ nợ, số nợ
quá lớn khiến phải phá sản và Rita tuyệt vọng đến độ phải tìm cái chết để giải
quyết vấn đề. Nàng thắt cổ tự vẫn ngay trong phòng làm việc hôm đó là ngày 11
tháng 6 năm 1933, lúc ấy Rita vừa đúng 30 tuổi...
Sau khi biết rõ chi tiết về cuộc đời
mình, tự nhiên bà Diane Strom cảm thấy thoải mái trong lòng, giống như một
người đang đau khổ uất ức được òa lên rồi sau cơn nức nở ấy bỗng cảm thấy được
vơi đi phần nào đau khổ.
Nhờ các sự kiện xảy ra rất gần và
các chi tiết rất rõ ràng nên bác sĩ Morris đã nhờ các nhân viên ở văn phòng lưu
trữ hồ sơ, các sổ bộ ở New York kiểm chứng lại xem về những gì mà bà Diane đã
cho biết như cửa tiệm may mặc ở đường số 7 tại New York, tên của người đàn ông
Keith Mc Culluw, cái chết của nữ chủ tiệm may mặc tên là Rita.v.v... Tất cả
những gì đã được trả lời đều phù hợp với những điều mà bác sĩ Morris đã ghi
nhận được từ bà Diane sau mỗi lần dùng phép dẫn dụ để ký ức bà trở về đời sống
quá khứ hay nói khác đi là quay về những sự kiện xảy ra từ kiếp trước. Theo bác
sĩ Morris Netherton thì tái sinh là câu giải đáp của vấn đề và Rita là tiền
thân của bà Diane Strom.
Trường Hợp Của Dolores Jay
Hai vợ chồng Carroll và Dolores Jay
sống yên vui hạnh phúc trong một căn nhà lớn ở Hoa Kỳ. Ông Carroll là một mục
sư có khả năng thôi miên và thường giúp nhiều người bị bệnh nhức đầu nhờ phương
pháp thôi miên này. Riêng bà Dolores Jay, vợ ông thì có nhiều lần nằm ngủ và mơ
thấy nhiều chuyện lạ lùng và bà thường la, hét, rên rỉ và nói năng qua giấc mơ.
Ông Carroll quyết định áp dụng phương
pháp thôi miên để tìm nguyên nhân sự việc đã khiến vợ ông nói mê sảng trong
giấc ngủ. Qua nhiều lần thực hiện phương pháp thôi miên, bà Dolores Jay đã được
đưa vào giấc ngủ và trả lời bằng những câu hỏi của chồng rất có mạch lạc. Bà
Dolores cho biết rằng trước đây bà là cô gái Đức tên là Gretchen Gottlieb. Lúc
16 tuổi Gretchen cùng người cậu ruột cởi ngựa đi dạo thì bất thần bị một bọn
cướp giết chêt. Giờ đây, bà là Dolores nhưng hình ảnh về cuộc giết chóc khủng
khiếp ấy cứ xuất hiện ngày càng rõ nét trong mộng dữ. Điều kỳ lạ là phần lớn
khi hỏi về hoàn cảnh, thời gian, địa điểm xảy ra sự kiện thì bà Dolores đều trả
lời qua giấc ngủ thôi miên bằng tiếng Đức mà thôi. Ông Carroll đã mời một số
chuyên viên biết tiếng Đức tới dự những buổi thôi miên của mình cho vợ là
Dolores. Chính những người nay đã nêu những câu hỏi mà họ tin chắc là bình
thường bà Dolores không biết, không thấy, không nghe được vì nó thuộc về lịch
sử, về những gì liên quan đến nước Đức cũng như sinh hoạt, phong tục, tập quán,
nghĩa là đời sống hàng ngày tại Đức khoảng thời gian mà bà bảo mình là cô gái
Gretchen. Tuy nhiên những câu hỏi trả lời của bà Dolores qua giấc ngủ thôi miên
đều rất phù hợp với những sự thật vào hoàn cảnh đó ở Đức, mặc dầu bà Dolores
sống ở Mỹ và chưa bao giờ học tiếng Đức hay đặt chân tới nước Đức.
Để được chắc chắn hơn, hai vợ chồng
Carroll và Dolores đến gặp chủ tịch Hội Kiểm Nghiệm, dò xét người nói dối
(Scientific Life Detection Inc ở New York vào năm 1974). Sau những câu hỏi hóc
búa và đầy tính cách kiểm chứng của những nhân viên trong hội tập chú vào bà
Dolores, với sự hỗ trợ của máy dò thì kết luận được đưa ra là bà Dolores hoàn
toàn trung thực, tự nhiên và quả quyết trong các câu trả lời và đó là sự thật.
Sự thật rõ ràng nhất cho thấy là chưa bao giờ bà Dolores nói tiếng Đức vì bà đã
chưa bao giờ học tiếng Đức cả, bà cũng chưa bao giờ sống ở Đức. Vậy mà trong
giấc ngủ thôi miên bà lại nói tiếng Đức và nói đúng giọng (các cuộn băng ghi âm
được thu trực tiếp). Vậy phải chăng bà Dolores Jay là hậu kiếp của cô gái Đức
này?
Mặc dù ông Carroll là một mục sư chuyên phục vụ ở nhà thờ Methodist và cũng là
nhà giáo nhưng ông tin rằng: Sở dĩ vợ ông là bà Dolores nói tiếng Đức một cách
kỳ diệu như thế là do bà đã từng là một cô gái Đức ở tiền kiếp.
Trường Hợp Bé Imad Elawar
Đây là trường hợp mà nhà nghiên cứu
về hiện tượng luân hồi Ian Stevenson xem như bằng chứng rõ rệt nhất chứng minh
sự tái sinh là có thật.
Sự kiện xảy ra tại một ngôi làng ở
nước Liban. Tại đây có một cháu bé trái tên là Imad Elawar. Bé Imad rất thông
minh, mau biết đi và biết nói. Nhưng khi nói câu đầu tiên rõ ràng thì đó là chữ
Jamileh.
Trong nhà không hiểu bé Imad nói
chữ đó là nghĩa là gì. Bé Imad bảo đó là tên của một đứa con gái trẻ đẹp. Bé
còn bảo rằng nó có hai người em tên là Amin và Huda nhưng những người em hiện
nay không còn nữa. Imad cho biết nó là con của gia đình Bouhamzy ở Khriby.
Trong đời nó trước đây nó đã trải qua một kiếp sống với nhiều sự kiện đáng sợ.
Nó đã chứng kiến cảnh rùng rợn chết chóc khi một người láng giềng bị xe vận tải
cán chết một cách khủng khiếp rồi khi nó làm tài xế lái xe buýt, có lần ngừng
xe lại vừa nhảy xuống xe thì bất ngờ chiếc xe vẫn tiếp tục chạy làm bị thương
nhiều người, nó còn kể mình thường đi săn, có lần cải lẩy của một người, và tức
giận dùng súng bắn người ấy... Nó nhớ đủ chuyện, và tự nhiên kể cho mọi người
trong nhà nghe, khiến ai cũng ngạc nhiên cứ tưởng rằng thằng bé Imad bị nhiễu
loạn thần kinh.
Một hôm bé Imad đi dạo với bà nó,
lúc còn bé vừa lên bốn. Giữa đường nó gặp một người đàn ông đi ngược chiều nó
chạy lại và kêu lên co vẽ vui mừng:
- A! Đây là người láng giềng ngày
xưa của tôi.
Người đàn ông kia ngơ ngác chẳng
hiểu gì cứ tưởng bé nói đùa. Câu chuyện được bà của Imad kể lại cho gia đình
nghe, về sau cha của Imad mới biết được rằng người đàn ông này ở làng Khriby,
nhà ông ở gần nhà của gia đình Bouhamzy sống. Chính nhà nghiên cứu Ian
Stevenson đã tìm hiểu kỷ chuyện lạ về bé Imad. Ông cho biết ngôi làng hiện nay
bé Imad đang ở cách xa Khriby khoảng 30 cây số. Bác sĩ Stevenson đã đề nghị
kiểm chứng sự kiện bằng cách đi với Imad và cha của cháu đến Khriby. Mặc dầu là
nơi xa lạ nhưng bé Imad có vẻ quen thuộc đường sá trong chuyến đi ấy. Tại đây
có gia đình Bouhamzy. Bác sĩ Stevenson tìm hiểu và biết rằng trong gia đình này
có một người bị chết vì tai nạn xe hơi thật rùng rợn giống như điều bé Imad đã
kể trước đó. Người cha trong gia đình này là Haffez Bouhamzy cho biết họ có một
người anh em họ tên là Ibrahim Bouhamzy. Khi đến căn nhà của Ibrahim, vừa bước
vào sân, Imad đã dừng lại chỉ tay vào cuối sân và nói:
- Đây là chỗ của con chó ở. Chỗ kia
là chỗ nuôi dê. Nơi đây có một căn nhà nhỏ để lưu trữ các dụng cụ. Khi bước lên
lầu tới căn phòng của Ibrahim, bé Imad chỉ một cái giường và nói:
- Cái giường này xưa kia tôi nằm
ngủ. Imad còn cho biết giường đã đổi chỗ vì ngày xưa giường này để ở chỗ khác.
Bà Bouhamzy hỏi thử bé Imad một điều mà bà nghĩ rằng chỉ khi nó ở đây trong
tiền kiếp thì nó mới biết được thôi. Bà hỏi như sau:
- Này! cháu có nhớ là tại đây cháu
đã thường xuyên chuyện trò với bạn bè bằng cách nào không?
Imad chỉ cái cửa sổ và trả lời một cách tự nhiên khiến bà Bouhamzy kinh ngạc:
- Qua cái cửa sổ ấy.
Theo lời bà Bouhamzy thì trước khi
Ibrahim qua đời, bệnh tình ngày càng nặng không ai có thể đến thăm. Ibrahim lúc
bấy giờ chỉ nằm trên giường và nói chuyện với bạn bè qua cửa sổ ấy mà thôi.
Người nhà thường nghe Imad nhắc đến
cân súng săn nên sẵn dịp hỏi Imad thử cây súng cất ở đâu. Imad cho biết cây
súng giấu sau tủ. Điều này hoàn toàn đúng. Lúc đó người em gái của Ibrahim là
Huda bước đến hỏi Imad một câu:
- Có biết tôi không?
Imad cười nói: À Huda em tôi đây
mà.
Huda ngạc nhiên vô cùng chỉ bức
hình vẽ treo trên tường hỏi:
- Hình của ai đấy?
Imad trả lời:
- Đó là hình của em trai tôi, Fuad
đó!
Huda lại đi lấy một tấm ảnh chụp
của Ibrahim hỏi Imad.
- Còn đây là hình của ai?
Imad nhìn kỹ hình rồi nói:
- Đây là hình tôi trước đây!
Bỗng Huda như chợt nhớ ra điều gì,
đến gần Imad và nói:
- Nếu quả là Ibrahim thì trước khi
chết, Ibrahim nói câu gì?
Imad trả lời với giọng buồn buồn:
- Huda ơi! hãy kêu Fuad đi!
Nghe Imad trả lời như thế, Huda nổi
gai ốc khắp người. Quả thật lúc đó, trước khi tắt hơi, Ibrahim đã kêu lên như
thế. Như vậy, mọi người có mặt, kể cả bác sĩ Stevenson cũng đều thừa nhận rằng
Imad chính là Ibrahim tái sinh.
Trong cuốn Bạn Tinh có Tái Sanh,
tác giả Minh Tuệ (1974) đã viết lại một số trường hợp có thực về tái sanh (tài
liệu được cung cấp bởi Đại Đức Narada Maha Thera, ông Francis Story và
Amarasiri Weerarartna) xin tóm lượt như sau:
Trường Hợp Nam Tài Tử Nổi Danh
Glenn Ford
Giới điện ảnh quốc tế và giới mộ
điệu phim ảnh không ai là không biết đến nam tài tử gạo cội Glenn Ford của màn
bạc Hoa Kỳ. Cuộc sống sôi động qua các vai của Glenn Ford trong cuộc đời hiện
tại cũng tượng như trong "Những cuộc đời tiền kiếp" của ông. Glenn
Ford nói: "Tôi không mê tín dị đoan, tôi không tin những điều mù quáng vớ
vẩn, nhưng tôi tin vào cái gọi là đầu thai".
Glenn Ford ngoài say mê đóng phim,
ông còn một say mê khác là tìm hiểu những vấn đề có tính cách huyền bí nhưng
đầy tính khoa học. Ông say mê lý thuyết về Thiền học, và đồn ý ới phương pháp
yên tĩnh tâm hồn qua thuật thôi miên. Chính nhờ sự giúp đỡ của một chuyên gia
tài giỏi về khoa thôi miên Glenn Ford đã ghi lại qua băng ghi âm lời thuật về
chính tiền kiếp của mình như sau:
"Năm 1774 tôi chào đời tại
Egin (thuộc xứ Scotland). Tên tôi lúc ấy là Charles Stewart, là một nhạc sư,
tôi thường dạy nhạc cho nhiều người. Về sau tôi bị bệnh phổi và qua đời n8m
1812".
