Đời sống
Con Đường Thoát Khổ
Đại đức W. Rahula Thích Nữ Trí Hải dịch
03/04/2553 22:08 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Con Đường Thoát Khổ
Đại đức W. Rahula
Thích Nữ Trí Hải dịch

Chương VII
Quán Tưởng: Sự đào luyện tâm ý (Bhàvanà)


Đức Phật dạy: "Hỡi các Tỳ kheo, có hai thứ bệnh. Hai bệnh ấy là gì? Bệnh thể xác và bệnh tinh thần. Có những người hưởng sự vô bệnh về thể xác trong một năm, hai năm ... cả đến trong 100 năm hay hơn nữa. Nhưng, này các Tỳ kheo, hiếm thay trong thế gian này là những người hưởng sự vô bệnh về tinh thần, ngay cả trong chốc lát, trừ phi những người đã thoát khỏi những tâm địa xấu xa ô uế" (có nghĩa là những vị A La Hán).(1)

Giáo lý Đức Phật, đặc biệt phương pháp thiền quán của Ngài, nhằm mục đích phát khởi một trạng thái sức khỏe tinh thần hoàn hảo, quân bình và an tĩnh. Thật rủi ro rằng không có một ngành nào trong giáo lý Đức Phật lại bị hiểu lầm nhiều như "thiền định", bởi những Phật tử cũng như những người không phải Phật tử. Mỗi khi nói đến "thiền định" là người ta nghĩ ngay đến một sự trốn thoát những sinh hoạt thường ngày, một lối ngồi đặc biệt nào đó, như một pho tượng trong hang động hay trong một tu viện, ở một nơi xa xăm tách biệt hẳn với xã hội, và trầm tư, hay để mình chìm đắm trong một thứ ý tưởng hay hôn mê nào đó, huyền bí và vi mật. Thiền định chân chính của Đạo Phật hoàn toàn không có nghĩa một sự thoát ly như thế. Người ta đã quá hiểu sai lạc hay ít hiểu biết về vấn đề này trong giáo lý Đức Phật, đến nỗi trong những giai đoạn về sau, lối "thiền định" đã bị suy đồi và trở thành một thứ nghi thức hay lễ tục thông thường, hầu như kỹ thuật. (2)

Phần đông người ta chú trọng đến thiền định hay "yoga" để luyện một vài năng lực tâm linh hay thần bí như "con mắt thứ ba", mà những kẻ khác không có. Một vài năm trước, có một tu sĩ Phật giáo ở Ấn Độ cố phát triển một "khả năng nhìn thấy bằng lỗ tai", trong khi bà ta vẫn còn thấy được hoàn toàn bằng con mắt! Những loại ý nghĩ như vầy chỉ là một thứ bệnh quái dị về tâm linh. Luôn luôn đấy là một vấn đề khao khát, khao khát năng lực, quyền năng.

Danh từ "thiền định" rất kém cỏi để thay thế chữ bhàvanà, có nghĩa "sự đào luyện" hay đào luyện tâm linh. Bhàvanà của Phật học, nói đúng ra, là một sự đào luyện tâm linh trong ý nghĩa toàn vẹn nhất của danh từ. Nó nhằm mục đích tẩy sạch tâm tưởng hết những sự bất tịnh, vọng động, như dâm dục, sân nhuế, ác độc, biếng nhác, phiền não, bất an, hoài nghi, và đào luyện những đức tính như tập trung, sáng suốt, thông minh, ý chí, nghị lực, khả năng phân tích, tin tưởng, niềm hoan hỉ, an bình, để cuối cùng đưa đến trí tuệ cao cả, thấy rõ bản chất của sự vật như thật, và thực chứng chân lý tối hậu, Niết Bàn.

Có hai hình thức thiền định. Một là phát triễn sự tập trung tâm ý (Định, samatha hay samàdhi), sự chú tâm vào một cõi đề mục (cittekaggatà, Skt: cittaikàgratà), bằng những phương pháp khác nhau có nói đến trong các bản kinh, đưa đến những huyền vi cao cả như "cõi không-vô biên" hay cõi "phi tưởng phi-phi-tưởng" (không có tri giác cũng không không tri giác).

