2
NÓI CHUYỆN VỀ VẤN ĐỀ ĐÓNG GÓP
[I]
Ước muốn
của tôi khi viết bài này là được hầu chuyện với các bạn đọc, nhất là với các
bạn đọc không phải là Phật tử, về vấn đề Đạo Phật có thể đóng góp được gì trong
công cuộc khai mở con đường thoát cho hiện trạng. Tôi có nhiều điều muốn nói
nhưng lại cảm thấy không tin tưởng mấy nơi khả năng diễn đạt của tôi và cả nơi
chữ nghĩa mà tôi phải dùng như là công cụ duy nhất để thiết lập cảm thông. Nói
như thế không phải là để lập lại lời của người xưa về giá trị tương đối của văn
tự ngôn ngữ, mà chỉ là để diễn tả một tâm trạng rất thực và rất thành thực. Chữ
nghĩa của chúng ta bị ốm đau cả rồi và hễ mở miệng là tức khắc ta bị hiểu lầm.
Tôi đã ngồi hơn một giờ đồng hồ trước tờ giấy trắng để suy nghĩ về cái đề của
bài nầy. Trước tiên tôi định lấy cái đề: Sự cần thiết của một ý thức hệ Phật
giáo. Nhưng lập tức sau khi viết câu đó lên giấy, tôi thấy nó phản lại điều tôi
muốn nói. Chữ "sự cần thiết" thì dễ gây hiểu lầm, chữ "ý thức
hệ" không thể nói được cái tôi muốn nói, còn chữ "một" lại càng
nguy hiểm hơn, tôi rất nghi ngờ về giá trị cảm thông mà chữ "ý thức
hệ" có thể đóng góp. Sẵn cuốn tự điển trên bàn, tôi tìm chữ ideology, và
tôi thấy: the system of beliefs characteristic of a person or of a school of
thought. Nếu chữ ý thức hệ mà có nghĩa ấy thì quả thực tôi không dám dùng.
Chúng ta không cần có thêm một ý thức hệ nào nữa, dù là ý thức hệ Phật giáo.
Xin các bạn kiên nhẫn, tôi chưa nói được hết ý tôi. Tôi muốn nói rằng có thêm
một hệ thống tư kiến nữa thì cũng chỉ gây thêm động chạm và khổ đau dù những tư
kiến đó được tin là chính kiến (vues justes).
Tôi đi tìm chữ khác. Tôi ưa chữ
nền đạo lý, và sau khi xóa bỏ câu trên, tôi viết: Suy tư về nền đạo lý của thời
đại. Nhưng mà vừa viết xong câu ấy, tôi biết ngay là nó cũng lại phản tôi.
"Nền đạo lý" thế nào cũng sẽ được hiểu theo nghĩa một nền tôn giáo,
một nền luân lý v.v…
Mà tôi thì tôi không thích nói
về tôn giáo và về luân lý bởi vì tôi cũng ghét tôn giáo và luân lý, cũng có
thành kiến về tôn giáo và luân lý như phần lớn các bạn. Nói một cách khác hơn,
những chữ tôn giáo và luân lý cũng bị ốm đau cả rồi và chúng không chuyên chở
được ý nghĩa nguyên thỉ của chúng, vì vậy chúng ta không còn tin nơi chúng.
Tôi lại đi tìm những chữ khác
nữa, nhưng tìm không ra. Tôi muốn tìm một chữ để mà diễn tả cái ý: những nguyên
lý linh động sáng tỏ có thể nhận thức được bằng trí tuệ và bằng thực nghiệm tâm
linh, những nguyên lý ấy chỉ là những công cụ hướng dẫn mọi thực hiện; chúng
không phải là những giáo điều, cũng không phải những mô tả về thực tại, chúng
không phải là chân lý muôn đời mà chỉ là nguyên lý linh động, chúng không thể
không biến hình và khô chết nếu được nhận thức bằng khái niệm và diễn tả bằng
danh ngôn; chúng chỉ có thể nhìn thấy trong thực tại thời gian và không gian mà
không thể nhận thức suông qua giáo chỉ của những bậc thánh triết.
