4
ĐỂ THIẾT LẬP ĐỐI THOẠI
Để có sự
cảm thông, chúng tôi vâng theo vài nguyên tắc rất giản dị. Dù cho người bạn đọc
của chúng tôi là Phật tử hay không Phật tử, chúng tôi cũng mời bạn cùng đứng
trên một bình diện mà nhận xét và trao đổi. Trước khi mong có sự cảm thông
chúng ta nên nhận định những nguyên tắc căn bản ấy để cuộc đối thoại có thể là
cuộc đối thoại chân thực giữa một con người với một con người - con người không
bị ngăn cách bởi hàng rào danh ngôn định kiến.
Tôi xin đem một thí dụ. Ai cũng
nghĩ rằng bài tôi đang viết đây là một bài viết về đạo Phật, do một người Phật
tử viết.
Trên căn bản nhận thức đó, ai
cũng dễ nghĩ rằng bài này sẽ cố nói hay cho đạo Phật, bởi không lẽ một người
Phật tử mà lại đi chê đạo Phật và khen một đạo khác hay sao? Chúng ta sẽ bực
mình vì nhận xét đó, bởi vì chúng tôi thấy tuy nó là một sự thật nhưng là một
sự thật rất tầm thường. Khi tôi mở miệng bắt đầu nói hay cầm bút bắt đầu viết,
người bạn tôi có thể nói rằng: "Thôi đi, tôi biết anh muốn nói gì rồi. Anh
lại sắp nói với tôi đạo Phật hay như thế này, đạo Phật cần như thế kia chứ gì.
Không có cảm thông gì hết. Mục đích của anh là để thuyết giáo cho tôi nghe để
khiến tôi có cảm tình với anh, với đạo của anh. Tôi thấy rằng một sự trao đổi
cảm thông chân thật chỉ có thể có giữa hai con người tự do. Anh thì đã bị buộc
vào đạo Phật rồi, anh không còn tự do nữa, và hễ cái gì anh nói ra sẽ chỉ là để
bênh vực cho đạo của anh."
Người bạn của tôi có lý, tôi
phải công nhận như vậy. Và anh, có lẽ anh cũng phải công nhận như vậy. Nhìn vào
cuộc đời, nhìn vào sự thật thì biết. Sự thật "tầm thường" quá khiến
chúng ta buồn bã, chán nản và có khi khinh ghét, ghê tởm nữa. Nhưng mà chúng ta
thấy phẫn uất. Không lẽ sự thật lại chỉ tầm thường như thế thôi sao?
Tuy nhiên, lối nhìn đó là lối
nhìn chung của mọi người căn cứ trên khuynh hướng nhận thức của lý luận hình
thức. Trong Duy Thức Học của đạo Phật, lối nhận thức ấy gọi là "biến kế sở
chấp" (vikalpa) một lề lối nhận thức đóng khung trong sự mê chấp vào
nguyên tắc đồng nhất (principe d'identité) của sự vật. Sự vật không đồng nhất trên
thời gian (vô thường) cũng như trên không gian (vô ngã). Chúng ta thử xét lại
vấn đề xem sao.