Tất cả những trạng thái huyền bí này, theo Đức Phật, đều do tâm tạo, sản phẩm của tâm, do tâm định đoạt (samkhata) (3). Chúng không dính dấp gì đến Thực tại, Chân lý, Niết Bàn. Hình thức thiền định này đã có từ trước thời Đức Phật. Vì vậy nó không thuần túy là của Phật giáo. Nhưng nó cũng không bị loại ra ngoài lãnh vực thiền định Phật giáo. Tuy nhiên nó không thiết yếu cho sự thực chứng Niết Bàn. Chính Đức Phật, trước khi Giác Ngộ, cũng đã luyện tập các phương pháp Yoga này với nhiều vị Thầy, và Ngài đã đạt đến những trạng thái tâm linh huyền bí cao siêu nhất, nhưng Ngài vẫn không thỏa mãn với chúng, bởi vì chúng không đem lại giải thoát hoàn toàn, chúng không đem lại kiến giải về thực tại tối hậu. Ngài xem những trạng thái huyền bí ấy chỉ là sự sống hạnh phúc trong đời này (dittha-dhammasukhavihàra) hay "sự sống an tĩnh" (santavihàra), nhưng ngoài ra không đem lại gì hơn.

Bởi thế Ngài đã tìm ra hình thức khác của "thiền định" gọi là vipassanà, "trực giác" về bản chất của sự vật đưa đến sự giải thoát hoàn toàn của tâm ý, đến sự thực chứng Chân lý tối hậu, Niết Bàn. Đấy là thiền định Phật giáo chính yếu, phương pháp đào luyện tâm linh theo Phật học. Đấy là một phương pháp phân tích căn cứ trên sự chú ý, sáng suốt thận trọng, quan sát.

Ta không thể nào bàn đến một vấn đề rộng lớn như thế một cách đủ đúng đắn trong chỉ vài trang giấy. Tuy nhiên ở đây biên giả cũng cố gắng trình bày một ý niệm rất sơ lược và đại khái về thiền định chân chính của Phật giáo một cách thực tế.

Bài thuyết pháp quan trọng nhất Đức Phật đã từng giảng về sự phát triển tâm linh (thiền) được gọi là "satipatthàna-suttà" (Kinh Quán Niệm; số 12 trong Digha-nikàya - Trường Bộ, hay số 10 của Majjhima-nikàya - Trung Bộ). Bài kinh này rất được sùng mộ trong truyền thống Phật giáo đến nỗi nó thường được tụng không những trong các tu viện Phật giáo mà cả đến trong các nhà Phật tử, những người trong gia đình ngồi quanh lại lắng nghe một cách thuần thành. Những thầy tu rất thường tụng kinh này bên giường người hấp hối để thanh lọc những ý tưởng cuối cùng của họ.

Những cách thức thiền định trong bài kinh ấy không tách rời sự sinh hoạt, chúng cũng không lánh đời, trái lại tất cả chúng đều liên quan đến đời sống của ta, hoạt động hàng ngày của ta, những buồn vui của ta, lời nói và ý nghĩ của ta, những việc làm về đạo đức và trí thức của ta.

Bài thuyết pháp ấy được chia làm bốn phần: Phần đầu nói đến thân thể (kàya), phần thứ hai nói đến những cảm giác và cảm thọ của ta (vedanà), phần thứ ba nói về tâm (citta) và phần thứ tư nói về những đối tượng đạo đức và tri thức (pháp - dhamma).

Ta cần nhớ rõ một điều là, dù trong hình thức thiền định nào, điều cốt yếu cũng là sự tỉnh thức hoàn toàn hay sự sáng suốt (sati), sự chú ý hay sự quan sát (anupassanà).