Cái mớ từ ngữ trên cũng chỉ là
một số từ ngữ ít nhiều đã bị ốm đau nên tôi cũng xin bạn đọc đừng để ý tới
chúng một cách quá đáng. Chỉ xin bạn đọc biết cho rằng cái mà tôi vừa cố diễn
tả không phải là một khái niệm triết học có tính cách siêu hình viễn vông không
dính dáng gì đến thực tế, nghĩa là đến con đường thoát cấp bách của chúng ta.
Tôi tin rằng nó là thực tế nhất. Nó không phải là gần thực tại mà là bản thân
của thực tại. Tôi sẽ xin cố gắng sử dụng mớ danh từ ốm yếu của tôi để mong giải
thích thêm về những điều tôi muốn được bạn nghe.
Thời đại của chúng ta là thời
đại tranh chấp giữa các thế lực chính trị, kinh tế, và nhất là giữa các ý thức
hệ, tức là những hệ thống nhận thức về thực tại và về đường lối xây dựng cải
biến thực tại. Hai thứ đó, 1) nhận thức về thực tại và 2) nhận thức về đường
lối xây dựng và cải biến thực tại, đều được coi như là chân lý, bất cứ ở trong
ý thức hệ nào. Mà đã là chân lý thì ai cũng phải tuân theo, ai cũng phải tin
vào, ai cũng phải tôn thờ. Nhưng sự thực thì ta thấy có nhiều ý thức hệ quá,
nghĩa là nhiều chân lý quá. Ta biết theo ý thức hệ nào? Thường thường ta chỉ
chấp nhận một ý thức hệ, chấp nhận trên căn bản sở thích bây giờ của ta, trên
căn bản những nhận thức bây giờ của ta và trên căn bản những nhu cầu bây giờ
của ta. Không những bây giờ mà còn là ở đây, nghĩa là trên cả không gian lẫn
thời gian. Chấp nhận một ý thức hệ rồi thì ta phải phủ nhận những ý thức hệ
khác, bởi vì chân lý, như mọi người thường tin, chỉ có một. Thế rồi tin tưởng
vào "chân lý" ấy với một tâm trạng của một kẻ đã có tín ngưỡng, ta
bênh vực và thực hiện nó. Và trong khi bênh vực và thực hiện nó ta có thể (và
thường thường) đóng cửa lý trí của ta lại và từ chối mọi hiến dâng của cuộc đời
về những sự thực giản dị hiển nhiên và linh động của nó. Ta có thể cuồng tín
nơi "chân lý tuyệt đối" của ta để gây khổ đau cho muôn ngàn kẻ khác.
May mắn lắm ta mới có dịp phá được thành trì kiến chấp (kiến chấp: ghì chặt lấy
tư kiến) của ta và hé thấy được sự sai lầm thiếu sót và ngây thơ của "chân
lý" ta. Có kẻ đã suốt đời tiêu xài máu xương của đồng loại một cách hoang
phí (cho đến nỗi xương chất thành núi máu chảy thành sông) để thực hiện ý thức
hệ mình và mãi đến gần phút lâm chung mới thấy là mình chưa hề "nắm"
được chân lý. "Thấy" như thế thì đã quá muộn rồi, hối hận cũng vô ích
mà thôi. Sự va chạm của các ý thức hệ, của các niềm cuồng tín đã là nguyên do
lớn nhất cho những đổ vỡ và khổ đau của thế kỷ ta. Chứng bịnh là ở đó, tại sao
tôi còn dám nghĩ về vấn đề có thêm một ý thức hệ nữa? Có thêm để
mà đau khổ thêm hay sao?
Nhưng mà nói như thế không phải
là ta nên dẹp bỏ hết mọi ý thức hệ đi. Dẹp đi để mà chỉ sống theo nhu cầu và
theo bản năng như là thú vật sao? Không. Giá trị con người là ở chỗ biết dùng
lý trí hướng dẫn cho hành động. Vấn đề của chúng ta là phải nhận thức các ý
thức hệ như những cố gắng diễn tả sở đắc nội tâm về sự quan sát thực tại mà
không phải là những chân lý cần phải tuân theo và thực hành theo một cách tuyệt
đối.
