Chương 9.
Bốn pháp cơ bản
Có bốn pháp cơ bản, được coi là xác thực, lâu đời,
được lưu lại từ truyền thống xưa.
Giá trị của chúng không hề suy
chuyển từ xưa đến nay, và sẽ còn mãi vững bền. Người trí, dầu là tỳ kheo hay cư
sĩ, đều không thể bài bác. Bốn pháp cơ bản đó là gì?
Vô tham là một điều dạy cơ bản,
được coi là xác thực, . . . vô sân là một điều dạy cơ bản,…chánh niệm là một
điều dạy cơ bản,… chánh định là một điều dạy cơ bản…
Tham
diệt, ta sẽ được an,
Không
còn dấu vết hận thù trong tim; Với định và niệm bên trong,
An bình,
ổn định ta thì được ngay.
Anguttara Nikaya iv.29 (Tăng Chi
Bộ iv.29)
Trong bài thuyết pháp này, đức
Phật đề cập đến bốn nguyên tắc cơ bản: vô tham, vô sân, chánh niệm và chánh
định. Bốn pháp căn bản này, được nhắc đến trong nhiều bài thuyết pháp của đức
Phật, đôi khi còn được coi là bốn chủ đề chánh trong cuộc sống tâm linh. Khi
đức Phật dạy rằng chúng xác thực, lâu đời, truyền thống, rằng chúng có giá trị
hôm nay cũng như trong quá khứ, và chúng sẽ vẫn còn giá trị trong tương lai,
chúng ta có thể kết luận rằng chúng không phải chỉ đặc biệt trong riêng cộng
đồng tôn giáo của chúng ta, tính xác thực của chúng không bị chi phối bởi lòng tin
nào – hay sự thiếu lòng tin nào - của chúng ta. Giải thoát khỏi tham, giải
thoát khỏi sân, chánh niệm và định tâm là điều kiện thiết yếu cho một cuộc sống
an lạc, cũng như trên con đường đạo. Và sự tuyên bố của đức Phật rằng chúng sẽ
luôn có giá trị đối với ngày nay vẫn đúng cũng như đã đúng hơn 2.500 năm trước;
chân lý đó dễ dàng được chấp nhận. Nếu chúng ta có thể nhận ra được rằng chúng
mang một thông điệp cho quá khứ, hiện tại và tương lai, thì điều này có thể tạo
cho chúng ta đủ lòng tin vào những lời dạy này, cho phép chúng ta phát triển
được những trạng thái tâm căn bản này ở bản thân.
Chúng ta đã có sẳn bốn đặc tính
này. Phát triển chúng có nghĩa là làm cho chúng đủ mạnh để có thể nghiêng cán
cân thăng bằng về hướng chúng và chế ngự sự yếu đuối thường có khuynh hướng cản
trở chúng trong ta. Trái ngược lại với chánh niệm là vô tâm, trái ngược với
định tâm hay sự tự tại là sự bất ổn tình cảm, trong khi vô tham và vô sân thì
trái ngược lại, hiển nhiên, là với tham và sân. Ta càng bồi dưỡng sự thánh thiện,
tinh xảo trong ta, thì các yếu tố uế nhiễm, xấu xa càng khó phát khởi, cho đến
một ngày nào đó, ta sẽ không còn phải đối phó với chúng ở bất cứ nơi đâu, lúc
đó nội tâm an bình, thanh tịnh sẽ hiển bày.
Chánh Niệm
Chúng ta bắt đầu với chánh niệm,
vì chánh niệm luôn đứng trước tiên trong bất cứ sự thực hành nào. Không có
chánh niệm sẽ không thể học hỏi được gì, nói chi đến việc tự hiểu mình. Tất cả
chúng ta đều sử dụng chánh niệm trong những sinh hoạt hằng ngày như quay đúng
số điện thoại, dán đủ tem trên bì thư. Ở sở làm, ta cũng cần có chánh niệm mới
có thể hoàn thành công việc của mình tốt đẹp, vì nếu không ta sẽ khó giữ được
việc làm.
Loại chánh niệm đó thật rất cần
thiết, vì nó là một đòi hỏi thiết yếu trong cuộc sống. Chúng ta bắt buộc phải
sử dụng nó vì không còn cách chi khác nữa. Chúng ta sử dụng nó cùng với một mục
đích như khi ta làm việc - chính là để sinh tồn. Tuy nhiên, sự chánh niệm này
chỉ có thể biến thành một yếu tố tâm linh, nếu như ta áp dụng nó ngay trên bản
thân mình. Chúng ta có thể bắt đầu bằng cách quán sát bản thân một cách khách
quan - bằng cách đó để có thể hiểu được bản thân - và dựa vào đó thay đổi cho
tốt hơn.
Chánh niệm chỉ biến thành một
yếu tố tâm linh khi nào ta áp dụng nó ngay nơi bản thân, và sự quán thân chánh
niệm này là một công việc rất thú vị. Chúng ta sẽ cần thường xuyên chánh niệm
về môi trường quanh mình - đó là, biết chuyện gì đang xảy ra quanh ta - nhưng
không phải để chỉ trích hay phán đoán, vì tính phán đoán là một trạng thái tâm
tiêu cực, có tác động tai hại. Ngay cả khi thế giới quanh ta trở thành đối
tượng của sự chú tâm của ta, có nhiều trường hợp, trong đó, ta có khuynh hướng
phản ứng lại, nhưng nếu có chánh niệm, ta cũng có được đôi điều lợi ích từ đó.
