Chương 2.
Ba mươi tám phước báu
Như vầy tôi nghe. Một lần Thế Tôn đang cư ngụ tại Xá
Vệ, trong vườn Kỳ Đà tại Tu Viện Cấp Cô Độc. Một đêm tối một vị trời hiện ra
với hào quang rực rỡ tỏa sáng cả vườn cây. Vị ấy đứng qua một bên và cung kính
đảnh lễ Thế Tôn: ‘Bạch Thế Tôn, nhiều vị trời và người khi tìm kiếm hạnh phúc
đã quán tưởng về những điều có thể đem lại sự giải thoát. Bạch Thế Tôn, xin
Ngài hãy nói về sự giải thoát tối thượng!’
Không thân thiện kẻ ngu. Kết bạn
với thiện tri thức. Tôn kính bậc đáng kính. Đây là những phước báu lớn.
Có chỗ ở thuận tiện, tích đức
trong quá khứ, theo đuổi những hạnh lành: đây thật là những phước báu lớn!
Giàu kiến thức và khả năng
chuyên môn, hành trì miên mật các giới luật, chỉ nói lời chân chất. Đây thật là
những phước báu lớn!
Phá ngã và thanh tịnh hóa tâm,
tuệ giác về tứ đế, sau cùng đạt Giác Ngộ, đây thật là những phước báu lớn!
Một trái tim vững chãi - không
phiền muộn, trong sạch và an trụ - dù khi gặp bát trược. Đây thật là phước báu
lớn!
Những ai đạt được vậy là kẻ
chiến thắng, ở mọi lúc mọi nơi. Họ tìm được hạnh phúc ở khắp cùng các chốn, và
đây là phước báu tối thượng.
Mahamangala Sutta, Sutta Nipata
258-69
Kinh Đại Phước Đức, Bộ Pháp
258-69
Trong bài thuyết pháp này, đức
Phật giải thích thế nào là hạnh phúc thật sự của nhân loại. Bài pháp này càng
có ý nghĩa vì nó liên quan đến cuộc sống thường nhật của ta. Bài pháp bắt đầu
như sau:
Như vầy tôi nghe. Một lần Thế
Tôn đang cư ngụ tại Xá Vệ, trong vườn Kỳ Đà tại Tu Viện Cấp Cô Độc. Một đêm tối
một vị trời hiện ra với hào quang rực rỡ tỏa sáng cả vườn cây. Vị ấy đứng qua
một bên và cung kính đảnh lễ Thế Tôn: ‘Bạch Thế Tôn, nhiều vị trời và người khi
tìm kiếm hạnh phúc đã quán tưởng về những điều có thể đem lại sự giải thoát.
Bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy nói về sự giải thoát tối thượng!’
Vị trời này có thể được xem như
một hình ảnh trong tâm trí của đức Phật, hoặc một biểu hiện ngoại tại như là sự
hiện hình của đức Mẹ Đồng Trinh trong truyền thống Ky Tô Giáo, hoặc một nhân
vật tôn giáo nào khác. Nhưng vị trời này đã nói: nhiều vị trời và người khi tìm
kiếm hạnh phúc đã quán tưởng về những điều có thể đem lại sự giải thoát. Hiển
nhiên là ít nhiều gì tất cả chúng ta đều đã nghĩ về những điều làm chúng ta
được hạnh phúc tột cùng. Thế thì vị trời này định nói gì khi dùng từ giải
thoát?
Khi hỏi đức Phật nghĩ gì về giải
thoát, vị trời dùng từ ấy để ám chỉ những sự kiện bên ngoài, những hiện tượng
có tính cách thần bí, những thứ bùa ngải. Chúng ta cũng thường có thói quen tìm
hạnh phúc qua bói bài, tử vi, đoán số, v.v… Nhưng ở đây từ Pali mangala có hai nghĩa, nó có thể được
dùng như nghĩa vị trời đó dùng ở đây, để chỉ ‘sự giải thoát’, song nó cũng có
thể có nghĩa là ‘phước báu’. Ở đây, cũng như thường lệ, đức Phật không dùng
định nghĩa đã được hàm ý trong câu hỏi; thay vào đó Ngài giảng cho chúng ta
phước báu thật sự là gì và mô tả toàn bộ ba mươi tám phước báu mà ta có thể đạt
được bằng sự nỗ lực của chính mình.
Sự hiện hình của vị trời này xảy
ra khi đức Phật đang ở trong tu viện do trưởng giả Cấp Cô Độc cúng dường cho
Ngài. Đây là nơi đức Phật thường trú ngụ ba tháng trong các khóa an cư mùa mưa.
Mặc dù vị trời này hiện ra với vẻ đẹp không thể tưởng tượng được và với hào
quang thanh tịnh tỏa sáng cả vườn Kỳ Đà, nhưng vị ấy không có điều gì để chia
sẻ với đức Phật. Ngược lại, vị ấy lại nhờ đức Phật giảng pháp. Đức Phật đã giải
thích về ba phước báu đầu tiên như sau:
Không thân thiện kẻ ngu. Kết bạn
với thiện tri thức. Tôn kính bậc đáng kính. Đây là những phước báu lớn.
Hai phước báu đầu tiên có liên
hệ với nhau và nhấn mạnh về những người mà ta nên thân cận: những người mà trí
tuệ của họ có thể đem lại lợi lạc cho ta. Vì kế sinh nhai, không phải lúc nào
ta cũng có thể lựa chọn những người mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hàng
ngày. Do đó chúng ta phải cố hòa đồng với tất cả những người mà ta gặp. Nhưng
may mắn thay, ngày nay chúng ta có khá nhiều thì giờ rảnh để làm theo sở thích
của mình.
Có những câu châm ngôn như: ‘Hãy
nói cho tôi bạn của anh là ai, tôi sẽ biết anh là hạng người nào’ hoặc ‘ngưu
tầm ngưu, mã tầm mã’ để nhắc chúng ta về quy luật này - điều mà đức Phật cũng
nhấn mạnh trong nhiều bài thuyết giảng
- về phước báu được làm bạn với
các thiện tri thức và sự vô phước phải chung đụng với những kẻ ngu và người ác.
Nhưng làm sao ta biết được ai là những kẻ ngu? Theo lời đức Phật dạy, đó là
những người không chú trọng đến đời sống tâm linh và tin rằng họ có thể tìm
thấy hạnh phúc qua của cải vật chất. Hầu hết mọi người đều đồng ý là ta không
thể tìm được chân hạnh phúc trong của cải vật chất mà thôi. Tất cả mọi tôn giáo
đều nói đến chân lý ‘con người ta không chỉ sống bằng thức ăn.’
Kẻ ngu hoặc vô minh là kẻ tin là
chỉ những điều mắt ta thấy, tai ta nghe, mũi ta ngửi, lưỡi ta nếm, thân thể ta
xúc chạm, tâm ta nghĩ tưởng - là tất cả những thứ ở trên đời. Cách nhìn này hết
sức giới hạn tiềm năng của chúng ta. Tâm trí ta có khả năng nhìn sâu, thấy xa
và trong tiềm thức chúng ta cũng biết đến điều này, nếu không ta chẳng bao giờ
mơ tưởng đến việc nhọc công ngồi trên tọa cụ thiền tập để đạt đến những tâm sở
cao cả hơn. Thế nên, nếu ta lệ thuộc vào các giác quan của mình, hoặc nghĩ là
mình chỉ có thể đạt được hạnh phúc trong thế giới vật chất bên ngoài, đức Phật
gọi ta là kẻ ngu. Để xác quyết mình không phải là kẻ ngu, ta phải tự hỏi là
mình có nỗ lực kết bạn với các thiện tri thức không.
Thiện tri thức không phải là
người học rộng hiểu nhiều mà là người sống trong một thế giới thiện mỹ mà họ
tìm thấy ngay nơi nội tâm mình. Đó là những người ta cần thân cận bởi họ có thể
giúp ta trên con đường tâm linh.
Phước báu thứ ba là ‘tôn kính
bậc đáng kính’. Điều này hơi khó làm ở xã hội Tây phương bởi lẽ ta khó biết
được ai thật sự là bậc đáng kính. Tại Á châu, chúng ta vẫn thấy nhiều bậc được
kính trọng - phần lớn vì truyền thống. Ở Tây phương, người ta thường hay nghi
kỵ. Hay nghi thì cũng tệ chẳng kém gì khi phạm lỗi ngược lại - sự cả tin. Tuy
nhiên, dù cả tin thiếu sự phê phán, nhưng ít nhất nó cũng giúp ta cảm nhận và
bộc lộ điều gì đó từ trái tim mình. Lòng tôn kính và thương yêu đều đến từ một
chỗ.
Ở những nơi mà tôn giáo và cuộc
sống tâm linh được tôn vinh trong xã hội, người ta thường bày tỏ lòng tôn kính
những bậc đã hy sinh cả cuộc đời mình cho đạo pháp như các thầy tu, các vị nữ
tu, các vị thiền sư hay lạt ma. Thật sự họ có phải là các bậc đã đạt giác ngộ
cao hay không, lẽ dĩ nhiên chúng ta không thể nào biết; ta chỉ có thể nhận ra ở
người khác những đức tính mà ta cũng có. Nói cách khác, những gì ta thấy được ở
người khác là sự phản chiếu của các đức tính bên trong ta.
Để gieo trồng những tình cảm
tích cực, chúng ta không nên ngần ngại bày tỏ lòng tôn kính các bậc đáng tôn
kính, dù ta không biết chắc rằng đối tượng có thực sự thuần khiết về tâm linh
hay không. Thói quen hay phân tích người khác dễ dàng làm tiêu tan bất cứ cảm
giác tôn kính nào. Thật vậy, đức Phật thường khuyên chúng ta là thay vì phân
tích người khác, ta hãy tự phân tích bản thân, và Ngài đã chỉ bày cho ta nhiều
phương cách khác nhau để làm việc này.
Một khi đã nhận đức Phật là bậc
đạo sư của mình, chúng ta phải hết lòng tôn kính Ngài và bày tỏ lòng tôn kính
ấy bằng cách lễ Phật. Ta còn phải tỏ lòng tôn kính bằng cách cố gắng ghi nhớ
giáo lý để sự thanh khiết của Pháp được tỏa sáng trong ta. Lòng tôn kính giúp
ta cảm thấy gần gũi với lý tưởng cao đẹp nhất và nhờ vậy mà ta đạt được một sự
an nhiên tự tại mà không một phần thưởng vật chất nào của thế tục có thể so
sánh được. Có thể có nhiều tên gọi khác nhau cho lý tưởng cao đẹp nhất này của
sự Giác Ngộ, nhưng tinh hoa của giác ngộ, dù ta có đạt được cho mình hay không,
là đức Phật. Nếu ta có thể tỏ lòng tôn kính cho lý tưởng như thế, bằng cách tôn
kính bậc đáng kính, đức Phật gọi đó là một phước báu chân thực.
Có chỗ ở thuận tiện, tích đức
trong quá khứ, theo đuổi những hạnh lành: đây thật là những phước báu lớn!
Phước báu đầu tiên trong ba
phước báu nói trên là một cái gì hết sức cụ thể: chỗ ở (trú xứ) thuận tiện,
theo lời đức Phật dạy, là nơi không có chiến tranh hay người láng giềng thù
địch. Trong khung cảnh an bình, ta có thể thư giãn và có nơi tĩnh tọa. Nếu được
ở một chỗ như vậy ta có thể coi là mình hết sức may mắn. Đức Phật gọi đó là một
trong ba mươi tám phước báu.
