8
NGƯỜI TRÍ THỨC VÀ ĐẠO PHẬT
Trừ ra ở
những địa phương mà công cuộc chấn hưng Phật giáo đã tạo được tác dụng sinh
hoạt theo chính pháp trên các phương diện giáo dục, xã hội và tâm linh, ở nhiều
nơi, nhất là ở thôn quê, mỗi khi nói đến đạo Phật, một số trong chúng ta thường
liên tưởng tới những ngôi chùa tối tăm với lối thờ phụng phức tạp và tới những
ông thầy quanh năm gõ mõ tụng kinh và đi làm đám ma đám chay trong làng trong
xóm. Từ gần một trăm năm nay hình bóng của đạo Phật là như thế đối với người
trí thức Việt Nam.
Cố nhiên có một số người có liên lạc với các tự viện đứng đắn, tiếp xúc được
với một ít các vị cao tăng và hiểu được rằng đạo Phật là một sinh hoạt tâm linh
rất cao siêu, nhưng số người ấy thực là quá ít. Hình ảnh của đạo Phật Lý Trần
chỉ được thấy thấp thoáng mờ ảo qua một vài trang lịch sử, một ít tác phẩm và
thơ văn; những tài liệu này cũng ít có ai chú ý tới. Chúng ta chỉ thấy trước
mắt một số sinh hoạt tín ngưỡng rất bình dân, rất phức tạp, được mệnh danh là
đạo Phật Việt Nam.
Thực ra thì đấy chính là hình bóng đích thực của đạo Phật bình dân Việt Nam - và hình
bóng ấy mang trong nó tình trạng chậm tiến và lạc hậu của ta về phương diện kỹ
thuật, khoa học và xã hội.
Trong kinh Pháp Hoa, giáo lý của
Phật được ví với một trận mưa rào thấm nhuần rừng núi đồng ruộng. Tùy theo nhu
cầu, các cây lớn cây bé hút lấy nước mát của trận mưa. Nhu cầu tín ngưỡng tầm
thường của xã hội bình dân khiến cho xã hội bình dân chỉ tiếp nhận được một
phần rất ít giáo lý của đạo Phật, và vì vậy đạo Phật bình dân Việt Nam tiêu biểu
một cách nghèo nàn và vô cùng thiếu sót giá trị cao đẹp của Phật học. Khi một
bà mẹ mang đứa con tám tháng đến chùa "bán khoán" cho ông thầy và cho
Phật, bà mẹ ấy tin tưởng rằng khi đứa bé đã là con của Phật rồi thì ma quỷ
không còn dám động tới tánh mạng nó nữa. Nhà chùa cho đứa bé mặc áo có in những
chữ Phạn (như là bùa chú) để trấn áp các loại ma quỷ. Khi mà những phương tiện
y tế, vệ sinh đang còn thiếu thốn, không bảo đảm được cho sinh mạng đứa bé thì
cố nhiên bà mẹ phải tìm tới những bảo đảm của tín ngưỡng. Đạo Phật là đạo từ
bi, tại sao sau một lễ cầu an ông thầy lại không cho đứa bé mặc một chiếc áo
của Phật để bà mẹ vững lòng tin hơn nơi uy lực huyền diệu của Ngài? Mà thử hỏi
các ông thầy chùa làng có cần phải có một trình độ trí thức cao hay không và
một khả năng hướng dẫn đời sống tâm linh sâu sắc hay không, khi mà những nhu
cầu tín ngưỡng của quần chúng thì giản dị và tầm thường như thế? Một vị tăng sĩ
bác học, chỉ biết dạy tham thiền và giảng kinh Pháp Hoa làm sao có thể sống
trong một ngôi chùa bao quanh bởi lớp quần chúng chỉ đòi hỏi những công việc ma
chay trừ tà và trị bệnh như thế?
Cho nên muốn đạo Phật được hiển
lộ với hết sắc thái cao đẹp của nó, ta phải tìm cách áp dụng cho được đạo Phật
một cách sung mãn trong sự sống, và như thế tức là phải làm sao cho quần chúng
biết tìm ở đạo Phật sự thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt trí tuệ và tâm linh cần
cho sự phát triển toàn vẹn con người của họ chứ không phải chỉ biết tìm ở đạo
Phật những an ủi và che chở có tính cách thần bí mà thôi.