Thí dụ, khi chúng ta phản ứng lại với những gì một người nào đó đã nói, hay với
vẻ bề ngoài, với hành động của ai đó, thì sự chánh niệm có thể biến đổi mọi
thứ, bằng cách cho ta một cái nhìn sáng suốt hơn về cuộc sống nội tâm của mình.
Rồi mọi thứ sẽ trở nên rõ ràng vì sao quanh ta hay trong ta được an lạc. Mọi
người đều bị dính mắc trong chính các phản ứng của họ, lúc nhiều lúc ít, đôi
khi ồn ào, lúc lắng đọng. Có những lúc ta phải ghìm nén các phản ứng của mình,
lúc khác lại cho nó tuôn tràn. Kết quả có thể khá nguy hại, vì tư tưởng và hành
động tiêu cực có thể chất chứa lại trong tâm, là nơi chúng sẽ được hình thành
chặt chẽ hơn, để tới lần sau chúng sẽ còn bùng nổ nhanh chóng hơn.
Chánh niệm khiến ta nhận biết
được các phản ứng này, nhận thức được rằng chúng không đem lại lợi ích gì cho
ta. Đúng ra, cá nhân hay hoàn cảnh đã châm ngòi cho các phản ứng tiêu cực của
ta không hề hấn gì. Chỉ có chúng ta là bị thiệt thòi.
Chánh niệm giúp chúng ta ý thức
được các trạng thái tình cảm, các đối tượng suy tư, và cho phép ta chuyển hoá
các tình cảm tiêu cực thành tích cực. Đặc biệt trong những trường hợp khi ta có
thể cảm nhận được các trạng thái tình cảm của ta, trước khi ta bị dính mắc vào
đó. Một khi đã vướng vào các trạng thái tiêu cực, thì tự tháo gỡ ra sẽ khó khăn
hơn nhiều. Điều quan trọng là ta phải thường xuyên mang chánh niệm soi đến các
trạng thái tình cảm của mình. Một trạng thái u buồn thường khiến ta tô lên mọi
thứ một màu đen, ngược lại một trạng thái vui vẻ, dễ chịu lại thay đổi hoàn
toàn cái nhìn của ta. Dĩ nhiên đây là cách người ta tạo ra những cái nhìn khác
nhau về sự vật. Chúng ta thường hoang mang khi người khác không nhìn thấy vấn
đề giống như ta nghĩ, rồi kết luận rằng họ không biết phân biệt, kém thông
minh, trong khi thật ra là do trạng thái tình cảm của họ đã khiến họ phản ứng
khác ta.
Điều quan trọng nhất trong công
phu tu tập là chánh niệm về thân, bao gồm ý thức về các oai nghi và chuyển động
của thân. Cũng dễ thực hành điều này vì thân thì rõ ràng, xúc chạm được, trong
khi các trạng thái tình cảm và quá trình tư duy thì không thể nắm bắt và ta chỉ
có thể kinh nghiệm được chúng khi chúng đã xảy ra trong tâm. Chánh niệm về thân
là cần thiết để sinh tồn, nhưng tôi đoan chắc rằng một vài chuyển động vô thức
thông thường có thể bộc lộ khá nhiều về ta. Nếu chúng ta có thể quán sát mình
đủ cẩn thận - chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi như thế nào - ta bắt đầu nhận biết
về các ngôn ngữ của thân, cách nó biểu lộ tư tưởng, tình cảm của ta, và chúng
ta sẽ có thể, nếu cần, khiến chúng trở nên khéo léo tế nhị hơn.
Lý do tầm thường nhất để chánh
niệm về thân trong những sinh hoạt hằng ngày là để ta tránh đứt tay, té ngã,
hay đụng đầu. Nếu chúng ta không phải lo về những tai nạn này, ta sẽ không chú
tâm, cho đến khi tai nạn xảy ra khiến ta phải ân hận sau này. Dầu thế cũng chưa
chắc là ta có thể hiểu được mình, ngoài việc ngầm nói ‘tôi là như thế đó’. Tuy
nhiên, nếu chúng ta có thể sử dụng lợi thế của người quan sát về các hành động
của mình, ta sẽ có khả năng để phán đoán những sửa đổi nào là cần thiết và khả
thi.
Dĩ nhiên việc đọc được các hành
động đầy cá tính của người khác thì dễ dàng hơn là tự nhận ra các ngôn ngữ của
bản thân mình. Thật vậy, đó là cách chúng ta đánh giá đúng nhất về người. Chúng
ta thấy dễ hiểu người khác qua hành động của họ hơn là ý nghĩa lời nói của họ.
Chuyện thường xảy ra là ai đó có thể nói đúng, nhưng cách nói không thuyết
phục. Đó bởi là vì thân và lời nói không đi đôi với nhau, và chúng ta có thể
cảm nhận được điều đó - ta cảm thấy thân họ biểu lộ điều gì đó khác với lời họ
nói. Rõ ràng, những sự quán sát đó nơi người khác có thể giúp ta phát hiện được
sự khác biệt giữa lời nói và cử chỉ của mình, và bằng cách đó giúp ta hiểu được
bản thân hơn. Sự quán sát khách quan như thế không phải là chỉ trích hay phán
đoán. Đơn giản đó chỉ là cách để học hỏi từ người khác những hành động, cử chỉ
nào là ích lợi hay có hại.