Phước báu kế tiếp, ‘tích đức
trong quá khứ’ là phước báu đã tạo thiện nghiệp qua sự thương yêu, sẵn lòng
giúp đỡ người khác và bố thí. Ta thường hay quên là tất cả những gì ta nói,
nghĩ và làm đều mang theo hậu quả của nó và chẳng có gì bị mất cả. Nghiệp quả
của những ý định và hành động của chúng ta có thể hiển bày trong một ngày, đôi
khi chỉ trong một giây, hoặc nó có thể hiện ra sau một thời gian khá lâu. Cuộc
đời ta là bổn phận của riêng ta. Cũng có câu nói:
‘Bạn chính là người tạo nên đời
mình.’ Ta có thể cho rằng hoàn cảnh chung quanh khiến ta vui hay buồn, song
những hoàn cảnh ấy lại tùy thuộc vào chủ đích của ta. Hạnh phúc nằm trong tay
ta. Nghiệp tốt đến từ nhân tốt, nghiệp xấu đến từ nhân xấu. Đây là luật nhân
quả.
Tất nhiên, sự việc ít khi đơn
giản như thế. Nếu ta có ý định tốt song thiếu khả năng thực hành điều ấy, ta sẽ
gặt một số quả tốt, và một số quả không tốt mấy. Đức Phật dạy rằng nhân quả
giống như một lưới nhện, những sợi tơ chằng chịt lẫn nhau, chẳng biết đâu là
đầu, đâu là đuôi. Cũng vậy, ta không biết nhân nào đã đưa ta đến quả hiện tại,
hoặc ngọn ngành lý do nào khiến ta là ta. Song điều ta có thể làm được là trân
quý những gì tốt đẹp mà ta có được mỗi ngày trong cuộc sống. Sự biết ơn tạo cho
ta đức tính tích cực, thương yêu, đầy nhân nghĩa, và cương quyết; và tất cả
những đức tính ấy sẽ hỗ trợ ta trong việc tiếp tục hành thiện.
Việc hành thiện bắt đầu trong
tâm ta từ những ý nghĩ tốt, được diễn tả qua chánh ngữ, rồi được bộc lộ qua
hình thức của những hành động tích cực. Ba cánh cửa của nghiệp, do đó, là ý
nghĩ, lời nói và hành động. Chính qua ba cánh cửa này mà tất cả mọi người trên
đời tạo ra nghiệp lành hay nghiệp dữ. Nếu ta đã tạo nghiệp lành trong quá khứ,
quả thật đó là một phước báu bởi nghiệp lành ấy đang hỗ trợ chúng ta và ta có
thể tránh nghiệp dữ bằng cách luôn thận trọng giữ gìn ý nghĩ, lời nói và hành
động của mình. Xét cho cùng chẳng ai trong đời này lại không tạo nghiệp, ngoại
trừ Bậc Giác Ngộ.
Phước báu kế tiếp là ‘theo đuổi
những hạnh lành’. Điều này cũng có thể được gọi là ‘có lý tưởng sống trong
đời’. Ở đây ta lại đối diện với sự thật là của cải vật chất không thể làm thỏa
mãn bất cứ một ai. Nếu ta quán sát các người thân, người quen, và bạn bè, và
nếu tự quán sát chính mình, chúng ta sẽ thấy rất rõ ràng là cuộc đời là một sự
pha trộn của những niềm vui và nỗi khổ, của những sự hạnh phúc và phiền não.
Ta thường nghĩ rằng phiền não là
do những việc bất như ý bên ngoài đem đến cho ta và vì thế bằng mọi cách, ta cố
gắng thay đổi hoàn cảnh ấy. Song sẽ đến một lúc, ta nhận ra rằng dù ta có cố
gắng hết sức mọi việc sẽ không bao giờ suông sẻ như ý ta muốn. Thứ nhất, là vì
có những hoàn cảnh ta không thể nào thay đổi được. Tuy nhiên, ta vẫn thấy có
những ngoại lệ, có những lúc khi các hoàn cảnh bên ngoài đã được giải quyết thì
mọi thứ cũng sẽ đâu vào đó. Nhưng sự thật là vấn đề không nằm ở các yếu tố bên
ngoài. Nếu quyết tâm theo đuổi lý tưởng cao đẹp nhất và đi theo con đường tâm
linh, ta có thể bắt đầu bằng cách chấm dứt đổ lỗi cho hoàn cảnh không thuận
tiện bên ngoài.
Con đường của đức Phật gồm có
thiền quán và sự thanh tịnh hóa tâm, và hai phần này lệ thuộc vào nhau. Nếu lơ
là một trong hai hoặc cả hai ta sẽ không có sự cân bằng vững chãi trong cuộc
sống tâm linh. Để đạt đến mục tiêu cao đẹp nhất ta cần phải thực hiện cả hai.
Thiền định giúp chúng ta nhận diện được những điều đang xảy ra trong tâm và
không biết được điều ấy thì không thể nào thanh lọc được tư tưởng và cảm xúc
của mình.
Phát triển sự tĩnh lặng của tâm
qua thiền định bằng sự chú tâm, biến nó trở thành một dụng cụ có giá trị. Đức
Phật ví tâm ta như một cái rìu đã được mài sắc; ta biết là đối với các việc khó
khăn một cái rìu cùn không thể nào kham nổi; cũng vậy, chỉ có một tâm đã được
tôi luyện mới có thể hấp thụ được những điều thật quan trọng trong đời.
Chúng ta thường để tâm bị bấn
loạn và kích thích bởi những điều nhỏ nhặt, mặc dù chúng chẳng có ý nghĩa gì
hơn là giúp cho ta qua ngày đoạn tháng. Qua thiền định ta biết phân biệt giữa
những giá trị tạm bợ và giá trị nội tâm chân thật. Tất nhiên, khi còn có thân,
ta còn cần phải thỏa mãn những đòi hỏi của cuộc sống. Ta phải ăn ngủ và làm
việc. Tuy nhiên đến cuối ngày xem lại thì những hoạt động ấy tự chúng có giá
trị gì? Và có phải chúng chỉ là phương tiện giúp ta quên đi để không thấy là
cuộc sống của ta không thực sự hạnh phúc?
Chẳng thiếu gì những thứ làm ta
phân tâm. Trong xã hội kỹ thuật tân tiến của chúng ta, chỉ cần nhấn một cái nút
là ta có thể tìm quên trong chốc lát. Thế nhưng việc ấy đem lại an lạc gì cho
tâm ta. Hướng đi mà ta muốn chọn cho cuộc đời mình là một vấn đề quan trọng.
Những việc mà ta luôn phải bận rộn, luôn ngự trị tâm ta, những việc mà ta trăn
trở, tổn phí thì giờ, chúng quan trọng đến thế nào? Chúng có giá trị nội tâm
hay bên ngoài? Chúng có đem lại an lạc và hạnh phúc cho ta và tha nhân? Đây là
những câu hỏi mà ta phải tự đặt ra cho mình nếu chúng ta muốn vạch ra những
nguyên tắc chỉ đạo để giúp đem lại ý nghĩa cho cuộc sống của mình.
Giàu kiến thức và khả năng
chuyên môn, hành trì miên mật các giới luật, chỉ nói lời thuần nhã. Đây thật là
những phước báu lớn!
Phước báu đầu tiên trong ba
phước báu kế tiếp: ‘giàu kiến thức chuyên môn và khả năng’ - kết hợp hai yếu tố
thật khác biệt trong thực tế. Kiến thức làm phong phú cuộc sống của ta, song ta
có thực hành được những điều mình biết không? Chúng ta ai cũng biết câu châm
ngôn ‘Thương người như thể thương thân’, song ta có thể sẵn sàng làm theo lời
dạy ấy chăng? Đây là những câu hỏi quan trọng mà mỗi chúng ta phải suy nghĩ kỹ
càng.
Trong gia đình, nơi trường học,
hay ở các khóa huấn luyện ta học được nhiều khả năng chuyên môn giúp ta kiếm
sống. Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh thủ công nghệ bởi vì nó giúp ta tự lập. Trong
thời của Ngài, các nghề này được đánh giá hết sức cao, hơn thời nay rất nhiều.
Chúng ta đã xem thường các kỹ năng này, nhiều nghề chỉ còn tồn tại như những sở
thích riêng, nhiều nghề hoàn toàn biến mất vì hầu hết mọi đồ dùng đều được làm
bằng máy móc và nếu cần thứ gì thì ta có thể đi mua ngay.
Chúng ta có nhiều khả năng mà tự
bản thân cũng không hề biết đến bởi ta không có cơ hội để thử tài mình - song
biết chế tạo một vật gì bằng đôi tay mình quả là một phước báu lớn. Những món
đồ mà ta sản xuất giúp ta sống tự lập cũng như giúp ta làm vui lòng người khác,
và đây cũng có thể là phương kế sinh nhai thích đáng cho ta. Việc phát triển và
áp dụng những kỹ năng thủ công có thể giúp ta có một cuộc sống vững vàng, trở
thành một người tự tin, một thành viên hữu dụng của cộng đồng. Tuy nhiên câu
hỏi tất yếu là ta đã sử dụng được kiến thức và kỹ năng của mình như thế nào
trong việc tìm kiếm sự an lạc cho tâm, bởi lẽ một phước báu phải thật sự đưa ta
đến tâm bình an, bằng không thì nó không phải là phước báu. Nếu chúng ta nghĩ
là nền hòa bình thế giới phải cần đến nỗ lực của người khác thì ta cần xem xét
lại niềm tin ấy. Hòa bình thế giới tùy thuộc vào việc mỗi người chúng ta có tìm
được an lạc cho bản thân không. Đây là con đường duy nhất dẫn đến hòa bình thế
giới.
Việc đặt kiến thức (học) và nghề
nghiệp (hành) song song với nhau đặc biệt quan trọng đối với những người học
Phật, tuy quen thuộc với giáo lý của đức Phật và nội dung của nó nhưng lại gặp
khó khăn khi đưa vào thực hành. Người thông minh như chúng ta không gặp khó
khăn mấy khi muốn học hỏi điều gì. Ta hiểu những điều mình đọc, và còn có thể
học thuộc lòng chúng. Những điều mà ta học ở trường vẫn còn đó, song sau khi đã
đóng sách lại hoặc trả bài xong, bao nhiêu phần đó thực sự vẫn sống đọng trong
ta? Khi đức Phật nói ‘học và hành’, Ngài muốn dạy ta là phải quan tâm đến cả
hai.
Chắc chắn là đoạn kinh này có
những ứng dụng thực tiễn trong đời thường, song nó nhắm đến kiến thức tâm linh
và những hạnh nguyện cao quý nhất nhằm đạt đến kiến thức ấy. Nếu chúng ta không
thấm nhuần lời kinh - tức là nhập tâm nó và y giáo phụng hành - thì làu thông
kinh đến mấy cũng là vô dụng. Đức Phật mô tả nhiều câu chuyện của những người
thô thiển chỉ thuộc một bài kinh hoặc một câu kinh mà vẫn tìm ra được con đường
thanh tịnh hóa tâm. Ngài thường nói rằng chỉ thuộc lòng các ngôn từ và kinh
điển thì cũng chẳng ích lợi gì. Chỉ một lời chỉ dẫn nếu thực hành chuyên cần
vẫn có thể đưa ta đến hỷ lạc. Thật vậy, Kinh
Đại Phước Đức là kinh về sự giải thoát tối thượng, tự nó có đủ tất
cả những điều cần thiết để hướng dẫn cuộc sống của ta. Những điều quan trọng
nêu ra trong kinh không khó nhớ; song cuộc sống thường có nhiều thứ làm ta phân
tâm: những việc làm thường ngày dường như quá quan trọng đến nỗi ta không thấy
có con đường nào khác hơn, giống như nó là cái gì tuyệt đối không thể không
theo.