Tôi còn biết là tôi cũng đã trải
qua một kiếp làm người nữa vào thời đại vua Louis thứ 14 của nước Pháp nghĩa là
khoảng những năm 1643 đến 171.
Lúc bấy giở tôi là một sĩ quan kỵ
binh bảo vệ hoàng cung tên tôi là Launvaux. Trong thời gian bảo vệ điện
Versailles, tôi đã để ý và yêu tha thiết một phụ nữ quý tộc đã có chồng. Không
may là câu chuyện yêu đương tuy chưa thành sự thật, nhưng lại bị chồng người
đàn bà này biết và thách thức đấu súng. Kết quả là tôi bị bắn trọng thường và
tôi phải trải qua một thời gian dài đau đớn quằn quại trước khi chết..."
Điều kỳ lạ là sau này khi nam tài
tử Glenn Ford còn sống, ông thường hay bị đau nhức ngưới, chỗ đau này chình
Glenn Ford cảm nhận rõ ràng và ông thường than với bác sĩ riêng của mình về vết
đau kỳ lạ ấy. Chính Glenn Ford đã viết trong tập hồi ký đời mình về vấn đề này
như sau:
"Vết thương từ cuộc đấu súng tay đôi từ "kiếp trước" ấy vẫn
thỉnh thoảng làm tôi đau đớn ngay ở "đời hiện tại" và chỉ có mình tôi
cảm nhận đều được đó thôi."
Trường Hợp Cậu Bé Michael Croston
Machael Croston sanh tại Liverpool
(nước Anh). Năm Michael đước 11 tuổi tự nhiên cậu bé có phong thái của một
người lớn chững chạc và cậu cảm nhận được rằng mình chính là ông ngoại của đã
qua đời trước trước khi Michael chào đời. Chính mọi người trong gia đình của
Michael cũng thấy rõ điều đó. Cậu bé thuộc nằm lòng các đường phố lớn, nhỏ, mòn,
đường tắt vùng hoang giã.
Yorkshire nơi quê nhà của cậu,
nhưng cậu chưa bao giờ đặt chân tới. Vậy mà cậu đã dẫn người nhà đến đó và chỉ
những ngã tắt, cửa sau, đường băng như một người đã sống ở đó lâu đời. Chỉ có
ông ngoại của cậu mới có khả năng ấy thôi.
Một điều lạ lùng đã xảy ra là có
một đêm, Michael trằn trọc không ngủ được nơi căn trại khi chiết đồng hồ quả
lắc to lớn cứ tích tắc như nhắc nhở cậu điều gì. Rồi khi đồng hồ điểm 2 giờ
khuya, cậu cảm thấy như có cái gì đó thôi thúc khiến phải vùng dậy chạy nhanh
xuống dưới cầu thang và lần tay sau chiếc đồng hồ, cậu gặp một cái nút kéo ra.
Trong một cái hốc, tay cậu chạm vào những tờ giấy bạc để trong chiếc hộp kim
loại. Về sau hiện tượng lạ lùng này đã được biết rõ nguyên nhân hơn về sự khám
phá món tiền mà ngày xưa ông ngoại cậu đã cất dấu. Nguyên nhân khêu gợi quá khứ
chính là tiếng đồng hồ kêu và khi đồng hồ vang lên 2 tiếng thì dó là giờ mà xưa
kia ông ngoại cậu đã chết.
Trường Hợp Edith Oliver (Người Anh)
Bà Edith Oliver là nữ ký giả Anh đã
có lần viếng ngôi làng Avenbury. Khi đến địa điểm này bà bỗng nhiên nhớ lại
rằng nơi đây có chợ búa với những khối đá to lớn. Tuy nhiên rằng dân làng bảo
rằng ở Avenbury không có như vậy nhưng cuối cùng các tài liệu địa phương chí
lại cho thấy vào những năm 1800 đến 1850 quả thật ở đây có những điều mà bà
Edith Oliver đã mô tả. Như vậy chỉ có một kết luận là kiếp trước bà Edith
Oliver sống tại đó?
Trường Hợp Cô Bé Gnanatilaka
Gnanatilaka sinh năm 1956 tại
Kotamale (Tích Lan) khi gần năm tuổi cô bé này đòi cha mẹ dẫn đi tìm cha mẹ
ruột chính thức của mình. Lời yêu cầu ấy cứ mãi lập đi lập lại nhiều lần nhưng
cha mẹ cô bé vẫn cho là con mình nói cho vui miệng hoặc nghĩ rằng người trong
xóm làng bày vẽ nó nói mà thôi. Tuy nhiên càng lớn đứa bé càng van nài khẩn
thiết được gặp mặt cha mẹ nó. Chuyện lạ lùng này đến tai một số nhà khoa học,
tâm lý và tôn giáo trong vùng. Cuối cùng, lời yêu cầu của bé Gnanatilaka được
thực hiện. Phái đoàn đi chung với cô bé đến vùng Talawakele. Cô bé dẫn đường
rất rành rẽ. Họ bước vào một căn nhà mà cô bé gọi là nhà cha mẹ mình. Bé giới
thiệu hai vợ chồng ngôi nhà này là cha mẹ kiếp trước của mình. Lúc ấy có một
giáo viên nhà trong vùng nghe chuyện đến xem thì cô bé bảo là thầy cô. Cô bé
cho biết kiếp trước cô là con trai tên la Tilakaratna. Cô còn chỉ nghĩa trang
và mộ chí của mình tức là của bé trai Tilakaratna cho mọi người thấy. Khi kiểm
tra lại mọi chi tiết của bé Gnanatillaka ra đời, vùng TalaWakele có cậu bé tên
là Tilakaratna và cậu bé chính là con của hai ông bà mà cô bé nhận là cha mẹ
tiền kiếp. Cậu bé Tilakaratna chết yểu vào ngày 9 tháng 11 năm 1945 chôn tại
nghĩa trng mà bé Gnanatillka đã dẫn mọi người đến chỉ đúng mộ chí và bảo đó là
mộ chí của mình ngày xưa (ý nói đến tiền kiếp).
Điều kỳ lạ là hai gia đình không
liên lạc quen biết nhau và ở rất xa nhau vậy mà tất cả những gì cô bé đã mô tả
về gia đình mà cô bé đòi đến hoàn toàn đúng.
Chính bác sĩ Stevenson cũng đã đích
thân đến Tích Lan để theo dõi và tìm hiểu vấn đề này và bác sĩ đã bảo rằng, đây
là một trường hợp đặc biệt trong các trường hợp lạ lùng về hiện tượng tái sinh.
Nhà nghiên cứu về sự chết và những
hiện tượng tiếp diễn sau khi chết là Jeffrey Iverson đã thu thập nhiều tài liệu
liên quan đến vấn đề, trong đó có vấn đề Luân Hồi và Tái Sinh. Trong cuốn In
Search of the Death xuất bản năm 1992, Jeffrey Iverson đã đưa ra một số trường
hợp tái sinh xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Đó là những chuyện có thật được
xem như những bằng chứng rõ ràng nhất về hiện tượng luân hồi.
Sau đây là vài chuyện điển hình:
Trường Hợp Cô Bé Shanti Devi ở Ấn
Độ
Câu chuyện có thật sau đây về cô bé
Shanti Devi đã một thời làm xôn xao dư luận Ân đến độ báo chí, đài phát thanh,
các phái đoàn khoa học và ngay cả Ghandi, người cha của dân tộc Ấn cũng phải
đích thân tới gặp mặt Shanti để hỏi chuyện. Chính bác sĩ Ian Stevenson, nhà
khoa học chuyên nghiên cứu về những hiện tượng liên quan đến luân hồi tái sinh
ở Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới cũng đã phát biểu như sau
- Trường hợp của bé Shanti Devi có
thể nói là một trường hợp cổ điển nhất về hiện tượng đầu thai.
Nhà nghiên cứu và biên soạn các sách chuyên về các vấn đề huyền bí siêu linh là
Jeffrey Iverson cũng đã tìm hiểu kỹ câu chuyện theo từng chi tiết một vào năm
1988. Các nhà nghiên cứu đã đến Đê li (Delhi) để gặp Shanti và hy vọng khám phá
thêm nhiều điều lý thú lạ lùng khác nhưng không may cho họ là Shanti Devi đã
qua đời trước đó 2 tháng hưỡng thọ 61 tuổi. Mặc dầu vậy, tại Delhi, hầu như ai
cũng biết chuyện bé Shanti tái sanh. Họ biết được câu chuyện rất rõ ràng từ năm
1935 là năm khởi phát ra sự kiện lạ lùng. Về sau trong gia đình Shanti, ông
Viresh Narair là người anh ruột đã thường đón tiếp các nhà báo, các nhà khoa
học, các nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới đến tìm hiểu và ông đã kể lại
mọi chi tiết về trường hợp Shanti Devi, em gái ông. Nhưng năm sau đó vấn đề
chưa lắng dịu. Nhiều nhà nghiên cứu sự kiện nêu nhiều ý kiến như Bal Chand
Nahata thuộc Hiệp Hội Phân Tích Tâm Lý ở Ấn Độ cho rằng cần phải có sự tiếp tay
hỗ trợ của những nhà tâm lý học, những nhà khoa học trong ủy ban điều tra thì
mới hy vọng đem lại những khám phá trung thực. Qua những cuộc tìm hiểu, phỏng
vấn, đối chiếu các sự kiện từ năm 1935 đến năm 1938 các nhà nghiên cứu vẫn chưa
hài lòng vì có nhiều điểm chưa được rõ ràng. Phải đến 3 năm sau, một nhân vật
có tiếng khác là ông Sushil Bose đã bỏ khá nhiều thời gian để tìm hiểu về
trường hợp của Shanti Devi và kết quả là ông đã tìm ra được bằng chứng xác thực
chứng minh rằng hiện tượng lạ lùng về Shanti Devi là có thật.
Shanti đã kể về tất cả những diễn
tiến của tiền kiếp mình, lúc đó Shanti là người đàn bà tên Ludgi. Theo Sushi
Bose nhà nghiên cứu hiện tượng Shanti thì trước tiên, ông tìm gặp người cha của
Shanti tên là Rang Bahadur Mathur ở Cheerakhana và được biết rằng bé Shanti
Devi biết nói chậm hơn các trẻ khác cùng lứu tuổi. Phải đến năm 3 tuổi Shanti
mới nói được. Bé luân luôn trầm tư mặc tưởng, đăm chiêu tư lư lạ thường. Đôi
khi những trẻ con khác chọc ghẹo hay làm điều sai quấy, ồn ào gây bất hòa xích
mích thì Shanti thường tỏ ra nhẫn nhục, chịu đựng, nghiêm trang, trông giống
như một người lớn và dàn xếp mọi chuyện một cách êm đẹp thần tình. Một chuyện
lạ đã xảy ra sau đó khi Shanti ngồi chung với gia đình trong bữa cơm chiều.
Shanti đã hỏi người mẹ một câu như sau:
- Mẹ ơi! Con thấy mẹ nấu những món
ăn khác với những gì con đã ăn lúc ở thị trấn Mathura quá nhiều. Những món này
con ăn không quen. Còn quần áo cũng vậy cũng có khác với nơi con đã sống trước
đây. Mẹ biết không, gia đình con hồi đó có một tiệm bán áo quần và căn nhà con
đã ở thì sơn màu vàng.
Mọi người trong lúc đầu còn ngạc
nhiên về câu nói kỳ lạ đó, nhưng sau đó trở thành thói quen và không ai còn
quan tâm đến một đứa bé con đôi khi hay phát ngôn những câu "bậy
bạ"... Tuy nhiên, càng về sau Shanti càng tỏ vẻ nôn nóng và năn nỉ cha mẹ
dẫn mình đến thăm căn nhà cũ ở Mathura và nhất là để thăm người chồng ngày xưa
hiện còn sống ở đó.
Một nhà giáo ở Đề Li (Delhi) nghe
chuyện lạ về Shanti nên đã tìm gặp tìm hiểu. Lúc đó Shanti đúng 8 tuổi. Nhà
giáo này cố gắng tìm cách để Shanti nhớ lại rằng nếu kiếp trước quả thật bé đã
sống ở thị trấn Mathura có chồng ở đó thì hãy thử nhớ lại tên chồng xem sao.
Khi nghe lời yêu cầu này, Shanti liền trả lời như sau: "Nếu tôi thấy được
anh ấy tôi sẽ nhận ra ngay". Theo báo cáo ghi lại thì sở dĩ Shanti không
nhắc đến tên chồng là do phong tục ngày xưa của người Ấn khi theo đạo Hindu thì
người vợ không bao giờ nói tên chồng mình cho người khác biết. Nhà giáo này đã
tìm cách mua chuộc Shanti (vì Shanti chỉ là một cô bé nhỏ dại) bằng một vài quà
tặng và còn hứa rằng nếu bé nói rõ tên chồng lúc đó thì ông ta sẽ giúp bé đến
thị trấn Mathura. Shanti suy nghĩ một hồi rồi xích lại gần nhà giáo và nói nhỏ
vào tai ông ta: "Ông nhớ giữ in nhé! tên chồng tôi lúc đó là Pandit
Kedernath Chowbey".