Những diễn tả về sở đắc nội tâm
trong khi quan sát và sống với thực tại, những diễn tả ấy không phải là bản
thân của chân lý. Đó là những phương tiện hướng dẫn thực nghiệm chân lý linh
động. Nói chân lý linh động nghĩa là chân lý với muôn ngàn hình thái không nhất
định. Sự sai lạc của con người, theo đạo Phật, là ghì chặt lấy một vài hình
thái diễn tả của tâm linh về chân lý và cho đó là bản thân của chân lý.
"Những gì ta nói chỉ là để hướng dẫn người tìm chân lý. Đừng lầm điều ta
nói là chân lý. Cũng như đừng lầm ngón tay chỉ mặt trăng là chính mặt trăng."
Ghì chặt lấy ngón tay cho đó là một mặt trăng thì sẽ mất mặt trăng, nhưng bỏ
ngón tay đi thì không có cách gì để trông thấy mặt trăng. Cái ngón tay hướng
dẫn ấy, những diễn tả nội tâm ấy, được gọi là những giả thiết (prajnapti) -
phương tiện chỉ bày chân lý, những hướng dẫn thực nghiệm và thực hiện chân lý,
mà không phải là chân lý.
Vậy thì chỉ cần nhận thức các ý
thức hệ là những prajnapti thôi, thì chúng ta đã có thể tránh cho nhau biết bao
nhiêu khổ đau do cuồng tín và cố chấp gây ra rồi.
Bởi vì có muôn vạn lối diễn tả
về sở đắc nội tâm, có muôn vạn hình thức hướng dẫn thực ngiệm chân lý, cho nên
mỗi prajnapti chỉ có giá trị trong một thời gian, ở một phương sở, và chính
prajnapti cũng phải được chuyển biến, bổ túc (hay đôi khi phải được hủy bỏ nữa)
đề còn có thể diễn tả và hướng dẫn. Bởi vì prajnapti chỉ là phương tiện. Ví dụ
cái prajnapti Duy vật sử quan chẳng hạn, nếu thấy không còn đúng nữa, nghĩa là
không phù hợp với nhận thức bây giờ về thực tại xã hội nữa, thì nên hoặc chữa
lại, hoặc bỏ đi. Cái prajnapti nào cũng vậy, dù là cái prajnapti Duy thức hay
Bát nhã. Lịch sử Phật giáo là lịch sử của những sinh thành, tồn tại và biến
diệt kế tiếp nhau của rất nhiều các prajnapti, tất cả đều bắt nguồn từ thực
nghiệm tâm linh của đức Phật trong lịch sử.
Thực tai luôn luôn chuyển biến
(vô thường, antiya), các cơ cấu kinh tế, văn hóa, chính trị v.v… của xã hội
luôn luôn chuyển biến cho nên các prajnapti, hình thái diễn tả chân lý linh
động của thực tại trong thời gian và không gian, cũng phải biến chuyển để còn
có thể tiếp tục làm công việc diễn tả và hướng dẫn ấy. Không những chuyển biến
mà đôi khi còn phải tự hủy diệt để nhường chỗ cho những prajnapti khác, như ta
đã thấy.
Vì một prajnapti phải chuyển
biến để nhận chịu ảnh hưởng các prajnapti khác để được bổ túc, nên prajnapti đó
cũng đồng thời là vô ngã (anatman) nghĩa là không có tính cách đồng nhất trong
không gian và trong thời gian. Cho nên ghì chặt lấy một prajnapti thường hằng
bất biến tức là một chuyện làm dại dột nhất, sai lầm nhất, theo nhận thức quan
đạo Phật.
Prajnapti bao giờ cũng phải được
hiểu là prajnapti cho ai, và trong những trường hợp nào. Không có thể có một
prajnapti chung cho muôn thời, muốn xứ và muôn người, bởi vì nếu thực tại linh
động thì chân lý về thực tại cũng linh động và hình thái diễn tả, hướng dẫn
công việc thực nghiệm và thực hiện chân lý linh động ấy cũng có muôn ngàn lối
khác nhau.
