KHẢO SÁT THỰC TẠI (I) [^]
Không phiêu lưu trong
những thế giới luận thuyết siêu hình đạo Phật trở về thực tại, khảo sát
thực tại và giải quyết vấn đề đau khổ của thực tại.
Vậy đạo Phật chú trọng
hướng dẫn con người đi đến một nhận thức chân xác về thực tại để làm nền
tảng cho những phương pháp thực hành nhắm mục đích giải thoát tình
trạng khổ đau của con người trong thực tại và trước thực tại.
Con người khổ đau vì con
người không có nhận thức chân xác về thực tại và trước thực tại. "Nguồn
gốc của mọi đau khổ là vô minh", đức Phật đã lặp lại nhiều lần câu nói
quan trọng đó. "Cái khổ của con lừa con lạc đà chở nặng, cái khổ của kẻ
bị trôi lăn trong lục đạo chưa gọi là khổ. Ngu si không nhận thức được
thực tại, không biết được hướng đi mới thật là đau khổ". (Sa di luật
giải).
Tất cả những nghiệp nhân
xấu ác và vụng của con người đều bắt nguồn từ vô minh, từ chỗ không
nhận thức được chân tướng hiện hữu thực tại. Nhận thức sai lạc ấy được
mệnh danh là biến kế chấp, và đối tượng nhận thức sai lạc ấy được
mệnh danh là biến kế sở chấp.
Màn vô minh, dục vọng và
tư kiến đã khiến cho trí tuệ con người yếu kém, vô năng, và vì vậy mang
nặng biến kế chấp tính. Biến có nghĩa là cùng khắp tất cả; kế chấp
nghĩa là nhận thức và suy tưởng sai lầm, rồi bảo thủ những nhận thức và
suy tưởng sai lầm ấy. Cố nhiên khi phần nhận thức khách quan đã "sai
lầm cùng khắp" như thế thì phần đối tượng nhận thức khách quan cũng
không thể hiển lộ chân tướng được. Và vì vậy ta không nắm được thực tại,
ta chỉ tạo trong nhận thức ta những hình bóng sai lạc méo mó về thực
tại, và do đó ta hành động sai lạc để gặt lấy những nghiệp quả khổ đau.
Ví dụ tôi đi ngoài đường
trong đêm tối, trong tâm trạng ngại ngùng lo âu. Tôi thấy một sợi dây
thừng giữa đường. Trong tâm trạng ngại ngùng lo âu đó, tôi mất bình
tĩnh, hoảng hốt cho đó là con rắn. Tôi hét lên, bỏ chạy, đâm đầu vào bụi
tre, rách da, sưng trán. Vậy là thực tại "sợi dây thừng" đã bị nhận
thức biến kế chấp của tôi biến thành con rắn, không hiển lộ được
chân tướng của nó.
Kịp đến khi nghe tiếng
tôi là cầu cứu, mọi người đem gậy và đuốc đèn ra, thì chẳng thấy rắn
đâu, chỉ thấy sợi dây thừng. Bây giờ tôi mới đủ sáng suốt để nhận thấy
sự thực dây thừng; trong trường hợp này, nhận thức của tôi hết… vô minh,
hết biến kế chấp, và thực tại dây thừng được hiển lộ trong nhận thức
sáng suốt ấy. Những con người phàm phu (có nghĩa là chưa đạt đến tri
thức giá ngộ của thánh nhân) đều mang nặng ở nhận thức mình những lớp vô
minh, dục vọng và tư kiến dày đặc khiến cho nhận thức ấy trở thành biến
kế chấp và cũng do đó không thể nắm được thực tại mà chỉ biến thực tại
thành những ảo tượng biến kế sở chấp, những con rắn trong tưởng tượng.
Con người phải rũ bỏ vô minh, dục vọng và kiến chấp bằng học hỏi, bằng
tham thiền, bằng suy tư, bằng thăng hóa để trừ diệt dần dần biến kế
chấp tính của nhận thức, để dần dần nắm được chân tướng của thực
tại.