Một câu hỏi tự nhiên đến với
chúng ta. Làm sao trong điều kiện sinh hoạt kinh tế thấp kém như thế, làm sao
trong sinh hoạt trí thức thiếu thốn như thế người dân có thể có được những nhu
cầu về sự phát triển con người của họ về phương diện sinh hoạt tâm linh? Bận
rộn quá về vấn đề chạy ăn, chạy thuế, chạy thuốc men cho con làm sao họ có thể
nghĩ đến chuyện học hỏi giáo lý đạo Phật? Kiến thức thiếu thốn như thế làm sao
họ nhận ra rằng sở dĩ con họ bị bệnh không phải là vì tà vì quỷ, mà tại vì họ
thiếu những phương pháp trị liệu và bảo vệ sanh mạng cho đứa bé? Họ đang cần ở
một ít trấn tĩnh và an ủi thì họ nhận một ít trấn tĩnh và an ủi ở đạo Phật, thế
thôi. Đạo Phật phải chỉ cho họ thấy rằng ngoài những nhu cầu trấn tĩnh và trị
liệu ấy, họ còn phải tìm ở đạo Phật phương tiện để phát triển sinh hoạt tâm
linh, giáo dục, kinh tế và xã hội nữa. Nhưng đạo Phật Việt Nam trong những thời
gian gần đây đã không làm được như thế. Vì sao?
Lý do thứ nhất là người trí thức
Việt Nam
đã bỏ Phật học để theo đòi cái học khoa cử. Ai cũng biết ở các thời đại Lý và
Trần sơ, đạo Phật đã đóng vai trò kiến quốc trên các phương diện văn học, đạo
đức, nghệ thuật, giáo dục, ngoại giao và xã hội. Đạo Phật trong các thời đại ấy
đã thúc đẩy sự tiến lên của xã hội Việt Nam và công trình kia chứng thực
sinh lực và khả năng của Phật giáo. Sử chép rằng ở triều Lý giới trí thức bác
học nhất trong nước là các nhà Phật học và các thiền sư. Cái học của Phật học
lúc đó là cái học để hiểu và để xây dựng, nó không đem lại tước vị cho ai cả.
Các thiền sư thường được vua vời vào cung giảng đạo, luận bàn việc văn hóa,
kinh tế, xã hội và cả chính trị nữa. Có thiền sư đã được mời đứng ra để tiếp sứ
ngoại quốc. Thế nhưng họ vẫn sống đạm bạc nâu sồng trong các tự viện, và chỉ
vào cung khi có chỉ triệu mời. Giới trí thức đã nắm được tinh hoa của Phật học
(tác phẩm của thời đại chứng tỏ điều ấy) có một nếp sinh hoạt tâm linh phong
phú, giải thoát, siêu việt, và đã sử dụng cái học ấy để giúp cho xã hội, từ
tinh thần kiến trúc đến công tác từ thiện xã hội. Nhưng từ lúc cái học thì cử
bắt đầu được tổ chức, thì tình thế đổi hẳn. Người trí thức của thế hệ kế tiếp
nhận thấy ở cái học ấy những phương tiện để bước lên nấc thang phú quý danh
vọng. Học kinh Lăng Nghiêm và thực tập tham thiền nhập định không có triển vọng
bằng học Luận Ngữ và tập làm văn sách, thi phú. Thế là trí thức Việt Nam bỏ Phật học
để theo cái học khoa cử với giấc mộng áo mũ cờ lọng và võng điều võng thắm.