Tôi xin kể một câu chuyện về
Thiền để chứng minh điều đó. Có một tăng sinh lên hầu một thiền sư và hỏi:
"Bạch Ngài, con chó có Phật tính không?." Thiền sư trả lời "có."
Hôm sau có một tăng sinh khác
lên cầu thiền sư và cũng hỏi câu hỏi ấy: "Bạch Ngài, con chó có Phật tính
không?." Thiền sư trả lời "không."
Câu chuyện chỉ có thể hiểu được
khi ta nhận thức hai chữ có và không như những prajnapti đặc biệt để đối trị
với hai căn cơ (trường hợp trí tuệ và bản chất của con người) khác nhau.
Để hướng dẫn sự chứng nghiệm
giác ngộ của người tăng sinh thứ nhất, Thiền sư dùng prajnapti "có."
Với trường hợp người tăng sinh thứ hai, chữ "có" sẽ bị tiếp nhận như
một giáo điều, một chân lý tuyệt đối, nên không còn hiệu lực là một prajnapti
nữa. Cho nên, để kích động và xô ngã khuynh hướng muốn giáo điều hóa và chân lý
hóa câu nói "tất cả chúng sinh đều có Phật tính" nơi người thứ hai -
(khuynh hướng đó không có nơi người thứ nhất), Thiền sư đã tàn nhẫn dùng chữ
"không." Chữ "không" này sẽ gây bất an đau đớn làm động lực
phá chấp nơi người tăng sinh thứ hai. Xô được kiến chấp thì nó hoàn thành được
sứ mạng hướng dẫn cho nên nó cũng có giá trị prajnapti của nó như chữ
"có" trong trường hợp người tăng sinh thứ nhất.
Cho nên thái độ khôn khéo nhất
của người đi học đạo là không ghì chặt lấy prajnapti mà chỉ đón nhận prajnapti
với tất cả thao thức của một người muốn thấy chứ không phải với tất cả ước ao
của một người muốn tin. Thái độ ấy khiến người theo đạo biết sử dụng prajnapti,
biết ngồi, (thừa = cưỡi) trên xe prajnapti để đi đến chân lý. Khả năng để có
thể đừng bị nô lệ cho prajnapti được gọi là khả năng xả, hay là upeksa. Xả
nghĩa là đừng ghì chặt, nghĩa là biết bỏ đi. "Hãy bỏ tất cả để mà được tất
cả" không hẳn là một lời dạy luân lý; đó là một phương châm nhận thức.
Làm một chiếc bè là để dùng
chiếc bè ấy mà sang sông chớ không phải là để mang chiếc bè ấy trên vai cho
thêm nặng. "Qua sông rồi thì phải bỏ chiếc bè" đó là giáo lý kinh Kim
Cương.
Chưa biết xả thì còn chưa biết
nắm. Trong những cuốn kinh hướng dẫn thực nghiệm tâm linh để đạo đạt giác ngộ,
đức Phật thường tỏ ra rất cẩn thận bằng cách nhắc đi nhắc lại hoài rằng lời
Ngài chỉ là prajnapti thôi mà không nên ghì chặt lấy làm chân lý. Ví dụ trong
kinh Bát Nhã chẳng hạn, mỗi khi nói một điều gì quan trọng, đức Phật lập lại
như sau: "na punar yathocyate."
Câu đó có nghĩa là: (tuy nói
thế) nhưng mà không phải nói thế đâu. Có hàng trăm đoạn kinh mang theo câu nói
ấy vào khúc chót. Trong kinh Kim Cang cũng vậy. Ta thấy lối diễn tả này được
lập lại nhiều lần: "Cái mà Như Lai gọi là Pháp tướng thì không phải là
Pháp tướng cho nên mới là Pháp tướng."
Vậy thì khi đặt bút viết chữ
"ý thức hệ" hay chữ "nền đạo lý" chúng ta có thể ngại
ngùng, bởi vì nếu chữ ấy không được nhận như là prajnapti thì quả thực ta sẽ bị
hiểu lầm ngay.