Trong khi đó người cha của bé
Shanti lại cho biết như sau: "Chẳng có ai trong gia đình biết về những gì
bé Shanti đã nói cả. Chẳng có ai hay biết thăm dò, điều tra gì về căn nhà ở
Mathura hay người được gọi là chồng của Shanti nói ra đều có thật! Chúng tôi
toàn thể gia đình đều mong sao cho Shanti quên đi những gì mà cháu thường nhắc
nhở đến má thôi".
Về sau, nhà giáo này lại đến lần
nữa và lần này đi cùng một người có vai vế ở trường, đó là ông Lalá Kishan
Chand, hai người này yêu cầu Shanti mô tả thất rõ ràng căn nhà ở Mathura, cả số
nhà, con đường nữa. Họ ghi lại cẩn thận và hỏi về người đàn ông mà Shanti đã
bảo là chồng tiền kiếp của mình. Rồi chẳng chờ đợi lâu, ông Chand viết một lá
thư trình bày sự việc gởi ngay đến cho Pandit Kedenmath Chowbey là người chồng
kiếp trước của Shanti theo địa chỉ ấy ở thị trấn Mathura. Họ gọi đây là
"một bức thư may rủi" vì họ không chắc có người và địa chỉ như Shanti
đã nói.
Một thời gian không lâu, họ nhận
được một lá thư từ thị trấn Mathura gởi đến. Tất cả mọi người trong gia đình
Shanti ở Delhi khi nhận được bức thư đều vô cùng kinh ngạc vì trên phong bì có
ghi rõ họ người gởi là tên của người Shanti đã từng bảo là chồng mình. Khi đọc
lá thư, ông Chand hoàn toàn sửng sốt, vì những gì viết trong thư đều phù hợp
với những gì mà Shanti đã mô tả. Người viết thư này chính là Chowbey. (đúng tên
người mà Shanti thường bảo là chồng mình ở tiền kiếp) Chowbey có cho ông Chand
biết là anh ta có một người vợ tên là Lugdi đã chết. Chính anh ta cũng rất ngạc
nhiên về những điều mà ông Chand đã viết trong thư về chuyện Shanti. Chowbey viết
thêm là anh ta sẽ nhờ một người em họ đang ở Đề Li (Delhi) đến gặp mặt Shanti
để tỏ rõ thật hư. Khoảng 2 tuần sau, người em họ của Chowbey tên là Pandit
Kanjimall đã tìm đến nhà Shanti đã nhận ra ngay là người em họ của chồng mình
và Shanti đã hỏi thăm đủ chuyện nào là chuyện con cái, chuyện ngôi nhà ở
Mathura, hỏi luôn cả cửa tiệm bán quần áo, cửa tiệm này ở trước ngôi đền
Dwarikadesh. Thấy Shanti còn nhỏ nhưng lại nói chuyện như người lớn. Vả lại
người nhà Shanti còn cho biết là Shanti cũng như mọi người trong gia đình chưa
ai từng đặt chân tới thị trấn Mathura thì Kanjimall lại càng kinh ngạc hơn nữa
vì tất cả những gì mà Shanti mô tả đều hoàn toàn đúng sự thật.
Vào ngày 12 tháng 11 năm 1935,
người đàn ông tên là Chowbey ở Mathura sau khi nhận được thư do người em họ kể
lại chuyện lạ lùng về Shanti và còn cho biết là Shanti có thể là hiện thân của
Lugdi Devi, vợ của Chowbey nên anh ta vừa bán tín bán nghi, vừa nôn nao hồi
hộp, vội vã đáp tàu hỏa đến Đề Li để gặp Shanti, người tự nhận là vợ anh.
Chowbey khi đi còn dẫn theo một
cháu bé trai chính là con của Lugdi Devi, tên là Nabanita Lall (hiện tại thì
đứa con trai này lớn tuổi hơn Shanti). Ngoài ra, đi theo Chowbey còn có người
em họ là Kanjimall và người vợ mới sau này mà Chowbey đã cưới sau khi Lugdi
Devi qua đời. Khi cả bốn người này vào nhà thì Shanti còn đi học chưa về.
Trong khi chờ đợi, người nhà trong
gia đình Shanti sau khi nghe Chowbey thuật lại mọi việc có liên quan đến Shanti
thì vội vã mời khách ngồi chơi và cũng kể hết những gì đã xảy ra về trường hợp
lạ lùng khó hiểu của con gái họ là bé Shanti. Khoảng một giờ sau Shanti đi học
về. Bước vào nhà, cô bé ngạc nhiên vì thấy có nhiều người nơi phòng khách,
Shanti vừa chào khách vừa nhìn lén từng người. Khi Shanti nhìn Chowbey thì bỗng
nhiên cô bé tỏ vẻ kinh ngạc rồi bước ngay tới ngồi gần một bên Chowbey với thái
độ bẻn lẻn e thẹn. Tất cả mọi người có mặt đều im lặng theo dõi. Người nhà
Shanti liền chỉ Chowbey và nói:
- Đây là người anh cả của chồng
cháu ngày xưa, vậy cháu có nhận ra không?
Shanti vừa mân mê vạt áo vừa trả
lời:
- Không phải đâu, đây là chồng của
con. Con đã nói chuyện này nhiều lần cho cả nhà nghe nhưng không ai tin con cả.
Mọi người nghe Shanti nói đều hết
sức lạ lùng. Người này nhìn người kia, còn Chowbey thì nhìn Shanti chăm chăm.
Trong khi đó, người vợ kế của Chowbey ngơ ngác như đang trải qua một giấc mơ.
Shanti chợt thấy đứa con trai đứng bên Chowbey thì nắm tay nó tỏ vẻ âu yếm vừa
hôn vừa khóc sụt sùi một hồi rất lâu. Shanti bảo mẹ đi tìm đồ chơi cho nó và có
lẽ sợ mẹ đi tìm chậm nên Shanti đã hăm hở chạy đi lục lọi đủ mọi thứ quà đem
lại cho "con".
Về sau người cha của Shanti đã kể
lại hình ảnh lạ lùng này mà ông đã chứng kiến rõ ràng. Mặc dầu Shanti còn nhỏ
nhưng phong thái, cử chỉ lời nói, nét mặt và ánh mắt biểu lộ rõ nét những đức
tính của một người mẹ thương con. Đó là cả một sự lạ lùng khó hiểu.
Theo lời người cha của Shanti kể
lại thì không ai còn cho Shanti là một đứa bé con nữa cả. Còn Shanti thì nước
mắt trào ra vì sung sướng mà khóc. Mọi người khi đó thấy cảnh tượng ấy cũng tự
nhiên mủi lòng rơi lệ...
Mặc dầu câu chuyện được dấu kỷ
không để lộ ra ngoài nhưng ở Ấn Độ cũng như ở những nước Đông Nam Á khác không
có chuyện nhà nào dù kín đáo bí mật đến đâu mà hàng xóm láng giềng lại không
biết.
Vì thế mà câu chuyện về bé Shanti
chẳng mấy chốc lan truyền đi khắp vùng. Nhiều người tụ tập lại nhà Shanti để
xem chuyện "lạ nhất thế gian nhưng có thật"
Chiều hôm đó, Shanti vui vẻ thúc mẹ
làm cơm mời gia đình Chowbey và chỉ mẹ những món ăn mà Chowbey thường thích.
Khi thấy người vợ mới của Chowbey ngồi gần bên người em họ có đeo nhiều nữ
trang ấy trước đây là của mình (lúc ấy Shanti là Lugdi Devi), sau khi Lugdi
mất, Chowbey đã lấy nữ trang ấy cho người vợ kế đeo.
Sau bữa cơm, Shanti quay lại hỏi
Chowbey:
- Anh Chowbey, tại sao anh lại cưới
chị ấy? Có phải chúng ta đã đồng ý với nhau trước khi tôi nhắm mắt là anh sẽ
không cưới vợ lần nữa?
Cả nhà lại một phen kinh ngạc vì
câu nói hoàn toàn là của người lớn đầy vẻ trách móc, than oán, giận hờn, lý lẽ
luật lệ mà ngoài người lớn ra, tuyệt đối không thể một đứa trẻ nào có thể phát
ngôn một cách tự nhiên như vậy được.
Trong khi mọi người còn đang ngơ
ngác thì Chowbey đưa hai tay ôm lấy đầu cúi gục xuống không nói gì cả. Có lẽ
Chowbey đang tưởng nhớ lại người vợ cũ của mình cùng những gì mà hai người đã
ước hẹn thề nguyền với nhau hồi trước đó.
Hồi lâu, Chowbey ngẩng mặt lên nhìn
Shanti và hỏi:
- Shanti đã tả lại ngôi nhà trước
đây ở thị trấn Mathura như vậy, Shanti có thể biết được những gì trong vườn nhà
ấy chứ?
Shanti gật đầu nói:
- Phải, tôi còn nhớ rất rõ ngôi nhà
và cả khu vườn. Nơi khu vườn, ở phía góc có một cái giếng. Tôi thường ngồi bên
giếng để giặt quần áo, rửa đồ đạc và tắm nữa...
Chowbey lại hỏi:
- Làm thế nào mà Shanti lại nhận
được Nabanita là con mình vào giờ phút Shanti sắp qua đời lúc đó vì thằng
Nabanita chỉ mới được có 9 ngày thôi?
Shanti suy nghĩ một lúc rồi trả lời
Chowbey:
- Bởi vì Nabanita chính là cuộc
sống của tôi, là cuộc đời tôi...
Ngày 24 tháng 11 năm 1935, một nhóm
người trong ủy ban điều tra những sự kiện về Shanti đến nhà Shanti để cùng đáp
tàu hỏa đến thị trấn Mathura để nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề. Lúc bấy giờ
chuyện Shanti lan truyền khắp nước. Báo chí Ấn đăng tải nhiều chuyện rất lạ
lùng mà học điều tra được về Shanti nhất là nhà báo Indian Press, The Tej...
thường dành nhiều trang lớn để kể về chuyện lạ Shanti.
Cùng đi với phái đoàn có Shanti và
cha mẹ ruột của cô bé. Trên chuyến tàu, những người trong ủy ban điều tra đã
ghi nhận một sự kiện là khi gần đến nơi, Shanti đã thốt lên một câu như sau:
- Đã 11 giờ rồi, cổng đền
Dwarikadesk sắp đóng đấy.
Trong câu nói ấy, người ta thấy có
một điều lạ là Shanti đã dùng một từ ngữ đặc biệt có tính cách hoàn toàn địa
phương và nhất là từ ngữ mà người Hindi hay dùng.
Dân chúng ở thị trấn Mathura trong
những ngày hôm ấy nôn nóng loan truyền với nhau về chuyện cô bé tái sinh Shanti
sẽ đến thăm lại nơi tiền kiếp cô bé đã sống. Báo chí Ấn Độ loan tin ngày hôm đó
có đến hơn 10.000 người tề tựu ở Sân ga của thị trấn Mathura để xem mặt cô bé
tái sinh.
Trong khi đó, Shanti ngồi gọn trong
lòng ông Deshbandu, một thành viên trong nghị viện Ấn. Bỗng Shanti thấy một
người đàn ông bước tới phía mình, liền chạy đến sờ chân người đàn ông ấy với vẻ
kính trọng xong đứng sang một bên nói cho Deshbandu nghe rằng: "đây là
người anh chồng lớn tuổi nhất lúc xưa của tôi". Mọi người nghe Shanti nói
thì hết sức kinh ngạc vì quả thật người đàn ông này chính là anh ruột của
Chowbey. Anh này ở Delhi và đáp tàu đến Mathura thăm gia đình Chowbey vì đã
nghe chuyện lạ lùng do Kanjimall kể lại và bất ngờ gặp nhóm người này.
Khi bước xuống sân ga, ông
Deshbandu bế Shanti lên chiếc xe ngựa chờ sẵn và nói người đáng xe là cứ theo
sự chỉ dẫn đường đi tới nhà của bé Shanti thử xem sao. Trên đường đi, Shanti
cho biết là ngày xưa (khi Shanti còn là Lugdi, vợ của Chobey) con đường dẫn tới
nhà mình không được rải đá tráng nhựa gì cả.
Đến nơi, Shanti bảo người đáng xe
ngựa ngừng lại rồi leo xuống đất rẻ vào một con đường để vào ngôi nhà nhiều cây
cối. Shanti gặp một người Bà La Môn (Brahmin) già liền dừng lại kính cẩn chào,
xong quay lại nói với những người đi theo sau:
- Đây là ông bố chồng của tôi!
Trong khi đó, hai bên đường làng,
dân chúng nghe tin đồn từ trước về chuyện "Shanti về nhà cũ của tiền
kiếp" đã tụ tập rất đông để xem cho được cô bé tái sinh.
