VỊ TRÍ ĐẠO PHẬT TRONG VĂN HÓA [^]
Hãy để đức Phật ngồi
dưới cây Bồ Đề, đừng tôn Ngài lên một vương vị, lên ngôi chúa tể vũ trụ.
Đừng dán sau lưng Ngài những nhãn hiệu mà chính Ngài không thừa nhận.
Ngài là giáo chủ của một tôn giáo vì ta đã tôn thờ Ngài qua lòng sùng
kính của một kẻ tín đồ, không phải bản ý của Ngài là muốn làm giáo chủ.
Ngài là một nhà văn hóa bởi vì ta đã nhìn Ngài bằng cặp mắt của một nhà
văn hóa. Ngài là một nhà triết học bởi vì ta đã tìm hiểu Ngài qua kiến
thức triết học của ta. Thực ra, ta chỉ có thể nói rằng Ngài là người đã
đáp ứng được những nhu cầu sinh hoạt của một xã hội - đáp ứng một cách
toàn vẹn, nhờ kiến thức giác ngộ, nhờ đức độ vô biên, nhờ ý chí bất
khuất của Ngài. Ngài đã tìm ra nguyên lý của cuộc đời, của sự sống.
Phật tử, qua hai mươi
lăm thế kỷ, đã xây dựng những nhân sinh quan khác biệt trên những nguyên
lý sáng tỏ ấy và đã làm cho dòng sinh lực của chính pháp chảy tràn về
hiện tại. Xã hội luôn luôn đổi thay; những hình thức sinh hoạt của con
người, nhất là con người Phật tử, cũng được đổi thay để một mặt đáp ứng
với nhu cầu xã hội, một mặt thể hiện được những nguyên lý sáng tỏ kia.
Có quan niệm vấn để bảo tồn đạo pháp như thế thì mới không chấp chặt bảo
thủ những hình thức sinh hoạt cổ điển không còn sinh khí đạo pháp -
những cái xác không hồn của các thế hệ cũ để lại.
Và cũng nhờ quan niệm
vấn đề bảo tồn đạo pháp như thế mà ta có thể vượt được thái độ ấu trĩ
của kẻ mang nặng thiên kiến và thái độ bưng bít chấp thủ. Nếu đức Phật
được nhận định như là khởi nguyên của một giòng sinh khí thơm lành và
sáng mạnh thì đạo Phật phải được coi như một thực thể sinh hoạt mà không
nên coi đó là một kho tàng hương hỏa của những người Phật tử. Ta thường
thấy có những Phật tử chỉ khăng khăng cho đạo Phật là hay, đức Phật là
cao, và tất cả những cái khác ngoài đạo Phật là dở, là thấp. Như vậy họ
không hiểu "đạo Phật" là gì, đức Phật là gì. Có lẽ họ nghĩ rằng đạo Phật
là đạo của họ, gồm có tam tạng kinh điển, gồm có Giáo hội Tăng già, gồm
có đức Phật mà họ đang thờ lạy. Không, thưa các ngài, những gì mà tôi
vừa kể chỉ là những hình thức sinh hoạt của đạo Phật, chưa phải là thực
thể Phật giáo. Thực thể Phật giáo là cái gì thể hiện và lưu nhuận một
cách linh hoạt trong những hình thức đó, và cũng có thể thể hiện và lưu
nhuận trong những hình thức khác nữa.
Tôi lấy ví dụ : trong
kinh Phật có công nhận một vài tư tưởng của Áo nghĩa thư (Upanishads)
nghĩa là của những điển tịch có trước đức Phật, vậy thì những tư tưởng
ấy của Áo nghĩa thư không có "Phật tính" hay sao ? Hoặc giả đạo Phật đã
dùng luận lý học Nhân Minh của Aksapada sau khi đã sửa chữa lại đôi
chút, vậy Nhân Minh không có "Phật tính" sao ? Lại nữa, Nho giáo có dạy
về hiếu thuận, đạo Phật cũng dạy về hiếu thuận, vậy thì Nho giáo, kể
riêng về điểm hiếu thuận ấy, không có một chút "Phật tính" nào sao ? Cứ
như thế mà suy luận ta sẽ thấy rằng trong các học thuyết tông giáo, học
thuyết và tông giáo nào cũng có một phần "Phật tính", hoặc nhiều hoặc
ít. Một vị tăng già không thực hành đạo pháp, một tín đồ không hiểu Phật
là gì, một quyển kinh chép sai, tất cả những thứ ấy làm gì có "Phật
tính" ? Cho nên đạo Phật là tất cả mọi hình thức sinh hoạt nào có thể
làm sống được nguyên lý Phật học.