Lịch sử ghi lại những dèm pha, những sàm tấu, những công kích đối với thiền sư
và thiền môn. Các vị tăng khi không được dùng nữa thì an nhiên trở về tự viện
hành đạo, dạy học, ẩn mình, đúng như lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ trong bài
Phóng cuồng ca :
"Thâm tắc lệ hề, thiển tắc
kệ,
Dụng tắc hành hề, xã tắc tàng"
(Thượng
Sĩ Ngữ Lục, Việt Nam Phật Điển Tùng San)
Người ta theo cái học mới cả
rồi, thế hệ trẻ chen nhau vào cửa Khổng sân Trình cả rồi, nên Thiền môn vắng
bóng kẻ sĩ. Chỉ cần một thời gian ba bốn chục năm thôi là cao tăng bác học trở
nên thưa thớt lẻ tẻ. Và Phật giáo, thiếu người trí thức, thiếu sự lãnh đạo, rơi
xuống cho quần chúng bình dân gìn giữ, bảo vệ. Cũng do đó mà đạo Phật trong các
thời đại sau này sẽ bị lấm lem bởi những màu sắc mê tín thần bí phức tạp mà ta
còn trông thấy ở nền tín ngưỡng hiện đại. Một số ít các bậc cao tăng không đủ
để phát huy nền đạo lý chính pháp trong cả một xã hội khao khát tín ngưỡng như
xã hội Việt Nam
chúng ta. Và chỉ có những ai có duyên được gặp họ mới thấy được đạo Phật không
phải chỉ là một ít nghi lễ để làm thỏa mãn những nhu cầu tín ngưỡng hàng ngày
của quần chúng trong thôn lạc.
Lý do thứ hai là số người Phật
tử trí thức không biết tìm cách trả đạo Phật lại cho giới trí thức, không biết
đánh tan những nhận thức sai lạc của giới trí thức khi họ cho rằng đạo Phật là
mê tín thần quyền, là chỉ lo tự lợi, là chán đời, là nhu nhược yếu đuối… không
trình bày được đạo Phật cho những người có chí như một lý tưởng cải thiện sinh
hoạt xã hội và tâm linh của dân tộc. Điều này có thể là một điều trách cứ quá
đáng, bởi vì công việc thì khó mà số lượng các cao tăng và các cư sĩ hiểu Phật
thì quá nhỏ bé. Nhưng dù sao quan niệm và phương pháp của họ trong công cuộc
duy trì Phật pháp cũng đã thiển cận. Khi người Tây phương mang qua nước ta nền
văn minh và cái học của họ, đáng lẽ đạo Phật có thể lấy kỹ thuật mới để phát
huy nền đạo học đã bị mai một và chen lấn bởi cái học khoa cử. Bởi vì khi Tây
học được thiết lập ở xứ ta, trí thức Việt Nam lại bỏ Nho học mà theo cái học
mới, cũng như ngày xưa người ta đã bỏ Phật học để theo Nho học vậy. Cái học ông
nghè ông cống bấy giờ hết có hiệu quả nữa rồi, người ta bèn chạy theo cái học
ông Phán để buổi tối có rượu sâm bang và buổi sáng có sữa bò. Các nhà nho bị bỏ
rơi, lui về vườn, và ta thấy rõ cái cảnh thiền gia và nho gia ngồi uống trà
thân mật. Nhà sư cố nhiên bao giờ cũng hoan hỷ, dù là với người ngày xưa đã cho
mình về vườn.
Cái chữ nho mà ngày xưa người
tăng sĩ thường dùng để học kinh và dạy kinh bấy giờ cũng ít ai chịu học, nên
nền Phật học đã ốm yếu lại càng ốm yếu hơn. Thêm vào đó lại có những tôn giáo
mới, với lối truyền đạo có phương pháp hơn, công phu hơn và tích cực hơn. Các
nhà sư vốn gần gũi với phong trào kháng chiến Cần Vương nên cũng không ưa gì cái
học a tròn b méo của người Pháp đem vào. Họ cũng muốn tẩy chay cái thứ văn minh
"mất gốc" lúc bấy giờ đang lan tràn như vũ bão, nhất là ở thành thị.
Họ không biết thích nghi với thời đại, đem lối văn tự mới để truyền bá Phật học.
Trái lại những người tập sự trong các tu viện (điệu) đều chỉ được học chữ Hán.
Mãi đến khoảng 1930 mới bắt đầu thấy có các chú điệu được học quốc ngữ.
