PHƯƠNG PHÁP THỂ HIỆN (I) [^]
Cứu cánh của đạo Phật là
trừ diệt khổ đau và kiến tạo an lạc, mà nguyên nhân của khổ đau là vô
minh, tức là sự xa cách thực tại, nhận lầm thực tại, cắt xén và biến
hình thực tại. Không nhận thức được thực tại thì cố nhiên sẽ hành động
phản chống lại thực tại, với đường lối vận hành của thực tại. Mà hễ phản
chống lại thực tại là mua chuốc lấy khổ đau.
Khi ta dại dột đưa tay
vào lửa, ta bị bỏng tay : thế là đau khổ vì không biết rằng lửa nóng.
Khi ta hành động trái chống với nguyên lý vô thường, vô ngã và duyên
sinh của thực tại, ta cũng mua chuốc lấy những thất bại khổ đau. Vì thế
để đạt tới một cuộc sống hòa đồng với thực tại, ta phải nhận biết bản
thân của thực tại và như thế, phải đạt đến nhận thức giác ngộ, gọi là Tue�
hay Bát nhã (prajna).
Nhưng nhận thức Bát nhã
không thể trong một sớm một chiều mà thực hiện được. Để đạt đến nhận
thức Bát nhã tròn vẹn ta phải thực hiện từ từ nhận thức ấy. Mà thực hiện
thế nào ? Đó là tất cả vấn đề mà đạo Phật nhắm đến, vì đạo Phật là một
đạo lý hướng dẫn con người trên bước đường thực hiện nhận thức ây.
Không phải do học tập
trong giáo điển mà con người có thể có ngay nhận thức ấy. Phải trải qua
nhiều công phu tu luyện thực tập, con người mới có thể làm sáng tỏ nó
dần dần nơi bản thân mình. Sự học tập trong kinh điển chỉ mới đem ta tới
một vài ý niệm nhận thức. Phải thể hiện những ý niệm ấy bằng áp dụng,
bằng thiền quán, bằng chính niệm cho động tác, tâm ý và ngôn ngữ phản
chiếu được một phần nào những nhận thức kia. Mà khi những thực tập ấy
đem lại kết quả đẹp, thì khả năng nhận thức càng trở nên sắc bén. Đó là
sự hỗ tương ảnh hưởng giữa hai phần tri và hành; và tri chỉ đi tới cứu
cánh khi hành đi tới cứu cánh. Như vậy, một cái tri toàn vẹn có nghĩa là
một cái hành toàn vẹn. Ở đây ta thấy rõ tri hành quả là hợp nhất.
Tri hướng dẫn Hành, và
Hành làm sáng tỏ thêm cho Tri. (Để hiểu thêm về vấn đề nầy, xin đọc cuốn
ĐỂ HIỂU ĐẠO PHẬT của PHƯƠNG BỐI - trang 23 đến 28 - do Phật Học Viện
Trung phần xuất bản, 1959). Vì vậy, những áp dụng và thực tập rất cần
thiết cho người hành giả muốn tự đào luyện cho mình một khả năng nhận
thức sâu rộng.
Nhưng áp dụng gì và thực
tập gì ? Áp dụng và thực tập những ý niệm chân xác hơn về thực tại (xin
nhớ là chân xác hơn) mà ta học từ đức Phật. Ví dụ nguyên lý duyên sinh,
vô thường, vô ngã. Đó là những nguyên lý mà vì không có nhận thức sâu
sắc và thường xuyên ta đã vi phạm trong khi ta hành động, tức là trong
khi chúng ta sống. Những nguyên lý ấy, đôi khi lý trí của ta cũng trực
nhận được, nhưng chúng không ngự trị trong ý thức ta một cách trường cửu
mà chỉ thoáng bay qua. Lý do là vì trong ta những ý dục và sân hận
thường lui tới xâm chiếm. Do đó chúng lấn áp và trùm chiếm nhận thức
không cho sáng tỏ. Như thế, vấn đề đặt ra cho chúng ta là:
- Làm sao nhận thức duyên sinh vô thường
và vô ngã có thể thường xuyên ngự trị trong ta.
- Làm sao cho dục vọng và sân hận
đừng vây chiếm nhận thức ta.