Còn Shanti sau khi chào bố chồng
thì đi ngay vào ngôi nhà một cách rất tự nhiên. Đây đúng là ngôi nhà của người
bố chồng, nơi mà trong tiền kiếp, lúc đó Shanti là Lugdi đã cùng Chowbey đến ở
một thời gian.
Shanti đã chỉ nơi mà trước đây mình
đã ngủ, nơi mình đã treo, móc, cất quần áo. Shanti còn tỏ ra quen thuộc tự
nhiên với những người ở trong ngôi nhà này. Điều kỳ lạ nhất là trong đám đông
đứng gần nhà, Shanti đã phân biệt rõ ràng được một thanh niên khoảng 25 tuổi là
anh ruột của mình ở tiền kiếp (lúc Shanti và Lugdi) và một người đàn ông lớn
tuổi mà Shanti gọi là anh của bố chồng.
Đến trưa, những người ở trong ủy
ban bảo Shanti chỉ đường cho họ đến thăm ngôi nhà của vợ chồng shanti lúc
Shanti là Lugdi đã chỉ đường rõ ràng và đến ngay ngôi nhà đó. Tại đây, Shanti
nhớ lại rằng mình đã có nói rằng ở khu vườn nhà có cái giếng và thường ngôi tắm
ở đó. Nhưng bây giờ không ai thấy cái giếng đâu cả. Shanti tỏ ra bối rối và suy
nghĩ. Sau đó, Shanti đến góc sân dùng chân dậm dậm xuống đất và nói:
- Nơi này này! tôi nhớ rõ chính nơi
này ngày trước có cái giếng mà...
Những người có mặt tại chỗ đến ngay
nơi Shanti đã dẫm chân lên. Họ quan sát thật kỷ và khám phá ra rằng đã có một
phiến đá lớn đặt lên đó và từ lâu ngày cỏ, đất phủ lên nên không còn thấy miệng
giếng nữa. Hai ba người đàn ông liền cố sức đẩy phiến đá đi và miệng giếng lộ
ra rõ ràng.
Bỗng Shanti như chợt nhớ ra điều gì
nên vội vã quay vào trong nhà. Shanti gọi những người trong ủy ban theo mình.
Lúc này có thêm sự hiện diện của Chowbey (chồng của Shanti kiếp trước). Bước
vào một căn phòng, Shanti chỉ xuống đất và nói:
- Đây là phòng ngủ của hai vợ chồng
tôi lúc đó, tôi có đào xuống nền nhà của phòng này để chôn dấu một số tiền. Hãy
đào chỗ này lên sẽ thấy cái hộp, trong đó tôi có để tiền...
Khi nền nhà được đào bới lên, mọi
người có mặt thấy một cái hộp đặt dưới một phiến đá nhưng khi mở hộp ra thì
không thấy có gì trong hộp cả.
Shanti nhíu mày tỏ vẻ suy nghĩ và
kinh ngạc nhưng cương quyết nói:
Tôi đã để tiền vào trong cái hộp
này mà! vậy ai đã lấy tiền đó vậy? Khi đó Chobey có mặt tại chỗ liền nói ngay:
Vợ tôi là Lugdi có chôn hộp tiền
xuống nền nhà của phòng này. Khi Lugdi chết, tôi đã phải đào lấy tiền trong hộp
để trang trải mọi thứ.
Shanti nghe Chowbey nói liền cúi
đầu im lặng. Shanti còn chỉ căn nhà của cha mẹ mình ở tiền kiếp cho những ngưới
trong ủy ban điều tra xem. Shanti bước những bước chân rất tự nhiên và vững
vàng quen thuộc lên các bậc cấp của ngôi nhà tựa hồ như đã ở đây hàng chục năm
rồi. ngay tại nhà này, đã có hàng mấy chục người vừa đàn ông vừa đàn bà vừa con
trẻ ngồi đứng chờ Shanti có thể nhận ra cha mẹ ruột tiền kiếp của mình không.
Tưởng cũng nên nhớ rằng khi chuyện
Shanti loan thuyền khắp nơi. Gia đình Lugdi vẫn còn nhiều ngờ vực. Sau đó ngươi
nhà Lugdi (tiền kiếp của Shanti) đứng lẫn trong đám đông để khi Shanti tới xem
cô bé có nhận ra được cha mình ở kiếp trước không? Thế rồi khi Shanti đến, cô
bé đi thăm toàn thể ngôi nhà và phải đi ngang qua đám đông sắp thành hàng ngang
đứng quanh vườn nhà. Bỗng Shanti rẽ đám đông, tiến lại nắm tay một người đàn bà
kêu lên:
- Mẹ! Mẹ...
Sau đó, Shanti lại nhận được người
cha tiền kiếp của mình đứng trong đám đông. Hai người Shanti nhận là cha ruột
của mình ở kiếp trước chính là cha ruột Lugdi, vợ của Chowbey. Mọi người có mặt
lúc bấy giờ đã la hét vang rền và vỗ tay nồng nhiệt vì đã chứng kiến tận mắt
một chuyện lạ lùng nhất thế gian về hiện tượng tái sinh kỳ diệu. Shanti còn đưa
ủy ban đi thăm những nơi mà trước đây mà Shanti đã sinh sống qua thân xác của
Lugdi. Dân chúng quanh vùng càng ngày càng đổ xô đến xem chuyện lạ. Thị trấn
Mathura tự nhiên ồn ào náo nhiệt lạ thường. Bốn ngày sau đó Shanti cùng phái
đoàn trở lại Đê-Li. Thị trấn Mathura xa dần trong tầm mắt và càng lúc Shanti
càng tỏ vẽ u buồn rồi vì quá mệt mỏi, Shanti đã ngủ thiếp rất lâu trên đường
về.
Có một điều đáng lưu ý khi gặp
Chowbey, ông Sushil Bose đã có dịp hỏi Chowbey, chồng của Lugdi về tình trạng
sức khỏe và bệnh tình của Lugdi ra sao đến nỗi phải chết. Chowbey cho biết rằng
vợ anh lúc đó là Lugdi bị nhiễm trùng do đạp phải một mảnh xương. Sau đó khi
trở về Đê-Li, ông Bose hỏi Shanti một câu như sau:
Shanti bảo rằng trước đây Shanti là
Lugdi, vợ của Chowbey. Vậy Shanti có nhớ lúc mình là Lugdi, thì đã bị thương
tích, đau ốm nguy hiểm gì trước khi qua đời không? Shanti suy nghĩ một hồi rồi
trả lời:
Lúc ấy tôi (tức là Lugdi rất sùng
đạo(đạo Hindu) tôi thường hành hương nhiều nơi và hành lễ đúng thủ tục, đôi khi
còn vượt xa các thủ tục đã đề ra. Một hôm, tôi đã đi bộ bằng chân không(chân
đất không mang giày dép gì cả) để đi bộ quanh ngôi đền hiển linh rộng lớn ở
Harchapiri cả trăm lần không mỏi mệt. Nhưng không may là tôi đã dẫm phải một
mảnh xương sắc lẽm và bị nhiễm độc rất nặng. Chất độc lan vào máu và bác sĩ
đành phải bó tay. Khi nghe Shanti kể song sự việc, ông Bose đã ghi vào cuốn sổ
tay của mình một câu như sau:
Không còn nghi ngờ gì nữa về hiện
tượng tái sinh luân hồi của Shati Devi và Shanti là một trường hợp điển hình.
Tất cả những gì chính cô bé mô tả đều phù hợp hoàn toàn. Đó là điều khẳng định
sự thật hiển nhiên rằng Shanti là hậu thân của Lugdi và Lugdi chính là tiền
kiếp của bé Shanti.
Người Ấn từ ngàn xưa đã tin vào
thuyết luân hồi nên khi chứng kiến rõ ràng sự kiện cô bé Shanti thì họ lại càng
tin tưởng nhiều hơn nữa về hiện tượng tái sinh.
Riêng câu chuyện có thật về Shanti
thì từ năm 1935 đến nay các sách vở và các tài liệu viết về Shanti được lưu trữ
tại các văn khố và thư viện quốc gia khắp thế giới rất nhiều. Tài liệu
"Shanti" được coi như là tài liệu mẫu mực nhất cho các nhà nghiên cứu
về tiền kiếp và hậu kiếp tham khảo và tiếp tục nghiên cứu thêm.
Mới đây người ta còn bổ sung thêm
vào tài liệu Shanti một số sự kiện mới thí dụ những ghi chép trong gia đình về
giòng họ Shanti có ghi rằng trước khi Shanti lìa đời 3 hôm, Shanti đã nói với
anh mình rằng: "Em nghĩ em luôn luôn là kẻ trung thành, trước sau như một
với chồng em, cho dù anh ta (Chowbey) là chồng kiếp trước của em đi nữa. Hơn
nữa anh ta vẫn còn đó, vì thế em không muốn tái sinh lại lần nữa."
Được biết là suốt đời Shanti vẫn
độc thân không chịu lấy chồng cho đến ngày nhắm mắt (hưởng thọ 61 tuổi).
Trường Hợp Bé Dilukshi Ở Sri –
Lanka
Chuyện bé Dilukshi ở Sri Lanka nhớ
lại tiền kiếp mình cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu hiện tượng luân hồi quay
phim và viết thành sách. Chính giáo sư Erlendur Haraldson tại đại học Iceland
đã là người theo dõi sát về vấn đề này.
Câu chuyện có thật về bé Dilukshi
xảy ra như sau:
Năm 1986, bé Dilukshi vừa tròn hai
tuổi, mặc dầu với chừng ấy tuổi nhưng bé lại ăn nói những câu còn hơn cả người
lớn nữa. Trong các câu nói có những câu làm cha mẹ Dilukshi cảm thấy lo lắng,
bối rối. Mỗi lần nói với mẹ, Dilukshi chỉ gọi bằng Dì chớ không gọi bằng mẹ. Bé
lại còn năn nỉ cha mẹ hãy đem bé đến cho người mẹ ruột của bé đang ở tại ngôi
nhà thuộc vùng Dawbulla. Địa điểm này ở cách xa chỗ bé Dilukshi đang sống
khoảng 100 cây số. Mỗi lần nghe bé nói là cả nhà vừa ngạc nhiên vừa bực tức vì
cứ nghĩ rằng bé đã học của ai, nhưng kiểm soát lại thì trong gia đình chẳng có
người nào chỉ bày cho bé Dilukshi nói những câu như thế cả. Tuy nhiên cha mẹ
Dilukshi vẫn la rầy và bảo bé hãy câm miệng lại kẻo bị đánh đòn. Bé Dilukshi
vẫn không chịu bỏ câu nói và cách gọi mẹ bằng Dì, mà trái lại mỗi lần bị rầy la
thì bé Dilukshi lại trả lời như sau:
Cha mẹ con trước đây không bao giờ
la rầy con mà thường nói với con những lời âu yếm nhẹ nhàng thôi:
Ngoài ra Dilukshi còn khẳng định
rằng nó đã có lần bị rơi xuống sông Dawbulla.
Cuối cùng, cha mẹ Dilukshi không
thể yên tâm, mỗi ngày nghe con mình nói những điều mà họ cho là "vô nghĩa
lý". Họ nghĩ có thể con họ bị ma nhập, quỉ ám gì đó, vì thế cha mẹ
Dilukshi đã đến tiếp xúc với một vị cao tăng ở một ngôi chùa thuộc vùng
Dawbulla. Chẳng bao lâu, câu chuyện về bé Dilukshi được lan truyền khắp nơi.
Báo chí đã đưa tin tức về "bé gái Dilukshi lạ kỳ, nói về tiền kiếp của
mình". Dân chúng địa phương đua nhau đọc. Trong số đó có một người đàn ông
lớn tuổi, sinh sống ở Dawbulla khi theo dõi câu chuyện của bé Dilukshi thì tự
nhiên cảm thấy có sự trùng hợp lạ lùng với các tình huống đã xảy ra cho con gái
anh ta. Con gái của anh này tên là Shiromi đã bị rơi xuống gần sông Dawbulla và
đã chết (hôm đó là ngày 16 tháng 9 năm 1983; một năm trước khi Dilukshi chào
đời). Sau khi đọc bài báo, hai vợ chồng người này nôn nóng muốn được gặp
Dilukshi vì họ nghĩ rằng có thê Dilukshi là người con gái của họ tái sinh.
Dilukshi chính là Shiromi.
Nhờ sự giúp đỡ của một số nhà báo,
nhà nghiên cứu hiện tượng luân hồi. Hai gia đình vừa kể có điều kiện gặp nhau.
Theo I. W. Abeypala, người đã viết bài tường thuật và đưa tin trên báo chí về
câu chuyện bé Dilukshi thì đây quả là một câu chuyện kỳ lạ hiếm có về một người
đã chết rồi được tái sinh trở lại và đi tìm gặp cha mẹ mình ở tiền kiếp. Chính
Abeypala đã chứng kiến tận mắt bé Dilukshi nhận diện ra những người mà bé khẳng
định chắc chắn rằng đó là cha mẹ, anh chị em, cô dì, bà ngoại, của mình...
