HIỆN ĐẠI HÓA [^]
Trong những chương trên,
chúng tôi đã cố trình bày một cách giản lược những nét chính về bản
chất và phương pháp của đạo Phật - như những khám phá cần thiết tối
thiểu của một cá nhân về nền đạo lý ấy cho chính bản thân mình. Trong
chương cuối này chúng tôi muốn nói về sự cần thiết của công việc hiện
đại hóa đạo Phật đứng trên lập trường văn hóa và xã hội.
Thế kỷ của chúng ta là
thế kỷ mà trong đó mọi giá trị tinh thần cổ điển đều bị ngờ vực, đều bị
đem ra khảo sát lại. Tâm trạng của người trí thức thời đại là một tâm
trạng nghi nan, nghi nan tất cả những gì được phơi bày dưới những hình
thái tuyên truyền tân tiến nhất, tài tình nhất, và có vẻ như là hay ho
và hợp thời nhất. Sự nghi nan ấy bao trùm tất cả những giá trị tinh thần
cổ điển tự ngàn xưa được coi là nề nếp bất di bất dịch của đạo làm
người. Nhân loại hôm nay đòi làm một cuộc "phán xét cuối cùng" để
củ soát và định đoạt lại mọi giá trị tinh thần và văn hóa, cận kim cũng
như cổ điển.
Bởi vì những hình thái
sinh hoạt của các tinh thần cũ đã bị nứt rạn. Nứt rạn vì không nắm được
bản chất thiết yếu của văn hóa mà chỉ khăng khăng nắm giữ những hình
thái khô cứng của xã hội cũ, trong khi đó những cơ cấu sinh hoạt của xã
hội ngày nay đã theo luật vô thường mà biến thiên đến tận gốc. Kẹt trong
khuôn khổ hình thức, bản chất văn hóa không được thể hiện và do đó hình
thức phải đi đến khô cứng và nứt rạn. Phật giáo ở các nước Á châu cũng
đang lâm vào tình trạng đó.
Trong khúc quanh quan
trọng này của lịch sử, những dòng sinh hoạt văn hóa nào muốn sống còn
sau cơn bão tố nhân loại cần phải thực hiện một sự thoát xác, để trút bỏ
gông cùm hình thức để tự biến thành trẻ trung hùng mạnh, tạo dựng được
một sức sống mới mà gốc rễ bắt bén được vào tâm hồn và hoài vọng của
những con người đại diện cho xã hội mới. Văn hóa Khổng Mạnh chẳng hạn,
với giáo lý trung quân ái quốc xưa cũ, với những quan niệm luân lý quá
thời, đã thiếu điều kiện để tự thực hiện một cuộc thoát xác vì bản chất
văn hóa đã khô cứng theo với hình thái sinh hoạt. Những dòng văn hóa nào
bắt nguồn từ những khởi điểm nhận thức mê tín, phản khoa học, ngày nay
cũng không còn điều kiện để thực hiện sự thoát xác nữa. Chỉ có những
dòng sinh hoạt văn hóa nào bắt nguồn từ những nhận thức chân xác về thực
tại và còn hàm chứa một nội dung để có thể tiếp tục phụng sự con người
thì mới có những triển vọng thoát xác mà thôi. Nhưng nếu những dòng sinh
hoạt ấy cứ tiếp tục khô héo và nghèo nàn dần đi trong những chiếc vỏ
cứng thiếu sinh khí thì chúng cũng phải chịu chung số phận biến diệt và
sẽ không còn có mặt trong sinh hoạt xã hội ngày mai nữa. Đạo Phật, như
chúng ta đã biết, bắt nguồn từ những nhận thức chân xác và tiến bộ nhất
của nhân loại và bao hàm một nội dung văn hóa vô cùng phong phú và hàm
xúc. Đạo Phật có rất nhiều điều kiện để thực hiện một cuộc thoát xác
trong ngày hôm nay cũng như đã thực hiện được một cách viên mãn những
cuộc thoát xác trong 2500 năm lịch sử đã qua. Nếu không có những cuộc
thoát xác của Đại chúng Bộ, của Long Thọ và của Vô Trước chẳng hạn, Phật
giáo đã không biến thành một sức mạnh tràn lan khắp lục địa Á châu như
ta đã thấy. Mỗi lần xã hội biến thiên với những cơ cấu sinh hoạt của nó,
là mỗi lần đạo Phật phải chuyển mình vươn tới những hình thái sinh hoạt
mới để thực hiện những nguyên lý linh động của mình. Sau mỗi lần lột
xác như thế, đạo Phật biến thành trẻ trung và lấy ngay lại được phong độ
và khí lực của thời nguyên thỉ.