Chúng ta có thể thực hành chánh
niệm ở bốn lãnh vực: thân, thọ, tâm và pháp (dầu các lãnh vực này tương quan
nhau, và không thực sự tách biệt). Bốn lãnh vực này thường được gọi theo truyền
thống là bốn căn bản chánh niệm. Chánh niệm về thân, chúng ta đã vừa bàn qua.
Chánh niệm về thọ là sự ý thức xem một cảm thọ là lạc, khổ hay trung tính.
Chánh yếu là những cảm giác ở nơi thân, nhưng cũng liên quan đến cảm xúc, và
chúng có thể dẫn đến những phản ứng mãnh liệt trong tâm tư ta. Các cảm giác đau
đớn, khó chịu nơi thân có thể kèm theo trạng thái tâm bực dọc, cũng như những
phản ứng tâm tiêu cực. Như thế ta có thể thấy rằng cảm giác, tình cảm và tâm
thức đi chung với nhau.
Các trạng thái tình cảm khó nhận
biết hơn là các phản ứng tâm thức, hình thành nội dung tư tưởng của ta. Trong
bốn lãnh vực, chúng ta chánh niệm về lãnh vực nào không quan trọng, nhưng ta
phải đặt trọng tâm vào một trong bốn nếu ta muốn hiểu rõ về mình hơn, vì chỉ
khi biết rõ mình, ta mới có thể biết được những gì đang xảy ra trên thế giới.
Một khi ta đã trở thành đối tượng quán sát của chính mình thì rõ ràng thế giới
quanh ta, tha nhân, và cả bản thân chúng ta, tất cả đều có những đặc tính cơ
bản giống nhau.
Các nghiên cứu khoa học thành
công có thể mở mang thêm tri thức cho ta, nhưng chỉ có thế; chúng không mang
được cho ta nội tâm an bình. Ngược lại, sự quán sát bản thân có thể không làm
tăng thêm kiến thức của ta, nhưng nó phát triển trí tuệ và mang lại thanh tịnh
cho ta. Chính vì nhiệm vụ này mà ta cần đến chánh niệm. Chúng ta sẽ hiểu được
một trong sáu tỷ người trên thế giới này, và nhận thức được rằng dưới những vỏ
bề ngoài khác biệt, thực sự chúng ta rất giống nhau. Ta cũng sẽ khám phá ra
được điều gì ích lợi cho ta và điều gì có thể kéo ta xuống vực thẳm.
Đức Phật luôn đặt chánh niệm ở
trọng tâm của con đường hành đạo, vì nhờ có chánh niệm ta mới có thể hiểu được
bản thân và thế giới đúng như chúng là. Tất cả chúng ta đều quen thuộc với một
loại thực tại qua đó mọi người có vẻ như là một thực thể tách biệt, mỗi cá nhân
hướng đến những gì họ thích; tầng thức ở đó ta tự đồng hóa mình với người thân
cận, với sở hữu, với công việc của mình, và trong phạm trù đó ta lại sống tách
biệt với những người khác và môi trường chung quanh. Ở cấp độ đó sẽ không bao
giờ có sự bình an vì mỗi người là một vương quốc biệt lập, không thể xâm phạm.
Với công phu tu tập chánh niệm, chúng ta có thể nhận ra rằng trong thực tế tất
cả chúng ta đều tương quan, liên hệ lẫn nhau, hợp thành một tổng thể mà ta
không thể có cách nào hiện hữu khác hơn. Tất cả chúng ta đều thở cùng một bầu
khí quyển, cùng chết nếu không có nó; ta chia sẻ tất cả mọi điều kiện căn bản
để cùng hiện hữu, kể cả việc tùy thuộc lẫn nhau. Qua chánh niệm ta biết rằng
thân và tâm có thể gây bao khó khăn cho ta, và điều đó không ngoại lệ chúng
sanh nào. Như thế ta sẽ củng cố thêm tình đoàn kết với tất cả chúng sanh, là
một điều rất quan trọng trong việc làm giảm bớt khó khăn cho ta.
Vô Sân
Vô tham và vô sân là những điều
dạy khác mà đức Phật cũng coi là căn bản đối với đời sống đạo. Không ai nghi
ngờ về sự đáng có mặt của các đức tính này, nhưng một số người nghĩ rằng sân là
một phản ứng hợp lý đối với những điều bất thiện. Cũng như phần lớn các quan
điểm của chúng ta, ý nghĩ này, dầu là rất phổ biến, cũng hoàn toàn sai. Theo
đức Phật, chúng ta chỉ có thể đạt được giải thoát bằng cách buông xả tất cả mọi
quan điểm của mình một cách rốt ráo, và thay thế chúng với chân lý của những
kinh nghiệm thực chứng.
Sân nộ đối với những điều xấu
không thể làm giảm đi bao tiêu cực trên thế gian. Nó chỉ làm tăng trưởng thêm
sân hận trong lòng ta, khiến ta thêm khổ sở. Và điều này lại cộng thêm vào niềm
hận thù chung trên hành tinh của chúng ta, khiến bao vấn đề của ta bị nhân lên,
dầu trong gia đình, ở sở làm hay giữa các quốc gia.