 

Niệm thân

Một trong những ví dụ thông dụng, thực tiễn và được nhiều người biết, trong thiền định về thân thể được gọi là "sổ tức quán" (sự ý thức về hơi thở ra vào, phép đếm hơi thở - #224;pànasati). Chỉ dành riêng cho phép quán này mà một lối ngồi nhất định đặc biệt được đặt ra trong kinh. Về những hình thức khác của "quán" bàn đến trong Kinh này, bạn có thể ngồi, đứng, đi hay nằm tùy ý. Nhưng với Sổ tức quán theo Kinh văn người ta nên ngồi "kiết già", giữ thân thể thẳng đứng và ý thức sáng suốt. Nhưng ngồi kiết già không thực tiễn và dễ dàng cho người trong mọi xứ, nhất là cho những người Âu Tây. Bởi thế, những người không ngồi kiết già hay bán già được, có thể ngồi trên một chiếc ghế, "thân thể thẳng và ý thức sáng suốt". Điều rất cần thiết cho sự luyện tập này là hành giả phải ngồi thật thẳng, nhưng không phải cứng đờ, tay để thoải mái trên đùi. Ngồi xong, bạn có thể nhắm mắt hay có thể nhìn vào sống mũi tùy tiện.

Bạn hít vào thở ra suốt ngày đêm, nhưng bạn không bao giờ để ý điều đó, bạn không bao giờ tập trung trong một giây lát vào hơi thở. Bây giờ bạn sẽ chỉ làm có điều ấy. Cứ hít vào thở ra như thường lệ, không một gắng sức hay nỗ lực nào. Rồi bạn đem tâm trí tập trung vào sự hít vô, thở ra của bạn, để cho tâm trí bạn quan sát hơi thở ra vào của bạn. Khi bạn thở, đôi khi bạn thở thật sâu dài, đôi khi không. Điều này không hề gì. Cứ thở một cách tự nhiên, như thường lệ. Điều độc nhất là khi bạn thở sâu và dài, bạn phải biết rằng đấy là những hơi thở sâu dài v.v... Nói cách khác, tâm trí bạn cần hoàn toàn tập trung vào hơi thở mà bạn biết rõ những động tác và chuyển biến của nó. Hãy quên hết mọi việc khác, quên những gì xung quanh bạn, đừng đưa mắt lên và nhìn bất cứ cái gì. Bạn cố gắng làm như thế trong chừng 5, 10 phút.

Lúc đầu bạn thấy vô cùng khó khăn để tập trung tâm trí vào hơi thở. Bạn sẽ ngạc nhiên thấy tâm trí chạy lăng xăng. Nó không đứng lại. Bạn khởi sự nghĩ nhiều chuyện khác nhau. Bạn nghe những âm thanh bên ngoài. Tâm trí bạn bị rối ren và phân tán. Bạn có thể buồn bã, thất vọng. Nhưng nếu bạn tiếp tục luyện tập như thế mỗi ngày hai bận, sáng và chiều, chừng 5, 10 phút mỗi lần, bạn sẽ dần dần bắt đầu tập trung được tâm ý vào hơi thở. Sau một thời gian, bạn sẽ kinh nghiệm đúng cái giây phút mà tâm trí bạn hoàn toàn tập trung vào hơi thở, mà bạn sẽ không còn nghe cả đến những âm thanh gần bạn, lúc mà ngoại giới không có nữa đối với bạn.

Cái giây phút mong manh này thật là một kinh nghiệm lớn lao đối với bạn, đầy hạnh phúc hoan lạc và bình an, đến nỗi bạn muốn tiếp tục nó mãi. Nhưng bạn vẫn không thể làm được. Tuy thế nếu bạn cứ tiếp tục luyện tập như thế một cách đều đặn, bạn có thể có lại kinh nghiệm ấy nhiều lần trong những khoảng thời gian càng ngày càng dài lâu hơn. Đấy là lúc bạn hoàn toàn quên mình đi trong sự chú ý hơi thở. Bao lâu bạn cần có ý thức về bạn thì bạn không bao giờ có thể tập trung vào một cái gì.