Một điều có thể giúp ta có một
cái nhìn đúng đắn hơn là việc nhận thức rằng tất cả chúng ta sẽ phải chết. Điều
này không liên hệ gì tới việc ta bao nhiêu tuổi. Đời người có thể dài ngắn khác
nhau song chắc chắn là mỗi chúng ta đều phải chết. Nếu suy nghĩ đúng đắn về cái
chết của chính mình ta sẽ không trì hoãn nhiều việc như ta thường nói, “khi tụi
nhỏ đã lớn, khi tôi trả hết nợ nhà cửa, khi thời tiết tốt hơn,...”. Những việc
mà ta có thể chờ đợi dài vô tận. Song ta chỉ có thể sống ngay bây giờ, ngay
trong giây phút hiện tại. Ngày mai là một ngày khác mà ta chưa chắc sẽ sống để
thấy. Nếu không làm những điều ta biết là mình nên làm hôm nay thì ta đã bỏ phí
ngày hôm nay vậy.
Phước báu tiếp theo - ‘hành trì
các giới luật’ - nói về ngũ giới mà ít nhiều gì ta đã biết từ khi còn thơ ấu.
Đó là: không sát sanh, không lấy của người, không tà dâm, không nói dối hoặc
dùng lời thô lỗ, không dùng rượu hoặc các thứ độc hại.
Lẽ dĩ nhiên là học các giới này
thì dễ hơn là hành. Không sát sinh có nghĩa là không sát hại bất cứ sinh vật
nào, chứ không chỉ là cấm giết người, và chúng ta nên tự vấn lương tâm về điều này.
Với giới cấm không lấy của người nếu người không cho, đối nghịch lại một cách
tích cực là thực hành hạnh bố thí. Cũng vậy, không tà dâm không chỉ có nghĩa là
không xâm phạm đến người khác mà còn có nghĩa là trung thành với người hôn
phối, với bạn bè, cũng như có trách nhiệm với người, hòa hợp với mọi sinh vật.
Hạnh cao đẹp của chánh ngữ là đề mục của phước báu tiếp theo mà chúng ta sẽ bàn
dưới đây. Vì rượu và các loại độc hại khác làm tâm ta điên đảo hơn thế nữa, nên
đức Phật khuyên ta tránh các thứ đó.
Hành trì các giới đòi hỏi ta
phải có một mức độ kỷ luật cá nhân nào đó. Ngày nay chúng ta không coi trọng
việc này như thời trước. Ta cho việc quan trọng nhất trong đời là phải có một
cuộc sống thoải mái, và nhà cửa cũng như tất cả mọi sở hữu khác đều nhằm đạt
được mục đích ấy. Song sự thoải mái là một giá trị tương đối và tự nó không tạo
ra hạnh phúc. Chúng ta cần sự tự kỷ luật, nếu muốn đạt được ý niệm thực sự về
giá trị của cuộc sống hay duy trì việc hành thiền mỗi ngày. Sự tự kỷ luật có
nghĩa là từ bỏ những thói quen chỉ nhằm thỏa mãn các ham muốn của ta, chứ tự
chúng không có một giá trị nào cao đẹp hơn. Việc tự kỷ luật này có thể đòi hỏi
rất nhiều nỗ lực.
Không dùng lời thô lỗ, hiển
nhiên, là nhắm vào lời ăn tiếng nói của ta với người khác. Đối nghịch với giới
này là dùng lời thuần nhã với người. Điều này không có nghĩa là nói những lời
mà ta nghĩ là người khác muốn nghe - một phần của cái thói xấu thường thấy ở
nhiều người là luôn mong nghe những lời khen. Lời thuần nhã ở đây là những lời
liên hệ đến Pháp, làm cho người phấn khởi và hướng thượng và giúp người sẵn
lòng đi trên con đường hành thiện. Những lời ấy xuất phát từ tận sâu thẳm đáy
lòng ta, khác hẳn với những lời trò chuyện hời hợt hàng ngày. Đây chính là điều
mà đức Phật thường khuyên nhủ, ta nên có những ‘lời lành’ với các bạn ‘lành’.
Dĩ nhiên, ngay cả một lời nói
lành cũng có thể hàm chứa một thiện ý. Song điều thiết yếu là những lời nói
thuần nhã là những lời nâng cao ý thức của ta, đưa ta vượt ra khỏi cái nhìn vị
kỷ và cho ta thấy bản chất hạn hẹp của cái ngã. Nó đưa ta đến cảm giác hòa đồng
với tất cả nhân loại và giúp ta nhận thức được sự đồng thể tính của vạn vật.
Khi giúp ta có cảm giác là một với tất cả sinh linh, nó cho ta một cảm giác
bình an, thoát khỏi sợ hãi và lo âu. Ta không thể tránh nói về cuộc sống hàng
ngày, song nếu ta không có đề tài gì khác - nếu ta chưa bao giờ nói đến những
đề tài hướng về một sự thật sâu xa nào hơn là ngã tưởng của mình - thì đời ta
quả thật là nghèo nàn.
Để chuẩn bị cho những sự đàm
luận như thế, ta phải bồi dưỡng tâm qua việc nghe, đọc và thảo luận về Phật
pháp. Ta phải nuôi dưỡng tâm còn kỹ càng hơn việc nuôi thân mình. Kích thích
tâm bằng truyền hình, báo chí thường không có lợi và ta chớ nên chú ý nhiều tới
những thứ đó. Có nhiều sách và bài luận giảng về giáo lý của đức Phật mang đến
cho ta những phương pháp mới để đạt đến sự tỉnh thức cao hơn mà chúng ta nên
đọc và tìm hiểu. Khi càng tôi luyện cho mình về chân lý của Pháp, tâm ta lại
càng tự nhiên hướng về phía ấy.
Ta phải cố gắng tận dụng cuộc
đời ngắn ngủi của thân này để đạt đến tiềm năng cao nhất của mình. Tất cả chúng
ta đều có khả năng đạt Giác Ngộ tức là vô nhiễm tối thượng và dứt sạch tất cả
mọi khổ đau. Song ta phải tiến bước trên con đường tỉnh thức trước tiên bằng
cách nhận ra rằng những điều chúng ta làm thường ngày không có mục đích gì hơn
là chỉ giúp chúng ta duy trì mạng sống, nhưng vì tất cả chúng ta đều sẽ chết,
nên việc ấy cũng không thể nào quan trọng đến thế.
Điều mà chúng ta thật sự ý thức
và đạt được nơi bản thân, không lệ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Thiền quán
là một phương tiện cho cứu cánh này, song nó chỉ là một điều kiện cần chứ không
đủ. Tất cả ba mươi tám phước báu trong kinh này bắt đầu bằng những phước báu
hàng ngày, và đưa chúng ta trọn đường đến Giác Ngộ, đó là những phước báu mà ta
có thể đạt được ngay trong đời này bằng nỗ lực của chính mình. Tất cả quá trình
chỉ cho ta cách tận dụng các khả năng của mình.
Phụng dưỡng cha mẹ thật chu
toàn, chăm lo cho gia đình, có nghề nghiệp tốt lành. Đây thật là những phước
báu lớn!
Điều này có nghĩa là khi cố hết
sức mình, ta sẽ được hưởng phước báu tối thượng ngay trong hiện tại. Khi ta cảm
nhận được những trạng thái tâm linh thật sảng khoái và dễ chịu đó là kết quả
của một quá trình vững chắc trong việc thanh tịnh hóa lời nói và hành động. Về
việc phụng dưỡng cha mẹ, phước báu này nằm ở chỗ ta sẵn lòng làm việc này,
không cần biết là cha mẹ có cần hoặc có biết ơn ta. Phụng dưỡng mẹ cha thì luôn
luôn được lợi lạc, dù phụng dưỡng về vật lực, hay về tinh thần. Nếu ta có thể
giúp bằng một tâm hoàn toàn trong sáng ta sẽ luôn đạt kết quả tốt. Hành thiện
là một việc tốt, nhưng lại càng tốt hơn nếu ta làm với tâm thiện: việc làm được
thực hiện với tâm miễn cưỡng mang lại kết quả không rõ ràng; còn việc làm với
tâm bất thiện chắc chắn sẽ dẫn đến những kết quả xấu hơn.
Đức Phật thường khuyên nhủ ta là
phải hết sức biết ơn cha mẹ bởi không có cha mẹ thì ta đâu có mặt trên đời này.
Cha mẹ đã chăm sóc ta lúc ta còn thơ dại và đã cố gắng với hết khả năng mà họ
có được. Ta cũng đừng quên là chính ta đã chọn cha mẹ mình. Phụng dưỡng những
ai trong lúc tuổi già vì các vị đã lo cho ta khi còn thơ ấu cũng là một cách
tạo thiện nghiệp.
‘Chăm sóc cho gia đình’ chắc
chắn là một phước báu quen thuộc mà ta nên cố gắng chu toàn. Tuy thế, nhiều
xung đột gia đình thường quy về một điều thật rất đơn giản, đó là ai cũng muốn
người khác làm theo ý mình. Trong thực tế, không có điều gì lại giống như trong
ước mơ của ta. Con người nói chung và đơn vị gia đình nói riêng, không có gì là
trăm phần hoàn toàn. Nhiều người bỏ cả cuộc đời của mình để tìm kiếm sự hoàn
toàn tuyệt hảo trong cuộc sống thế tục, nhưng đây là sự tìm kiếm một cái gì
không hiện hữu và chỉ gặp thất vọng, chán nản.
Đổ lỗi cho người hay cho hoàn
cảnh là một việc làm vô ý nghĩa. Không thể trách ai hay điều gì về việc cuộc
đời không hoàn hảo. Trong cuộc sống hàng ngày với mọi người, thật là một phước
báu nếu ta có thể cho mà không mong sự đáp lại. Làm ơn mà không cần biết đến sự
cảm ơn của người là một điều mà ta có thể học hỏi trong cuộc sống gia đình.
Ngay khi ta chờ đợi sự trả ơn, tinh thần vị tha đã bị hoen ố bởi lòng mong muốn
một cái gì mà ta nghĩ là người khác nợ ta, và thắc mắc là không biết khi nào
mới nhận được. Điều này làm mất hẳn niềm hạnh phúc của lòng cởi mở.
Kế đến là ‘có nghề nghiệp tốt
lành’. Tuy là một điều bình thường, nhưng cách chúng ta mưu cầu cuộc sống là
một vấn đề tâm linh quan trọng. Nghề nghiệp của ta không được làm hại hoặc ảnh
hưởng tai hại đến các chúng sinh khác. Ta cũng cần kiểm điểm xem mình có hành
trì ngũ giới trong công việc của mình không để được hưởng phước báu của việc
giữ giới. Nếu ta có thể kiếm được một việc làm mà lại giúp người trong công
việc thì lại càng tốt nữa.
Hơn nữa, nghề nghiệp của ta cũng
cần vững chắc và nó cũng cần có yếu tố xã hội trong đó. Thời giờ tại nơi làm
việc của ta là một phần đáng kể trong cuộc đời, và ta cần giữ các lề luật về
đạo đức ở chỗ làm cũng như trong đời sống cá nhân. Một nghề nghiệp tốt lành
cũng là một nghề nghiệp mà ta không bị quá kích thích hoặc quá mệt mỏi vì công
việc; một công việc mà không có những sự tỵ hiềm ghen ghét hay lòng ham muốn
được một số lương thật lớn. Ta cũng nên tránh không làm việc quá độ - tuy cũng
nên nói là nhiều người rất dễ trở nên làm việc quá độ vì, do lý do này hay lý
do khác, mà họ không ưa thích gì công việc của họ.
Phước báu này không chỉ đơn
thuần về công ăn việc làm của ta. Phong cách từ tốn và đều đặn cũng hết sức cần
thiết cho việc thiền tập. Nếu ta không hành thiền mỗi ngày, không tu tập miên
mật, lại thêm vào đó có vấn đề tại sở làm - ta sẽ gặp khó khăn trên đường tu
tập. Tất cả chúng ta đều có thể hưởng được những quả lành của các phước báu nói
ở đây nhưng chỉ khi ta hành trì chúng trong đời sống hàng ngày của mình.
Thực hành hạnh bố thí, biết sống
theo chánh mạng, biết tạo các nghiệp tốt - đó thật là phước báu lớn!