Tất cả những danh từ của ta dùng
không có danh từ nào mà không là Prajnapti. Mỗi danh từ chứa đựng một nội dung
luôn luôn chuyển biến. Chuyển biến đến nỗi có lúc danh từ ấy mang một nội dung
khác hẳn nội dung đầu tiên nó mang. Thì tại sao ta không giết những danh từ ấy
đi, khi chúng đã không còn đủ sức chuyên chở nội dung nguyên thỉ của nó và
không tạo ra danh từ mới để chuyên chở những nội dung mới?
Công cụ diễn đạt lộn xộn và
nghèo nàn như thế trách sao ta chẳng thiếu đức tin ở khả năng của nó khi chính
ta đã không tin mấy ở khả năng nhận thức theo lối khái niệm?
Cho tôi đừng dùng chữ "ý
thức hệ" nữa hay chữ "nền đạo lý" nữa, mà được dùng ngay chữ
prajnapti. Tuy nhiên với chữ prajnapti ta cũng nên cẩn thận bởi vì chính nó
cũng có thể bị ốm đau như bất cứ một chữ nào khác. Vậy tôi xin bắt chước đức
Phật để căn dặn bạn đọc của tôi: "Cái mà tôi gọi là prajnapti thì không
phải được chấp là prajnapti thì mới là prajnapti."
Có như thế rồi, tôi mới dám đặt
đầu đề cho cái bài này của tôi. Đầu đề ấy là: "Để đặt nền móng cho một
prajnapti của thời đại."
[II]
Để đặt nền móng cho một
prajnapti của thời đại, đạo Phật, theo chỗ chúng tôi hiểu, có thể cống hiến
những viên đá sau đây :
1. - Thái độ không cố chấp
rất cần có của nhận thức: Điều nầy chúng ta có thể thấy trong phần trên của
bài. Một khi đã nhận thức rằng mọi prajnapti đều chỉ là phương tiện thì người
ta sẽ không có thái độ sùng kính đến cuồng tín một lý thuyết nào. Thực hiện
được thái độ vô trước (không bị dính chặt vào một giáo điều nào, không bị nô lệ
cho prajnapti nào), con người có nhiều tự do và sáng suốt, luôn luôn ý thức
rằng mình đang đi trên con đường tìm chân lý. Phải luôn luôn có tâm trạng thao
thức của kẻ đi tìm, của người cầu tiến mà không nên có tâm trạng cầu an và tự
mãn của kẻ tự cho mình đã nắm được chân lý tuyệt đối. Như thế một mặt con người
không giáo điều hóa các prajnapti để trở thành chật hẹp, cuồng tín, một mặt con
người mở rộng được hai tay đón tiếp những hiến dâng của kinh nghiệm của những
trao đổi và đối thoại với đồng loại. Chấp nhận một điều gì làm chân lý tuyệt
đối tức là chấm dứt ngay công cuộc tìm kiếm về điều ấy và do đó, mất hết xúc
tiếp với dòng thực tại linh động, tự giam mình trong một vỏ cứng ngàn đời. Một
người trên nấc thang cao nhất rồi thì không còn hy vọng có thể bước lên nấc
thang thứ tư thứ năm được nữa. Chất chứa những kiến thức để rồi kẹt trên bước
đường thực nghiệm chân lý tức là rơi vào tình trạng bế tắc của nhận thức. Những
"kiến thức" ấy, những "chân lý" mà ta bị dính chặt vào ấy,
được gọi là những chướng ngại vật của tri thức. Chướng ngại vật của tri thức ở
đây chính là tri thức vậy (sở tri chướng).
2. - Thái độ tôn trọng thực
nghiệm: Đức Phật, trên phương diện nhận thức luận, có thái độ rất dứt khoát
về những vấn đề siêu hình. Giả thiết, suy tư và luận đàm về các vấn đề siêu
hình được đạo Phật xem như là những việc làm vô bổ, tốn ``thì giờ. Không những
thế đạo Phật còn xem những việc đó là có hại - có hại ở chỗ vọng tưởng ra những
điều không ai có thể chứng nghiệm được, rồi dùng những vọng tưởng ấy để chống
phá nhau, chia rẽ nhau và gây khổ đau cho nhau.