Thực hiện được hai điều
ấy, ta sẽ nắm vững được ta và sẽ hành động đúng với nguyên lý duyên
sinh, vô thường, vô ngã; và sẽ không thêm một nguyên nhân đau khổ nào
nữa. Để thực hiện hai điều ấy, đạo Phật đề nghị :
I.- ĐỊNH TÂM : Mỗi ngày phải có những giờ giấc thực tập, tập
trung tư tưởng về một đối tượng, đình chỉ những loạn tưởng, tiêu diệt
những vọng tưởng để phát triển nhận thức bát nhã. Đây là cả một kỹ thuật
tu luyện. Ta phải học tập và thực hành dưới sự hướng dẫn của một thiền
sư hay một người đã đi trước ta hơi xa. Tập trung tư tưởng về một đối
tượng (như nguyên lý vô thường, vô ngã) để duy trì đối tượng ấy trong ta
một thời gian lâu dài, để nó thâm nhập và huân tập (xông ướp, danh từ
duy thức học Phật giáo) mạnh mẽ vào nhận thức ta. Cũng có nghĩa là để
đối tượng ấy bừng sáng và tỏa chiếu trong nhận thức ta. Ý thức ta, khi
tập trung vào một điểm đối tượng, sẽ trở thành sức mạnh có thể làm bừng
sáng đối tượng ấy - như một thấu kính hội tụ (lentille convergente) có
thể, dưới ánh sáng mặt trời, đốt cháy một bông cỏ. Đình chỉ những loạn
tưởng, là để chúng đừng phát sinh, tác động và ảnh hưởng trên bản thân
và hành động ta một cách tự do và uy quyền như trước. Sức mạnh do ý lực
đem lại, với bối cảnh tiềm thức và vô thức đồng huân, đồng biến, sẽ là
một lưỡi gươm sắc bén chặt đứt dần vọng tưởng đang phát khởi và đã phát
khởi hiện còn gốc rễ (chủng tử) trong vô thức (Alaya, theo danh từ duy
thức học). Điều nầy cần được học hỏi trong giáo lý Duy thức.
II.- TRÌ GIỚI : Nhưng làm thế nào để thực hiện định tâm ? Một
cuộc sống buông thả, không kỷ cương, không khuôn phép là điều kiện cho
vọng tưởng và ý dục lộng hành. Bởi vì định tâm không thể thực hiện được
bằng một vài giờ thiền quán và một vài giờ thiền quán mỗi ngày chưa chắc
đối trị lại được với suốt ngày vọng động buông thả. Cho nên khi đi,
đứng, nằm, ngồi, hoạt động, sinh hoạt, người hành giả cũng phải tập giữ
chính niệm nghĩa là chuyên nhớ đến nguyên lý hành động. Mà muốn dễ giữ
chính niệm, muốn dễ thực hiện định tâm, ta phải khép mình trong một nếp
sống thuận lợi cho sự phát triển thiện niệm và để cho tà niệm khó lộng
hành. Nếp sống ấy là một nếp sống được quy định bởi những giới luật. Ta
thường làm những gì ta nghĩ và ta thường nghĩ những gì ta làm. Điều ấy
giản dị quá, ai cũng nhận thấy. Vì vậy, người hành giả không làm những
gì do ý dục và sân hận ra lệnh, để không nghĩ đến những gì có
dục tính và sân tính. Hành giả lại không nghĩ đến những gì có ý
dục tính và sân tính để không làm những gì do dục ý và sân ý ra
lệnh. Hành giả càng tiến tới thì si tính của nhận thức càng bị tiêu hoại
và nhường chỗ cho tuệ tính của bát nhã. Tham dục sân hận và si độn càng
tiêu hoại thì khả năng giác ngộ càng phát triển. Một ngày kia, hành giả
đi đến sự thực hiện toàn vẹn tuệ tính của nhận thức mình,
Vì sự sống không cho
phép ta có nhiều điều kiện để tự thực hiện một cuộc thoát xác mau chóng
như ý ta muốn - nghĩa là làm thiền sư - ta hãy cố gắng xếp đặt một
chương trình sống hợp lý hơn, có nhiều điều kiện hơn, để thực hiện nhận
thức giác ngộ. Ta có thể học tập, thiền quán và áp dụng đạo Phật trong
bất cứ một cuộc sống vất vả và bận rộn nào. Nhưng thực ra, vất vả và bận
rộn nhiều hay ít cũng tùy ở ta.