Đức Phật đã nhấn mạnh
đến điểm này và đã khai thị cho mọi người những tính cách chân xác hiện
thực của thực tại để giúp người cởi bỏ biến kế chấp tính.
Ngài trình bày cặn kẽ
tính cách y tha khởi của mọi thực tại.
Y có nghĩa là căn cứ
vào, lệ thuộc vào, nương tựa vào. Tha có nghĩa là tất cả hiện tượng
khác. Khởi có nghĩa là phát sinh và hiện hữu. Mọi hiện tượng đều phát
sinh và hiện hữu tùy thuộc và căn cứ vào tất cả những hiện tượng khác,
và như vậy là đều có y tha khởi tính.
Điều này tuy giản dị
nhưng thật quan trọng.
Nhận thức thực tại trong
tính cách y tha khởi của nó, ta sẽ gạt ra được không biết bao nhiêu là
cố chấp sai lạc của trí thức ta. Trước hết, là những cố chấp về tính
cách đồng nhất và bất biến của các hiện tượng.
Vạn vật tùy thuộc nhau
mà sinh khởi và tồn tại, luôn luôn chuyển biến và có tính cách vô
thường. Nhưng trong nhận thức ta chỉ có những khái niệm về những sự vật
đồng nhất bất biến; mỗi khái niệm như thế được mệnh danh bằng một từ ngữ
nhất định. Ví dụ từ ngữ "xe đạp của tôi". Từ ngữ này dùng để gọi một
hiện tượng phát sinh trong một thời gian nào đó, tồn tại trong một
khoảng thời gian nào đó. Trước hết tôi nhận thấy từ ngữ "xe đạp của tôi"
gợi cho tôi khái niệm về chiếc xe đạp của tôi, cả từ ngữ, cả khái niệm
đều như có những khuôn khổ nhất định. Nhưng chính thực tại - chiếc xe
đạp - thì không thế. Nó luôn luôn chuyển biến cho đến nỗi sau ba năm
thay sườn, thay lốp, thay sên, cũ kỹ, không giống gì với chiếc xe đạp
tôi mua mấy năm về trước, mà nó vẫn mang tên "xe đạp của tôi" như
thường. Đó là chưa kể đến sự cắt xén của trí thức. Tôi chỉ nhận biết sự
hiện hữu của chiếc xe đạp khi nó thành hình, mà không nhận biết được nó
trong những nhân duyên y tha của nó. Tôi đã cắt xén, trong thời gian và
không gian, một mảnh thực tại và đặt tên cho nó, đóng khuôn nó lại trong
một khái niệm, trong một cái tên, trong khi chính nó, nó không hề chịu
đựng được sự khuôn khổ và luôn chuyển biến trong thời gian và không
gian. Trong từng sát na, sự chuyển biến được thực hiện : luôn luôn có
một cái gì đang bớt đi và có một cái gì đang thêm vào. Và như vậy, không
có những hiện tượng bất biến, chỉ có một thực tại bao la gồm có nhiều
giòng hiện tượng hỗ tương tác động sinh khởi, bù đắp và thay thế nhau.
Tri thức tôi hay cắt xén thực tại ra từng mảnh và nhận thức từng mảnh
bằng từng khái niệm, hay suy tưởng bằng cách sắp xếp so sánh các mảnh
khái niệm ấy. Cho nên mọi sai lạc siêu hình đều bắt nguồn từ chỗ cắt
xén thực tại ra từng mảnh và đặt cho mỗi mảnh một cái tên cứng nhắc,
trong khi chính thực tại thì linh động vô cùng và không thể bị cắt
xén mà không biến hình. Chắp nối những mảnh cứng nhắc đó, và dựng nó
thành hệ thống, tôi đã đánh mất bản lai diện mục (bộ mặt thực từ xưa
đến nay) của thực tại, và đã tạo ra một bộ mặt kỳ lạ buồn cười cho thực
tại. Mà như thế tôi đã không nắm được thực tại. Cái mà tôi cho là thực
tại không giống gì với bản thân của thực tại cả.