Phật Thích Ca không muốn môn đệ
của Ngài để tri thức phiêu lưu trong thế giới vọng tưởng siêu hình.
Ngài luôn luôn từ chối những câu
hỏi thuộc phạm vi siêu hình. Một hôm để trả lời cho một vị đệ tử hỏi những câu
hỏi như thế Ngài nói: "Này các vị, đừng nên thắc mắc về vấn đề vũ trụ này
là hữu hạn vô hạn, hữu cùng hay vô cùng. Dù nó hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay
vô cùng thì chúng ta cũng vẫn phải chấp nhận sự thực này trước tiên: đó là sự
hiện hữu của đau khổ trên cuộc đời."
Như thế đức Phật muốn đưa con
người trở về những vấn đề thực tại của cuộc sống. Trở về như thế không phải là
để chỉ khư khư đặt vấn đề cơm áo mà là để bắt đầu mọi tìm kiếm và thực hiện nơi
một nền tảng xác thực và có thể kiểm soát. Tứ diệu đế, giáo lý căn bản của đạo
Phật, không hẳn là một quan niệm nhân sinh. Đó là một quan niệm về nhận thức -
bởi vì đạo Phật là đạo nhận thức, chữ buddha có nghĩa là người đạt được
nhận thức viên mãn. Tứ diệu đế là bốn sự thực có tính cách thực nghiệm. Sự thực
thứ nhất là sự hiện hữu của khổ đau, của u tối. Sự thực thứ hai là sự hiện hữu
của những nguyên do gây nên khổ đau u tối này. Sự thực thứ ba là nếu có những
nguyên do ấy cũng có thể tiêu diệt được. Sự thực thứ tư là vì u tối có thể tiêu
diệt được cho nên phải có những phương pháp và đường lối để thực hiện sự tiêu
diệt đó. Cả bốn sự thực đều là những điều cần thiết, rút ra từ kinh nghiệm trên
thực tại. Bất cứ ai có khả năng suy tư đều phải công nhận bốn sự thực ấy. Một
sinh viên y khoa, dù muốn dù không, cũng phải công nhận bốn sự thực ấy. Bệnh
tật, nguyên do bệnh tật, sự lành bệnh, và phương pháp trị liệu: đó là những sự thực
Y học mà cũng là những sự thực Phật học vậy.
Bây giờ nếu ta cứ xây prajnapti
của ta trên những thiết tưởng và huyền đàm siêu hình thì ta còn bất đồng ý kiến
với nhau đến muôn đời. Đừng xây prajnapti trên huyền tưởng, cũng đừng xây
prajnapti trên tín ngưỡng. Chỉ khi nào ta nắm tay nhau trở về đứng trên miếng
đất thực nghiệm thì chúng ta mới thực không bị những cuồng tín bắt gốc từ thế
giới siêu hình đe dọa. Thực nghiệm đây không có nghĩa là vật chất. Thực nghiệm
đây chỉ có nghĩa là thực tại. Mà dụng cụ thực nghiệm không phải chỉ là khoa
học: dụng cụ thực nghiệm là khả năng tâm linh rộng lớn và sâu sắc của chúng ta
khi tiếp xúc với thực tại huyền diệu và linh động.
Trở về miếng đất thực nghiệm, ta
dễ thiết lập thông cảm, dễ phá trừ tư kiến, không tiêu phí thời gian để hý luận
(biện lý vô ích) và không tiêu phí xương máu tài sản đồng loại để bảo vệ cái vỏ
cứng của tư kiến.
Một prajnapti mà được xây dựng
trên căn bản thực nghiệm thì sẽ sát với thực tại và do đó có nhiều khả năng
hướng dẫn và thực hiện hơn.