PHƯƠNG PHÁP THỂ HIỆN (II) [^]
Chúng ta thường nghĩ
rằng tôn giáo nào cũng dạy bỏ ác làm lành và vì vậy tôn giáo nào cũng
đáng quý trọng. Điều đó thật đúng. Nhưng điều đó không quan hệ mấy. Quan
hệ là ở chỗ bỏ những ác nào, làm những lành nào, những gì là ác, những
gì là lành, và lấy tiêu chuẩn nào để đo lường mà biết thế nào là ác, thế
nào là lành.
Vấn đề tiêu chuẩn thiện
ác là một vấn đề trọng đại của luân lý học. Nhưng luân lý bao giờ cũng
được căn cứ trên một nền tảng nhận thức có hệ thống về vũ trụ, về thực
tại và về con người. Nhận thức ta là một nhận thức duy vật chẳng hạn,
thì luân lý ta là một luân lý duy vật. Nhận thức ta là một nhận thức duy
thần thì luân lý ta sẽ là một luân lý duy thần. Và lẽ tất nhiên hễ nhận
thức căn bản đổi thay thì quan niệm luân lý đổi thay. Luân lý không
phải những bài học hay những khuôn mẫu đúc sẵn để cho mọi người khép
theo. Luân lý phải là phương châm và pháp thức hành động của con người
hợp với hoàn cảnh, tâm lý và hạnh phúc chân thật con người. Lịch sử đã
chứng tỏ bao nhiêu cuộc đổi thay của sinh hoạt xã hội của nhận thức trí
tuệ và của luân lý con người. Luân lý phải chuyển biến để thích ứng với
hoàn cảnh hiện tại của xã hội, của con người. Quan niệm xưa "quân sử
thần tử, thần bất tử bất trung" chẳng hạn, đã được tôn sùng như một chân
lý và cũng đã đóng góp không ít cho nền trị an của những đế quốc nông
nghiệp rộng rãi. Nhưng ngày nay xã hội đã đổi khác, những nhận thức của
con người cũng đổi khác cho nên, các quan niệm luân lý như thế đã trở
thành không hợp thời và lại trái chống với hạnh phúc con người nữa. Cho
nên, là một Phật tử chân chính không có nghĩa là phải bắt chước y hệt
khuôn mẫu hành động của một người Phật tử sống ở một xã hội khác biệt
cách đây hai ba ngàn năm, dù người Phật tử ấy là người Phật tử chân
chính nhất. Điều cốt yếu tìm cho ra những nguyên lý này đã làm căn bản
cho hành động của người Phật tử ấy, và xây dựng sinh hoạt ý chí tình cảm
hoạt động của mình trên những nguyên lý căn bản kia. Theo đúng nguyên
tắc trên, ta thấy luân lý (tức là phương pháp) của ta phải :
1.- Phù hợp với những nguyên
lý căn bản của đạo Phật đã làm nền tảng cho sinh hoạt muôn mầu muôn sắc
của hai-ngàn-năm-trăm-năm giáo sử.
2.- Phù hợp với xã hội ta,
lịch sử ta và những điều kiện tâm lý sinh lý của cá nhân ta.
Điều thứ nhất là khế
lý, điều thứ hai là khế cơ. Hễ cái gì mà khế lý và khế cơ thì
được gọi là Phật Pháp. Như vậy trong khi thực hành Phật Pháp, ta có ý
thức rõ rệt và linh động về những phương pháp và mục đích của công cuộc
thực hiện ấy, chứ ta không bắt chước một cách vô ý thức khuôn khổ hành
động của một kẻ khác mà điều kiện xã hội, lịch sử, điều kiện tâm
lý và sinh lý chẳng giống gì của ta.
Vậy trước hết, ta phải
tìm hiểu những nguyên lý căn bản của đạo Phật và tiếp đó là tìm cách ứng
dụng những nguyên lý ấy trong những điều kiện đặc biệt của chính ta.