Chúng ta đã đến một điểm trong
kinh cho ta thấy rõ là trong một đời sống chỉ quan tâm về vật chất và điều kiện
kinh tế, chúng ta không thể tìm thấy được một số đức tính tâm linh cần thiết
nào đó. Ở đây đức Phật điểm qua cho ta thấy những phước báu thuộc một bực cao
hơn trên con đường tâm linh. Chúng ta phải lựa chọn giữa một cuộc sống vật chất
và cuộc sống tâm linh rốt ráo. Đáng tiếc thay, giải thích sự khác biệt giữa đời
sống hướng về vật chất và đời sống dựa trên những giá trị tâm linh thì dễ hơn
là đưa vào thực hành. Trong cuộc sống vật chất, người ta muốn có càng nhiều
càng tốt trong khi người sống một cuộc đời tâm linh lại nhắm vào việc bố thí càng nhiều càng tốt. Ai cũng
biết bố thí là một phước báu lớn hơn là tiếp nhận của người, song điều này thật
khó thực hành.
Phước báu kế tiếp được kể ở đây
là hạnh bố thí. Bố thí có nhiều khía cạnh vì nó tự biểu lộ tùy theo tài lực và
tính khí của mỗi cá nhân. Thí dụ như dành thời gian cho ai đó, cũng là một cách
bố thí đầy lòng từ ái.
Để đạt được phước báu này, do
đó, ta phải tự hỏi làm sao có thể dùng các khả năng và tài sản của ta một cách
hữu hiệu nhất để giúp ích cho người khác - xét cho cùng thì, của cải ấy cũng là
do vay mượn mà có. Và có lẽ ta cũng nên tự hỏi mình điều gì giới hạn tâm bố thí
của ta? Ta có thực sự muốn giúp đỡ người khác không, hay ta muốn để cho những
người chuyên môn giải quyết những vấn đề ấy? Hay là ta tự bảo mình là cuộc đời
toàn là những việc xấu cả và chẳng ai có thể làm được điều gì để biến nó thành
tốt. Điều này thì chắc chắn là đúng, song không phải vì thế mà ta không có bổn
phận giúp người khác. Nhưng ta sẽ có thể giúp được đến mức độ nào? Chỉ giúp đến
một mức nào đó hay ta sẵn sàng bố thí vô điều kiện?
Đức Phật nhiều lần nói về bố thí
(từ Pali là dàna). Thực hành
hạnh bố thí mỗi ngày đem lại niềm hỷ lạc cho tâm. Nếu ta có thể bố thí đúng
cách cũng như rộng rãi thì tốt, nên tốt hơn hết là bố thí phải đi đôi với trí
tuệ. Nhưng cho dù ta không chắc là người nhận có xứng đáng hay không, cho đi
vẫn tốt hơn là giữ lại những gì ta có. Tục ngữ có câu ‘càng cho ta càng có’.
Để nhận chân được sự thật này,
ta cần phải thực hành hạnh bố thí. Chẳng bao lâu ta sẽ nhận ra là thật sự có
một nguồn vật chất bất tận, mà trên nguyên tắc ai cũng có thể được hưởng thụ.
Càng cảm thấy được sự tương quan giữa tất cả chúng sinh, ta càng muốn cho đi
hơn là muốn giữ, và càng nhiều người sẽ được lợi lạc vì cửa tâm đã rộng mở.
Điều này sẽ không xảy ra nếu ta
không có chút can đảm - nhưng dù gì lòng can đảm cũng cần thiết trong đời sống
tâm linh. Ta phải quán sát bản thân cũng như các giả định của mình một cách
chân thật - tất cả những thứ mà ta quen thuộc - tự xét xem ta dùng thì giờ như
thế nào, và tự hỏi mình, đời chỉ có như thế thôi sao?
Bố thí là hạnh đầu tiên trong
mười hạnh mà đức Phật liệt ra ở đây. Điều này không làm cho các hạnh khác kém
quan trọng đi chút nào, song bố thí mở cánh cửa đưa ta đến các hạnh khác. Qua
hạnh bố thí ta tập xả bỏ cái ngã. Lúc nào cũng nghĩ tới mình thì không thích
thú và cũng chẳng lợi lạc gì. Điều này cũng như một con rắn tự cắn cái đuôi của
mình - một cái vòng khắc nghiệt vô cùng tận. Nếu muốn dễ dàng chứng nghiệm được
sự liên hệ giữa ta và thế giới chung qua- nh, ta nên thực hành hạnh bố thí.
Theo sự phân tích của đức Phật thì ngã chấp chính là gốc rễ của mọi khó khăn và
sầu khổ của chúng ta. Toàn bộ giáo lý của Ngài nhằm giúp ta nhận thực được cái
ngã là một ảo tưởng mà ta phải buông bỏ. Hạnh bố thí đứng đầu trong danh sách
bởi nó là bước đầu tiên giúp ta vượt qua ngã chấp. Ta không thực sự đánh mất
cái ngã vì tâm vị tha; ngược lại, chính là nó đã giữ lại sự quan trọng của
mình. Nhưng ngay trong giây phút đó, ta không cần phải nghĩ đến cái ngã. Ta cảm
nhận được một sự toại nguyện hoàn toàn khác khi đem lại niềm vui cho người,
bằng cách chia sẻ với họ. Việc ta cảm thấy hỷ lạc từ sự bố thí, trong khi thông
thường ta chỉ cảm thấy toại nguyện khi được nhận những gì mình thích, cho thấy
những gì ta cảm nhận được thực sự là một sự toại nguyện ở một mức độ hoàn toàn
khác.
Kế đến là phước báu của chánh
mạng, của đời sống ngay thẳng, chính trực. Đức Phật chẳng bao giờ nói tất cả
mọi người nên sống đời độc cư thiền định. Vậy như thế nào là lối sống đúng?
Sống đúng có nghĩa là trước tiên phải chăm sóc lo lắng đầy đủ cho gia đình mình
và sau đó là giúp đỡ kẻ khác. Đức Phật khuyên các đệ tử tại gia của Ngài nên
chia lợi tức của mình ra làm bốn phần. Một phần dành cho bản thân và cho gia
đình, phần thứ hai để tiếp tục việc kiếm sống, một phần nữa phòng khi khó khăn,
ốm đau, còn phần sau cùng dành để cúng dường cho các bậc tu hành, kẻ ốm đau và
những người nghèo túng. Việc phân phối lợi tức như thế bao gồm tất cả các bổn
phận của ta. Nhiều ít ở đây không quan trọng mà điểm chính là chủ ý của ta.
Chánh mạng hay nghề nghiệp chân
chính trong đó bao hàm quyết tâm cư xử đúng với lương tâm con người. Điều này
có nghĩa là ta không được làm hại đến người hay vật, dù là trong cử chỉ, hành
động, lời nói, cảm xúc hay ý nghĩ của ta. Tai hại ta gây ra có thể do hành động
hay lời nói trong nhất thời, nhưng nó bắt nguồn từ cảm xúc và ý nghĩ của ta.
Cho nên cách cư xử theo đúng lương tâm có nghĩa là không hàm chứa một ác ý gì
với những sinh linh khác. Ý nghĩ của ta không phải là vô thưởng vô phạt - chúng
luôn ẩn chứa một cái giá mà ta phải trả, vì chúng huân tập nên những thói quen
trong lời nói và hành động của ta và thực sự là yếu tố tiên quyết đưa đến sự
hiện hữu của ta. Ta chính là cái mà ta nghĩ. Cho nên không phải chỉ cái ta làm
mà các tư tưởng ta gieo trồng cũng quan trọng không kém. Ta có thể nói là tất
cả tư tưởng của ta đều xứng đáng được gọi là cao đẹp nhất không?
Một lần nữa, đức Phật nêu lên
phước báu của việc chăm lo cho người khác, và ở đây là việc chăm lo cho họ
hàng, bạn bè, người thân và đồng nghiệp. Khi đang vun trồng đức tính này, lòng
sẵn sàng muốn giúp đỡ người khác bằng bất cứ phương tiện gì trở thành một bản
tính tự nhiên thứ hai, để rồi có lúc ta sẽ có thể đối xử với bất cứ ai mà ta
gặp với lòng tử tế. Tuy thế, lúc đầu ta không nên đòi hỏi quá nhiều từ bản
thân, mà cứ tiếp tục vun trồng đức tính ấy.
Mỗi khi giao tiếp với người, ta
hãy tự hỏi có phải ta thực sự quan tâm đến người ấy hay chỉ cho bản thân chúng
ta. Ta có biết hàm ân vì cuộc sống của mình tốt lành cũng là nhờ bao người khác
không? Ta có thấy được là đời sống của mình tùy thuộc rất nhiều vào trạng thái
buồn vui, tư tưởng, lời nói và hành động của những người khác?
Không ai có thể thực sự nói là
mình hoàn toàn sống độc lập với người khác. Đời sống hàng ngày của chúng ta lệ
thuộc vào đủ mọi loại dịch vụ như nước và điện, thương mại và nông nghiệp. Ta
cũng liên hệ với người khác qua tư tưởng và cảm xúc dù ta có nói ra hay không.
Các tình cảm này vẫn rất thực dù không được nói ra, và chúng có thể tác động
đến tư tưởng, tình cảm của người khác. Đây là phước báu của sự chăm lo cho tha
nhân. Việc họ có cảm nhận được sự lo lắng ân cần này hay không là một chuyện
khác; điều quan trọng là ta cần phải nuôi dưỡng những thiện ý ấy.
Tạo thiện nghiệp có nghĩa là
luôn cẩn thận đề phòng những sự tiêu cực len lỏi vào ý nghĩ, lời nói và hành
động của ta. Ta cần đặc biệt chú trọng đến ý nghĩ vì đây là nơi mọi sự phát
khởi. Tất cả mọi hành động của ta đều đem lại hậu quả, có ảnh hưởng tới ta cũng
như tới người khác, và hầu hết mọi người đều tạo các nghiệp tốt cũng như xấu.
Hiếm khi có ai chỉ tạo nên ác nghiệp, nhưng quá nhiều ác nghiệp sẽ đưa ta vào
vòng tù tội. Cũng hiếm khi có người chỉ tạo nên thiện nghiệp trừ khi đó là
những Bậc Giác Ngộ, trong trường hợp đó họ không tạo ra bất cứ ác nghiệp nào
bởi họ không còn sống trong ảo tưởng của một tâm thức dựa trên bản ngã.
Các tâm sở tiêu cực ảnh hưởng
sâu đậm đến đời sống tình cảm của ta và ta có thể ngăn ngừa chúng phát khởi chỉ
bằng cách chú ý đến các trạng thái tâm đang thay đổi của mình. Đơn giản như
thế, nhưng rất ít người thực sự chú ý đến đời sống nội tâm của mình. Chỉ khi
nào ta thực sự thực tập chánh niệm một cách miên mật, ta mới có thể cảm nhận
được các trạng thái tâm tích cực một cách đều đặn. Quán sát các tư tưởng, lời
nói và hành động của mình ngay trong khi ta đang thực hiện chúng, không cản trở
việc ta hoàn tất các bổn phận khác trong đời sống hàng ngày. Trái lại, càng
quán sát bản thân, ta càng dễ chú tâm vào bất cứ những gì ta đang làm.
Nghiệp quả mà ta cảm nhận ảnh
hưởng sâu xa đến những tình cảm buồn vui của ta, và nếu quán sát chúng kỹ ta sẽ
dễ dàng thấy nguồn gốc chúng từ đâu đến: lý do tại sao ta lại vui hay buồn. Sau
đó, ta có thể thay đổi những điều bất thiện trong tư tưởng, lời nói và hành
động mà ta đã làm, dẫn đến những trạng thái tiêu cực ấy, nhưng ta chỉ có thể
làm được như thế nếu ta có thể tự nhìn mình như mình thực sự là mà thôi.