Có một bữa đi ngoài đường, tôi
gặp một người ngoại quốc. Ông ta dừng lại hỏi tôi: "Ông là người Phật giáo
phải không?." Tôi trả lời "vâng." Ông ta nhìn tôi một lát rồi
gật gù có vẻ hiểu. Rồi chúng tôi chia tay. Nhưng câu chuyện không giản dị như
vậy. Khi ông ta đi rồi tôi mới ngồi suy nghĩ, băn khoăn không hiểu ông ta gật
gù về chuyện gì. Không biết ông ta đã xây dựng những gì trong trí óc ông ta
trước khi gật gù. Thế nào trong trí óc ông ta cũng có một hình bóng, một khái
niệm về đạo Phật tổ hợp nên do một ít điều ông ta đã thấy, đã nghe và đã tưởng
tượng. Cái hình bóng ấy, cái khái niệm ấy mà ông ta đã cho là đạo Phật chắc
chắn không giống cái mà tôi cho là đạo Phật. Mỗi người trong chúng ta có một
nhận thức khác nhau về đạo Phật, tùy ở kiến thức, khả năng lĩnh ngộ và óc suy
luận của ta. Nói một cách khác hơn, mỗi người trong chúng ta có một đạo Phật,
và có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu đạo Phật, trong lúc ấy thì đạo Phật tự
thân (le Bouddhisme en soi) nằm ở đâu, và có dính líu ít nhiều với những đạo
Phật trong nhận thức của chúng ta không, cái đó chúng ta không hiểu được, bởi
vì chúng ta chưa thoát khỏi ý thức suy luận chủ quan của chúng ta. Chỗ sai lầm
là tưởng rằng bao nhiêu nhận thức của chúng ta về đạo Phật đều phản chiếu đạo
Phật tự thân; kỳ thực có những nhận thức mệnh danh là về đạo Phật mà thực không
dính dáng gì đến đạo Phật hết cả. Nhưng anh có quyền gì và anh dựa vào tiêu
chuẩn nào để nói rằng nhận thức đó không dính dáng gì đến đạo Phật, trong khi
anh nói rằng không thể vượt khỏi ý thức suy luận chủ quan của anh? Tại sao anh
lại đoan quyết được rằng nhận thức của anh về đạo Phật là gần với đạo Phật tự
thân hơn cả? Người bạn đọc có thể hỏi như thế. Tôi công nhận đó là một câu hỏi
thật thông minh và xin khất lại ít lâu trước khi trả lời. Nhưng mà tôi xin nói
rằng tôi không bao giờ dám đoan quyết rằng nhận thức của tôi là gần với đạo
Phật tự thân hơn cả. Tôi chỉ dám nói rằng trong lịch trình kinh nghiệm tâm
linh, nhận thức hiện thời của tôi về đạo Phật, so sánh với những nhận thức của
tôi về đạo Phật trong quá khứ, đã ít ngây thơ và tôi tin là vì ít ngây thơ hơn
nên cũng có thể gần với đạo Phật tự thân hơn.
Thôi để tôi gắng thoát cái vòng
luẩn quẩn. Tôi trở lại câu chuyện ông bạn ngoại quốc hồi nãy. Có thể khi nghe
tôi xác nhận tôi là người đạo Phật, ông ta liền nghĩ rằng: "À ra cái ông
này đang mong ước lên Niết Bàn Hư Vô Tịch Diệt đây, và đang tự xóa bản ngã của
mình để thoát khỏi sáu nẻo luân hồi đây." Thật ra thì chính nội dung những
danh từ và những khái niệm diễn đạt trong ý nghĩ kia cũng thay đổi theo nhận
thức từng người, và cùng về một câu nói đó mà mỗi người có thể nghĩ khác nhau.
Những chữ Niết Bàn, Hư Vô, Tịch Diệt, Bản Ngã, Luân Hồi không có nghĩa nhất
định. Xin bạn đừng cười, vì sự thực là như thế. Có biết bao nhiêu định nghĩa về
Niết Bàn rồi, và những cố gắng ấy là để làm nên một việc mà chính Phật Thích Ca
đã không làm nổi. Hỏi Niết Bàn là gì, Ngài đã từ chối không trả lời.
Vậy nếu ông bạn ngoại quốc nói
to ý nghĩ đó cho tôi nghe thì tôi sẽ hỏi lại ông muốn nói gì khi ông bảo là tôi
"đang ước mong lên Niết Bàn Hư Vô Tịch Diệt và đang tự xóa bản ngã của
mình để thoát khỏi sáu nẻo luân hồi." Cố nhiên là ông sẽ giải thích câu
nói theo nhận thức của ông về đạo Phật và cố nhiên là tôi khó mà chấp nhận đó
là đạo Phật của tôi. Tôi có thể trả lời: "Tôi là người đạo Phật, nhưng là
đạo Phật trong nhận thức của tôi chứ không phải là đạo Phật trong nhận thức của
ông. Theo tôi, cái mà ông cho là đạo Phật ấy nó không phải là đạo Phật mà chỉ
là những tưởng tượng của ông về đạo Phật." Ông ta có thể dùng lý luận của
tôi để bắt bẻ lại tôi: "Ông chắc gì cái mà ông tưởng đã là đạo Phật?."