Lối tập luyện quán hơi thở này, một lối giản dị và dễ nhất, là cốt để phát triển lực tập trung (định lực) dẫn đến những trạng thái huyền bí rất cao (thiền). Ngoài ra, năng lực tập trung là điều cốt yếu để đạt đến bất cứ sự hiểu biết sâu xa nào, sự thâm nhập, trực giác về bản chất của vạn hữu, gồm cả sự thực chứng Niết Bàn.

Ngoài ra, sự luyện tập này về hơi thở đem lại cho bạn những kết quả tức thì. Nó lợi ích cho sức khỏe của bạn, giúp bạn thoải mái, ngủ ngon, và có hiệu năng trong công việc hằng ngày. Nó làm cho bạn bình an thanh thản. Ngay cả những lúc bạn nóng nảy hay xúc động, nếu bạn thực hành phép quán này trong vài phút, bạn sẽ thấy ngay rằng bạn liền trở nên bình tĩnh. Bạn cảm thấy như vừa thức tỉnh sau một sự nghỉ ngơi đầy đủ.

Một hình thức khác rất quan trọng, thực tiễn, và ích lợi của "thiền định" là có ý thức về, và để ý tới bất cứ cái gì bạn làm hay nói, suốt trong thói quen đời sống hằng ngày, một mình bạn, giữa công khai hay trong nghề nghiệp. Dù bạn đứng, đi, ngồi, nằm hoặc ngủ, hoặc co giản chân tay, hoặc nhìn quanh, hoặc mặc quần áo, hoặc nói năng hoặc im lặng hoặc ăn hoặc uống, hoặc ngay cả khi bạn đáp tiếng gọi của thiên nhiên - trong tất cả những động tác này và những động tác khác, bạn đều phải hoàn toàn ý thức và tỉnh táo về hành vi mà bạn đang làm mỗi lúc. Thế nghĩa là, bạn phải sống trong phút hiện tại, trong hành động hiện tại. Điều này không có nghĩa bạn không nên nghĩ chút nào về quá khứ hay vị lai. Trái lại, bạn nghĩ về chúng trong sự tương quan với lúc hiện tại, hành động hiện tại, tùy lúc và tùy trường hợp.

Người ta không thường thường sống trong hành động của họ, trong lúc hiện tại. Họ sống trong quá khứ hoặc trong vị lai. Mặc dù họ dường như đang làm một việc gì ở đây và bây giờ, nhưng kỳ thực họ sống ở một nơi nào khác trong tâm tưởng họ, trong những âu lo và những vấn đề tưởng tượng của họ, thường thường họ nhớ đến quá khứ hay nuôi những khao khát và suy tư về tương lai. Bởi vậy họ không sống trong những gì họ đang làm và cũng không thưởng thức được những gì họ đang làm trong mỗi lúc. Do đó họ bất mãn và bất hạnh với lúc hiện tại, với công việc đang làm, và dĩ nhiên họ không thể nào làm hoàn toàn "hết mình" những gì họ có vẻ đang làm.

Đôi khi bạn thấy một người trong quán ăn vừa ăn vừa đọc - một cảnh rất thường. Họ cho bạn cái cảm tưởng rằng họ là một người rất bận bịu, không có thì giờ để mà ăn nữa. Bạn tự hỏi họ đang ăn hay đang đọc. Người ta có thể nói họ làm cả hai chuyện. Nhưng thật ra họ không làm được việc nào, họ không thưởng thức được việc nào. Họ bị căng thẳng, rối ren trong tâm trí, và họ không thưởng thức cái mà họ đang làm trong lúc đó, mà vô tình và một cách điên rồ họ đang cố thoát khỏi sự sống. (Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng người ta không nên nói chuyện với bạn trong lúc ăn trưa hay ăn tối.)

Dù bạn cố cách mấy, bạn cũng không thể nào thoát khỏi cuộc đời. Bao lâu bạn còn sống, dù trong thành thị hay trong hang động, bạn còn phải đối đầu với cuộc đời và sống nó. Sự sống chân thật là lúc hiện tại - không phải ký ức về quá khứ, vốn đã chết và đi qua, cũng không phải những mơ mộng về tương lai, vốn chưa tớí. Một con người sống trong hiện tại là sống đời sống thật sự, và là người hạnh phúc nhất.