Sân nộ dưới hình thức nào cũng
làm kiệt quệ tình cảm vì nó tiếp tục xâm lấn sự bình an trong tâm ta. Nhiều
người chẳng bao giờ đi đến chỗ thực sự bắt đầu giảm lòng sân hận của mình vì họ
quan niệm rằng họ có quyền căm ghét bất cứ điều gì làm tổn hại họ. Họ đã hoàn
toàn đồng hoá mình với những gì mà họ xem là đúng, và cảm thấy có quyền được
bày tỏ sự phẫn nộ đối với những gì họ nghĩ là sai, đưa đến một kết quả không
thể tránh khỏi là không có hòa bình trong tâm họ cũng như trong thế giới quanh
họ. Trái lại, chỉ có một cuộc chiến dằng co trong tâm họ giữa sự chấp nhận và
kết tội. Chính đức Phật đã nói, hận thù không thể giải hận thù, chỉ có tình
thương mới làm được điều đó.
Chấp nhận được điều gì mà mình
cho là xấu là một thách thức lớn. Chúng ta có thể khởi đầu bằng cách tự hỏi
mình - khi ta cảm thấy sân, hờn hay giận ghét, khinh thị ai - những tình cảm
này có đem lại điều gì lợi ích cho ta không? Đây là bước khởi đầu nên ta rất
cần đến sự trợ giúp của chánh niệm. Dầu tình cảm sân hận của ta đúng hay sai,
đó không phải là điểu đáng bàn, quan trọng là chúng ta cảm thấy thế nào trong
nội tâm. Một khi đã thực tập chánh niệm về các tình cảm sân hận, cay cú trong
ta một vài lần, ta sẽ nhận thức được rằng trạng thái tâm tương ứng với các tình
cảm ấy không dễ chịu chút nào. Sẽ có lúc những câu hỏi sau khởi lên trong ta:
‘Tất cả là cho cái gì? Tại sao tôi phải khiến cuộc sống của tôi thêm khó khăn
với các tình cảm này?’ Suy cho cùng, người mà ta căm ghét, khinh bỉ hay không
chịu nổi thường không biết chi nhiều về các tình cảm của ta. Phần lớn các tình
cảm này cũng chỉ là những ý nghĩ trong đầu ta vì ta muốn tránh sự va chạm, cãi
vả hay đối đầu công khai có thể xảy ra từ việc bộc lộ chúng ra bằng lời nói.
Ở một giai đoạn nào đó khi ta đã
đạt được tri kiến, ta sẽ nhận thức được mức độ mà tư tưởng bất thiện có thể làm
nẩy sinh ra những trạng thái tâm không bình yên, hoang vắng, ngăn cản mọi tình
cảm vui vẻ, phấn khởi trong ta, và sân hận có thể biến thành trạng thái điên
cuồng như thế nào, làm phát sinh những sự nung nóng tình cảm đáng sợ, khiến
người ta giận đến tím tái.
Nếu muốn chuyển đổi, ta phải
nhận ra rằng chỉ tự mình ta tạo ra cuộc sống nội tâm của mình, không ai khác
chịu trách nhiệm cho việc đó. Vì thế, ta cần phải có khả năng nhận diện được
sân hận, oán hờn hay ghẻ lạnh khi chúng phát khởi trong ta, với sự hiểu biết
rằng chúng không đem lại chút hạnh phúc nào cho ta. Khi đó, có lẽ ta cũng nên
‘vun trồng’ điều ngược lại - như đức Phật đã dạy - dầu rằng việc thay thế lòng
sân hận, nhẫn tâm với lòng từ bi thì không dễ.
Điểm mấu chốt của cả quá trình
này là sự nhận thức được rằng những tình cảm tiêu cực này chỉ làm hại chính ta.
Càng có nhiều sân hận, oán thù trong lòng, cuộc sống của ta càng khó khăn, và
ta càng thấy xa cách với mọi người. Tuy nhiên, điều lợi ích lớn nhất của các
trạng thái tình cảm này - nếu chúng ta có thể quán niệm chúng - là nỗi đau khổ
khiến chúng ta thực sự muốn thay đổi điều gì đó. Những người có tánh sân thường
dễ đi theo con đường đạo vì họ không có được sự an bình trong nội tâm.
Điều quan trọng ở giai đoạn này
là phải biết rằng khi ta tự quán sát bản thân thì ta mới có thể có những chuyển
hoá sâu xa. Sự chuyển hoá này không thể thay đổi cả thế giới - ngay cả đức Phật
hay chúa Jesus của Nazareth
cũng không làm thế được. Thế giới ngày nay rất khác thế giới của 2500 hay 2000
năm trước. Dân số đã tăng lên nhiều và đã có biết bao tiến bộ kỹ thuật vượt
bực. Nhưng những khó khăn của cá nhân chúng ta căn bản cũng như xưa, vì lòng
hận thù, chiến tranh và khổ đau vẫn luôn tiếp diễn. Chúng ta khó thể biến thế
giới thành tốt đẹp hơn, nhưng chúng ta có thể khiến cá nhân mình tốt hơn, và đó
là điều tốt đẹp nhất ta có thể đóng góp cho thế giới.
Vì thế không ích lợi gì để khiển
trách người khác hay kết tội họ thiếu trách nhiệm. Khi chúng ta có thể tạo ra
an bình trong nội tâm, là ta đã tạo ra thêm hoà bình trên trái đất này, bởi ít
nhất là cá nhân mình, và cũng có thể ảnh hưởng đến những người quanh ta - một
sự ảnh hưởng hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh và ổn định của một nội tâm thanh
tịnh. Một khi đã biết điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào chúng ta, rằng đó là bổn
phận của ta, và ta đã quyết định không muốn tiếp tục sống như trước đây, chúng
ta sẽ khám phá ra mình tự nhiên thường kiểm soát các cảm xúc trào dâng bằng
cách chánh niệm hơn về các cảm thọ của mình, và bằng cách đó chúng ta thoát
khỏi những dằn thúc, xung đột nội tâm. Ta nhận ra rằng mình cảm thấy bực bội vì
không có được điều mình muốn, và giận dữ khi phải lấy cái ta không thích, và ta
cũng sẽ thấy rằng sự phản kháng lại những sự việc này cũng có thể được chấm
dứt.