Trong các bài thuyết giảng, đức
Phật nhắc đi nhắc lại về việc tạo thiện nghiệp. Ngài làm như thế vì, bao giờ
chúng ta còn nghĩ, như tất cả các chúng sinh vô minh khác, rằng ta có một bản
ngã, là ta còn tạo nghiệp với mỗi niệm khởi lên trong tâm. Nhưng một khi đã
hiểu được điều này, ta sẽ trở nên có chánh niệm hơn với các suy nghĩ của mình -
và đây là điều quan trọng, dù ta không thể nào kiểm soát được tất cả các niệm
khởi lên trong tâm ta.
Tránh những điều ác, tránh các
thứ độc hại, hành thiện không ngơi nghỉ. Đây thật là những phước báu lớn!
Ở đây kinh lại nói về nghiệp và
các giới hạnh. Càng tinh tấn trong việc tránh những điều mà lương tâm cho ta
biết là ác, và thực hiện các điều mà ta biết là thiện thì chúng ta càng thọ
hưởng được phước báu này. Quả thật chính ta là kẻ ban cho mình cái phước đó. Và
điều này thật là tuyệt diệu -khi biết là tự mình có thể đạt được hạnh phúc bằng
nỗ lực của chính mình mà không cần phải chờ đợi ai ban cho, không cần nghĩ là
ta phải sở hữu vật gì đó thì mới được hạnh phúc. Tất cả đều ở trong ta.
Chúng ta đã có sẵn người hướng
dẫn các hành động của mình trong lương tâm và các cảm thức của ta. Tuy nhiên,
vấn đề phát khởi từ cách suy nghĩ rằng ta có các quyền hạn đặc biệt, từ thái độ
cho rằng, ‘Cái này thuộc về tôi, nếu tôi không được, tôi cũng lấy’. Để tránh
làm những việc bất thiện, điều đầu tiên mà ta phải học là phân biệt rõ ràng sự
khác biệt giữa những điều thiện và ác, và càng quán sát bản thân rốt ráo, ta
càng dễ làm việc này hơn.
Ta đã may mắn được sinh ra làm
người, với những điều kiện hết sức thuận lợi vì về phương diện vật chất, ta
chẳng thiếu thứ gì. Với những thuận lợi nhờ may mắn như thế, ta có bổn phận xem
việc phát triển tâm linh như là một trọng tâm của đời mình thay vì thỏa mãn
những đòi hỏi không ngơi nghỉ của tâm vị kỷ mà hầu hết là không cần thiết. Đức
Phật dạy ta chỉ cần có bốn nhu cầu căn bản: thức ăn, quần áo, chỗ ở và thuốc
men. Ngoài những thứ đó, mục đích duy nhất của đời người là tận dụng cơ may này
để tu tập phát triển tâm sáng suốt, phát triển chánh niệm, để đến một ngày ta
sẽ không còn xem mình như một thực thể riêng biệt, một cá nhân độc lập, mà là
một phần của những gì đang đến và đi trong thế giới quanh ta. Với sự hiểu biết
về vai trò thực sự của mình, ta sẽ thấy thật rõ ràng sự quan trọng của việc dốc
hết tâm trí vào việc phát triển tâm linh trong kiếp sống này.
Kinh này giới thiệu những nguyên
tắc căn bản và rõ ràng nhất cho việc tu tập của ta. Những điều này chẳng đòi
hỏi khả năng hay tài nghệ gì đặc biệt hoặc mô tả những gì bí ẩn. Chúng chỉ cho
ta thấy cách sống ngày qua ngày. Còn có gì hơn ngoài cuộc sống ta đang phải
sống hôm nay? Mỗi một ngày ta sống là tất cả những gì ta thật sự nắm trong tay.
Ngoài ra, tất cả đều là mộng huyễn. Do đó mỗi ngày ta phải cố gắng tránh làm
những điều ác, cũng như không dùng các chất độc hại: chúng có thể đem đến cho
ta một cảm giác thoải mái nhất thời, nhưng thiền tập và tu hành là phương cách
đơn giản và an toàn hơn để đạt được điều này. Qua những đoạn kinh nhắc đến
những chất độc hại, ta có thể đoán là 2500 năm trước đây, con người cũng có
những vấn đề như chúng ta hiện có. Xã hội chẳng thay đổi gì mấy.
‘Hành thiện không ngơi nghỉ’
nhắc đến việc trau dồi không những về hành vi đạo đức mà còn về giáo lý của đức
Phật nói chung, và để làm điều này, tất nhiên chúng ta cần tài liệu. Ta không
cần phải biết tất cả giáo pháp - chỉ trong Thượng Tọa Bộ đã có đến 17.500 bài
thuyết giảng. Các giáo thuyết và thuật ngữ căn bản chúng ta đã nhắc đến, như
nghiệp, giới luật đủ giúp ta dựa vào đó mà sống theo Pháp. Trong sự nỗ lực này,
ta không tuân theo một tư tưởng tôn giáo nào mà chỉ sống hài hòa với những chân
lý phổ cập sâu sắc, mà ta có thể áp dụng cho bản thân.
Nếu lúc nào ta cũng nghĩ đến
những vấn đề của mình, thì ta khó thể thâm nhập Pháp. Khi phân tích những vấn
đề của chúng ta, ta sẽ nhận ngay ra rằng không thể một cá nhân mà giải quyết
được chúng. Thay vì xem xét chúng một cách riêng rẽ, nếu ta cố gắng quán sát
chúng trong sự tương quan đến tất cả mọi người thì ta sẽ đến gần với chân lý
hơn. Pháp là chân lý vũ trụ, một sự thật hiển nhiên, và việc hành thiện không
ngơi nghỉ luôn dẫn dắt ta trở về điều đơn giản này. Lại nữa, nếu nhận ra vấn đề
của mình chỉ là một phần của thân phận con người thì ta sẽ có thể nhìn mình một
cách khách quan hơn và sẽ tìm ra giải pháp của vấn đề một cách dễ dàng hơn.
Ngày nào ta còn nghĩ rằng những vấn đề chỉ là của riêng mình, thì chúng sẽ còn
tiếp tục quấy rầy ta qua nhiều hình thức khác nhau.
Tôn kính và khiêm cung, tự tại
và biết ơn, nghe Pháp đúng thời điểm. Đây thật là những phước báu lớn!
Những giá trị tình cảm gắn liền
với sự tôn kính và đức khiêm cung giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tâm
linh. Đức khiêm cung là một đề tài mà Ky Tô Giáo - đúng ra, bất cứ tôn giáo nào
trên thế giới- cũng thường đề cập đến, và bất cứ đức tính nào được tất cả các
tôn giáo trên thế giới nhắc đến, chắc chắn nó không những quan trọng mà còn khó
thực hành. (Ta chỉ cần nghĩ đến ngũ giới hoặc mười điều răn là cảm nhận được sự
khó khăn này.)
Khiêm cung là một đức tính phát
sinh một cách tự nhiên. Nó hoàn toàn khác hẳn với mặc cảm tự ti: khiêm cung
thường bị lầm lẫn với sự khúm núm, với việc tự đánh giá mình hoặc chấp nhận
người khác đánh giá mình là thấp kém, xấu xí và thua sút người khác. Sự đánh
giá đó dựa trên đẳng cấp và thứ bậc, theo giai cấp xã hội, hoàn cảnh giàu nghèo
hoặc bằng cấp. Sự đánh giá này thật sự không liên quan gì đến nhân cách con
người. Khiêm cung là lòng can đảm biết tự hạ mình. Ngược lại với nó là sự kiêu
căng, sự tự tâng bốc. Tự hạ mình trước giáo pháp, trước tha nhân, giúp ta sẵn
sàng đón nhận và uyển chuyển đến mực tối đa; nó làm giảm thiểu bản ngã trong
ta. Người có lòng vị kỷ càng cao càng khó có thể tự hạ mình. Khiêm cung không
có nghĩa là tự coi thường mình mà là tự trọng. Nhân bản chân thật là sự tôn
trọng tất cả nhân loại, tôn trọng bản thân và tha nhân, biểu lộ qua cung cách
chân thành và khiêm tốn.
Không những là sự phản ảnh của
nhân bản thực sự, đức khiêm cung còn bao gồm sự hiểu biết rằng có một giá trị
cao đẹp hơn mà ta có thể hướng tới. Khi chúng ta vượt ra khỏi giới hạn của con
người và thấy được tất cả những sự tầm thường nhỏ bé của chính mình, thì dù ta
vẫn còn bị ràng buộc trong cái khung nhỏ bé của tầm hiểu biết, ta bắt đầu nhận
được bản chất chân thật của vũ trụ. Nếu ta khiêm tốn nhìn nhận là có một cái gì
cao cả hơn mình, chúng ta sẽ có thể tin tưởng vào điều ấy; và nếu không tự dâng
hiến cùng gắn bó đời mình với lý tưởng, ta sẽ không thể nào hành thiền. Khiêm
cung và sự dấn thân do đó đi đôi với nhau. Người tự cho là mình quá quan trọng
và lúc nào cũng nghĩ như thế thì không thể nào hiến dâng mình cho lý tưởng.
Song một khi ta đã thấu hiểu với tất cả lòng khiêm tốn của mình là có một cái
gì cao cả hơn là các cảm quan bình thường mắt thấy tai nghe của ta, khi đó ta
có thể thật sự hiến mình cho thiền định và tu tập. Khiêm cung do đó là một đức
tính thiết yếu và là một phước báu lớn.
Đi kèm với khiêm cung trong đoạn
kinh này là lòng tôn kính. Như chúng ta đã biết, ngày nay con người thật xa lạ
với sự tôn kính. Ta tỏ lòng tôn kính với ai? Ai là người mà ta ngưỡng mộ?
Thường thì là các tài tử âm nhạc hoặc thần tượng thể thao là đối tượng của lòng
ngưỡng mộ nhưng chắc chắn họ không phải là đối tượng của sự tôn kính mà ta đang
bàn đến ở đây. Ta phải ý thức rằng chỉ có một điều gì đó vượt lên khỏi sự hiện
hữu tầm thường và những kinh nghiệm sống hàng ngày, mới thực sự khiến ta đem
lòng kính ngưỡng và tôn thờ với tất cả tấm lòng. Ta cần có một sự đồng cảm tâm
linh để tỏ lòng tôn kính đến bậc tối thượng, và ta bầy tỏ sự tôn kính ấy bằng
cách quỳ lạy trước tượng Phật. Ở đây không phải là ta lạy cái tượng mà ta lạy
hình ảnh của đức Phật, tượng trưng cho bản tánh Giác Ngộ sẵn có ở trong mỗi con
người. Việc lễ lạy gieo trồng trong ta lòng kính ngưỡng.
Cuộc đời chẳng bao giờ hoàn hảo
như ta mơ ước và nó không bao giờ làm ta hoàn toàn như ý, song nếu biết là có
một cái gì cao cả hơn, ta có thể sống mãn nguyện.
Kế đến là hai đức tính về tình
cảm và cũng là những phước báu lớn: tự tại và lòng biết ơn. Hầu hết mọi người
đều vui mừng biết ơn khi nhận được thứ gì mới, song người ta thường ít biết
trân quý những gì mình hiện đang có. Do đó ta cần nhắc nhở mình phải biết trân
quý những gì mình hiện đang có thay vì xem thường chúng. Khi ốm đau, ta nóng
lòng mong mỏi hết bịnh nhưng đến khi hết bịnh ta lại xem thường sức khoẻ. Trong
cơn đói, ta hết sức trân quý bất cứ thức ăn gì mình có thể kiếm được, song đến
khi no đủ thì ta lại sinh ra kén chọn khó khăn. Lòng trân quý có thể được nuôi
dưỡng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Thí dụ, thay vì than phiền về tính xấu của
người khác, ta có thể trân quý những đức tính của họ. Lòng trân quý do đó là
một phản ứng tình cảm đầy khiêm tốn và thương yêu.