Vậy thì trong hai chúng tôi không ai hơn ai thua. Chúng tôi có hai đạo Phật
khác nhau, mà đạo Phật tự thân thì chẳng biết theo hùa về phe nào. Vấn đề giải
dị như thế.
Trong số 500 triệu người tự nhận
là theo đạo Phật, người nào cũng nghĩ rằng mình đang theo đạo Phật tự thân. Và
trong số những người có học và nghe nói về đạo Phật, người nào cũng nghĩ rằng
đạo Phật là cái đang phản chiếu trong quan niệm mình. Thực ra tất cả đều chỉ là
những quan niệm về đạo Phật mà không hẳn là đạo Phật. Trong một tôn giáo có đến
hằng mấy mươi tông phái chất chứa không biết bao nhiêu là hệ thống giáo lý và
triết học trong một tôn giáo mà con người có quyền tự do phê phán, chọn lựa và
sáng tạo giáo lý, vấn đề quy định cái gì là đạo Phật tự thân lại là một vấn đề
càng khó khăn hơn gấp bội. Cho nên ta không ngạc nhiên khi nghe đạo Phật nói có
đến tám vạn bốn ngàn nẻo vào chân lý (bát vạn tứ thiên pháp môn).
Xin cho phép tôi nói rộng ra
thêm một ít trước khi chúng ta đặt nguyên tắc thứ nhất. Nhà thần học danh tiếng
Paul Tillich trong tác phẩm Systematic Theology có nêu lên ý niệm về một
"vòng tròn thần học" (theological circle). Muốn đạt đến chân lý thần
khải mầu nhiệm, ta phải đứng ở trong vòng tròn chứ không phải đứng ngoài vòng
tròn. Vòng tròn ấy biểu hiện bên trong, cho những người đã chấp nhận giáo hội
và Thánh Kinh như là những phương tiện duy nhất để tìm đến sự thể nhập chân lý
thần khải - nói khác, cho những người đã can đảm lựa chọn và tin tưởng ở Ky Tô
Giáo. Những người đứng ngoài vòng tròn thì không thể thấy được chân lý thần
khải; nếu những người đó muốn họ phải can đảm nhẩy vào vòng tròn - Nếu ta xét
kỹ ý niệm vòng tròn thần học này theo nhận thức ta đã dùng để xét những người
Phật tử, thì ta sẽ thấy vòng tròn thần học ấy cũng không thể nào thiết lập được.
Có những người mang danh hiệu là tín đồ Ky Tô Giáo nhưng mà nhìn vào họ ai cũng
thấy hình như những người ấy không đứng trong vòng tròn thần học. Họ là những
tín đồ hữu danh vô thực. Trong đạo nào cũng có hiện tượng ấy. Nhưng nếu họ cứ
tự nhận họ là người đứng ở trong ai mà cấm được? Uy quyền của Giáo Hội, uy
quyền của Thánh Kinh ai cũng biết là không đủ để quy định thế nào là ở trong và
thế nào là ở ngoài. Nhìn vào sự thật tự khắc chúng ta biết. Có hàng ngàn hàng
vạn nhận thức về chân lý Thánh Kinh, ta dùng nhận thức nào đây để quy định vấn
đề trong, ngoài và vẽ ra cái vòng tròn khó khăn đó?