Trước hết ta phải tìm
đến những TIÊU CHUẨN THIỆN ÁC để có thể phân biệt được những gì là thiện
phải làm và những gì là ác phải tránh. Ta đừng nên hiểu chữ thiện
theo nghĩa những công việc xã hội từ thiện mà phải hiểu chữ thiện theo
nghĩa nên làm. Ví dụ khi ta cho một người khát uống nước thì đó
là một việc thiện. Nhưng nếu ta cho một bệnh nhân vừa mới giải phẫu ruột
uống nước thì đó là một việc ác, dầu ta không cố tâm giết người đó. Lại
như ta cho một người bệnh uống sâm, có người uống sâm thì mạnh khỏe
thêm lên, có người (như người vừa bị cảm thương hàn) uống sâm thì bệnh
nặng đùng đùng kéo đến. Vậy uống sâm là thiện hay ác, là nên
làm hay không nên làm, điều đó còn tùy ở hoàn cảnh, ở trường
hợp và ở điều kiện. Vậy điều quan yếu không phải là kê khái trên một tờ
giấy những gì thiện mà mọi người phải làm bất cứ ở đâu, lúc nào; trái
lại, là tìm cho ra những tiêu chuẩn để ứng dụng trong mọi trường hợp và
hoàn cảnh khác nhau. Theo đạo Phật, ta có thể có những tiêu chuẩn sau,
những tiêu chuẩn này bổ trợ cho nhau mà không thể tách rời nhau được.
1.- Tiểu
chuẩn khổ vui. Những gì gây khổ đau cho ta và cho người chung
quanh ta trong hiện tại và trong tương lai đều được gọi là ác. Ngược lại
ta gọi là thiện những gì gây cho ta tâm trạng an lạc thanh tịnh tự chủ
và thanh thoát. Ví dụ tôi có bệnh bón. Nếu tôi uống vào buổi sáng
một cốc nước lạnh trong khi bụng còn trống, tôi thấy điều đó giúp cho
tôi trị được bệnh bón, tôi hết nhức đầu cáu kỉnh. Điều đó là một điều
thiện (đối với tôi trong những điều kiện của tôi) nhưng nếu tôi uống
thật nhiều nước trong khi tôi ăn cơm chẳng hạn, nhất là rượu và các thứ
nước ngọt ướp đá lạnh tôi thấy bệnh bón của tôi càng ngày càng khó chịu
thêm lên. Vậy uống đây là một điều ác (đối với tôi, trong những
điều kiện của tôi). Ngàn vạn chuyện hằng ngày điều có thể dùng tiêu
chuẩn khổ vui này để đo lường.
2.- Tiêu
chuẩn mê ngộ. Nhưng tiêu chuẩn khổ vui cần được bổ túc bằng
tiêu chuẩn mê ngộ. Mê là sai lầm, ngộ là hợp lý, mê là trái với nhận
thức vô thường, vô ngã, nhân duyên và niết bàn. Ngộ là đúng với nhận
thức ấy. Trở lại ví dụ bệnh bón. Tôi đang uống rượu và tôi thấy uống
rượu là vui, nghĩa là hạnh phúc. Mà cái gì làm cho ta vui, làm cho ta có
hạnh phúc là nên làm, là thiện, suy xét theo tiêu chuẩn khổ vui.
Đó là trường hợp tiêu chuẩn khổ vui không được bổ túc bằng tiêu chuẩn
mê ngộ. Nếu áp dụng tiêu chuẩn mê ngộ ta sẽ thấy cái vui của giờ phút
uống rượu không bù được cái khổ của bệnh bón kéo dài, của thần kinh suy
nhược, của những tan vỡ trong gia đình do sự cáu kỉnh gây ra bởi say
sưa, bởi bệnh uất bón. Những gì trái ngược với suy lý, với nhận thức
sáng suốt về vô thường, vô ngã, duyên sinh niết bàn đều được xem là ác,
vì vậy tôi không được uống rượu, dù rượu có gây khoái cảm cho tôi trong
vài giờ say túy lúy.
3.- Tiêu
chuẩn lợi hại. Tiêu chuẩn này là một tiêu chuẩn phối hợp hai
tiêu chuẩn trước. Tôi đang nhắm tới sự thực hiện sức khỏe tôi, trí tuệ
tôi, sự an lạc của bản thân tôi, của gia đình tôi, và xa hơn nữa, tôi
đang nhắm tới sự thực hiện diệt mê vọng để được giác ngộ giải thoát. Vậy
những gì đóng góp được vào sự thực hiện những mục tiêu ấy - tức là hạnh
phúc của tôi, của chúng tôi, nói rộng ra là của tất cả chúng ta - đều
được coi là lợi, và ngược lại là hại. Người xưa đã tỏ ý coi thường chữ
lợi "Hà tất viết lợi ?", nhưng chữ lợi đây không có gì đáng bị coi
thường cả. Lợi đây là lợi ích chân chính của bản thân, của xã hội, của
chúng sinh - cái lợi Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, cái lợi Chánh giác, Niết
bàn mà mọi Phật tử đang nhắm đến thực hiện. Ta không ưa chữ lợi vì có lẽ
nội dung của chữ ấy (theo nghĩa phổ thông đang dùng) bao hàm tư lợi, tà
lợi dục vọng. Những gì phản lại sự thực hiện những mục tiêu trên đều
gọi là hại.