Khi có người hỏi Đức Phật vì sao những đồ đệ của Ngài sống một cuộc đời đơn sơ và lặng lẽ, chỉ ăn có một bữa cơm mỗi ngày, mà lại hoan hỉ như thế, Đức Phật trả lời: "Họ không ân hận vì quá khứ, họ cũng không trầm tư về tương lai. Họ sống trong hiện tại. Bởi thế họ hoan hỉ. Vì trầm tư tương lai và ân hận quá khứ, những người ngu khô héo như cây xanh bị chặt để dưới nắng." (5)

Sự chú ý hay tỉnh táo không có nghĩa rằng bạn phải nghĩ và ý thức rằng "tôi đang làm cái nầy" hay "tôi đang làm cái kia". Không. Hoàn toàn trái lại. Lúc mà bạn nghĩ "tôi đang làm cái này", bạn trở nên tự ý thức về mình, và khi đó bạn không sống trong hành động ấy, mà bạn sống trong ý nghĩ về "tôi", và hậu quả là việc làm của bạn cũng hỏng nốt. Bạn phải hoàn toàn quên bạn đi, và để chìm đắm mình trong những gì bạn đang làm. Lúc mà một thuyết trình viên trở nên tự ý thức và nghĩ "tôi đang nói với khán giả" thì lời lẽ của anh ta sẽ bị bối rối và dòng tư tưởng gián đoạn. Nhưng khi anh ta quên mình đi trong bài diễn văn, trong đề tài của mình, khi ấy anh ta nói hay nhất, diễn đạt trôi chảy và giải thích mọi sự một cách rõ ràng. Mọi tác phẩm vĩ đại - về nghệ thuật, thi ca, trí thức hay tâm linh - đều được thành hình vào những lúc mà những người sáng tác hoàn toàn quên mình trong hành động, say sưa với nó, và không còn ý thức về mình.

Sự chú ý hay tỉnh thức đối với những hoạt động của mình tức là sống trong lúc hiện tại, sống trong hành động hiện tại. (Đây cũng là cách thức của Zen, vốn có căn bản chính yếu trên giáo lý này). Ở đây, trong hình thức "quán" này, bạn không cần phải làm một hành động nào đặc biệt để phát triển sự chú ý, mà bạn chỉ phải để ý và tỉnh táo (có ý thức về) với bất cứ cái gì bạn làm. Bạn không cần phải phí phạm một giây phút nào của thời gian quý báu của bạn để thực hành phép "quán" đặc biệt này: bạn chỉ cần luôn luôn đào luyện sự chú ý và tỉnh thức, ngày và đêm, đối với tất cả mọi hoạt động của bạn trong đời sống thường nhật. Hai hình thức "quán" trên đây là thuộc về thân xác chúng ta.

 

Niệm thọ

Kế đến có một cách (thiền định) phát triển tâm linh đối với mọi cảm giác và cảm tưởng của ta, dù vui, khổ hay không vui không khổ. Ta hãy lấy ví dụ: Bạn kinh nghiệm một cảm giác đau buồn, bất hạnh. Trong tình trạng ấy tâm trí bạn mờ mịt, u ám, không quang đãng, nó bị suy sụp. Trong vài trường hợp, bạn cả đến không thấy rõ vì sao bạn có cảm giác bất hạnh đó. Trước tiên, bạn phải tập đừng buồn về những cảm giác bất hạnh của bạn. Nhưng hãy cố tìm hiểu rõ vì sao lại có một cảm giác hay cảm tưởng bất hạnh hay lo âu, hay buồn sầu. Cố xem xét nó phát khởi ra sao, nguyên nhân của nó, nó tan biến như thế nào, sự chấm dứt của nó. Cố xem xét nó, làm như ban đang quan sát nó từ bên ngoài, không có một phản ứng chủ quan nào cả, như một nhà khoa học quan sát một đối tượng. Ở đây cũng thế, bạn không nên nhìn nó như là "cảm giác của tôi" hay "cảm tưởng của tôi" một cách chủ quan mà chỉ nhìn nó như "một cảm giác" hay "một cảm tưởng" theo cách khách quan. Bạn lại cũng cần quên đi ý tưởng sai lầm về "tôi". Khi bạn thấy bản chất của nó, nó sinh và diệt ra sao, tâm thức bạn dần trở nên dửng dưng đối với cảm giác ấy, và hoàn toàn hết ràng buộc, tự do. Đối với mọi cảm giác hay cảm tưởng khác cũng thế.