Các hiện tượng trong
thực tại thì linh động, chuyển biến và vì vậy, vô thường. Các
hiện tượng ấy không phải bao giờ cũng như bao giờ, luôn luôn hỗ tương
tác động bù đắp nhau, phút trước khác phút sau, và vì vậy, vô nga�.
Ngã là tính cách đồng nhất của sự vật. Nhưng thực tại chứng minh rằng
không có sự vật nào mà có tính cách đồng nhất cả : tất cả đều chuyển
biến. Vì vậy khi công nhận tính cách vô thường, ta phải công nhận luôn
tính cách vô ngã. Vô thường và vô ngã chỉ là một : đứng trên thời gian
thì gọi vô thường, đứng trên không gian thì gọi vô ngã. Các hiện tượng
vật lý sinh lý (sắc pháp) đều vô thường, vô ngã. Các hiện tượng tâm lý
(tâm pháp) cũng đều vô thường, vô ngã.
Mọi nhận thức không phù
hợp lý vô thường vô ngã đều sai lạc, đều xa lìa thực tại. Tất cả những
hệ thống đạo đức luân lý, tất cả mọi phương pháp thực hành, cải tạo,
thăng hóa và tu chứng đều phải y cứ trên nhận thức vô thường vô ngã. Nếu
không, tất cả đều đưa đến thất bại bởi vì đã chống đối thực tại.
Trình bày tính cách y
tha khởi của mọi thực tại, đức Phật có chủ ý đánh tan nhận thức sai lạc
cố chấp của con người, trao quyền cho con người một phương pháp nhận
thức thực tại cao hơn phương pháp khái niệm suy tư mang nặng tính cách
lầm lạc chỉ biết cắt xén thực tại và sắp xếp những bóng dáng đã đổi hình
của thực tại. Giáo lý Pháp tướng Duy Thức trình bày những sai
lạc cố hữu của nhận thức và giúp ta khảo sát thực tại trên quan điểm
hiện tượng luận (point de vue phénoménologique) nhắm mục đích đả phá lối
nhận thức cố chấp thường, ngã. Giáo lý Pháp Tánh Không Tuệ nhắm
mục đích làm cho vô lý đi (reductio ad absurdum) tất cả những khái niệm
của ta về sự vật để giúp ta đạt đến một nhận thức cao hơn. Giáo lý Như
Lai tạng duyên khởi cũng trình bày luật trùng trùng duyên khởi, để
giúp ta thấy rõ ràng trong một có tất cả, tất cả là một và
như vậy cũng nhắm đến mục đích cản ngăn không cho ta cắt xén một cách
sai lạc và ngây thơ cả dòng thực tại linh hoạt đang diễn biến hiện hữu.
KHẢO SÁT THỰC TẠI (II) [^]
Những hệ thống giáo lý
Bắc phương cũng như những hệ thống giáo lý Nam phương đều nhắm đến sự
khai thị chân lý vô thường, vô ngã, y tha khởi, nhân duyên sinh để giúp
con người lay đổ lề lối nhận thức cũ, đào luyện một khả năng nhận thức
mới, hoặc gọi là nhất thiết trí, hoặc diệu quan sát trí, vô lậu trí, bát
nhã trí, vô phân biệt trí… tùy theo trường hợp, đối tượng và trình độ
tu chứng. Nhưng dù sao, những giáo lý ấy cũng chỉ mới có thể gây trong
ta những biến động cần thiết đủ để lay đổ lề lối nhận thức cũ. Ta phải
tỉnh dậy và theo sự hướng dẫn của giáo lý mà sinh hoạt để đào luyện nhận
thức mới, mới mong trực nhận thực tại trong tự tính y tha khởi của nó.