Theo ý chúng tôi thì không có
một tín hữu nào dám cả quyết rằng mình đang đích thực đứng trong vòng tròn cả -
nếu ta nói đến những người biết cẩn trọng và khiêm nhượng trong bước học hỏi và
tu luyện của mình. Tin một cách tuyệt đối rằng mình đang ở trong và kẻ kia đang
ở ngoài là dấu hiện của sự quá chất phác giản dị nếu không phải là ảo tưởng.
Theo chúng tôi, đức tin không phải là một sự đạt đạo tới bình an vô lượng mà là
một thao thức thường xuyên hướng đến sự đi tới, đi tới bằng cách can đảm từ bỏ
cái mình nhận ra là sai và chấp nhận cái mình mới khám phá ra được bằng học tập
và bằng kinh nghiệm tâm linh trong sinh hoạt tôn giáo. Tin không phải là để
được yên ngủ mà là để chấp nhận đi tới - mà đi tới là một quá trình tự hủy và
tự tạo thường xuyên - một công trình đòi hỏi can đảm, thao thức và khổ đau nữa.
Cái nhà thần học Tây phương hiện
nay thường nói đến đức tin như một ân huệ, một tặng phẩm của Thượng Đế cho con
người, mà không phải chỉ là sự lựa chọn và chấp nhận của con người đối với Giáo
Hội và đối với Thánh Kinh. Trong trường hợp ấy, làm sao ta có thể quyết đoán
được rằng ai đã tin, và ai chưa tin? Ai đã được tặng phẩm đó của Thượng Đế và
ai chưa? Và chính bản thân của mình nữa: mình cho rằng mình đang tin, đang đứng
ở trong vòng tròn, liệu mình đã được đích thực tiếp nhận ân huệ ấy hay tất cả
những gì mình đang có cũng chỉ là sáng tạo phẩm của một nhận thức chủ quan?
Mà nếu có những kẻ hữu danh vô
thực, thì sao lại không có thể có những kẻ hữu thực vô danh? Một người kia
không biết đến Giáo Hội, không đọc đến Thánh Kinh, nhưng nếu sinh hoạt tâm linh
phù hợp với chân ý Chúa Ky Tô thì ai dám bảo rằng người ấy ở ngoài vòng tròn và
không thể tiếp nhận chân lý tối hậu?
Cho nên những ý niệm ở trong, ở
ngoài, bên này, bên kia, đạo Phật, đạo Chúa… đều là những ngục tù giam hãm ngăn
cách con người. Nếu muốn có một cuộc đối thoại chân thực, ta phải vùng vẫy để
đập bỏ phá vỡ những cái vỏ cứng ấy của tâm niệm, của thành kiến. Khi người bạn
tôi nói: "anh đã bị buộc vào đạo Phật rồi, anh không còn tự do nữa"
là bạn tôi muốn nói đến những vỏ cứng đó. "Vậy nếu muốn được tự do, ta
không nên theo một cái gì hết phải không?." Một người bạn khác hỏi. Tôi
thấy điều đó không thể thực hiện được. Anh không thể sống, nếu anh không theo
một cái gì. Trong trường hợp một người không theo đạo Chúa, không theo đạo
Phật, cũng nhất định không theo đạo nào hết, người ấy đã phải là tự do đâu.
Người ấy cũng có một cái vỏ cứng thật to lớn và vững chãi, có lẽ còn to hơn cái
vỏ của bạn và tôi nữa. Cái vỏ ấy che lấp không cho người ấy thấy gì, và vì vậy
người ấy cũng là nô lệ muôn đời cho nhận thức của chính mình. Tốt hơn là phải chấp
nhận, với tất cả trí tuệ và tâm linh mình, một đường lối, và hãy đi trên đường
lối ấy với tâm trạng thao thức, cẩn trọng, khiêm nhượng, sẵn sàng trao đổi, sẵn
sàng thay đổi, sẵn sàng chấp nhận khổ đau để thực hiện. Với thái độ đó, không
có cái vỏ nào giam hãm chúng ta được, không có xiềng xích nào níu kéo chúng ta
được, không có mãnh lực nào khiến ta trở nên cuồng tín phủ nhận tất cả
"những gì không phải là ta" được. Và đứng ở đâu, ta cũng nhìn thấy
nhau.