 

Niệm tâm

Bây giờ ta hãy bàn đến hình thức thiền định thuộc về tâm thức chúng ta. Bạn cần phải hoàn toàn ý thức về việc tâm ý bạn đang mê say hay giải thoát; nó đầy hận thù, ác độc, ghen ghét, hay đầy tình yêu, từ bi; nó đang có ảo tưởng hay thấy biết chân xác rõ ràng v.v.. Ta phải công nhận rằng rất thường khi chúng ta sợ hãi hay hổ thẹn, không dám nhìn thẳng vào tâm ý của chính mình. Bởi thế ta ưa lẩn tránh nó. Người ta nên can đảm, thành thật và nhìn vào tâm mình như nhìn vào mặt mình trong gương (6).

Ở đây không có thái độ chỉ trích hay phê phán, hoặc phân biệt giữa phải và trái, tốt và xấu. Đây chỉ có sự quan sát, ngắm nhìn, xem xét. Bạn không phải là một quan tòa mà là một nhà khoa học. Khi quan sát tâm ý bạn, và thấy rõ bản chất đích thực của nó, bạn trở nên dửng dưng với những cảm xúc, tình cảm và trạng huống của nó. Nhờ thế bạn không còn bị dính mắc ràng buộc, và được tự do, để thấy sự vật đúng như thật.

Ta hãy lấy một ví dụ. Giả sử bạn tức giận thực sự, sôi sục vì giận dữ, ác độc, thù hằn. Thật lạ lùng, và mâu thuẫn rằng người đang tức giận thường không thực biết, không chú ý rằng mình đang tức giận. Lúc mà anh ta trở nên chú ý và có ý thức về trạng thái tâm hồn ấy của mình, lúc anh ta thấy sự tức giận của mình, thì sự giận dữ đó dường như trở nên hổ thẹn bẽn lẽn, và bắt đầu nguôi bớt. Bạn phải xem xét bản chất của nó, nó sinh làm sao, diệt thế nào. Ở đây lại cũng cần nhớ rằng bạn không nên nghĩ "tôi đang tức giận" hay nghĩ về "sự giận dữ của tôi". Bạn chỉ cần phải ý thức và chú ý về trạng thái của một tâm hồn giận dữ. Bạn chỉ đang quan sát và xem xét một cách khách quan cái tâm hồn giận dữ. Đây phải là thái độ đối với tất cả mọi tình cảm, cảm xúc và trạng thái tâm linh.

 

Niệm pháp

Kế đó còn có một hình thức "quán" về những đề mục luân lý, tâm linh và trí thức: Tất cả mọi sự nghiên cứu, đọc sách, thảo luận, đàm thoại và bàn cãi về những đề mục như thế đều được bao gồm trong phép "quán" này. Đọc quyển sách này, và suy nghĩ sâu xa về những đề tài ở trong đó là một hình thức "quán" (hay thiền định). Chúng ta đã thấy trước đây (7) rằng: cuộc đàm thoại giữa Khemaka và nhóm tăng lữ là một hình thức thiền quán đã đưa đến sự thực chứng Niết Bàn.

Bởi thế, theo hình thức "quán" này, bạn có thể nghiên cứu, suy nghĩ, và thảo luận về "ngũ cái" (5 sự ngăn che; nivarana) gồm có:

- Tham dục (kàmacchanda)
- Sân hận (vyàpàda)
- Hôn trầm (thìna-middha)
- Trạo cử (uddaca-kukkucca)
- Hoài nghi (vicikicchà)

Năm món này được xem như những chướng ngại đối với bất cứ sự hiểu biết nào, và do đó, bất cứ sự tiến bộ nào. Khi con người bị chúng làm chủ và khi họ không biết trừ khử chúng, thì họ không còn có thể hiểu được chánh tà, tốt xấu.