Với sự hỗ trợ của chánh niệm và
phương pháp tự quán sát mình do đức Phật đề ra, chúng ta đã ở tư thế sẵn sàng
để bắt đầu vun trồng những tình cảm tích cực, trái ngược lại với các tình cảm
tiêu cực này. Khó thể chuyển đổi sân hận thành thương yêu, nhưng ít nhất chúng
ta cũng có thể thay thế sân hận với bi mẫn. Nếu ai có gây khó khăn cho ta,
trước hết ta có thể nhận ra rằng chính họ cũng phải đối đầu với bao vấn đề như
chúng ta. Ta phải nhớ rằng người này suy cho cùng cũng không khác gì ta, những
sự khác biệt chỉ là ở ngoài mặt. Chỉ cần liên hệ với người khác, ta sẽ nhận ra
rằng tất cả chúng ta đều tương quan nhau trên một bình diện sâu hơn. Người khác
cũng lập tức chia sẻ kinh nghiệm của bản thân họ khi ta tiếp chuyện với họ,
nhìn họ hay đơn giản là ở cùng một nơi với họ. Đồng thời ta cũng không thể biết
những gì họ đã trải qua – thí dụ, những mất mát, đau khổ gì - nên nếu ta xem họ
như những người không đáng cho ta quan tâm, hoặc nghĩ họ không tốt bằng ta, thì
hoàn toàn không thích hợp. Điều này đúng trên nhiều lãnh vực, dầu trong gia
đình, ngoài xã hội, hay trên cả thế giới. Là con người ta phải biết tất cả
những gì tốt, xấu trong nội tâm mình. Sống theo con đường đạo có nghĩa là phải
phát triển, củng cố cái thiện để điều xấu bị đẩy lùi về phía sau. Có lẽ trong
muời người thì chín đã sống theo nguyên tắc là tự bằng lòng với những cái tốt
của mình, và biện minh cho cái xấu bằng cách đổ lỗi cho người khác, nhưng ai
muốn đi theo con đường đạo thì phải chọn lựa một thái độ hoàn toàn khác.
Có rất nhiều phương cách để vun trồng
vô sân. Cách tốt nhất là quán từ bi – metta bhavana, là điều chắc chắn có thể
đóng góp đáng kể vào việc phát triển một thái độ tích cực hơn. Tuy nhiên, chỉ
có thế thì chưa đủ, cuộc sống hằng ngày cho ta biết bao cơ hội để thực hành
bằng cách tỏ ra thân thiện, dễ thương. Sự bình đẳng trong cách đối xử cơ bản
với người, sự liên hệ, tình thương yêu, bằng hữu, chỉ có thể được phát triển
bằng cách bồi dưỡng cho chúng thêm lên trong mọi hoàn cảnh. Thí dụ, ta có thể
phát triển nó đối với người ta mới quen, với những người ta chỉ có liên hệ
chung chung trong các sinh hoạt đời thường. Chúng ta cần phải nhắc nhở bản thân
về mục đích của mình từng giây phút trong ngày, vì tâm rất dễ quên. Ta lại cần
đến chánh niệm - để nhớ thực hành.
Tất cả chúng ta đều có thể chọn
lựa điều mình muốn tìm hiểu, khám phá thêm, nhưng buồn thay, chúng ta ít khi tò
mò về những gì đang xảy ra trong tâm ta. Chỉ có chánh niệm mới giúp ta bắt đầu
nhận ra cách ta đối xử với những người quanh ta trong cuộc sống hằng ngày như
thế nào – có thể là một cách bình thường, hoặc với lòng sân nộ hay với sự thân
thiện. Đó là một sự thực tập không ngừng nghỉ, luôn hiện diện để tạo ra những
ứng xử thân thiện, cởi mở với tha nhân, nhưng cần thiết phải làm thế. Ngay cả
như khi ta không thể chịu đựng nổi ai đó, chúng ta cũng không có lý do chính
đáng để biện minh cho tình cảm của mình. Điều quan trọng là đến một lúc nào đó
ta phải hiểu rõ ràng, thấu suốt rằng nếu ta tiếp tục với quan điểm đó, thì ta
sẽ không thể nào chuyển hoá được gì. Lòng sân hận hiện hữu, nhưng ta không có
lời biện minh cho nó. Đó là một yếu điểm của bản tính con người mà ta bắt buộc
phải chấp nhận, mà ta không thể thiếu, nhưng ta có thể chuyển hoá nó thành ra
sức mạnh của ta, đó là tình thương yêu.