Đức Phật thường nhắc tới đức
tính tự tại vì nó giúp ta đạt an lạc một cách tự nhiên. Ai cũng muốn tìm sự an
lạc song không biết tìm kiếm thế nào và ở đâu. Lẽ tự nhiên là họ đổ lỗi cho chế
độ xã hội, cho các chính trị gia gây ra tình trạng bất an của họ. Song sự bình
an là một phẩm chất của tâm mà ai cũng có thể tự mình đạt được qua nỗ lực cá
nhân và chỉ có thể thấy ở những người biết tự tại.
Nếu biết hài lòng với những
người sống chung quanh và hoàn cảnh của mình, chúng ta sẽ ít mong cầu. Mỗi một
điều mong muốn đem đến cho ta sự bất như ý mà trong tiếng Pali gọi là dukkha
(khổ). Càng mong ước thay đổi hoàn cảnh của mình, chúng ta càng dễ bị thất
vọng. Nếu nhìn lại đời mình, ta sẽ thấy điều hiển nhiên là ta chẳng bao giờ
toại nguyện với những gì cuộc đời ban cho ta. Tất cả những điều ta mong muốn
đều ở ngoài tầm kiểm soát của ta, khiến ta phải trông cậy vào người khác hoặc
hoàn cảnh bên ngoài để được toại nguyện; kết quả là không thể có một giải pháp
thích đáng nào. Nếu muốn có sự thay đổi thật sự ta phải tự chuyển hóa bản thân.
Một khi ta đã thật sự thay đổi, mọi sự sẽ hoàn toàn khác hẳn.
Tự tại sẽ đưa ta đến Giác Ngộ và
ta có thể cảm thấy điều này qua thiền định. Qua đó ta dần dần nhận thức được là
ta chỉ có thể tự tại khi đã hết mong cầu. An lạc chỉ hiển lộ khi ta không còn
nhu cầu thay đổi bản thân hay bắt người khác phải thay đổi, khi ta nhận biết
rằng tất cả mọi thứ trên đời chẳng bao giờ hoàn hảo và cái mà ta muốn thay đổi
ở ngay trong chính tâm mình. Ta không cần phải bất mãn với những thất bại của
mình để hiểu được như thế; trái lại, ta hãy vui sướng vì đã tìm được một con
đường dẫn đến đời sống tâm linh.
Cho nên sự trân quý và tâm tự
tại -những đặc điểm của đời sống tâm linh- đem lại niềm an lạc cho cuộc đời ta.
Chính yếu kinh Đại Phước Đức nhằm
nói về những tình cảm và cảm xúc tích cực như thế, phát sinh khi ta sống chung
đụng với người, và theo đức Phật, chúng có thể là những phước báu lớn trong cuộc
đời ta. Và còn nhiều phước báu tiếp theo.
Tiếp đến là ‘nghe được chân lý
đúng thời điểm’, nói về sự sẵn sàng tiếp nhận Pháp. Pháp tự nó là một phước báu
khi nào ta được nghe Pháp đúng thời điểm. Hầu hết những người được nghe Pháp
đều không sẵn sàng tiếp nhận nó, song điều này không có nghĩa là họ chẳng bao
giờ sẵn sàng. Trái lại, khi họ sẵn sàng tiếp nhận Pháp, chưa chắc họ đã có đủ
cơ duyên để được nghe. Do đó, chính là vì ta không chắc sẽ có cơ duyên được
nghe Pháp trong tương lai, ta lại càng phải nỗ lực tối đa để biến giây phút
hiện tại thành thời điểm thuận tiện bằng cách mở rộng lòng mình để đón Pháp, và
thực hành thật chu đáo những gì ta đã có thể học được ở Pháp trong hiện tại.
Giữ được lòng kiên nhẫn, lắng
nghe không phiền giận khi bị người chỉ trích, tìm cầu thiện tri thức, bàn luận
về chân lý. Đây thật là những phước báu lớn!
Trước tiên là lòng kiên nhẫn -
và đây quả thật là một phước báu. Hầu hết mọi người lúc thì kiên nhẫn, lúc thì
nóng nẩy. Ở trạng thái cực đoan, tính nóng nẩy phản ảnh lòng mong muốn mọi việc
đều phải như ý mình. Bởi lẽ ít khi nào mọi sự được như ý ta, tính nóng nẩy đẩy
ta vào tâm trạng bất an đau đớn.
Lòng kiên nhẫn bao hàm một sự
hiểu biết là mọi vật đều vô thường, một sự ý thức rằng tất cả những gì ta cảm
nhận đều đang thay đổi, dù đó là các cảm thọ hay tình cảm của ta, cảm nhận của
ta ngay trong lúc này, về hôm nay hay về cả cuộc đời mình. Ta không thể nắm giữ
được mãi một cái gì vì mọi vật đều sẽ hoại diệt. Chính vì ta luôn cố gắng nắm
giữ lấy của cải vật chất, nên lúc nào ta cũng thấy thất vọng. Thật rất dễ quên
sự thật là không có gì tồn tại mãi mãi, vì có một số việc tái diễn, khiến ta
tưởng là chúng là một, nhưng chúng chỉ giống nhau. Lấy thí dụ như hơi thở của
ta. Mỗi hơi thở biến mất sau khi ta hít vào. Nhưng vì mỗi hơi thở sau đều giống
như hơi thở trước, chúng ta thích làm ngơ không muốn thấy là hơi thở của mình
là vô thường, và do đó bản thân ta cũng vô thường. Không có hơi thở ta không
thể nào sống còn và sự vô thường của nó cho thấy sinh mạng ta mong manh làm sao:
nếu hơi thở ngưng, cái chết tức thì theo sau. Đức Phật dạy là bởi chấp ngã hầu
hết chúng ta đều không muốn nghĩ đến điều này.
Giữa những bằng chứng hiển nhiên
của vô thường, ta vẫn không ngừng cố gắng biến chúng thành thường hằng và những
thứ vô thường khi mất đi đem lại cho ta đau khổ, ta lại cho là niềm vui. Bản
chất tạm bợ của mỗi tư tưởng, mỗi cảm giác, mỗi cử động của cơ thể có thể được
theo dõi từng phút giây. Tất cả rồi sẽ hoại diệt, không có gì là bất biến. Có
nhiều phương tiện để lưu trữ các sự kiện: sách vở, phim ảnh và ký ức - song nếu
ta nghĩ rằng mình có thể bám víu không để mất người thân, tình cảm, kỷ niệm hay
các sự kiện, thì cuối cùng ta chỉ ôm lấy hư không. Ngược lại, nếu hiểu được là
không có gì trường cửu, ta sẽ chiêm nghiệm được lòng kiên nhẫn như là một kết
quả tất yếu với một cảm giác nhẹ nhõm và an bình. Ta sẽ không còn cảm thấy bận
tâm nữa.
Tất cả chúng ta đều biết là cần
có tinh tấn để duy trì việc hành thiền của mình, nhưng ta cũng cần đến lòng
kiên nhẫn nữa: không có nó, việc hành thiền của ta không có kết quả. Rất ít
người có thể hành thiền miên mật. Chúng ta không những phải tự nỗ lực mà còn
phải kiên nhẫn với chính mình, lần này đến lần khác, ngày này qua ngày khác.
Nếu có thể kiên nhẫn hơn với bản
thân, ta sẽ dễ dàng kiên nhẫn với người khác, nhất là khi mọi việc không như ý
ta muốn. Nếu không, ta sẽ có thái độ cứng nhắc, ngoan cố với bản thân và với
người. Vì thế nên lòng kiên nhẫn và từ ái đi đôi với nhau, và vun trồng lòng
kiên nhẫn là một phước báu lớn.
Tiềm năng lớn nhất của con người
nằm ở khả năng học hỏi. Ta có thể đạt bất cứ mục tiêu nào khi ta chú tâm và nỗ
lực làm việc ấy. Nói như thế không có nghĩa là mọi sự sẽ xảy ra như ý ta và nếu
nghĩ như vậy thì ta sẽ điên đầu mất thôi. Tuy nhiên, nếu muốn học được tính
kiên nhẫn, ta sẽ dần dà làm được điều ấy. Bất cứ ai - nếu thực sự muốn và tinh
tấn tu tập - cũng có thể đi theo con đường mà đức Phật đã vạch ra cho tất cả
mọi người và đạt đến thành quả. Tục ngữ có câu
‘Muốn là được’. Vì chúng ta
thường đạt được những điều mình thực sự muốn, ta cần thận trọng để chỉ mong
muốn những điều thiện.
Phước báu kế tiếp là ‘lắng nghe
không phiền giận khi bị người phê bình’. Chấp nhận lời phê bình của người khác
là một việc không dễ đối với nhiều người. Không giận dữ hay bực bội, hoặc chỉ
trích lại người, hiển nhiên đều là nhờ rất nhiều vào lòng kiên nhẫn, nhưng nó
cũng liên quan đến lòng tự tin, và nhiều người đầy mặc cảm tự ti đến nỗi chỉ
một lời phê bình nhỏ cũng gợi lên cho họ mặc cảm ấy, khiến họ nổi giận hoặc ít
nhất là buồn bực.
Phần lớn các khuyết điểm của ta
đều khó nhận ra - nếu không thì ta đã biết mà tự sửa lỗi mình. Cho nên, được
thiện tri thức chỉ bảo quả thật là một phước báu lớn. Tự biết mình và học cách
cư xử hòa nhã sẽ dễ dàng hơn khi ta được người khác hỗ trợ, nhưng ta phải sẵn
sàng đón nhận sự giúp đỡ ấy. Ngược lại, khi muốn giúp đỡ người khác, ta thường
cảm nhận được là họ có sẵn lòng nghe lời phê bình xây dựng hay không, nếu họ
không sẵn lòng nghe, ta không nên cố ép. Điều quan trọng là ta có thể chấp nhận
được cả hai trường hợp, đóng góp ý kiến xây dựng khi thấy có ích lợi, mà cũng
vui vẻ kiềm chế sự phê bình khi bất lợi. Sự toàn hảo chỉ hiện hữu ở những cõi
cao hơn cõi người. Còn trong cõi nhân sinh thì hiển nhiên là không ai hoàn toàn
cả và những lời phê bình xây dựng luôn cần thiết.
Lẽ dĩ nhiên là đôi khi sự phê
bình có thể không đúng. Nếu thế thì ta không cần để ý và cũng không nên bực
mình vì nó. Ta còn phải cảm ơn có người đã bỏ công nói cho ta điều họ nghĩ -vì
lòng biết ơn, như ta đã biết, tự nó là một phước báu.
Tiếp đến là ‘tìm cầu thiện tri
thức và bàn luận về chân lý’. Đây là một phước báu khác mà đức Phật thường nhắc
đến trong nhiều kinh: đó là việc làm bạn với thiện tri thức
và pháp đàm. Những điều ta bàn
bạc là thức ăn nuôi dưỡng tâm ta. Thức ăn càng bổ dưỡng, tâm càng được ích lợi.
Nói về chân lý không phải chỉ là thận trọng để những lời nói của mình đúng với
sự thật. Nó còn đòi hỏi ta phải bàn luận về những đề tài cao xa hơn là những
chuyện phù phiếm thường ngày để chúng ta thấu hiểu hơn về con người, kể cả bản
thân ta. Đó là những vấn đề liên quan đến sự thật vũ trụ, chân lý phổ quát mà
ai cũng có thể thấy. Chân lý ở đây không nên bị nhầm lẫn với sự kiện khoa học
-thí dụ như vũ trụ xoay vần ra sao - vì những điều ấy chẳng hề giúp con người
trở nên nhân ái và hữu ích cho đời như là chân lý về tâm linh mà Pháp đã cho
ta. Cho nên bàn luận về Phật Pháp quả thật là một phước báu lớn. Dĩ nhiên,
không có nghĩa là ta không bao giờ nên nói những câu chuyện đời thường; chỉ là
ta phải nhận thức được rằng chúng chỉ là những nhu cầu tầm thường, và không lầm
chúng với những gì tạo nên đời sống thật sự của mình.