Người ta cũng có thể "quán" về "Thất Bồ Đề Phận" (Bojjhanga) nghĩa là 7 yếu tố của Giác Ngộ:

- Niệm (sati), có ý thức và tỉnh táo về tất cả các hoạt động và động tác vật lý cũng như tâm lý, như đã bàn ở trên.

- Trạch pháp (dhamma-vicaya). Tìm tòi nghiên cứu những vấn đề khác nhau của lý thuyết. Ở đây bao gồm tất cả mọi nghiên cứu về tôn giáo, luân lý và triết học, đọc sách, sưu tầm, bàn luận, đàm thoại, ngay cả dự những buổi diễn giảng về những vấn đề của lý thuyết ấy.

- Tinh tấn (viriya) làm việc một cách đầy nghị lực cho đến cùng.

- Hỷ (pìti), đức tính hoàn toàn trái ngược vớI thái độ tâm lý hoài nghi, bi đát hay thảm đạm.

- Khinh an (passaddhi), sự thoải mái của cả thể xác lẫn tinh thần. Người ta không nên có thể xác hay tâm thần căng thẳng.

- Định (samàdhi), như đã bàn ở trên.

- Xả (upekkhà), nghĩa là có thể đối diện cuộc sống trong mọi thăng trầm của nó, với một tâm hồn an tĩnh thanh bình, không rối loạn.

Muốn đào luyện những đức tính ấy điều cốt nhất là phải có một lòng mong mỏi thực sự, ý chí, hay khuynh hướng. Nhiều điều kiện vật chất và tâm linh giúp cho sự phát triển mỗi đức tính ấy được tả rõ trong các kinh nguyên thủy.

Người ta cũng có thể "quán" về những đề mục như Ngũ Uẩn, nghiên cứu câu hỏi "con người là gì?" hay "cái được gọi là tôi là cái gì?" hay về Tứ Diệu Đế, như đã bàn trên. Sự học hỏi và sưu tầm về những đề mục ấy bao gồm trong hình thức thứ tư của thiền định, đưa đến sự thực chứng chân lý tối hậu.

Ngoài những đề mục đã bàn, còn có nhiều đề mục thiền quán khác, theo truyền thống có 40, trong đó đặc biệt ta phải kể đến Tứ Vô lượng tâm (brahma-vihàra):

- Từ (mettà), trải ra một tình yêu vô biên, phổ quát và thiện cảm đối với tất cả mọi chúng sinh không chút phân biệt, như "một người mẹ thương yêu đứa con duy nhất".

- Bi (karunà) lòng trắc ẩn đối với mọi chúng sinh khổ đau phiền não và gặp hoạn nạn.

- Hỷ (mudità) niềm vui đầy thiện cảm đối với sự thành công của kẻ khác, đối với may mắn và hạnh phúc của họ, và

- Xả (upekkhà) sự bình thản ở trong mọi thăng trầm của cuộc sống.



Chú thích

(1) A (Colombo, 1929), p. 276.

(2) Theo Yogàvacara's Manual (do T.W. Rhys Davids xuất bản London, 18896), một bản văn về Thiền quán viết ở Tích Lan vào khoảng thế kỷ 18, đã chứng tỏ Thiền quán vào thời bấy giờ đã bị suy đồi thành một tục lệ đọc thần chú, đốt nến, v.v...

Xem thêm Chương XII về "The Ascetic Ideal", trong "History of Buddhism in Ceylon", Walpola Rahula (Colombo, 1956), p. 199.

(3) Xem Chương IV

(4) Xem Sallekha-sutta, Kinh số 8, M

(5) S I(PTS) p.5.

(6) M I(PTS) p.100

(7) Xem Chương VI.