Vô Tham
Phần lớn những người có tánh tham
thì không dễ khuyên họ tu tập như là những người hay sân vì họ thường cảm thấy
hạnh phúc hơn. Tham không khiến cho cuộc sống nội tâm của ta bị xáo trộn như là
với sân. Đó chỉ là một cảm giác khó chịu: thí dụ như khi chúng ta không có được
những gì mà chúng ta muốn - dầu rằng nếu điều đó xảy ra quá thường - tham có
thể trở thành sân hận đối với hoàn cảnh hay người mà đã không đem lại cho chúng
ta sự thoả mãn. Trừ điều đó ra phần lớn những người có tâm tham thường có một
sự dễ dàng hơn vì họ có thể đạt được một mức độ thoả mãn nào đó một cách dễ
dàng vì lúc nào họ cũng hướng đến việc hưởng các lạc thú ngay lập tức. Kết quả
có thể là chánh niệm về sự đau khổ ở một mức độ thấp hơn, và do đó một mức độ
thấp hơn trong việc tham gia vào sự tu tập hơn là những người hay sân. Đồng
thời một người có tánh tham thường cảm thấy sự thực tập của họ được nhiều kết
quả hơn. Vì thế chúng ta có thể kết luận rằng về phương diện này cả hai loại
người tham và sân đều có những thuận lợi và bất thuận lợi riêng.
Để thoát được khỏi tham là một
lý tưởng sâu sắc. Căn bản thì tham là một hình thức của ngã chấp: chúng ta chỉ
chú tâm đến những gì mà chúng ta tham cầu cho bản thân và xếp đặt sao cho cuộc
đời ta được dễ chịu, thoải mái, trong lúc chúng ta bỏ qua, không để ý đến nhu
cầu của người khác, ngay cả khi chúng ta ở trong hoàn cảnh có thể giúp đỡ họ. Ở
một bình diện sâu hơn là sự có mặt của cái mà trong thuật ngữ Phật giáo gọi là
“ước muốn được hiện hữu”, là nguyên nhân sẽ tiếp tục mang chúng ta trở lại thế
giới này qua sự tái sinh. Sự thôi thúc mãnh liệt nhất trong tất cả mọi thôi
thúc – muốn được sống - là một tướng của tham, che giấu sự sợ hãi cái chết. Sợ
mất sự hiện hữu trong hình tướng hiện tại của chúng ta. Chúng ta có thể có vài
khái niệm về những gì sẽ đến sau đó, nhưng cái thân mà qua đó chúng ta đã tự
đồng hóa mình sẽ hủy hoại. Ứơc muốn được hiện hữu là một động lực sâu xa đứng
phía sau của sân hận cũng như những tham cầu khác.
Dĩ nhiên lòng tham cầu không chỉ
là sự muốn có mặt ở đây. Chúng ta còn muốn một cái gì hơn là cái cơ thể vật lý
này, chúng ta muốn được là ai đó, muốn được công nhận, được thương yêu, và hỗ
trợ bởi những người quen biết, thân thuộc – và chúng ta muốn được đẹp đẽ, thông
minh, thành đạt, giàu sang hay danh tiếng. Nhưng bất cứ gì mà ta muốn có, tựu
trung lại cũng là - muốn được hiện hữu: tất cả cũng đều bắt nguồn từ ước muốn
đó. Do chưa được giác ngộ, tất cả chúng sanh đều có sự thôi thúc này, và nó
càng phát triển mãnh liệt, ta càng kiên quyết thỏa mãn nó.
Chúng ta có thể cố gắng để tạo
cho mình một cảm giác về giá trị tự thân: phải sở hữu những gì đáng giá. Chúng
ta có thể cố gắng đạt được một cảm giác về giá trị của mình, và tạo ra chúng
bằng các công việc hay nghề nghiệp của mình. Dầu có thể chúng ta cũng biết rằng
tất cả những điều đó điều khó thể thực hiện, ta vẫn hành động ngược lại, vì
chúng thực sự khiến ta có cảm giác có mặt, hiện diện, và tạo cho chúng ta cảm
giác về sự hiện hữu của bản thân qua cảm giác tạm bợ rằng chúng ta xứng đáng là
cái gì đó.
Ý muốn được hiện hữu mang nhiều
bức xúc trong đó. Tất cả chúng ta đều biết thật khó để tự ngồi xuống, tĩnh lặng
và không làm gì hết - chỉ có mặt mà không suy nghĩ, không hành động, không đọc
hay viết, không coi truyền hình, nghe radio hay điện thoại – và đó là vì không
có ai ở đó để xác nhận rằng chúng ta là một ai đó. Đó là lý do thực sự của sự
bức xúc, áp lực ta phải làm điều gì đó - bất cứ là gì. Đồng thời chúng ta cũng
luôn tìm ra những lý do hoàn toàn chánh đáng để làm những gì đó: ta sẽ không
bao giờ thấy sự chấm dứt của trách nhiệm và công việc, mỗi ngày lại mang đến
cho ta những công việc mới để làm, vì thế không bao giờ ta có thể hoàn thành
tất cả.
Do đó một cách tự nhiên và đáng
tiếc là ước muốn được hiện hữu cũng ảnh hưởng đến việc hành thiền của ta. Các
tư tưởng phát sinh để xác nhận rằng ta có mặt ở đây. Ngay giây phút mà sự suy
nghĩ dừng lại, thì sự bức xúc, hay ngay cả nỗi sợ hãi, cũng phát khởi - ‘Tôi sẽ
ở đâu nếu tôi không suy tư?’- và rồi ngay lập tức những luồng tư tưởng mới lại
thành hình. Bất cứ ai mới tọa thiền đều biết rằng rất khó để đạt được trạng
thái an tĩnh là nơi khi không có gì xảy ra và cũng không cần phải tự xác nhận
mình, vì tất cả những ước muốn của chúng ta đều được dựa trên những ước muốn
được xác nhận, được bao gồm trong một cái gì đó.