Rồi những đồ chơi trước đây của bé
Shiromi được lấy từ tủ ra đã được Dilukshi lắp ráp lại với sự thành thạo như đã
từng chơi những thứ đó. Ngoài ra bé còn đi tìm thêm những thứ đã bị thiếu trong
những thùng đồ khác một các hết sức tự nhiên. Thỉnh thoảng bé Dilukshi còn kiểm
điểm lại đồ chơi "lúc xưa" của mình xem thử có mất mát cái nào không.
Dilukshi còn lấy ở tủ sách một tập vở vẽ rồi lấy bút chì để vẽ tiếp vào phần
còn lại chưa vẽ hết. Mọi người chứng kiến các hành động và cử chỉ của Dilukshi
đều thấy rõ ràng rằng Dilukshi đã quá quen thuộc gia đình này và theo như lời
nói trước đây của bé khi chưa đến đây thì chính bé Shiromi, cô bé đã rơi xuống
sông chết ở Dawbulla.
Điều kỳ lạ là khi kéo các tủ đựng
quần áo, mặc dù các áo quần để không có thứ lớp,lẫn lộn nhưng Dilukshi,vẫn lựa
ra được những thứ áo quần nào là của Shiromi, người mà Dilukshi cho là tiền
kiếp của mình.
Khi mọi người cùng đến bên bờ sông,
Dilukshi đã đưa tay chỉ con sông bảo rằng năm Shiromi lên 9 tuổi đã bị rơi
xuống sông này. Abeypala kể lại rằng: Dilukshi đã nhặt một hòn đá nhỏ và liệng
xuống sông rồi bảo:
- Đó! đó chính là nơi con đã té
xuống.
Dilukshi còn nhớ lại những gì mà
mình (lúc đó là Shiromi) đã sống trước đó. Bé nhớ lại lúc chơi đùa với người
anh trai trên phiến đá nhô cao khỏi mặt đất và đã gọi đó là khối đá nhỏ nhắn dễ
thương Dawbulla mà từ trên đỉnh mỏm đá này, bé có thể trông thấy rõ mái nhà của
cha mẹ mình ẩn trong tàng cây. Khi những người đi theo Dilukshimô tả lại cảnh
ấy họ liền đi tìm thử ở cạnh bờ sông có khối đá nào như thế không thì quả nhiên
họ trông thấy một khối đá nhỏ nổi cao lên ở một vị trí nằm ngay giữa đoạn đường
từ con sông đến ngôi nhà của cha mẹ Shiromi khi leo lên đứng trên mỏm đá này họ
đều thấy rõ mái nhà của Shiromi lấp ló sau hàng cây.
Sự hội ngộ giữa hai gia đình
Shiromi và Dilukshi đã đem lại kết quả là cha mẹ của cháu bé Shiromi bất hạnh
nhận Dilukshi làm con gái của mình. Dilukshi được xem như Shiromi tái sinh. Còn
cha mẹ hiện nay của Dilukshi thì vẫn xem bé là con gái của mình, vì thế, giờ
đây, Dilukshi là người con của hai gia đình. Các người trong đoàn đi theo đã
quay phim và chụp ảnh hai gia đình chung cùng với nhau và sau đó họ tổ chức một
bữa tiệc mừng sự hội ngộ lạ lùng chưa từng có này.
Trường Hợp Bé Subashini.
Sonaw Gyatso là một bé gái 13 tuổi
sống với cha mẹ tại Sri - Lanka. Căn nhà Sonaw Gyatso ở gần vùng rừng núi. Theo
lời thuật của cha mẹ Sonaw Gyatso thì cô bé thường hay sợ tiếng động. Nhiều lần
Sonaw Gyatso đã kể lại cho gia đình nghe rằng trước đây bé đã bị chôn vùi vì
đất lở do trận giông tố tạo mưa lớn gây nên. Năm Sonaw Gyatso 13 tuổi, bé bắt
đầu nói về kiếp trước của mình một cách rất tự nhiên.
Lúc đó con tôi là một cô gái hái
trà (hái trè) nơi đồn điền rộng lớn ở Sinhapitiya (Gampola). Thế rồi, vào một
đêm kia, trong một trận giông bão lớn đến khủng khiếp mẹ con lúc đó bảo con hãy
đốt đuốc lên và ra ngoài xem thử tình hình ra sao. Có thể đất, núi, đồi quanh
đó lở và sụp đổ không chừng... khi con cầm đuốc bước ra khỏi nhà, trời tối đen,
giông tố nổi lên và con đã bị phủ ngập trong những khối đá sụp đổ từ cao xuống.
Sonaw Gyatso đã chỉ rõ nơi mà thảm
họa đã diễn ra và cả gia đình của Sonaw Gyatso lúc đó cũng đều bị chết.
Theo các tài liệu kiểm tra được về
những thảm họa xảy ra ở vùng này thì khoảng tháng 10 năm 1977 (khoảng hơn 2 năm
trước khi Sonaw Gyatso chào đời) đã có một trận đất chuồi (sụp lở) làm chôn vùi
dân cư ở đây. Báo hàng ngày Ceylon Daily Mirror đã đăng tải truyện này và còn
cho thấy những nấm mồ của những nạn nhân bị chết trong vụ đất lở này, tổng số
người bị chết là 28 người cả người lớn và trẻ con.
Điều kỳ diệu là Sonaw Gyatso mặc
dầu ra đời sau cuộc thảm họa ây nhưng lại mô tả lại thật rõ ràng những gì đã
xảy ra. Cha mẹ Sonaw Gyatso cho biết là chính họ cũng không hiểu rõ chi tiết
như con họ đã mô tả. Như vậy Sonaw Gyatso đã nhớ lại kiếp trước của mình và nhớ
luôn cả những gì đã xảy ra lúc đó. Sonaw Gyatso còn cho biết là chỗ ở của mình
lúc đó cách xa chỗ ở hiện nay 100 cây số. Sonaw Gyatso còn tả chi tiết về những
người trong nhà làm gì trước khi trận chuồi đất xảy ra. Theo Sonaw Gyatso thì
người anh cả tối đó có về nhà nhưng rồi lại đi ngay trước khi cơn thảm họa kéo
tới nhờ đó mà anh thoát chết. Ngoài ra người chị của Sonaw Gyatso tối hôm đó
cũng không có mặt ở nhà. Các nhà nghiên cứu sự kiện tái sinh đã cố gắng đi sâu
vào vấn đề. Họ nghĩ tại vùng xảy ra đất chuồi năm 1977, những thân nhân của
những người bị nạn chắc chắn vẫn còn sinh cơ lập nghiệp quanh đó và hy vọng sẽ
tìm ra được người đàn ông mà Sonaw Gyatso đã bảo là người anh cả trong nhà đã
thoát chết khi thảm họa xảy ra. Sau đó chính Sonaw Gyatso đã nhận ra được người
này và khi hỏi lại thì chính anh ta còn nhớ rõ ràng trước khi xảy ra tai nạn
đất lở, anh ta có về nhà và đã rời khỏi nhà tức thì có công việc riêng. Khi hỏi
về người em gái của anh ta thì anh ta buồn rầu trả lời:
- Em tôi cũng đã bị chết trong trận
bão tối hôm đó rồi. Em tôi tên là Mallika (Devi Mallika). Để tìm đúng nơi mà
Sonaw Gyatso đã mô tả, đoàn nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của ông I.B.Herath đã
leo lên ngọn núi, từ đó nối liền với những đồi chè thoai thoải. Mọi vật chẳng
có gì thay đổi ngoài một vài nơi đất sụt lở dưới chân đồi, dưới có nhiều ngôi
nhà bị chôn vùi trong đất đá, Herath đã đúc kết lại những gì đã xảy ra trong
thảm họa đó. Lúc đó khoảng 8 giờ tối ngày 27 tháng 10 năm 1977 sấm sét càng lúc
càng mãnh liệt tiếp theo sau 4 ngày mưa tầm tả. Bất thình lình một tảng đá hoa
cương (granite) khổng lồ nặng hàng ngàn tấn sụt lở từ trên cao lôi cuốn theo
đất, bùn sụt lở ào ào đổ xuống sường núi và chôn vùi tất cả những gì nằm ở bên
dưới, trong đó có bé Mallika và gia đình của bé.
Trong bản ghi các tài liệu về
trường hợp của Sonaw Gyatso có một đoạn mô tả cách uống trà của Sonaw Gyatso
khá lạ lùng. Thường ngày Sonaw Gyatso đều uống trà, đó là thói quen khó bỏ
nhưng cách uống trà lại có phần kỳ dị. Mỗi lần uống, Sonaw Gyatso đổ một ít
đường vào lòng bàn tay rồi khi uống một hớp trà thì lại dùng lưỡi liếm một tí
đường cho ngọt miệng. Cha mẹ Subashini đã ngạc nhiên về cách uống trà của con
mình và chẳng hiểu vì sao Subashini lại thích uống trà theo kiểu lạ lùng như
vậy. Mãi về sau, khi người đàn ông mà Subashini bảo là anh cả của mình từ kiếp
trước kể chuyện uống trà trong gia đình anh ta thi khi đó mới vỡ lẽ ra rằng: Sở
dĩ Subashini uống trà theo cách vừa mô tả là do khi Subashini còn là Mallika
(tiền kiếp) thì trong gia đình này vì quá nghèo không đủ khả năng mua nhiều
đường pha vào tách trà để uống thường lệ mà phải "chấm mút" nhỏ giọt
theo phương cách đã kể. Cái thói quen uống trà kiểu đó vẫn còn lưu giữ đối với
Subashini khi tái sinh.
Giờ đây, các nhà nghiên cứu không
còn nghi ngờ gì nữa về những gì mà chính Subashini đã kể về đời sống tiền kiếp
của mình, về những gì đã xảy ra cho mình và cho gia đình, tất cả đều phù hợp
với những gì mà các nhà nghiên cứu đã tìm thấy. Ngoài ra sự kiện Subashini uống
trà theo những cách thức liếm đường trong lòng bàn tay và nhất là kinh hoàng
hốt hoảng, lo sợ khi nghe tiếng sấm vang đều là những bằng chức hết sức rõ ràng
chứng minh rằng bé Millika đã tái sinh trở lại qua bé Subashini vậy.
Trường Hợp Duminda Hậu Thân Của Một
Vị Sư Trưởng Hay Ven Gunnepara Tái Sinh?
Tại Sri Lanka có một bé trai tên là
Duminda. Khi sinh ra và lớn lên, cháu bé cũng giống như bao nhiêu em bé khác,
chẳng có gì đặc biệt. Nhưng đến năm 3 tuổi tự nhiên Duminda biết tụng kinh như
một chú tiểu và lạ lùng hợn nữa là bé tụng kinh theo nguyên văn tiếng Pali một
thứ tiếng rất khó thuộc về ngôn ngữ cổ xưa của Phật giáo Ấn Độ.
Gia đình Duminda trước đó cũng đã
có ý định muốn gởi bé vào một tu viện địa phương và họ muốn chuẩn bị cho con
mình trở thành một chú tiểu để dần dần trở nên một nhà chân tu sau này.
Duminda được bố mẹ dẫn đến thủ đô của một vùng đảo nổi danh được xem như là
trung tâm tôn giáo nổi tiếng nơi mà Đền thờ Răng Thiêng của Phật được xây cất,
địa điểm này ở gần với tu viện Asgiry.
Trong thời gian còn bé, Duminda
sống với ông bà chớ không ở với cha mẹ. Ngay từ tấm bé, Duminda thường ăn mặc
rất khác người. Thường ngày bé khoác bên mình một miếng vải màu vàng (vắt ngang
qua vai giống kiểu áo choàng của những nhà sư thường mặc). Cứ mỗi ngày, Duminda
đến viếng nơi Đền Thiêng. Nơi đây bé Duminda tụng kinh Pali.
Cha mẹ Duminda cho biết: Năm lên ba
tuổi, Duminda tự nhiên nói một câu như sau:
- Trước đây tôi là một nhà sư ở đền
Asgirya.
Ông ngoại của Duminda cũng cho biết
là thường khi đứa cháu này thúc giục mọi người trong gia đình hãy đến Đền
Asgirya để lễ bái.
Sáng nào Duminda cũng dậy sớm,
khoát tấm vải màng như đắp y lên mình rồi bước ra cửa đứng trước mặt nhà nhìn
người qua lại. Mỗi lần thấy bóng dáng một vị sư bước lên xe bus là Duminda kêu
to lên như nhắc nhở:
- Kìa, kìa, nhà sư đã lên đường
rồi, tôi cũng muốn đến Đền Asgirya, hãy để tôi đi!
Những gì mà cá nhà sư thường làm
như giờ trai tăng, giờ tụng kinh, giờ đọc sách, lễ phật... thì Duminda đều làm
đúng theo như một vị sư đã tu trì lâu ngày trong chùa vậy. Người mẹ Duminda thì
kể rằng: Duminda rất sạch sẽ, thường căn dặn mẹ là không nên đụng tay vào một
vị sư nào vì đó là điều cấm kỵ. Ngay cả khi người mẹ tắm cho Duminda thì chỉ có
múc nước xối lên người bé thôi chớ không được kỳ cọ đụng tay vào da thịt bé.