Tất cả những gì quan trọng thực
sự xảy ra ngay trong ta, trong phản ứng, ước mơ, dự tính và hy vọng của ta. Ta
thực sự mong đợi gì ở tương lai, ta có hoài bão gì và thực sự muốn gì? Ta có
đang tìm kiếm chân lý tối thượng, tìm cứu cánh tối hậu, tìm cái gì giúp ta
thoát khỏi thân phận con người? Hay là ta bị vướng mắc vào cuộc sống hàng ngày,
chỉ với hy vọng có thể vùng vẫy thoát ra chút ít?
Một khi đã gặp thiện tri thức và
bàn luận về chân lý của Pháp là ta đã bắt đầu cuộc hành trình tâm linh để theo
đuổi chân lý hơn là những thứ tầm thường, cũng như những bậc tri thức có thể
trợ lực hữu hiệu cho ta trên con đường tầm đạo. Chỉ có chân lý của Pháp mới có
thể chỉ cho ta con đường dẫn đến sự tận diệt mọi khổ đau. Tuy nhiên, dầu những
sự thật đó dành sẵn cho tất cả mọi người, ít ai sẵn sàng tin theo chúng. Đó là
vì chúng không hướng đến những điều ta mong mỏi: chúng liên quan đến những vấn
đề của vô thường và hoại diệt hoàn toàn. Chúng báo cho ta biết rằng kết quả tất
yếu của bám víu và chống đối là khổ đau, và chúng khuyên ta nên kiềm chế bản
ngã cho đến khi ta có thể nhận ra được ngã chỉ là ảo tưởng. Tất cả mọi người
đều muốn được hạnh phúc, an bình và thảnh thơi trong tâm và chẳng ai muốn buông
bỏ cái ngã của mình. Nhưng ta chỉ có thể chấm dứt khổ đau khi buông bỏ tự ngã,
và vì hầu hết mọi người chưa làm được điều này nên hòa bình và hạnh phúc còn
vắng bóng trên thế giới.
‘Gần gũi thiện tri thức và bàn
luận về chân lý’ giúp ta tìm được an lạc: chân an lạc chỉ có ở ngay trong tâm
ta; nó bắt đầu từ tâm ta và tỏa rộng ra ngoài. Tuy nhiên, dầu chỉ có một chỗ để
tìm an lạc, mọi người đều có đủ phương tiện để nhận diện, và nuôi dưỡng nó.
Trong cuộc sống thế tục, thật sự không thể có an lạc, luôn có những điều không
hoàn toàn đúng, cần được thay đổi hay sắp xếp lại. Trái lại, trong cuộc sống
tâm linh, tâm ta chấp nhận mọi sự như chúng là. Nếu ta chấp nhận chân lý này và
hành xử theo nó, ta sẽ được hưởng quả tốt của phước báu lớn này.
Buông xả ngã và thanh tịnh tâm,
tuệ giác về tứ đế, sau cùng đạt Giác Ngộ, đây thật là những phước báu lớn!
Khi tu tập, ta cố buông xả ngã
bằng cách thanh tịnh hóa tâm, tức là, gieo trồng những tình cảm tốt, thanh tịnh
hóa trí năng, gạn lọc và đào sâu suy tư của mình. Không có phước báu của tâm
thanh tịnh, không thể có sự buông bỏ ngã chấp. Từ kinh nghiệm bản thân, chúng
ta đều biết là mình đã khổ sở và đớn đau ra sao khi có ý nghĩ và cảm giác tiêu
cực. Nó làm ta cũng như người khác khổ đau. Tiếc thay, chúng ta thường không
sẵn sàng chấp nhận là sự thay đổi phải bắt đầu từ ta. Hầu hết chúng ta đều cho
rằng chính hoàn cảnh chung quanh khiến ta khổ đau, nên cần phải thay đổi hoàn
cảnh theo ý ta thì ta mới bớt đau khổ.
Đó là cách suy nghĩ của hầu hết
mọi người. Ta chỉ muốn thay đổi bất cứ điều gì ngoại trừ bản thân. Và kết quả
ra sao? Không khả quan chút nào! Một số hoàn cảnh có thể được thay đổi cho tốt
hơn đôi chút, nhưng chủ yếu chính là phải thay đổi tư tưởng, tình cảm nơi bản
thân mới mong có được an lạc. Muốn thế, ta phải không ngừng thực tập chánh
niệm, hành trì chánh niệm trong lúc tọa thiền cũng như duy trì chánh niệm trong
đời sống hàng ngày. Ta cần phải quán sát bản thân rốt ráo để không bỏ lỡ cơ hội
thanh tịnh hóa tâm nào - vì suy cho cùng, chẳng ai có thể làm việc này cho ta.
Thanh tịnh hóa không liên quan
gì đến lối sống - cách ăn mặc sang trọng hay không - mà là về phẩm chất của
cuộc đời, cách ta đang sống đời mình. Và thanh tịnh hóa là một tiến trình lâu
dài, xảy ra từ giây phút ta bắt đầu thực tập điều này - bất kể kết quả ra sao.
Ai cũng có vấn đề - chẳng bao giờ sự việc xảy ra như ta dự tính - song không vì
thế mà ta phải chán nản và buồn bực. Trái lại, ta nên vui mừng vì đã nhận biết
được điều gì đang xảy ra trong ta.
Nếu tiếp tục thay thế những tư
tưởng và tình cảm bất thiện bằng những điều thiện, ta sẽ nhận ra ngay là việc
buông bỏ ngã chấp là giải pháp khả thi duy nhất để thoát ra khỏi thân phận con
người. Nhưng đây là điều mà chúng ta phải tự mình chiêm nghiệm. Trí tuệ của
người có thể giúp ta chút ít, nhưng đó chỉ như cây chỉ đường, không phải là
kinh nghiệm cá nhân, và chỉ có bằng cách thanh tịnh hóa ta mới có thể biến trí
tuệ đó thành của chính mình.
Càng tiến xa hơn trên quá trình
này, ta càng có cái nhìn rõ hơn về bản thân và càng thấy rõ hơn là tất cả những
loạn động trong ta đều do có cái ngã, cái cảm giác nhất định phải sở hữu cái gì
đó. Cái ngã này tự coi mình là quan trọng, và muốn ai cũng phải để ý đến mình.
Khi tự quán sát và chuyển đổi mình, ta thấy rõ ràng hơn bao giờ hết là cách duy
nhất để thanh tịnh hóa tâm là phải đem bản ngã ra phân tích một cách thật tỉ
mỉ.
Chúng ta có thể thấy được bản
ngã này chỉ là một ý tưởng không? Tất cả chúng ta cho rằng cái ‘tôi’ là một ai
đó quan trọng, cần được bảo vệ, muốn điều này, ghét điều kia. Cái ngã này muốn
mình là trung tâm của vũ trụ, nên đụng chạm với những cái ngã khác cũng nhắm
đến cùng một vị trí. Không cần phải nói thêm, ta cũng thấy đó là nguồn gốc của
mọi vấn đề trong liên hệ tương quan giữa người với người. Chúng xảy ra do những
cách cư xử không thể chấp nhận được thì ít mà do sự xung đột của hai bản ngã
thì nhiều hơn.
Phước báu khởi sinh khi ta nhìn
xuyên qua được tấm màn ảo tưởng này. Đó là một khám phá hết sức tuyệt vời đến
nỗi đức Phật gọi đó là Giác Ngộ, vì thế nếu đã có được chút khái niệm gì về nó,
là ta đã có một khởi đầu tốt đẹp. Nhận biết được ảo tưởng này trong ta có nghĩa
là ta đã khám phá được sự sai lầm trong cách ta nhìn mọi việc. Sai lầm này đã
bén rễ lâu đời trong tâm ta, song nếu ta có thể diệt trừ được nó và không tự xem
mình như một cá thể riêng biệt tuyệt đối thì mọi khổ đau sẽ chấm dứt.
Sự diệt trừ ngã tưởng không phải
là một điều dễ dàng; ta chỉ có thể thực hiện được khi ý thức rằng không có cách
nào khác để chế ngự khổ đau. Bản ngã tự có tiếng nói riêng: ‘Tôi muốn được hạnh
phúc’, và tự nghĩ là nó biết con đường để tìm hạnh phúc. Nếu ta còn đi theo bản
ngã trong việc truy tìm hạnh phúc, thì dù ta có hành thiền để tâm được bình an
thay vì xem đó là một phương tiện để phát triển tuệ giác, hoặc tham gia đời
sống xã hội vui vẻ, hay sống ẩn dật, hay các sinh hoạt nào khác, ta cũng sẽ
chẳng thể nào nắm bắt được ảo tưởng ấy. Chỉ khi nào tâm biết nói ‘Không có tôi,
không có cái của tôi, không có gì cả chỉ có tinh tấn, khiêm cung và vô thường’,
thì lúc đó quả là ta đã đi đúng đường. Khi ta có thể từ bỏ, buông xả ngã chấp,
dù chỉ là trong giây lát, ta sẽ chứng nghiệm được ngay trong lúc đó niềm an lạc
và thư thái vô biên, ví như tất cả các gánh nặng trên vai ta đã rơi xuống, cho
ta thoáng thấy ý nghĩa của cuộc sống vô ngã. Điều này không phải một sớm một
chiều mà đạt được; nó khởi sinh trên con đường thanh tịnh hóa, mà ở đó ta luôn
cố gắng để nhận ra rằng khổ đau chính là nghiệp quả của ngã tưởng.
Phước báu tiếp theo là tuệ giác
về Tứ Diệu Đế, hình thành tất cả những gì mà Đức Phật giải thích về sự Giác Ngộ
mà Ngài đã chứng nghiệm được dưới cội cây Bồ Đề nổi tiếng ở Bodh- gaya, khoảng
2500 năm trước. Giáo lý Tứ Diệu Đế cho chúng ta câu trả lời của những câu hỏi
căn bản về kiếp sống con người. Vì sao chúng sinh đau khổ? Vì sao lúc nào ta
cũng cảm thấy thiếu thốn và bất mãn? Không phải là vì -như chúng ta thường
nghĩ- ta không có những thứ ta muốn, hay vì ta không được yêu mến hay kính
trọng. Chỉ có duy nhất một lý do, đó là hiện hữu là đau khổ. Đây là cốt lõi của
Diệu Đế Thứ Nhất: đời chẳng bao giờ được như ta mong muốn. Diệu Đế Thứ Hai soi
sáng nguồn gốc của sự khổ đau và bất mãn này, đó là sự mong cầu đổi thay của
ta. Ta không muốn chấp nhận cuộc đời như nó hiện là; ta không muốn buông xả và
để mình cuốn theo dòng sinh mệnh; ta muốn khẳng định bản ngã của mình. Đó là lý
do vì sao ta luôn cảm thấy bất mãn, không toại nguyện, và đây là Diệu Đế Thứ
Hai: sự thật về nguồn gốc của khổ đau.
Diệu Đế Thứ Ba, chân lý về Giác
Ngộ, có nghĩa là khổ đau có thể được tận diệt. Diệu Đế Thứ Tư, Đạo, là con
đường dẫn đến sự giải thoát, đó là Bát Chánh Đạo, gồm ba yếu tố qua đó Đức Phật
phân loại giáo lý của Ngài: giới (sila),
định (samadhi) và tuệ (panna). Ba phần này là ba cột trụ nâng
đỡ việc thanh tịnh hóa và buông bỏ ngã chấp. Có tu tập Bát Chánh Đạo hay không,
và tu tập miên mật ra sao là hoàn toàn tùy ở ta; tuy thế, ta vẫn hết sức hàm ân
một giáo lý giải thích thật rõ ràng về con đường đạo và hướng dẫn từng bước để
ta thực hành.