Phương cách để phát triển vô
tham là kiểm soát tư tưởng của chúng ta để xem coi chúng có quá tập trung vào
bản thân không, hay chúng cũng bao gồm người khác, dầu gần hay xa ta. Vô tham
cũng có thể phát triển đến độ ta có thể chấp nhận cái nhìn của người khác, bên
cạnh cái nhìn của ‘tôi’.
Vô tham phát sinh cùng lúc với
tâm rộng lượng, và niềm vui được chia sẻ. Thực ra tâm rộng lượng có thể được
huân tập, và một khi ta đã thực tập được nó, ta luôn vui mừng hạnh phúc được có
cơ hội để chia sẻ mà không có ý nghĩ muốn được nhận trả lại điều gì. Một khi sự
chia sẻ đã trở thành một bản năng tự nhiên thứ hai, thì những rào cản giữa
‘tôi’ và ‘anh/chị’ sẽ biến mất, hay ít nhất cũng giảm bớt. Vì suy cho cùng, nếu
ta có thể mang lại hạnh phúc cho ai đó, là chúng ta đã mang niềm vui đến cho
thế gian, và chính bản thân chúng ta cũng đầy an vui như thế. Có một cách suy
nghĩ rất phổ biến nhưng hoàn toàn sai lầm là chúng ta chỉ có niềm vui từ những
gì mang đến cho ta niềm vui. Thế giới sẽ khá buồn thảm nếu sự thật là như thế.
Câu hỏi chúng ta cần đặt ra cho bản thân là: ‘Thật sự điều gì mang lại niềm vui
cho tôi và tôi có thể san sẻ bao nhiêu niềm vui đó cho người khác?’ Niềm hoan
hỷ thực sự đó là cách ta nhân rộng thêm niềm vui trên thế giới này.
Dầu cho đó là người hàng xóm hay
một người ở thật xa xôi, nếu họ có được hạnh phúc, niềm vui thì ta cũng sẽ được
những ảnh hưởng tích cực. Vì ta thở cùng một bầu không khí, tất cả chúng ta đều
tham gia vào lương tâm toàn cầu, trong đó, niềm vui, niềm hạnh phúc, tánh tham,
không tham, sân hận và thương yêu đều có những dấu ấn riêng của chúng. Vì thế
ta càng có khả năng khơi nguồn được những tình cảm tích cực nơi bản thân và san
sẻ điều đó, thì thế giới càng trở nên tốt đẹp hơn.
Định
Lãnh vực thứ tư của những điều
dạy căn bản là khinh an, thiền định. Tâm định (samma Samadhi, trong tiếng Pali) là kết quả viên mãn của
công phu hành thiền rốt ráo, đòi hỏi sự nhất tâm, trú tâm vào chỉ một đối
tượng. Tâm bình thường trong cuộc sống hằng ngày của ta luôn nhảy từ ý này sang
ý nọ, và tiếc thay, nó cũng không khác khi ta bắt đầu hành thiền, vì đã quen
suy nghĩ, tính toán như thế qua bao nhiêu năm tháng, tâm ta không thể ngay lập
tức tách khỏi thói quen đó. Nhưng nếu ta thường xuyên tạo ra các cơ hội để nó
có thể lắng đọng xuống, tâm sẽ dần dần được tĩnh lặng. Tìm cho ra được điểm dừng
của tâm, và trú tâm vào đó là một chứng nghiệm tuyệt vời. Ai đã từng kinh qua
đều biết nó an lạc đến thế nào. Đối với người chưa từng hành thiền, điều này
nghe có vẻ quá khó, nhưng tất cả mọi người đều có khả năng đó. Giáo lý của đức
Phật không phải dành cho các vị thầy tâm linh thông thái mà là cho những người
bình thường, cho chúng ta. Chúng ta cũng có thể học hành thiền.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải
thực hành mỗi ngày để đạt được kết quả. Thân ta chỉ dễ uốn nắn, mềm dẻo với sự
luyện tập thường xuyên, và tâm ta cũng như thế. Nói chung, chúng ta thường hiểu
việc rèn luyện tâm như là một sự tập trung cao độ. Như thế rất dễ mệt, bất cứ
ai đã từng làm những công việc đòi hỏi sự suy nghĩ nhiều đều đồng ý như thế.
Nhưng suy tư là một tâm hành khó thể đưa ta đến mức độ sâu xa nhất của tâm;
chúng ta không thể chứng nghiệm được bản thể của sự vật chỉ bằng nghĩ suy. Điều
đó chỉ có thể đạt được qua công phu hành thiền – nói là ‘qua cánh cửa của
thiền’ vì sự chứng nghiệm trong thiền không phải là mục đích của việc tu hành
theo Phật giáo, mà chỉ là một bước quan trọng trên con đường đạo, vì chúng ta
không thể nghĩ về sự Tuyệt Đối – ta chỉ có thể chứng nghiệm nó. Dầu ta có đạt
được sự chứng nghiệm hay chỉ tìm được sự an tĩnh sâu lắng, trong lúc hành
thiền, ta vẫn có thể hiểu rằng niềm hạnh phúc mà ta từng kiếm tìm trong cuộc
sống, thực ra nằm ở ngay trong ta. Từ những kinh nghiệm tự thân, ta biết rằng
ta không thể tìm được hạnh phúc qua người khác, vì họ cũng đang đi tìm hạnh
phúc cho chính họ. Chỉ có qua con đường hành thiền, chúng ta mới có thể tiến
đến sự chứng nghiệm được hạnh phúc, tự tại, niềm vui và sự tuyệt đối nơi chính
bản thân, nơi nội tâm ta.