Vậy nguyên tắc thứ nhất, theo
thiển ý, là nhớ mãi rằng dù cho có đức tin, dù có đức tin rồi, dù không có đức
tin, tất cả chúng ta đều là người đang đi tìm sự thực và sự thực thì không biết
đến những vỏ cứng và những vòng tròn.
Nguyên tắc thứ hai, theo ý chúng
tôi, là không biện luận trên căn bản tỷ giảo để so sánh đối chiếu và ước lượng
giá trị siêu hình, triết học và đạo đức giữa tôn giáo này với tôn giáo kia mà
chỉ trình bày sở kiến của mình về lãnh vực chuyên môn của mình để cùng nhận xét
và thảo luận.
Như thế câu hỏi cấp thiết của
chúng ta đặt ra không phải là xét xem đạo nào là chân lý, và đạo nào không là
chân lý, đạo nào hợp với quần chúng và đạo nào không hợp với quần chúng, đạo
nào nên theo và đạo nào không nên theo - câu hỏi cấp thiết của chúng ta là tìm
xem :
- - Đạo mà anh đang theo có những đặc điểm nào?
- - Có thể giúp được gì?
- - Giúp thế nào?
- - Vì sao và căn cứ vào đâu mà anh nói được như
vậy?
Như thế chúng ta sẽ tránh khỏi
những cuộc thảo luận không bao giờ chấm dứt, những cuộc thảo luận chỉ làm tốn
thì giờ tốn sức lực mà không đem lại kết quả thiết thực nào cho sự sống, nếu
không phải là do sự hiểu biết chân thực.
Nguyên tắc thứ ba mà cũng là
nguyên tắc chót, theo ý chúng tôi, là ta phải cùng đứng trên một miếng đất để
có thể cúng đồng thời trông thấy được những điều mà bạn cố chỉ cho tôi ấy. Như
thế có nghĩa là bạn cố chỉ ra những đề tài siêu hình chẳng bao giờ có thể kiểm
soát được trên hý luận vô ích chỉ gây thêm thành kiến và đau khổ.
Về nguyên tắc thứ ba này, ta có
thể đi sâu hơn để nhận định giới hạn những địa hạt mà ta có thể khám phá chung
với nhau. Nghiên cứu một tôn giáo ta có thể tìm đến tôn giáo ấy bằng chiều
ngưỡng cửa: ngưỡng của thần lý học, ngưỡng của sử học, người của kinh tế học,
ngưỡng cửa nhân chủng học, ngưỡng cửa xã hội học… Từ mỗi lối vào ta có thể khám
phá thêm rõ khi ta đi vào bằng những lối kia. Nhưng mà ta đừng bị quáng mất bởi
một khám phá nhỏ để rồi đi đến sự phủ nhận những khám phá khá của sự phủ nhận
những khám phá khác của những người không cùng đi vào một cưỡng ngựa của với ta.
Ta đừng cố cắt nghĩa tất cả các hiện tượng tôn giáo bằng điều ta mới khám phá
được, nếu không ta sẽ phạm vào lỗi lầm muôn đời của ông thầy bói bảo rằng con
voi cũng giống cái chổi lông. Đứng về phía giải thích hiện tượng tôn giáo chẳng
hạn, một Max Luller có thể khám phá ra rằng tôn giáo bắt nguồn ở khuynh hướng
nhân cách hóa những sự vật tự nhiên để được biểu hiện ở thần thoại và thờ cúng.