Không phải chỉ cần học tập kinh điển mà tự khắc có được nhận thức duyên
sinh về sự vật. Chừng nào ta cảm nhận, suy tư và hành động phù hợp hoàn
toàn với thực tại, chừng đó nhận thức duyên sinh mới hoàn toàn thành
tựu. Còn nếu ta chỉ học hỏi và công nhận tính cách y tha khởi của vạn
vật mà nhận thức và hành động ta vẫn sai lạc không phù hợp với y tha
khởi tính của hiện tượng thì ta chưa có thể nói rằng ta đã chứng nghiệm
chân lý y tha khởi. Ta mới "kiến tạo" chứ chưa "chứng đạo". Phải tập rèn
đào luyện nhận thức, nghĩa là phải tu tập diệt mê trừ vọng hằng ngày để
mỗi lúc một tiến gần thực tại, mỗi lúc một nhận thức thực tại rõ ràng
hơn. Nhận thức vấn đề mà không y cứ trên nguyên lý y tha khởi và hành
động phản lại với nguyên lý ấy thì ta sẽ thất bại chua cay trong cuộc
đời và trên lịch trình tu chứng. Ngày nào mà ta nhìn một sự vật, suy
tưởng một vấn đề, thực hiện một hành động, nhất nhất đều phù hợp với
nguyên lý y tha khởi, ngày đó ta mới chứng được nguyên lý y tha khởi của
thực tại.
Nói tóm lại, tất cả mọi
lầm lạc về nhận thức và về hành động của chúng ta đều phát nguyên từ chỗ
không thấy rõ tính cách vô thường, vô ngã, duyên sinh và y tha khởi của
thực tại. Nhân sự giới muốn đẹp đẽ phải mô phỏng tự nhiên giới; mà tự
nhiên giới chỉ hiển lộ khi ta không cắt xén nó, không đóng khung nó
trong khái niệm và danh ngôn.
Tuy nhiên, giáo lý vẫn
được chuyên chở bằng danh ngôn và khái niệm, cho nên giáo lý không thể
thuyết minh được thực tại. Giáo lý dùng danh ngôn và khái niệm để lay đổ
danh ngôn và khái niệm. Ta phải nhận thức được chủ đích của giáo lý mà
đừng chấp chặt ở giáo lý, bởi vì "chân lý thực tại là mặt trăng, giáo lý
là ngón tay chỉ mặt trăng; đừng lầm ngón tay là chính mặt trăng". Vì dù
sao ta cũng nhận thức những nguyên lý vô thường vô ngã bằng khái niệm
và diễn tả chúng bằng danh ngôn. Mà như vậy, ta đã có những khái niệm về
thực tại. Mà đã là khái niệm tức là có cắt xén có nhãn hiệu : như thế
thực tại lại cũng thoát khỏi nhận thức ta. Phải luôn luôn nhớ rằng những
khái niệm vô thường, vô ngã, duyên sinh có nhiệm vụ lay đổ mọi khái
niệm và như thế phải tự lay đổ cả chính chúng nữa. Khái niệm cũng như
danh ngôn, trong trường hợp này, lay đổ nhau, hủy hoại nhau và tiêu diệt
nhau để nhường chỗ cho một nhận thức trực giác đặc biệt, có thể tạm gọi
là vô phân biệt trí hay vô lậu trí chẳng hạn. Đọc một bộ sách của Tam
Luận Tông hay Duy Thức Tông chẳng hạn ta sẽ nhận thấy rõ ràng điều đó.