Tâm định tĩnh bắt đầu bằng cách
hướng đến một đối tượng thiền quán, và hơi thở là đối tượng đặc biệt thích hợp
cho mục đích này, vì nó hoàn toàn trung tính: mọi người đều cần đến nó để sinh
tồn, và nó có những chuyển động không dừng nghỉ để tâm có thể trụ vào. Chúng ta
cũng có thể thêm vào đó một tên gọi – thí dụ, ‘an bình’ - để tâm có việc gì đó
mà làm. Vì vậy, ta tự nhủ thầm ‘an bình’ khi thở vào, và ‘an bình’ khi thở ra.
Sau những công phu thực hành liên tục, tâm có thể trụ nơi hơi thở, có thể không
phải là hằng giờ không dừng nghỉ, nhưng đủ lâu để buông bỏ quá trình tư duy, và
bước vào những trạng thái sâu lắng hơn. Rồi ta sẽ bước qua ngưỡng cửa để đặt
chân vào những ngõ ngách sâu lắng của tâm.
Điều quan trọng cần nhớ lúc bắt
đầu của mỗi buổi hành thiền là ý thức về lãnh vực thứ tư của chánh niệm - đối
tượng của các suy nghĩ của ta - để đặt tên chúng một cách có ý thức, phù hợp.
Lúc đó ta sẽ nhận thức được rằng phần lớn những suy nghĩ của ta xoay quanh
những chuyện của quá khứ hay tương lai, và ta có khuynh hướng không sống trong
phút giây hiện tại, ngay bây giờ, mà luôn suy tư về những gì đã qua hay mơ mộng
đến những gì có thể xảy ra. Ta trở nên ý thức rằng những suy nghĩ như thế không
phải là cuộc sống thực tế, chúng chỉ là sự bám víu vào quá khứ hay mong đợi ở
tương lai. Ta ý thức được rằng hoàn toàn không thể tiên đoán tương lai hay thay
đổi quá khứ, do đó tốt nhất là hãy sống trong giây phút hiện tại. Chúng ta chỉ
có thể sống ngay giây phút này đây.
Khi thiền quán, ta chỉ có thể ý
thức được hơi thở hiện tại; không thể trụ vào hơi thở trước đó hay hơi thở tiếp
theo. Khi bắt đầu hướng tâm chánh niệm vào hiện tại bằng cách đó, ta sẽ ý thức
được ý nghĩa thực sự của chánh niệm. Bất cứ điều gì sẽ xảy ra trong tương lai
hay đã xảy ra trong quá khứ, không có ý nghĩa gì. Nếu chúng ta nhận thức đủ sâu
xa rằng ta thực sự chỉ sống ngay trong giây phút này, ta sẽ cố gắng để tĩnh thức
trong từng phút giây của cuộc sống. Khi hành thiền, có nghĩa là ta theo dõi
từng hơi thở, nhưng ta cũng phải ý thức đến các vọng tưởng để đặt tên cho
chúng.
Như thế là ta đã thực hành hai
trong bốn lãnh vực của chánh niệm (tứ niệm xứ): chánh niệm về thân (quá trình
theo dõi hơi thở) và chánh niệm về đối tượng của những suy nghĩ của ta (đặt tên
các vọng tưởng). Điều này sẽ giúp chúng ta có thể duy trì sự thực tập chánh
niệm suốt trong ngày, vì sự rèn luyện chánh niệm thường xuyên sẽ đưa ta đến tâm
tự tại, định tĩnh, giúp ta có thể nhìn thế giới này trong một ánh sáng hoàn
toàn khác. ‘Cái tôi’ không còn được coi là một cá thể riêng biệt hay trung tâm
của vũ trụ; thay vào đó, một thế giới hoàn toàn mới lạ với những không gian, vẻ
đẹp chưa từng thấy sẽ mở ra trước mắt ta.
Trên hết, ta sẽ có thể nhận ra
được chân lý tuyệt đối, hoàn toàn trái ngược với chân lý tương đối – thí dụ như
là niềm tin rằng mỗi cá nhân ngồi trên chiếu thiền với những suy nghĩ của chỉ
riêng mình.
Sự tự tại hay chánh định, thì
cũng giống như vô tham và vô sân, là kết quả của tâm chánh niệm. Chúng ta càng
phát triển tâm chánh niệm, thì tâm phản quang của ta càng sâu lắng, việc duy
trì đời sống tâm linh của ta càng trở nên dễ dàng hơn. Ta không nên nghĩ rằng
mình phải đạt được tất cả ngay lập tức, chỉ vì chúng ta đã có ý hướng tu tập.
Cũng như mọi thứ trong cuộc đời, ta phải tiếp tục mỗi ngày, từng bước từng
bước, dần dần tiến lên. Sau này, khi nhìn lại, ta sẽ thấy cả hai, ngoại hình
lẫn nội tâm của ta đều thay đổi. Ngoại hình thì ta đã già hơn, trong khi nội
tâm ta có biết bao chuyển hoá, bao tái tạo. Ngôn từ ta sử dụng có thể không
thay đổi nhưng một kinh nghiệm mới mẻ về cuộc đời đã phát sinh. Đến lúc này ta
phải thấy rõ rằng bốn điều dạy cơ bản về vô tham, vô sân, chánh niệm và chánh
định, lúc nào cũng quan trọng, đối với bất cứ tôn giáo nào, và cho bất cứ con
đường tâm linh nào.