Cố nhiên Phật học phải suy đồi
một cách thảm hại khi mà một mặt, thế hệ những người thâm hiểu Hán văn tàn dần,
một mặt, lớp người muốn học quốc văn bị cấm đoán, không được khuyến khích. Thế
kỷ vừa qua thực đã mang lại quá nhiều đen tối cho Phật giáo, nếu mà không có
phong trào chấn hưng Phật học khởi mở từ khoảng 1930 dưới ảnh hưởng của phong
trào Phật học Trung Hoa do Thái Hư đại sư lãnh đạo.
Công cuộc chấn hưng Phật giáo đã
vấp phải những trở ngại lớn lao. Một mặt, lớp người Phật tử trí thức làm cán bộ
thì thiếu thốn; mặt khác, công việc va chạm sự khó khăn nghi kỵ của chính
quyền; mặt khác nữa không có cơ sở tài chính: mọi cố gắng phần nhiều dựa trên
phương tiện của một số các người hơi dư dật được mệnh danh là có tâm đạo và
thực ra là có nhiều đòi hỏi tín ngưỡng không cần cho chánh pháp lắm như tô
tượng, đúc chuông, đàn trai, chẩn tế… Cho nên mãi đến nầy sau bao nhiêu cố
gắng, đạo Phật vẫn chưa tự thực hiện được phong độ ngày xưa. Một số rất đông
thanh niên và trí thức mê say Tây phương vẫn không có được một ý niệm về giá
trị Phật học, mỗi khi nghe nói đến đạo Phật vẫn nghĩ đến những hình thái lễ bái
tín ngưỡng tiêu cực, những lề lối sinh hoạt yếm thế.
Cuộc biến động lịch sử vừa qua
đã lay chuyển được trí thức trẻ tuổi Việt Nam. Tinh thần vô úy, hy sinh,
thương yêu của đạo Phật được thể hiện chói rạng nơi Hòa thượng Quảng Đức, nơi
lớp người hiền lành nhưng cương quyết khi họ đứng dậy cho tự do và ngã xuống
cho tự do. Một số những người bạn trẻ bàng hoàng tỉnh thức: họ không dám nghĩ
rằng cái hình ảnh họ tạo ra trong trí họ là đạo Phật nữa. Họ hé thấy ở đạo Phật
một cái gì không phải yếm thế, tiêu cực. Thì ra trong cái hình thức cũ kỹ và
tầm thường ấy có một viên ngọc nội dung vô cùng giá trị. Sự hưởng ứng và phong
trào học Phật của người trí thức và thanh niên ngày nay chứng tỏ sự hé thấy đó.
Cuộc vận động của toàn dân sở dĩ
thành công là vì chúng ta đã khai triển được đức vô úy, tình thương yêu, sự hy
sinh, những gì được coi như là nắm trong phần nội dung đẹp đẽ của đạo Phật. Đó
là những tia sáng đầu chiếu xuyên ra ngoài cái vỏ hình thức cũ kỹ và tầm thường.
Nếu lấy được viên ngọc đó ra hẳn ngoài ánh sáng, thì ta sẽ trở nên vô cùng giàu
có.
Nhân đây tôi xin nhắc lại câu
chuyện viên ngọc quý trong kinh Pháp Hoa. Một vị trưởng giả triệu phú kia biết
rằng đứa con trai mình vì tánh tiêu xài phung phí nên có thể làm tán gia bại
sản ngay trong một thời gian ngắn sau khi ông qua đời. Ông liền lấy cái áo của
đứa con, cái áo mà ông dặn đứa con sẽ mang theo suốt đời, rạch gấu áo và giấu
vào đấy một viên ngọc bảo châu quý giá vô ngần. Quả nhiên sau khi ông mất, đứa
con phá sản trong một thời gian rất ngắn, và sau khi bị bạn bè hất hủi liền đi
tha phương cầu thực, đói lạnh khổ sở tháng này sang năm khác. Một hôm khám phá
ra được viên ngọc trong gấu áo, đứa con liền trở thành giàu có sung sướng như
xưa. Viên ngọc kia, trong trường hợp Việt Nam, mà cũng là trường hợp của Á châu
nữa, là tiềm lực và khả năng của đạo Phật nằm sâu trong lớp hình thức cũ kỹ và
tầm thường của những nhu cầu tín ngưỡng bình dân. Viên ngọc đó đã hơn một lần
lóe cho ta thấy ánh sáng của nó. Tình trạng của chúng ta hiện cũng là tình
trạng của đứa con nghèo khổ tha phương khất thực không nơi nương tựa, không có
một cái gì nữa để tin vào mà sống.