3. - Thái độ nhập thế để
chuyển hóa cuộc đời: Chân lý bao giờ cũng là chân lý của một cái gì. Chỉ có
một chân lý có liên hệ đến ta, ấy là chân lý của thực tại, của cuộc đời. Chân
lý vì vậy không thể được xem như một cái gì từ trời cao đưa xuống mà phải được
nhận thức qua thực tại. Mà thực tại thì phong phú vô cùng, linh hoạt vô cùng,
mầu nhiệm vô cùng, cho nên chân lý cũng phải vô cùng linh động. Chân lý không
thể là một cái gì khô cứng, kết tạo bằng nhận thức khái niệm. Nhận thức hiện
tại bằng khái niệm thì chỉ có thể thấy thực tại như những thực thể khô cứng,
chỉ có thể cắt xén thực tại thành những miếng đất nhỏ khô cứng. Chân lý không
hé màn cho khái niệm, mà chỉ hé màn cho thực nghiệm tâm linh sâu sắc. Khi đã
xúc tiếp được với dòng thực tại linh động thì chân lý tự thân hiển hiện. Khái
niệm và danh ngôn có thể, trong trường hợp này, và chỉ trong trường hợp này
thôi, giúp ta sáng tạo những prajnapti để hướng dẫn thể nghiệm và thực hiện.
Những prajnapti đó cố nhiên là phải thích ứng với điều kiện thời gian và không
gian của thực tại.
Trong đạo Phật có danh từ Pháp
môn, có nghĩa là cửa để đi vào chân lý. Có vô lượng pháp môn khác nhau, nghĩa
là có nhiều prajnapti khác nhau. Nhưng chỉ có thể gọi là pháp môn (hay Phật
pháp) những gì khế hợp với chân lý và với thực tại. Khế có nghĩa là phù hợp và
không trái chống. Để được nhận là một prajnapti hữu hiệu, pháp môn phải có đủ
hai điều kiện :
1. - Khế lý
2. - Khế cơ
Khế lý là phù hợp và không trái
chống với những nguyên lý linh động của thực tại. Khế cơ là phù hợp với thực trạng
và nhu cầu của thực tại. Thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không thể gọi là
Phật pháp, là pháp môn, là prajnapti. Thực ra, không khế cơ thì tức đã
không khế lý rồi (bởi vì lý chỉ có thể nhận thức qua cơ) và không khế lý
thì cũng không thế nào mà khế cơ cho được.
Vì chân lý không khô cứng cho
nên prajnapti luôn luôn chuyển biến theo dòng thực tại linh động Prajnapti chỉ
phục vụ được cho thực tại khi được rút ra từ thực tại. Chúng ta không thể nào
tinh luyện nên prajnapti cho thời đại được nếu chúng ta không ở trong thời đại
để cảm thông và đau khổ những vấn đề của thời đại và xã hội ta. Nhưng chỉ có
mặt trong lòng của cuộc đời không thôi thì cũng chưa đủ. Phải đem ý thức
prajnapti soi rọi trong cuộc đời thì mới tiếp nhận và tinh luyện được pháp môn,
được con đường. Cho nên prajnapti của thời đại không thể chỉ do kết quả của suy
tư mà thành.
Prajnapti của thời đại phải do
khổ đau, thao thức và thực nghiệm. Công cuộc thực nghiệm có thể được hướng dẫn
bởi kho tàng kinh nghiệm của văn hóa nhân loại, nhất là kinh nghiệm tâm linh.
Phải luôn luôn nhớ rằng prajnapti chỉ khế cơ khi nào khế lý và chỉ khế lý khi
nào có thể khế cơ.
Đặt những nguyên lý như vậy rồi,
chúng ta mới đem châu ngọc kinh nghiệm về xây dựng cho prajnapti của thời đại.
Cố nhiên đạo Phật, về phần đó, có thể đem cống hiến những gì tốt đẹp nhất của
dòng kinh nghiệm hai nghìn năm trăm năm lịch sử để đóng góp cho công cuộc tinh
luyện nên ý thức hệ (tôi có thể dùng chữ này bây giờ mà khỏi sợ bị hiểu lầm như
trước) mới. Nhưng nếu quan niệm prajnapti mà có thể chấp nhận là nguyên lý cho
công cuộc tinh luyện ấy thì tôi nghĩ đạo Phật cũng đã đóng góp quá nhiều rồi.