Tôi xin đàm luận thêm về
điểm này để cho vấn đề được sáng tỏ. Ví dụ tôi lấy con mắt của người
Phật tử để nhìn các tông giáo khác. Tôi thấy có một ít điểm đồng và
nhiều điểm dị. Những điểm đồng ấy cho tôi biết có sự hiện diện của "Phật
chất" trong tông giáo kia, những tông giáo không mang tên Phật giáo.
Vậy là tôi đã nhìn các tông giáo ấy với một con mắt có nhiều thiện cảm.
Tôi xin gạt qua trường hợp một tông giáo này có ý muốn không cho tông
giáo khác phát triển thêm. Điều đó buồn quá và tôi nghĩ đó có thể là
điều khổ tâm nhất của các nhà văn hóa tha thiết với nền văn hóa tổng hợp
của nhân loại.
Tôi chỉ đem một ví dụ.
Nếu Phật tử không am hiểu đạo Phật làm những bản "nhạc Phật" có một nội
dung tinh thần Thiên chúa giáo, xây dựng "chùa chiền" theo kiến trúc
truyền thống Thiên chúa giáo, dùng danh từ mang nội dung ý nghĩa Thiên
chúa giáo thì người ấy hẳn nhiên là người đang hoằng dương giáo lý Thiên
chúa giáo trong Phật giáo rồi còn gì. Người đó ít nhiều mang tính cách
một tín hữu Thiên chúa giáo. Trái lại, nếu một tín hữu Thiên chúa giáo
dùng các danh từ có nội dung Phật giáo như Từ bi, sám hối, viết các bài
thánh ca với nội dung thấm nhuần tinh thần giải thoát từ bi của Phật
giáo, truyền bá một quan niệm vô thể về Thượng đế giống như quan niệm về
pháp thân hay chân như của Phật giáo chẳng hạn, thì chính người
ấy đã hoằng dương Phật pháp rồi. Tôi xin nhắc lại rằng đạo Phật là
tất cả mọi hình thức sinh hoạt nào có thể làm sống được nguyên lý Phật
học. Nhắc lại như vậy để chúng ta cùng thấy rằng cần phải có một
nhận thức phóng khoáng cởi mở, không nô lệ hình thức, danh từ, thành
kiến. Hãy gọi là đạo Phật tất cả những hình thức sinh hoạt nào nhắm đến
mục đích ly khổ đắc lạc, chuyển mê khải ngộ, đoạn hoặc chứng chân
(rời khổ đạt vui, chuyển sai lầm thành giác ngộ, phá mê loạn để tìm gặp
chân lý). Danh từ và hình thức chỉ là phương tiện, đừng để chúng trở
thành chướng ngại vật. Con người đã đau khổ vì bao nhiêu vỏ cứng : vỏ
cứng của bản ngã, của gia đình, của chủng tộc, của tôn giáo, của đảng
phái… Hãy thực hiện giải thoát bản ngã bằng nhận thức Phật học, bằng
hành trì Phật học. Chỉ có nhận thức quảng đại đo, chỉ có hành trì những
nhận thức quảng đại đó mới làm sáng tỏ được đạo Phật, mới làm sống
được đạo Phật lại trong những ngục tù cố chấp, mới đặt đạo Phật đúng
vào địa vị của nó trong sinh hoạt con người.
Nhân loại hiện giờ đang
khổ đau vì cố chấp, vì riêng rẽ, vì tị hiềm, vì chủng tộc, vì đảng phái,
vì địa phương, vì nhân ngã. Văn hóa nhân loại phải đi về tinh thần tổng
hợp để phụng sự nhân loại. Đạo Phật với tâm niệm từ bi, với thái độ cởi
mở, với ý nguyện độ sinh có thể có đủ phong độ và điều kiện để đứng ra
cùng với những tư trào trọng đại nhất của kho tàng tri thức nhân loại
hiện đại, chủ xướng và lãnh đạo cho cuộc tổng hợp vĩ đại đó của văn hóa
nhân loại. Trên niềm thao thức thực hiện ý nguyện ấy, chắc chắn bạn sẽ
có những khám phá bất ngờ và kỳ diệu khi trở về nghiên cứu thực tại Phật
giáo qua hai ngàn năm trăm năm lịch sử.