Duminda cũng không chơi với những trẻ con khác vì tự nhận mình là người lớn,
luôn luôn tỏ ra đàng hoàng nghiêm túc. Bé thường dặn người trong nhà hãy gọi
mình là chú tiểu hay sư nhỏ cũng được hoặc gọi bằng hai chữ Podi Sadhu. Duminda
dần dần không còn là đứa bé kỳ dị đối với gia đình nữa. Cha mẹ Duminda chẳng
còn ngạc nhiên hay lo lắng về những cử chỉ, lời nói lạ lùng của bé nữa vì họ
xem Duminda như có "căn cơ" "nghiệp lực" tu trì từ nhỏ và
chắc chắn sẽ thành vị sư tài ba sau này. Vì thế họ dự định gởi Duminda vào tu
viện, ở Tích Lan cũng có tục lệ gần giống với Tây Tạng về vấn đề con trẻ thường
được cha mẹ gởi vào tu viện để được đào tạo và trở thành tu sĩ sau này.
Duminda thường dùng cái quạt cầm
tay để che trước mặt giống như những nhà sư thường làm và ngâm thơ một cách
thành thạo. Khi gặp các nhà sư ngoài đường hay đến nhà. Duminda luôn luôn nhắc
đi nhắc lại rằng mình trước kia (kiếp trước) cũng là một nhà sư tu hành ở
Asgirya. Duminda còn cho biết là tại đó có một tu viện lớn và mình có một ở với
đầy đủ đồ đạc và của cải. Ngoài ra, còn có một chiếc xe mô tô nữa. Duminda
thường ngỏ ý muốn được đến Asgirya thể thăm ngôi Đền Thiêng và coi lại căn
phòng, đồ đạc và chiếc xe của mình.
Những nhà sư đã có lần gặp Duminda
đều có nhận xét rằng: "Đây là một đứa trẻ có phong cách, cử chỉ, lời nói
lạ lùng hoàn toàn khác xá với những đứa trẻ khác. Nhiều người đề nghị là nên
đưa Duminda đến Asgirya một chuyến thử xem sao.
Chuyến đi được sắp đặt chu đáo.
Ngày khởi hành là ngày chủ nhật, tháng 10 năm 1987. Cùng đi với Duminda đến
Asgirya có một số nhà báo và bhàm khoa học. Một số nhà báo của tờ báo nổi tiếng
Island là Oliver Silva cũng tháp tùng theo. Suốt cuộc hành trình. Duminda rất
tành về đường sá dẫn đến tu viện chính ở Asgirya Duminda còn nhắc lại những tập
tục ở đó nhất là những phương thức, nghi lễ cầu nguyện. Duminda nhắc lại là lúc
còn là vị sư ở đó, Duminda đã dược tôn kính và nể trọng.
Khi tới nơi, một vị sư đã nghe qua
chuyện kể về Duminda và nêu lên câi hỏi như sau:
Chào Duminda, chẳng hay Duminda có
biết cây Bồ Đề nơi dấu tích Linh Thiêng của phật ở đâu chăng?
Duminda nghe vị sư hỏi mình câi đó thì im lặng không trả lời nhưng bước đi thật
nhanh không do dự qua một nơi với nhiều bậc cấp quanh co và đến nơi có ngôi điện
nằm dưới cây Bồ Đề.
Khi vào trong tu viện, Duminda tự
nhiên đi qua các phòng như người đã ở đây từ lâu rồi. Đến một phòng khá khang
trang gần tu viện Dumind mởp cửa và chỉ vào trong nói với mọi người:
- Đây là căn mà xưa kia tôi đã ở.
Các nhà sư có mặt ở tu viện vô cùng
kinh ngạc, họ không dám coi thường Duminda, họ tỏ vẻ kính nể ra mặt. Một vị tu
sĩ mời Dumimda ngồi cho đỡ mỏi nhưng Duminda vẫn đứng yên chờ cho đến ki có
người đem miếng khăn trắng phủ lên ghế mới chịu ngồi xuống vì đó là tục lệ đặc biệt
dành cho một vị cao tăng.
Duminda lúc bấy giờ mới chững chạc,
chậm rãi kế về thân của mình cho mọi người nghe.
- Trước đây tôi là một vị sư và đã
qua đời sau một lần té ngã xuống đất. Lúc đó tôi cảm thấy đau tức ở ngực thật
dữ dội và được chở tới bệnh viện nhưng không thể cứu chữa được nữa.
Khi một bức ảnh xưa chụp 12 vị sư
được đem ra trao cho Duminda xem thì Duminda nhìn ản một hồi lâu rồi đưa ngón
tay chỉ một vị sư đứng trong ảnh và nói:
- Người này chính là tôi!
Lúc bấy giờ hai vị sư già và vị cao
tăng trong tu viện xem lại người mà Duminda đã chỉ trong bức ảnh thì họ đều xác
nhận được chính là vị sư trưởng của tu viện tên là Ven Gunnepana. Vị này đã qua
đời năm 1929. Điều trùng hợp lạ lùng với những gì mà Duminda đã nói trước đó là
vị sư trưởng này có của cải, tiền bạc và có một chiếc xe mô tô nữa.
Duminda còn chỉ cho mọi người thấy
nơi mà trước đây mình đã ngủ, nơi treo các quần áo.
Trước bàn thờ Phật. Duminda kính
cẩn quỳ xuống làm lễ tụng kinh bằng tiếng Pali.
Có lần một người trong đoàn nghiên
cứu hiện tượng Dumimda tái sinh đã hỏi:
Duminda học những bài kinh tiếng
Pali này ở đâu? thì Duminda trả lời như sau:
Bác sĩ Ian Stevenson đã phát biểu
như sau khi nghiên cứu kỷ hiện tượng lạ lùng về cậu bé Duminda.
Đây là một trường hợp ly kỳ và lý thú về hiện tượng được gọi là hiện tượng luân
hồi tái sinh. Một hiện tượng cho đến nay rõ ràng khoa học chưa có thể giải
thích nhưng càng ngày con người càng gặp nhiều hiện tượng tương tự xảy ra khắp
nơi trên thế giới...
Sự kiện vừa kể trên được xem như
trường hợp thuộc về hiện tượng hoá thân trở lại của những vị chân tu để hoàn
tất một tâm nguyện như tiếp tục cứu độ chúng sinh chẳng hạn. Và sự kiện này đã
trở thành thông thường nơi xứ Tây Tạng.
Sự Tái Sinh Của Những Vị Hóa Thân
Sự tái sinh luân hồi được hiểu đơn
giản là sự đầu thai lại và người Tây Tạng tin tưởng rằng có những vị cao tăng,
những vị sư trưởng, khi chết thường có ý nguyện được tái sinh trở lại để giúp
đỡ chúng sinh. Các vị Bồ Tát mặc dù đã thoát khỏi vòng luân hồi Nhân Quả nhưng
họ vẫn muốn được đầu thai trở lại để hoàn tất ước nguyện cứu độ những kẻ còn
chìm đắm trong mê mờ tối tăm ở cõi thế.
Danh từ Hóa Thân được dịch từ chữ
Tulkus và được hiểu như đã nói trên. Thật ra từ Hóa Thân chỉ dùng cho những vị
Bồ Tát còn muốn tái sinh trở lại. Nhiều sách vỡ đôi khi còn dịch chữ Hoá Thân
qua từ Reincamation. Từ Reincamation chỉ sự đầu thai của tất cả những chúng
sinh còn bị nghiệp quả luân hồi tác động. Trái lại từ Tulkus chỉ sự đầu thai
trở lại theo ý muốn, vì những người đầu thai này thật sự đã thoát khỏi sự ràng
buộc của luân hồi. Những vị này sau khi đã đầu thai rồi, họ vẫn ý thức được rõ
ràng về tiền kiếp của mình và biết rằng mình tái sinh trở lại là để thực hiện
một ý tưởng vị tha cao cả cho chúng sinh.
Theo các tài liệu nghiên cứu về
Phật giáo Tây Tạng và nhất là những cuộc đời của Đức Đại Lai Lạt Ma Tây Tạng
(mà chúng tôi may mắn đã có được một tài liệu giá trị của tác giả Phương Dung
viết về đề tài này trên báo Hồn Việt và báo Việt Nam (1993) thì từ năm 1419 Tây
Tạng đã có truyền thống về sự hóa thân khi Đại Sư Tsong Khapa qua đời. Vị này
đã chỉ định sư Gedum Truppa thay thế mình. Chính vị sư này đã nguyện rằng sau
khi chết sẽ tái sinh trở lại để cứu độ chúng sinh và hoàn tất những gì mình
chưa làm xong cũng như phát triển việc huấn luyện các tu sĩ phái Gelugpas
thường được gọi là phái Mũ Vàng lúc đó đang gặp nhiều khó khăn trở ngại.
Theo Đại Sư Gedun Truppa thì hóa
thân trở lại trần gian, ông sẽ đầu thai trở lại qua các vị Đạt Lai Lạt Ma. Để
các đệ tử biết được mình sẽ hóa thân vào người nào, Đại sư đã chỉ rõ một vài
thứ đồ dùng hằng ngày của mình và viết một bài kệ đặc biệt. Ngày sau cứ theo đó
mà suy đoán. Sau khi Đại sư Gedun Truppa viên tịch được 2 năm, các đệ tử đã
thăm dò, theo dõi, tìm kiếm khắp nơi những gì khả dĩ nói lên được sự tái sinh
của Đại Sư.
Lúc bấy giờ ở một vùng kế cận Thủ
Đô, có một bé trai mới 2 tuổi nhưng ăn nói và hiểu biết thông thạo như người
lớn. Nghe được tin này, các đệ tử của Đại Sư đã tìm đến tiếp xúc. Họ thấy cậu
bé trả lời những câu hỏi do họ đưa ra rất trôi chảy. Sau đó là cuộc thử thách,
họ đặt những di vật của Đại Sư Gedun Truppa lẫn lộn với nhiều đồ vật khác của
những vị sư khác trong tu viện trước mặt cậu bé rồi hỏi như sau:
- Hãy cho biết những thứ nào người
đã thường dùng ngày xưa?
Cậu bé nhìn tất cả các thứ rồi lựa
chọn những di vật của Đại Sư Gedun Truppa để riêng ra một bên rồi nói:
- Đây là những thứ tôi thường dùng
ngày trước.
Các đệ tử vô cùng kinh ngạc, một
người nhớ lại bài kệ liền đưa cho cậu bé đọc thử. Không ngờ vào tuổi nhỏ như
vậy mà cậu bé lại đọc được cả bài kệ và còn giải thích luôn những đoạn khó hiểu
cho mọi người nghe.
Sau khi đã chắc chắn đó là vị Hóa
Thân của Đại Sư Gedun Truppa. Các đệ tử đã rước cậu bé về tu viện và tôn lên
làm Sư Trưởng với danh hiệu là Gedun Gyatso. Tại tu viện, cậu bé đã được huấn
luyện rất kỷ về giáo lý quy luật và mọi thứ dành cho vị Sư Trưởng sau này.
Gedun Gyatso rất thông minh, học một biết mười, có lần cậu bé thấy nhiều người
trong tu viện kinh ngạc về trí thông minh của mình nên đã nói một câu như sau:
- Thế các người không biết ta chính
là Đại Sư Gedun Truppa hay sao?
Về sau, cậu bé đã lớn lên trong tu
viện cùng với các tài năng xuất chúng của mình. Lúc bấy giờ ông là một Sư
trưởng nổi danh về tài đức, thông suốt mọi kinh điển Phật giáo và đã đi rao
giảng, giúp đỡ mọi người từ những làng mạc xa xôi đến những nơi heo hút khiến
mọi người dân ở Tây Tạng đều tôn sùng kính nể. Sư trưởng có nhiều ước nguyện
trong vấn đề cứu độ chúng sanh. Nhưng chưa thực hiện được bao nhiêu thì bệnh
bất ngờ và qua đời. Trước khi tắt hơi, vị Sư trưởng này đã trăn trối lại mình
sẽ tái sinh lần nữa để mong hoàn tất ý nguyện. Lần này, ông để lại một số di
vật khác trước và một bài kệ mới để các đệ tử dùng trong việc tìm ra người mà
Sư trưởng sẽ đầu thai vào. Không đầy một năm rưỡi sau, người ta phát hiện được
một ngôi làng ở rất xa thủ đô có một cháu bé ra đời trong một gia đình nghèo.