Gần một thế kỷ mất nước. Hai
mươi năm chiến họa liên miên; anh em một nhà giết nhau vì chủ nghĩa, vì đảng
phái. Văn minh Tây phương gây xáo động và thác loạn. Đạo lý cổ truyền bất lực
vì không thoát xác nổi. Tôn giáo lấm lem chính trị. Bạo lực đảng phái gây chia
rẽ, căm thù, cuồng tín. Hứa hẹn ngàn chuyện nhưng không thực hiện được một.
Người thanh niên sinh ra chán nản nghi ngờ, liều lĩnh, đi tìm quên lãng trong
khói thuốc, tiếng ca, men rượu. Chúng ta lâm vào tình trạng cơ cực nghèo khổ
còn chua xót gấp mấy lần đứa con phung phí của người trưởng giả trong kinh Pháp
Hoa. Dân tộc Việt Nam, có dư can đảm để chịu đựng khổ đau nhưng khổ đau phải là
khổ đau vì một cái gì. Phải có một cái gì để làm đối tượng cho sự quy hướng đức
tin. Nếu bạo lực, căm thù, cuồng tín đã thất bại thì chỉ còn có tình thương, sự
hy sinh và thái độ không cố chấp mới có thể xây dựng lại cuộc sống. Mà tình
thương sự hy sinh và thái độ không cố chấp ấy ở đạo Phật vốn không phải là
những trang sức hình thức: nó nằm trong tận cùng bề sâu của đạo Phật, nó là bản
chất của đạo Phật. Nó chính là viên bảo châu quý giá.
Thực ra những chất liệu quý giá
kia đã được phát sinh và nuôi dưỡng bởi công trình thực nghiệm và sinh hoạt tâm
linh của đức Phật và của con người. Qua những biến cố và kinh nghiệm trong lịch
sử, và nhất là qua cuộc tranh đấu vừa rồi của toàn dân, ta biết đến sự hiện hữu
của viên ngọc quý giá đó. Tuy nhiên, nó đang nằm sâu trong lớp áo rách, phải
làm thế nào để đem nó ra cho được thì ta mới thoát khỏi trạng thái cùng khổ
hiện nay. Tất cả sự khó khăn là ở chỗ đó.
Trong những năm tháng tha phương
cầu thực, đứa con cùng khổ tuy mang viên ngọc quý trong áo nhưng vẫn không biết
không hay. Mà dù nếu có biết rằng viên ngọc đang nằm trong túi áo nhưng không
lấy được nó ra thì đứa con cũng chưa có thể gọi là thực sự giàu có. Chúng ta
cũng vậy. Nếu chỉ bằng lòng với ý tưởng rằng chúng ta có viên ngọc, mà không
chịu nỗ lực để làm hiển lộ nó - hiển lộ tiềm lực và khả năng đạo Phật - thì
chúng ta vẫn chưa là thực sự giàu có. Và công việc đòi hỏi tất cả chúng ta -
những người giữ ngọc - một thái độ khiêm tốn, một tinh thần cấp cứu, một ý chí
cương quyết thực hiện. Phải trở lại với đạo Phật, phải trả đạo Phật về cho trí
thức và thanh niên, phải xây dựng lại nền Phật học, phải đem nền học ấy ra áp
dụng trong sinh hoạt tâm linh, áp dụng trong mọi sinh hoạt văn hóa, kinh tế, mỹ
thuật, xã hội… như các nhà Phật học xưa kia đã thực hiện và đã thành công trong
xã hội Lý Trần.