Ở đây tôi không muốn đi
sâu vào chi tiết lắm, chỉ xin giải bày những điều đại cương. Sau khi ta
đã có những tiêu chuẩn (như người đi biển sẵn có bản đồ, địa bàn v.v.)
ta cần xét nội dung của một hành động một nghiệp nói theo danh từ
chuyên môn của ta; có thể là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, để
đoán định giá trị của hành động ấy theo những tiêu chuẩn trên.
Trước hết là động cơ tâm
lý của hành động, được xem là bản chất của hành động. Thứ đến là phương
tiện, cách thức biểu hiện động cơ tâm lý ấy. Và cuối cùng là kết quả
xảy tới là hành động ấy. Đó là 3 phương diện: căn bản, phương tiện,
và thành dĩ. Ví dụ nó giết người. Ý niệm giết người là căn bản. Dao
súng, gậy, hay là lời vu cáo chẳng hạn, là phương tiện. Người kia chết
là thành dĩ. Nhưng có khi căn bản nặng, nhưng phương tiện và thành dĩ
nhẹ (muốn giết nhưng tay yếu và chỉ làm cho người kia bị thương nhẹ). Có
khi căn bản nặng, phương tiện nặng, nhưng thành dĩ nhẹ (muốn giết, có
súng nhưng bắn sai) có khi căn bản nhẹ nhưng phương tiện nặng và thành
dĩ nặng (chỉ có ý dọa không muốn giết nhưng lỡ tay bóp cò, người kia
chết). Cứ như thế, ta suy luận đoán định giá trị của một hành động và
tạo nên luân lý cho ta và có thể cho một số người cùng trong những điều
kiện như ta.
4.- Căn cơ
đặc biệt. Sau khi nắm được tiêu chuẩn, ta phải nghiên cứu
căn cơ của ta, của xã hội ta, lịch sử ta, tâm lý, sinh lý ta. Điều này
cũng thật quan trọng. Vì trị bệnh phải biết bệnh chứ không thể ỷ có
thuốc hay mà cho bệnh nhân uống một cách mù quáng. Ta trở lại thí dụ cho
bệnh nhân uống sâm Cao ly : có khi ta làm cho bệnh nhân thêm nặng.
Trong Phật giáo nghe nói
đến tám vạn bốn ngàn Pháp môn tức là có rất nhiều cửa pháp để đi vào
Phật địa. Tiền nhân đã ghi lại kinh nghiệm và phương pháp trong sách vở,
đã truyền lại kinh nghiệm và phương pháp cho hậu thế. Nhưng dòng kinh
nghiệm biến chuyển hoài hoài, vì bản chất của dòng kinh nghiệm là cơ cấu
xã hội, lịch sử, tâm lý, sinh lý luôn luôn biến chuyển. Có những Pháp
môn ta còn dùng được, có những Pháp môn phải sửa đổi lại cho hợp với
những điều mới, có những Pháp môn không dùng được nữa. Ta phải tìm hiểu,
thí nghiệm, áp dụng và tìm lấy những phương pháp của chính ta, phù hợp
cho chính ta. Ví dụ khi tôi nói đến phương pháp điều tức (điều hòa và
chế ngự hơi thở) để giúp người tu nhập chỉ quán, tôi không nói đến một
phương pháp có thể áp dụng cho tất cả mọi người. Vì cơ thể sinh lý, tâm
lý mỗi người mỗi khác, tôi không thể bắt chước làm giống hệt người kia.
Phải tự hiểu tình trạng vốn liếng của chính mình trước. Và vì vậy, bước
đầu của người Phật tử và kiểm điểm vốn liếng tâm lý, sinh lý là hoàn
cảnh của mình để định cho mình những phương pháp khế hợp. Giáo pháp quan
trọng nhất là Bát chánh đạo. Nhưng ở đây, ta chỉ được nghe chánh kiến,
chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh ngữ, v.v… mà không thấy thống kê những
gì là chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh ngữ. Bởi vì Bát
chánh đạo là tiêu chuẩn hành động mà không phải là giáo điều cố định.
Đạo Phật cao siêu và bất diệt một phần là nhờ ở đấy.