Bé này có những cử chỉ và lời nói rất lạ lùng. luôn luôn tỏ vẻ nôn nóng và yêu
cầu về đến được chính tu viện để gặp mặt một số vị sư ở đó. Tu viện chính liền
cử ba người đến ngôi làng ấy. Khi đi, họ đem theo các di vật của Sư trưởng cùng
bài kệ. Trước lúc phái đoàn đến nhà một ngày, cháu bé đã báo cho gia đình biết
là: "Ngày mai sẽ có khách quý đến thăm, hãy chuẩn bị trà nước đón
khách". Quả nhiên ngày hôm sau phái đoàn tu sĩ của tu viện chính đến, cháu
bé đã nhận ra một người trong đoàn, đó là một vị sư già thường lo việc giao
tiếp giữa các ngôi chùa, các tu viện, cháu bé đã hỏi thăm về tình hình ở tu
viện cùng những việc mà lúc sinh tiền, Sư trưởng Gedun Gyatso đã biết qua. Các
vị sư lại bày ra các di vật của sư trưởng chen lẫn với những thứ khác vào và
yêu cầu cháu bé chọn ra hai đồ vật mà trước đây Sư trưởng Gedun Gyatso thường
dùng và còn chỉ vào một vật thứ ba rồi bảo rằng:
- Vật này ta thường dùng hằng ngày.
Nhớ giữ gìn cẩn thận kẻo sứt mẻ.
Riêng bài kệ, cháu bé đọc song suốt
và còn bảo rằng: "bài kệ ngày xưa vẫn còn lưu trữ tại tu viện chứ?"
Cháu bé được tôn vinh sau đó làm vị
Đại Sư tên là Sonaw Gyatso. Đây là vị Đại Sư tài ba nỗi lạc còn hơn cả vị Sư
trưởng trước. Điều này được các vị Trưởng Lão giải thích rằng: qua nhiều lần
tái sinh và học hỏi, lần tái sinh sau bao giờ cũng đặc sắc hơn vì đây là một sự
tiến hóa, trong đó có sự tiến hóa rõ ràng về kiến thức. Hơn nữa vì sự Hóa thân
nên các vị này luôn luôn tu bồi thêm công quả và sự học hỏi của mình. Đại sư
Sonaw Gyatso đã là người tạo sự giác ngộ lạ lùng cho danh tướng hung dữ Đại Hãn
và cũng từ đó mà tướng Mông Cổ này đã phong Đại Sư làm Đạt Lai Lạt Ma và cầu
mong Đại Sư bảo vệ và giáo hóa cho người Mông Cổ.
Năm 1588, Đại Sư Sonaw Gyatso qua
đời, lần này vị Đại Sư căn dặn các đệ tử trước khi xuôi tay là mình sẽ lại tái
sinh một lần nữa để cứu độ người Mông Cổ. Vị Đại Sư đã để lại một số di vật và
một bài kệ ngắn để các đệ tử đối chiếu và tìm kiếm người hóa thân.
Đến khoảng năm 1593, các đệ tử mới
tìm gặp một bé trai 5 tuổi có những điều rất phù hợp với cuộc thử nghiệm. Bé
trai này được đưa về tu viện và phong danh hiệu là Yonsten Gyatso Tưởng nên
biết rằng bé trai này gốc gác là cháu nội của Đại Hãn Mông Cổ Về sau, bé trai
này trở thành Đạt Lai Lạt Ma và chính nhờ vị này mà nhân dân Mông Cổ trải qua
được một thời đại vững bền, an cư lạc nghiệp.
Khi Yonsten Gyatso, vị Đạt Lai Lạt
Ma thứ 4 này qua đời, các đệ tử lại theo truyền thống như trình bày từ trước để
tìm người kế vị. Đó là Hóa thân của chính Yonsten Gyatso. Đây là vị Đạt Lai Lạt
Ma thứ 5 danh hiệu là Lobsang Gyatso. Trong đời ngài, cung điện Potala được xây
dựng cùng với nhiều tu viện và đào tạo nhiều tu sĩ có nhiều khả năng từ đạo đức
đến học vấn. Tây Tạng nhờ đó ngày càng phát triển mạnh về nhiều mặt. Các vị Đạt
Lai Lạt Ma tuần tự nối tiếp theo phương thức Hóa thân đã cố gắng chăm sóc nhân
dân và gìn giữ đất nước được độc lập lâu dài trong suốt mấy trăm năm.
Nhưng rồi tai họa lại xảy đến cho
toàn dân vì Tây Tạng nằm bên áp lực của những nước lớn như Nga và Trung Cộng,
ngoài ra còn chịu áp lực của những nước khác nữa. Lúc bấy giờ vị Đạt Lai Lạt Ma
thứ 13 của Tây Tạng là Thupten Gyatso đã tìm đủ mọi cách để chống đỡ đất nước
nhưng càng ngày Tây Tạng càng bị ngoại bang nhòm ngó. Ngài biết trước thế nào
đất nước ngài cũng gặp thảm họa nhưng ngài lại không thể sống thêm để cứu nguy
dân tộc và đạo pháp. Sau khi ngài qua đời, Trung Cộng tung quân xâm lược, đàn
áp người dân Tây Tạng và tìm cách triệt hạ tôn giáo.
Tục truyền rằng khi vị Đạt Lai Lạt
Ma Thupten Gyatso qua đời, nhục thân ngài ở vị thế ngồi tĩnh tọa và được ướp
xác theo phương pháp cổ truyền. Nhưng sau đó các tu sĩ thấy mặt ngài đã chuyển
về hướng Đông Bắc. Vị sư già nhiều kinh nghiệm đã suy ra rằng đức Đạt Lai Lạt
Ma đã chỉ hướng, nơi mà ngài lại tái sinh. Từ đó cuộc tìm kiếm vị Hóa thân của
ngài được tiến hành. Phái đoàn lên đường nhắm hướng Đông Bắc mà đi. Trên đường
họ thu thập thêm các sự kiện có liên hệ. Một hôm họ nghe đồn về một cháu độ 3
tuổi rất thông minh và thường nhắc đến các vị sư cũng như thích kinh điển. Phái
đoàn đến ngôi nhà đó. Đây là một ngôi nhà xây bằng đất tọa lạc bên cạnh một cây
cổ thụ sum xuê. Khi phái đoàn bước vào thì gặp cháu bé. Cháu bé rất vui mừng
khi thấy các nhà sư vào nhà mình nên chạy vội đến mà ngồi lên đùi một vị trưởng
lão hòa thượng vì vị này có đeo một chuỗi hạt rất đẹp vị sư hỏi:
- Tên ngươi là gì?
Cháu bé đáp:
- Tôi là Lhamo
Vị sư lại chỉ một nhà sư đứng bên
cạnh và hỏi:
- Đây là ai?
Cháu bé đáp:
- Đây là Lạt Ma Scra.
Phái đoàn đã biết được một phần nào
kết quả khi trắc nghiệm cháu bé Lhamo, nhưng họ còn phải tìm hiểu thêm nữa
trước khi quyết định tháp tùng Lhamo về tu viện. Lần sau họ đưa ra một số xâu
chuỗi khác nhau và yêu cầu Lhamo phân biệt thử xâu chuỗi nào là của Đạt Lai Lạt
Ma thứ 13 thường dùng. Lhamo liền bước đến dùng xâu chuỗi không đúng của Đạt
Lai Lạt Ma ra và chỉ giữ lại xâu chuỗi của ngài đã dùng trước đây. Các vị tu sĩ
đều kinh ngạc vì quả thật xâu chuỗi đó chính là xâu chuỗi của Đạt Lai Lạt Ma
thứ 13. Các cuộc trắc nghiệm kế tiếp đều được Lhamo làm đúng hoàn toàn. Do đó
phái đoàn quyết định đưa Lhamo về kinh đô. Mặc dầu đường sá khó khăn lại thêm
quân đội Trung Cộng gây cản trở nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đưa được Lhamo
về cung điện Potala. Đến năm gần 5 tuổi. Bé Lhamo chính thức được tôn vinh là
Đạt Lai Lạt Ma lần thứ 14. Trong suốt 20 năm, vị phật sống này phải được huấn
luyện về mọi mặt. Tuy nhỏ tuổi nhưng ngài phải vượt qua nhiều thử thách cam go
về giờ giấc, học hành, và nhất là thực hành các pháp môn và giáo lý Phật
giáo... Trong khi đó, tình hình chính trị không yên. Trung Cộng tìm đủ mọi cách
để gây hấn vì thế năm 1959 Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã phải trong đêm khuya trốn
khỏi điện Potala để vượt biên giới để lánh nạn ở Ấn Độ. Trên đây là những giai
đoạn Hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng. Thật sự thì sự hóa thân được xem như
khởi đầu từ Đại Sư Gedun Truppa trở đi.
Khi một vị Đạt Lai Lạt Ma qua đời,
vị này thường có được ước nguyện tái sinh trở lại, việc đi tìm cho đúng ai là
người Hóa thân của những vị này là cả một vấn đề rất khó khăn. Đôi khi phải mất
3, 4 năm hay hơn mới tìm ra được vị hóa thân. Vì thế mỗi khi một vị lãnh đạo
tôn giáo cao cấp của Tây Tạng qua đời thì họ sẽ đầu thai trở lại.
Mới đây các vị sư Tây Tạng trú tại
Ấn đã lưu ý đến trường hợp một cậu bé 5 tuổi tên là Simon cậu bé này có lời nói
và cử chỉ rất lạ lùng. Khi gặp tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel, 62 tuổi(viện trưởng
của trung tâm Phật giáo Tây Tạng ở San Dioge) cậu bé đã bước tới nói một câu
rất tự nhiên:
- À! Tôi biết ông nhưng có lẽ ông không nhận ra tôi?! Chính tôi là người mà ông
thường ở kề cận.
Lúc đầu tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel cứ tưởng cậu bé tập nói theo kiểu người lớn
nhưng khi ông này cuối xuống nhìn vào mắt cậu bé Simon và hỏi lại một câu rằng:
"vừa rồi Simon đã nói gì?" thì bé vẫn trả lời: "tôi biết
ông!" vừa nói Simon vừa đưa tay mân mê chiếc còng của tu sĩ Geshe tỏ vẻ
thân mật vô cùng.
Vị tu sĩ này sau đó, trở lại hỏi
người trong gia đình này về trường hợp của bé Simon thì được cha mẹ Simon cho
biết thêm chi tiết như sau:
- Bé Simon rất khác thường nếu so
sánh với các trẻ con khác, suốt ngày Simon chỉ ngắm trời mây, đi dạo trong nhà
hay trong sân. Ít thích chơi đùa nghịch ngợm, thường tư lự như một người đứng
tuổi. Mới đây Simon lại có các biểu hiện lạ lùng như tự nhiên nói những lòi
tiên tri. Có lần Simon khuyến cáo trong nhà không nên nghe lời người hàng xóm
để đi xa thì thật sư nơi đó chẳng có gì. Lần khác Simon bảo người cha nên ở nhà
trong một ngày mà Simon bảo ngày ấy là rất xấu cho ông. Quả hôm đó chỗ ông định
tới lại bị lụt lớn, gãy cầu, nếu ông đi sẽ bị kẹt lại đó một thời gian.
Cậu bé Simon sinh tại California
Hoa Kỳ và đã tình cờ gặp tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel khi vị này đến thăm
Victoville thuộc vùng sa mạc Nam Cali. Sau khi thấy ở bé Simon những biểu hiện
lạ lùng, vị tu sĩ này trở về và hôm sau nằm mộng thấy vị thầy của mình thuở
trước. Đó là Lạt Ma Lobsang Phakpa, người đã viên tịch tại Trung Quốc vào đầu
thập niên 1950, trong giấc mơ, vị Lạt Ma này như có điều gì nhắn gởi với tu sĩ
Geshe Lobsang Tsepel. Khi vị tu sĩ giật mình thức dậy, ông tự nhiên có ý nghĩ
rằng có lẽ bà Simon là Hóa thân của Lạt Ma Lobsang Phakpa chăng vì ngày xưa tu
sĩ Geshe Lobsang thường sống gần gũi bên vị Lạt Ma này và vị này mỗi khi nói
điều gì cũng thường hay lấy tay sờ hay ấn vào cằm tu sĩ Geshe Lobsang giống như
bé Simon đã làm. Sau đó, tu sĩ này đã viết một bức thư đầy đủ chi tiết gởi về
Ấn Độ để thỉnh ý quý vị lãnh đạo tu viện cũ có liên hệ với Lạt Ma Lobsang
Phakpa.
Sau một thời gian tìm hiểu, trắc
nghiệm, quý vị trong ban lãnh đạo tu viện đã quyết định gởi bé Simon qua Ấn để
tìm hiểu thêm và nếu quả thật thì bé Simon sẽ được giáo dục theo phương pháp và
chương trình giáo dục của tu viện Tây Tạng.
Cũng cần biết thêm là trước đó vài
năm, tại Tây Ban Nha người ta cũng phát hiện được một cháu bé được nghi ngờ là
một Hóa thân của một vị Lạt Ma. Và năm 1992 người ta cũng phát hiện được một bé
trai có cử chỉ và lời nói hoàn toàn giống Đức Phó Tăng Thống Tây Tạng. Sau đó
Đạt Lai Lạt Ma đã đồng ý gởi bé qua Ấn Độ tìm hiểu thêm đó có phải là một Hóa
thân của vị Tăng Thống ấy không.