‘Giác Ngộ tự nó là một phước báu
lớn’. Từ đầu đến cuối, bài kinh này nói về con đường đến Giác Ngộ: sự quan
trọng của việc giao tiếp với người trí -không phải với kẻ ngu, nhưng với thiện
tri thức. Và cuộc sống trong môi trường yên tĩnh, sống hướng thượng và không tự
hạn chế với những lo toan hàng ngày trong đời sống thế tục.
Người ta thường chống chế:
‘Nhưng làm sao tôi có thời gian cho mấy thứ đó!’ Nhưng thời gian là gì? Nó đâu
phải là cái ta thấy trên đồng hồ. Thời giờ có vẻ như giới hạn. Thời gian ta
thực sự có không thể đo lường; vấn đề là ta phải biết sử dụng thời gian hữu
hiệu nhất. Trong mỗi hành động, mỗi ý nghĩ, mỗi cảm giác, ta đều có thể thành
tựu hạnh nguyện của mình. Chúng ta đâu cần thêm thời gian cho việc ấy. Thời giờ
mà chúng ta có là hiện tại, ngay trong mỗi giây phút này. Nếu mới lập một hạnh
nguyện, ta có thể thể hiện nó trong việc làm, trong suy nghĩ, cũng như trong
những cảm nhận thường ngày ngay trong ngày hôm nay. Không có đủ thời giờ không
phải là vấn đề. Cách lập luận như thế dựa trên cái nhìn sai lầm là ta có thể
tìm được hạnh phúc trong cuộc sống phàm tục. Cùng lắm thì cuộc sống thế tục có
thể cho ta dục lạc - những thứ đến rồi đi và cần phải được tái tạo mãi - trong
khi chân hạnh phúc thì ở trong tâm ta và trường cửu. Tất cả chúng ta đều sẵn có
hạnh phúc này; chỉ cần khám phá ra nó thôi.
Một trái tim vững chãi, không
sầu khổ, trong sạch và an trụ - dù khi gặp bát trược. Đây thật là một phước báu
lớn!
Tám ngọn gió đời (bát trược)
thường làm bận tâm ta là được và mất, vinh và nhục, khen và chê, sướng và khổ.
Tất cả chúng ta đều đã nếm trải qua chúng lúc này hay lúc khác, song chúng ta
quen chấp nhận bốn thứ dễ chịu (được, vinh, khen, sướng) và tránh né bốn thứ
khó chịu (mất, nhục, chê, khổ), nên chúng ta chẳng bao giờ được an lạc. Ta luôn
tìm những cái có vẻ thoải mái và tránh né những điều trái nghịch, và vì ai cũng
như thế nên thế giới không bao giờ có an lạc. An lạc chỉ đến khi ta thôi không
còn bị quyến rũ bởi bốn thứ dễ chịu và trốn tránh bốn thứ khó chịu. Chỉ khi nào
ta đã chấp nhận là những đối nghịch đó nẩy sinh ra nhau, khi đó ta mới có thể sống
một cuộc sống quân bình.
Ta phải hiểu rằng bốn thứ dễ
chịu (được, vinh, khen, sướng) trong đời sống của ta cũng vô thường như những
thứ gì khác. Bất cứ những gì ta có, dù đó là tiền bạc, tình yêu, người thân,
một dịp vui, đều vô thường. Nó đã đến với ta, thì rồi nó cũng sẽ đi. Để chấp
nhận được điều này đòi hỏi không chỉ một sự hiểu biết sâu sắc về vô thường mà
còn phải hoàn toàn buông xả. Thí dụ, nếu ta đau khổ khi bị mất mát và vui sướng
khi được một cái gì, là ta chưa hiểu được điều này. Ta phải luôn đối diện với
vô thường, chấp nhận nó và biết là thời gian ta sống trên đời ngắn ngủi xiết
bao và ta nhỏ bé dường nào so với tất cả sinh linh. Có gì khác chăng là do ở sự
quyết tâm của ta trong việc thanh tịnh hóa tâm, chánh niệm trong đi, đứng nằm,
ngồi, có một tấm lòng thương yêu và sẵn lòng giúp đỡ người khác. Điều này giúp
ta đối diện với tám ngọn gió đời với cái nhìn buông xả, để chúng không còn có
thể chi phối ta nữa.
‘Một trái tim vững chãi, dù khi
gặp bát trược’ có nghĩa là chấp nhận mọi hiện tượng với tâm buông xả như nhau,
không yêu thích mà cũng không ghét bỏ. Đây là một tiến bộ quan trọng, cũng là
một bước khó khăn: ta không nên kỳ vọng là mình sẽ làm được ngay như thế, song
ít nhất hãy cố gắng tu tập. Chỉ qua sự nhận biết tính chất thoáng qua của tất
cả những hoài vọng hay ghét bỏ của ta - chúng đến và đi, có đó rồi mất đó - là
ta đang thực tập hạnh buông xả.
Buông xả là một trong bảy yếu tố
đưa đến Giác Ngộ và ta không nên nhầm lẫn nó với thái độ dửng dưng. Buông xả là
một tuệ giác sâu sắc với một trái tim vững chãi tràn đầy thương yêu. Dửng dưng
là thái độ lạnh nhạt, không muốn can dự vào - kết quả là làm cho cuộc đời càng
thêm khó sống. Buông xả là tình cảm cao đẹp nhất trong tất cả những tình cảm,
và đòi hỏi lòng can đảm. Gốc La Tinh của chữ ‘buông xả’ có nghĩa là ‘cân bằng’
(aequus) ‘tâm’ hay ‘can đảm’
(ani- mus). Cần có lòng can
đảm để không phải giống người, để từ chối không chọn bè phái, để không bị lóa
mắt vì các hào nhoáng của cuộc đời.
Cuộc đời có một đặc điểm lạ
thường là nó rất dễ dàng đưa ta đi vào nẻo xấu, và đức Phật diễn tả sự kiện này
bằng thuật ngữ mara hay ma
vương. Ma vương luôn có mặt trong mỗi chúng ta như văn hào Faust nói: ‘Hỡi ôi!
Có hai linh hồn đang sống trong tôi’. Dưới mắt của ta, thế giới bên ngoài dường
như rất đẹp. Tuy ta có thể ngắm một cầu vồng tuyệt đẹp, nhưng nó có mang lại
cho ta những gì ta thật sự muốn? Chẳng có gì. Nó chỉ có những màu sắc bắt mắt,
nhưng chẳng ai có thể chiếm hữu được nó.
Cuộc đời cũng thế. Nó có biết
bao vẻ hào nhoáng làm ta say mê nhưng đó là những thứ mà chẳng ai có thể thực
sự sở hữu. Tất cả những gì ta có thể thật sự sở hữu ở ngay trong ta, và đã có
sẵn từ bao giờ. Do đó, công việc chính của chúng ta là thanh tịnh hóa tâm, là
nhận ra sự huyễn ảo của cái ngã và tất cả những phản ứng vô ích của ta đối với
tám ngọn gió đời: được mất, vinh nhục, khen chê, sướng khổ.
Một tâm ‘vững chãi, không sầu
khổ, trong sạch và an trụ’ là tâm đã Giác Ngộ. Đây là những đặc tính được dùng
để mô tả những Bậc Giác Ngộ. Không cần phải nói là các ngài đã hoàn toàn thanh
tịnh, không còn phiền não, mà các ngài còn cảm thấy hoàn toàn an trụ, vì không
còn ngã chấp nào để cảm thấy bị đe dọa. Tâm an trụ tuyệt đối đó là kết quả của
việc nhận ra được ảo tưởng và buông bỏ nó.
Những ai đạt được vậy là kẻ
chiến thắng, ở mọi lúc mọi nơi. Họ tìm thấy hạnh phúc ở khắp cùng các chốn, và
đây chính thực là phước báu tối thượng.
Trọn bài kinh về ba mươi tám
phước báu nhằm chỉ cho chúng ta nơi để tìm ra chân hạnh phúc - không phải là
thứ hạnh phúc tạm bợ có thể mất đi, mà là một thứ hạnh phúc sẽ còn mãi với ta
và hoàn toàn bền vững. Các Bậc Giác Ngộ không thể đánh mất an lạc nội tâm bởi
lẽ không còn ai ở đó để được hay mất bất cứ điều gì. Chỉ có tâm, trí và thân sẽ
tiếp tục hoạt động một khi còn có đủ nguồn năng lượng. Những Bậc ấy luôn là kẻ
chiến thắng dù ở đâu và chứng nghiệm được phước báu tối thượng.
Việc chúng ta có dần dần tiến
đến được trạng thái hạnh phúc này hay không hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta.
Nếu ta coi trọng cuộc sống thế tục và cho rằng ta có nhiều việc quan trọng phải
làm, chắc chắn là ta sẽ không có đủ thời gian dành cho cuộc sống tâm linh bởi
vì nó sẽ bị liệt vào hạng thứ yếu.
Gác bỏ việc đời không có nghĩa
là không còn tình thương trong tim ta. Nó chỉ có nghĩa là ta không còn vướng
mắc. Nếu đã thực sự chọn con đường này, ta cần phân tích những vướng mắc của
mình, viết chúng xuống, sau đó xét xem chúng ta bám víu vào gì nhiều nhất, có
thể là người thân, của cải, hoài niệm, tuổi trẻ hay sắc đẹp. Ta có thể buông bỏ
được điều gì không, hay là sự bám víu quá sâu dày, quá mãnh liệt khiến ta không
thể tách rời? Ngược lại, ta cũng có thể tự hỏi: ‘Những gì làm ta bực mình nhất?
Ta ghét cái gì nhất? Ta muốn thay đổi điều gì nhất?’ Tất nhiên, những thứ này
chỉ là những điều ngược lại với những thứ ta thích.
Trước khi đức Phật đạt Giác Ngộ,
Ngài có một con trai đặt tên là Rahula, là ‘trói buộc’ - có nghĩa là những trói
buộc của sự bám víu. Khi nào ta còn bám víu vào cuộc sống, khi nào mà ta còn
ham muốn của cải vật chất, còn muốn sở hữu chúng, thì ta còn bị xiềng xích trói
chặt. Chúng ta muốn mọi thứ nguyên vẹn, không có gì thay đổi. Tất cả chúng ta
đều nằm trong gọng kềm của những bám víu của mình, mạnh mẽ nhất là sự bám víu
vào cái ngã. Có thể ta cũng muốn tin là người khác quan trọng với mình hơn
chính mình, song nếu ta không còn bám víu vào bản ngã, ta sẽ dễ dàng buông bỏ
sự bám víu vào tha nhân hơn. Sự bám víu của ta rõ ràng đã tạo ra bao tình cảm
tiêu cực và bao khó khăn cho ta, và bất cứ phương pháp tu tập nào giúp ta hiểu
rõ hơn về chúng chắc chắn là sẽ hết sức lợi lạc cho ta.
Dù tu tập theo phương pháp nào,
ta cần chuyển hướng sự suy nghĩ của mình ra khỏi những sinh hoạt có tính cách
lập đi lập lại (và thường là nhàm chán) của cuộc sống thường ngày và hướng đến
những việc làm có giá trị chân thực. Căn bản của quá trình buông bỏ ngã chấp và
tự thanh tịnh hóa tâm là hành thiền. Dù rằng tự nó không đầy đủ, thiền vẫn
tuyệt đối cần thiết trong đời sống tâm linh của ta.
Những
phước báu được kể ra trong bài kinh này nhằm giúp chúng ta một ngày nào đó rũ
bỏ được hết những sự trói buộc của khổ đau, giải thoát tâm khỏi bị bất cứ điều
gì phiền não. Tất cả những phước báu này đều góp phần đem an lạc đến cho nội
tâm và luôn theo ta trên con đường tiến đến sự giải thoát tối thượng.