Một Spencer có thể cho rằng tôn giáo bắt nguồn từ sự sợ hãi mà quỷ rồi đi đến
sự thờ cúng tổ tiên và tiếp đó là sự thờ cúng những thần linh được chọn trong
số vong hồn những tổ tiên nào hiển hách nhất. Một Van Gennep hay một Crawley có thể cho rằng tôn giáo phát nguyên từ những
khủng hoảng tâm lý trong đời người tạo ra do những hiện tượng sinh đẻ, dậy thì,
hôn phối, chết. Những khủng hoảng đó đưa tới sự thờ cúng và lễ bái. Một Freud
có thể nói rằng tôn giáo là hình ảnh của một ảo tưởng, kết cấu đại đồng của một
trạng thái thần kinh nhắm mục đích thỏa mãn và che dấu ước vọng chân thực của
con người đang sống. Chúng ta không có thì giờ để mà thảo luận cân nhắc tất cả
những khám phá ấy. Chúng ta không có được cái xa hoa ngồi thảo luận hàng tháng
hàng năm như thế. Chúng ta phải nhìn thẳng vào xã hội loài người, khắt khe hơn
nữa, xã hội Việt Nam
chúng ta trong hiện tại, để thảo luận. Ta sẽ nhìn nhận thực trạng xã hội, phải
nhìn nhận sự có mặt của các ý thức hệ và của các tôn giáo có mặt tại xã hội ta,
phải hỏi rằng trong hiện tình quả thực tôn giáo của ta có thể đóng góp gì? Đóng
góp cách nào, và có thực tế không, hay chỉ là ước vọng là ảo tưởng? Ta sẽ nhìn
nhận địa vị tôn giáo ta bên cạnh sự hiện diện của các tôn giáo khác như thế nào
trong xã hội ta. Ta sẽ phụng sự, không phải cho một tổ chức tôn giáo, mà cho
một lý tưởng tôn giáo. Nói khác ta phụng sự con người, phụng sự xã hội; trong
quá trình hành động, tổ chức tôn giáo không phải cứu cánh mà là phương tiện.
Nói như thế không phải là chủ trương rằng hãy biến các đoàn thể tôn giáo thành
những lực lượng xã hội và chính trị: nói như thế chỉ là nhấn mạnh đến sự thực
hiện lý tưởng tôn giáo mà phản kháng ý thức quy hướng mọi hoạt động về sự xây
dựng cho tổ chức tôn giáo, để cho "tôn giáo" mình thêm mạnh, thêm
quyền thế để "tôn giáo" mình chiếm địa vị độc tôn. Nếu một tôn giáo
nào quên lãng sự thực hiện lý tưởng tôn giáo mà chỉ nhắm đến sự bành trướng thế
lực và tổ chức thì tôn giáo ấy không được gọi là tôn giáo nữa. Ta phải thành
khẩn và thận trọng nhận thức sự khác biệt giữa hình thức và nội dung một tôn
giáo. Có khi đạt được hình thức lớn mạnh mà nội dung đã tan biến và tiêu diệt,
vì lẽ những phương tiện để đạt đến hình thức lớn mạnh ấy đã đi ngược lại tinh
thần của tôn giáo ấy.
Cho nên một cuộc đối thoại giữa
người Phật tử với người Phật tử, giữa người Phật tử với người "không"
Phật tử, phải là một cuộc đối thoại giữa những người có thiện chí - chỉ nhắm
đến con người. Trước hết nếu ta để thì giờ bàn về Niết Bàn, bàn về Thiên Đường,
bàn về sự sống bên kia cái chết, chúng ta sẽ còn bị ngăn cách nhau mãi mãi bằng
những giả thuyết siêu hình không thể kiểm soát, những sai biệt đã gây quá nhiều
thương tích cho lịch sử. Ta có thể nghe Đức Không Tử "vị năng sự sinh, yên
năng sự tử" hay nghe Phật Thích Ca: "Đừng có hỏi rằng thế giới này
hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng. Dù nó hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng
hay vô cùng thì điều mà chúng ta phải công nhận trước tiên là đau khổ của cuộc
đời là một hiện thực."
Vì vậy, ta bắt đầu từ sự khổ
đau, từ con người mà không phải từ thế giới siêu hình.