Và nếu đạt thấu như thế, ta sẽ vượt khái niệm y tha khởi và sẽ mầu nhiệm
xúc tiếp thẳng với bản thân linh động của thực tại, với tính chất viên
thành thực của thực tại. Thực tại là thực tại, "pháp nhĩ như thị",
không có tính cách biến kế sở chấp cũng không phải không có tính cách
biến kế sở chấp, không có tính cách y tha khởi cũng không phải không có
tính cách y tha khởi : tính cách nó là viên thành thực. Và để
nhận thức hoàn hảo để cho thực tại đúng là viên thành thực, ta phải thêm
như sau : thực tại không phải có tính cách viên thành thực cũng không
phải không có tính cách viên thành thực, do đó nó mới hoàn toàn là thành
thực. Đó là chân lý mầu nhiệm mà Kinh Kim Cương muốn diễn tả. Đó cũng
là điểm cao chót vót của nhận thức luận Phật giáo.
Những điểm hết sức thiết
yếu mà chúng tôi đã cố trình bày một cách giản lược như trên, có thể
tìm thấy trong mọi kinh điển căn bản ở Nam tông cũng như ở Bắc tông, ở
Tiểu thừa cũng như ở Đại thừa. Những hệ thống Bát nhã Duy thức, Viên
giác… có vẻ hình như là đặc biệt của riêng Đại thừa giáo nhưng kỳ thực
chỉ là những khai triển của giáo lý Nguyên thỉ. Những hệ thống tư tưởng
ấy không nhắm mục đích nào khác hơn là trao truyền phương pháp đào luyện
nhận thức giác ngộ, mà khởi điểm là thuyết minh vô thường vô ngã để lay
đổ nhận thức cũ, để cuối cùng tiêu diệt luôn khái niệm vô thường vô ngã
mà đi đến nhận thức viên giác vô phân biệt. Tìm học ở những kinh điển
Nam tông, ta sẽ nhận thấy sự hiện diện của những tư tưởng nhân duyên, vô
thường, vô ngã, duy thức, bát nhã và cả viên giác nữa. Thiền học là một
đóa hoa tuyệt vời nở trên nhận thức luận Phật giáo, tổng hợp được tinh
ba của tất cả hệ thống giáo lý khác biệt.
Cho nên, những kinh sách
nào những giáo lý nào không chuyên chở được nhận thức luận duyên sinh
và viên giác của đạo Phật thì có thể xem như là không phải của Phật
giáo, và ít ra không phải của Phật giáo chính thống. Giáo lý mênh mông
và rất thiên sai vạn biệt nhưng đồng nhất vị, chính là ý ấy.
Bước đầu của sự khảo sát
thực tại, như thế, là nhận thức duyên sinh, tức là nhận thức vô thường,
vô ngã. Câu kinh A Hàm sau đây có thể là đại diện căn bản cho tất cả
các kinh điển về phương diện khai thị chân lý ấy :
- "Thử hữu tắc bỉ hữu,
- Thử vô tắc bỉ vô,
- Thử sinh tắc bỉ sinh,
- Thử diệt tắc bỉ diệt"
- (Cái này hiện hữu thì cái kia hiện hữu,
- Cái này không hiện hữu thì cái kia
không hiện hữu,
- Cái này phát sinh thì cái kia phát
sinh,
- Cái này hoại diệt thì cái kia hoại
diệt).
Trên nhận thức duyên
sinh ấy, ta thấy mọi kiến chấp về thường và ngã tan rã, mọi xây dựng tri
thức lay đổ, mọi cố gắng hệ thống hóa trở nên vô nghĩa. Thực tại là
thực tại nguyên vẹn linh động không thể cắt xén, không thể mệnh danh,
không thể dán nhãn hiệu. Những khái niệm sinh, diệt, hữu, vô, khứ, lai,
nội, ngoại đều là những kiến tạo của tri thức chủ quan sai lạc không thể
được gán cho thực tại, và cả những khái niệm vô thường, vô ngã giúp ta
lay đổ nhận thức lầm lạc cũ cũng phải đến phiên bị lay đổ. Và ta thấy :
- "Nhất thiết pháp bất sinh,
- Nhất thiết pháp bất diệt,
- Nhược năng như thị giả,
- Chư Phật thường hiện tiền".