Kết Luận
Nhà triết học nổi danh Schopenhauer
đã có một suy nghĩ về số kiếp sinh vật khi ông bàn về vấn đề siêu hình của sự
chết: "Nếu ta nghĩ lại một cách khách quan và vô tư rằng khi ta giết một
sinh vật nào đó, hoặc là con chó, con chim, con ếch hay là một con côn trùng
nhỏ nhoi... thì quả thật ta không thể nào tưởng tượng được sinh vật ấy mà trước
đây đầy sinh lực và kỳ diệu đến thế bỗng nhiên lại bị giết đi một cách tức tưởi
vì một hành động tàn ác dửng dưng hay xuẩn ngốc của ta và trước mắt ta hàng
triệu sinh linh khác đủ cỡ đủ loại đầy sức sống và đầy ham muốn, chúng được
sinh ra và trước khi sinh, không thể là một cái gì cả và từ không ấy lại khởi
đầu mọi thứ. Như thế ta không thể không ngạc nhiên tự hỏi rằng: "cái gì
biến đi và cái gì lại thay thế chúng khi ta mãi thấy chung quanh mình sinh vật
này mất đi thì sinh vật khác xuất hiện cũng như phải thắc mắc về điều sinh vật
ấy từ đâu đến nhất là những sinh vật cùng hình dạng, cùng đời sống và tập tính,
chỉ khác ở thể chất mà thôi?"
Đại Đức Dhammananda đã có lần phát
biểu như sau: "Nếu trong vũ trụ hay trong đời này chỉ có một kiếp sống độc
nhất thì tại sao Thượng Đế nhân từ bác ái vô biên lại dửng dưng trước đau khổ
trước sự sống chết, thọ yểu của con người. Tại sao lại có sự bất công vô lý khi
người này mới ra đời đã chết còn người khác lại sống thọ? Hay người này bệnh
hoạn khổ đau, nghèo nàn, còn người kia lại mạnh khỏe, giàu sang, hạnh phúc? Làm
sao Ngài lại bất công đến như vậy được? Hay phải chăng tất cả đều có nguyên
nhân và nguyên nhân đó có phải phát sinh từ những hành động xấu xa tội lỗi hoặc
tốt lành của con người đã tạo ra hay không? Nói khác đi họ đã tạo nhân thì nhân
sẽ phát sinh quả? Nếu thế thì những gì xảy ra trong cuộc đời người này hoặc
người kia đều không phải do sự tình cờ ngẫu nhiên mà chính là do hậu quả của
mọi hành động và sự bất đồng đều, bất tương xứng hay bất công trong cuộc sống
giữa kẻ này, người kia, giữa người giàu, người nghèo, người sung sướng người
đau khổ, người cô đơn, người hạnh phúc, người bệnh nan y tật nguyền người mạnh
khỏe... đều do nghiệp báo, tái sinh mới giải thích được một cách hợp lý đối với
sự bất công vô lý trong cuộc sống của mỗi con người mà thôi."
Rõ ràng hiện tượng tái sinh đã mở
ra cho con người chúng ta những cánh cửa mới khác để từ đó giúp ta hiểu rõ hơn
về cuộc đời, về cuộc sống của con người và đặc biệt nhất là ngay chính bản thân
mình về những gì từ quá khứ đến hiện tại và cả tương lai. Trong cuốn Life After
Life của Raymond A. Moondy có một đoạn nói đến sự hiểu biết về sống chết, về
luân hồi tái sinh đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống trong hiên tại của mỗi con
người chúng ta. Dịch giả Hoàng Phi Lưu Hoàng Nguyên đã dịch lại đoạn ấy như
sau: (trong Giai Phẩm Pháp Duyên Bộ mới số 3)
"Ảnh hưởng của kinh nghiệm túc lâm chung đối với đời họ dường như hiện ra
dưới dạng những dạng tế nhị, thầm lặng hơn. Nhiều người cho tôi biết nhờ kinh
nghiệm đó, đời họ trở thành sâu rộng hơn, họ trở nên trầm tư hơn và quan tâm
nhiều đến những vấn đề triết lý cơ bản.
"Lúc đó trước khi lên học
trường cao đẳng tôi sống tại một tỉnh nhỏ với những người trí óc hẹp hòi, những
người mà dù muốn dù không tôi cũng từng cộng tác. Tôi là một thằng nhóc điển
hình của hội học sinh trung học. Bạn sẽ không giống như thế, trừ phi bạn gia
nhập hội chúng tôi.
Nhưng sau khi chuyện đó xảy ra, tôi muốn biết nhiều hơn nữa. Song lúc ấy tôi
nghĩ chắc không ai biết rành chuyện này bởi lẽ tôi chưa ra khỏi thế giới nhỏ bé
của mình. Tôi nào biết chi về tâm lý học hoặc những gì tương tự. Tôi nào biết
chi về tâm lý học hoặc những gì tương tự. Tôi chỉ biết đã cảm thấy bỗng chốc
trở nên già dặn sau khi chết hụt, vì nó đã mở ngõ cho tôi cả một thế giới mới
mà tôi đâu ngờ nó có thể hiện hữu. Tôi cứ mãi băn khoăn: "Quả có nhiều
điều mình cần khám phá." Nói cách khác, cuộc sống phong phú hơn là việc
xem chiếu bóng tối thứ sáu và chơi đá banh. Tôi thấy có nhiều cái mình mù tịt.
Rồi tôi bắt đầu suy nghĩ: "Đâu là giới hạn của con người, của tâm
thức?" Nó chỉ hé mở ngõ cho tôi thấy một thế giới mới mà thôi"
Có người lại nhận định:
"Từ đó, lúc nào tôi cũng nghĩ
đến những gì mình đã làm trong đời và những gì mình sẽ làm. Tôi tự mãn với quá
khứ. Tôi không nghĩ là cõi đời có nợ tôi chi, vì tôi đã làm tất cả những điều
mình muốn, tôi đã làm theo ý mình, và tôi hiện còn sống, còn có thể làm thêm
nữa. Nhưng từ khi chết hụt, bỗng nhiên ngay sau lúc hồi sinh, tôi bắt đầu hỏi
mình đã làm những điều trước kia từng làm vì chúng là điều thiện, hay vì chúng
ích lợi cho tôi.
Xưa kia tôi phản ứng khi có sự xúc
động, nay thì tôi suy nghĩ chậm rãi, kỹ lưỡng trước đã. Mọi việc dường như phải
qua tâm trí tôi và được tiêu hóa cái đã.
Tôi cố gắng làm những việc có nhiều
ý nghĩa hơn, điều này làm hôn tôi thoải mái hơn. Tôi có gắng không có thành
kiến, tránh phê phán người khác. Tôi muốn làm những việc thiện chứ chẳng phải
những việc ích kỷ. Và dường như tôi trở nên lịch lãm hơn. Tôi cảm thấy thế vì
những gì đã xảy ra cho tôi, và những nơi tôi đã đến và những điều mình thấy
trong cơn thập tử nhất sinh."
Những người khác cho biết có sự
thay đổi thái đô đối với cuộc sống dương trần mà họ đã trở lại. Chẳng hạn một
bà đã nói thật đơn giản: "Nó làm đời tôi trở nên quý báu hơn nhiều đối với
tôi."
Người khác kể:
"Về phương diện nào đó, nó đã
rất hữu ích trước khi bị cơn đứng tim, tôi quá quân rộn hoạch định tương lai
cho lũ con và lo nghĩ chuyên đã qua, nên lỡ dịp vui sống những giây phút hiện
tại. Giờ tôi có thái độ khác biệt nhiều."Nhiều người cho rằng việc trải
qua kinh nghiệm chết sống đã thay đổi quan niệm của họ về tâm thức, về tầm quan
trọng tương đối của thể xác đối với tinh thần. Đoạn văn sau đây của một bà từng
xuất hồn trong cơn thập tử nhất sinh minh họa khá rõ ràng điều này: "Lúc
tôi ý thức về tâm hồn mình nhiều hơn về thể xác. Tâm hồn là phần quan trọng
nhất, thay vì hình dáng của cơ thể. Thế mà trước đây, trong suốt cuộc đời, nó
hoàn toàn ngược lại. Tôi đã chủ yếu chú trọng đến thân thể, còn cái gì đang
lướt qua trí chỉ là những điều đang lướt qua, thế thôi.
Nhưng sau khi sự việc xảy ra tâm
hồn tôi là cái đáng chú ý, hình hài là thứ yếu. Hình hài chỉ có cái vỏ để bọc
tâm hồn. Có hay không có thể xác tôi cóc cần, điều đó không thành vấn đề vì mới
thái độ hoàn toàn dửng dưng, tâm hồn tôi vẫn là cái quan trọng."
Qua mấy trăm trang sách, tuy không
đủ vào đâu so với vấn đề huyền vi rộng lớn vô cùng của hiện tượng được gọi là
luân hồi, tái sinh, tiền kiếp, hậu kiếp nhưng một phần nào cũng giúp làm rõ nét
những gì có liên quan đến vấn đề trọng đại của những kiếp người. Những kiếp
người liên hệ nhân quả với nhau hay tổng quát hơn là sự luân hồi chuyển kiếp
qua những đời sinh vật. Tuy nhiên có nhiều người đã nghĩ sai lạc về sự luân hồi
chuyển kiếp. Chẳng hạn họ cho rằng ta cứ việc sát sinh càng nhiều càng tốt vì
làm như thế là đã "hóa kiếp" cho các loài sinh vật. Đây là một sự
hiểu lầm tai hại vì luân hồi được xem như một định luật tự nhiên, khi ta giết
một con vật với ý nghĩ giúp hóa kiếp sớm cho nó thì chẳng khác nào hành động
vặn kim đồng hồ hay xé từng xấp lịch cho thời gian, ngày tháng tới nhanh hơn.
Đã là sinh vật thì luôn luôn chịu
ảnh hưởng của sự tái sinh mà nguyên do chính hành động, nó là nguyên lý tác
động làm phát sinh sự luân hồi chuyển hóa tái sinh. Kinh Bhagavad Gita có câu:
"Nghiệp chính là lực sáng tạo, vì lực sáng tạo ấy mà vạn vật có được đời
sống của chúng."
Sự luân hồi tái sinh thật sự không
do ai gây ra ngoài chính bản thân sinh vật. Tại sao tôi lại sinh ra, tôi lại
phải chịu nhiều trong cõi đời, đau khổ, bệnh tật, rồi chết? Khi chết lại không
phải là chấm dứt đời đời? Cái nguyên nhân sâu xa ấy có thể thấy được hoặc qua
giấc ngủ thôi miên, qua giấc mộng, tự nhiên thấy được hoặc sâu xa hơn có thể
suy diễn từ những gì mà con người đang gánh lấy. Đọc qua các chương chúng ta có
được một số khái niêm sơ lược về những giải thích vì sao con người lại phải khổ
đau? Tại sao có người giàu người nghèo, tại sao có người trường thọ có người
chết yểu, tại sao có kẻ tài hoa có người đần độn, tại sao có người hạnh
phúc?... Đi xa hơn nữa ta còn suy đoán được một sự kiện thường gây thắc mắc từ
biết bao đời nay. Như nguyên nhân nào kẻ làm ác đôi khi lại được sống lâu còn
được giàm sang phú quý còn kẻ hiền lương, thường làm việc thiện đôi khi lại
chịu cảnh oan trái, nghèo khổ, đắng cay? Tất cả mọi sự kiện xảy ra ở mỗi đời
người đều có nguyên nhân. Nguyên nhân này quả thật vô cùng sâu xa và thuộc về
quá khứ xa xăm hay gọi là tiền kiếp. Biết được cái nguyên nhân phát sinh ấy
khiến ta suy đoán thêm rằng ngay trong cuộc sống hiện tại, mình phải sống và
hành động thế nào để tạo nhân cho quả của đời sau (hậu kiếp). Nhân tốt thì quả
tốt và ngược lại. Có những việc mà lúc sống, chúng ta đã hăng say mong chu toàn
vì lo sợ cái chết đến sẽ làm ta không hoàn tất được. Nhưng khi ta đã hy vọng có
cuộc sống mai sau thì điều này sẽ giúp ta tiếp tục đạt sở nguyện.
Luân hồi là định luật tự nhiên,
định luật này tác động lên mọi kiếp người nhưng kiếp người chuyển hóa tốt lành
hạnh phúc, giàu sang hay nghèo hèn, bệnh tật hay mạnh khỏe đều có nguyên nhân
và việc đinh số kiếp như thế rõ ràng là do chính ta. Định luật luân hồi cho
thây có sự tự do của chính con người. Nếu con người biết mình khổ đau là do
những hành động xấu xa tội lỗi của chính mình đã tạo ra từ tiền kiếp thì trong
kiếp hiện tại ta có toàn quyền định đoạt phần nào số phận kế tiếp của mình.
Sự hiểu biết về định luật luân hồi nghiệp báo đã
giúp con người tin tưởng và chịu đựng trong cuộc sống, cố gắng làm điều thiện,
sẵn sàng quên mình và giúp đỡ người. Không còn tiếp nuối cho tuổi đời đi qua vì
cuộc đời còn tiếp nối qua nhiều kiếp và con người có thể tạo được sự hạnh phúc
tốt lành cho mình ở kiếp lại sinh.