- (Mọi hiện tượng không sinh,
- Mọi hiện tượng không diệt,
- Nếu hiểu được như thế, ta sẽ thấy
- Chư Phật thường hiện hữu trước mắt ta).
(bài kệ của Thiền sư
Việt Nam Điều Ngự Giác Hoàng, sáng tổ của phái Thiền tông Trúc Lâm Việt
Nam đời Trần).
Đến đây, viên thành thực
tính của thực tại đã được hiển lộ, vì khái niệm danh ngôn đã đổ vỡ
nhường chỗ cho nhận thức viên giác. Mà nhận thức được thực tại tức là
thấy được chân tướng của thực tại, thấy được chư Phật, thấy được Niết
Bàn. Niết Bàn chẳng có nghĩa gì khác hơn là chân tướng của thực tại.
Ta vì không đạt đến chân tướng của thực tại, chỉ có thể vọng chấp được bóng
dáng của thực tại nên không thấy được Niết Bàn mà chỉ thấy luân hồi
sinh tử khổ đau. Ba pháp ấn của Phật giáo là Vô Thường, Vô Ngã, Niết
Bàn; khi chưa đánh đổ được nhận thức bằng khái niệm và danh ngôn, ta chỉ
nhìn thấy thực tại qua vọng chấp thường, ngã. Theo sự hướng dẫn của
giáo lý ta đào luyện nhận thức duyên sinh để thấy được tính cách vô
thường vô ngã của thực tại, và sau đó khi đã lay đổ luôn được những khái
niệm cuối cùng về vô thường vô ngã, ta sẽ trực nhận được thực tại trong
tự tính Niết Bàn viên thành thực của nó. Vì vậy tuy Thường Ngã đã đành
là vọng chấp, nhưng Vô Thường, Vô Ngã cũng còn là vọng chấp. Chỉ có Niết
Bàn là viên thành thực. Tuy nhiên, ta phải thấy rõ rằng vọng chấp và
viên giác là hai khái niệm tương thành tương lập, cả hai đều bất tương
ly, cả hai là một, cả hai đều giả lập, hoặc cũng có thể nói rằng cả hai
đều là thực tại. Có sự hiện hữu của Vọng chấp thực tại, tức là có sự
hiện hữu của Viên giác thực tại. Nói khác hơn, nếu thế giới vô thường vô
ngã hiện hữu, thì Niết Bàn cũng hiện hữu. Như thế, sinh tử với Niết Bàn
là một, hoặc "Niết Bàn sinh tử thị không hoa" (cả hai thứ Niết Bàn và
sinh tử đều là những hoa đốm trong hư không). Đó là chân lý mà giáo lý
viên giác chủ ý diễn tả trong các kinh điển của mình,
Câu hỏi : "Có Niết Bàn
không ?" và "Niết Bàn là gì ?" như thế, trở thành không quan trọng, và
đôi khi ngớ ngẩn nữa.
Kinh điển Nam tông cũng
nói đến thực tướng viên giác bất ly thế giới sinh tử :
"Phải có thực thể không
sinh không diệt; bởi vì nếu không có thực thể không sinh không diệt ấy
thì do đâu mà các hiện tượng có sinh có diệt ?" - (Kinh A Hàm).
Như vậy ta nhận thấy dù ở
Bắc tông hay Nam tông, giáo lý Phật giáo đều chú trọng đặc biệt đến vấn
đề khảo sát thực tại, đều trao truyền những phương pháp hướng dẫn diệt
trừ mê vọng, giúp con người thoát bỏ nhận thức nông cạn và sai lạc để
đạt đến nhận thức giác ngộ viên minh. Nhận thức càng chân xác thì hành
động càng chân xác; trên quá trình nhận thức và hành động (quá trình
tri, hành) con người diệt trừ dần dần đau khổ và thất bại, kiến tạo cho
mình một nếp sống phù hợp chân lý, an lạc, hạnh phúc và sáng tỏ.