Cho nên những con người
tự nhận có trách nhiệm về sự sinh tồn của đạo Phật, phải ý thức được vấn
đề một cách nghiêm trọng. Đừng vô tình hay hữu ý vu cáo cho đạo Phật,
biến đạo Phật thành một phương tiện. Đừng dán sau lưng đức Phật những
nhãn hiệu để thỏa mãn nhu cầu, thị hiếu và thị dục của mình. Đừng đóng
khung lại ngàn đời những nguyên lý linh động không bao giờ chịu đựng
được khuôn kho�. Phải hiểu thế nào là bất biến và tùy duyên. Đừng tự
giam mình trong thế giới chủ quan, đừng bưng bít nhận thức. Phải hiểu
thế nào là cuộc đời hôm nay, con người hôm nay, với những nhu cầu trí
tuệ, tình cảm, xã hội của nó. Phải cảm thông những nỗi niềm đau khổ thắc
mắc của nó, phải hiểu thấu hoàn cảnh và điều kiện sinh hoạt của nó để
mà phụng sự nó. Vì đạo Phật ra đời là để phụng sự con người. Rời con
người, đạo Phật mất sứ mạng.
Sống trong xã hội, cảm
thông những khổ đau của xã hội, ta mới thấy sáng tỏ nơi trí tuệ ta những
nguyên lý và phương pháp mà đức Phật dạy. Phải sống ta mới hiểu.
Giáo lý và cuộc đời cũng ví như hai tảng đá, chạm nhau thì phát sinh ra
lửa : ngọn lửa thiêng đó chính là con đường, là nguyên lý linh động.
Đem giáo lý sống trong cuộc đời ta mới trực nhận được những nguyên lý
linh động ấy. Giáo lý đặt xa cuộc đời thì chỉ là giáo lý mà không phải
là sự thực hiện đạo Phật. Mà đạo Phật không phải chỉ là giáo lý : đạo
Phật là sự thực hiện giáo lý, là kết quả của sự thực hiện giáo lý trong
bản thân cuộc đời.
Có những giai đoạn mà
trong đó đạo Phật gần như vắng mặt trong cuộc đời. Ở mọi cơ cấu
sinh hoạt của xã hội như giáo dục, kinh tế, văn học, nghệ thuật… đạo
Phật đã vắng mặt. Đạo Phật đã lùi về một góc riêng biệt của xã hội, một
cái góc khác ấm cúng và riêng tư cho một số các vị tăng sĩ và một số
quần chúng đệ tử chỉ chuyên lo cầu nguyện cúng tế. Phận sự gần nhất là
giáo dục và vun bón niềm tin cho một xã hội thác loạn, đạo Phật (của hầu
hết các nước Đông Nam Á) cũng đã hầu như buông thả, bất lực. Bởi vì đạo
Phật đã tự làm nghèo mình về nội dung Phật chất. Đạo Phật hầu
như không còn muốn hiện diện trong lòng cuộc đời nữa mà chỉ muốn
đứng bên cạnh cuộc đời. Trong những giai đoạn như thế, người Phật
tử có nhiệt tâm thường có mặc cảm rằng đạo Phật bị xã hội bỏ quên : mặc
cảm đó thôi thúc họ làm một cái gì để chứng minh sự có mặt của đạo Phật
trong xã hội. Họ lo tổ chức những cuộc lễ thật lớn và huy động quần
chúng tham dự đông đảo. Nhưng những tổ chức rầm rộ ấy chỉ có tác dụng
nhất thời và giây phút ấy càng rầm rộ bao nhiêu thì những giây phút kế
tiếp lại càng ảm đạm bấy nhiêu. Thật giống như người đi gom hết giấy vụn
thành một đống to để đốt lên cho sáng, đống giấy chỉ cháy bùng lên một
lát rồi lưu lại tro tàn nguội lạnh. Đạo Phật không nhờ thế mà lấy lại
sinh khí.
Bằng những cố gắng khác,
người Phật tử đã muốn tô điểm cho tổ chức Phật giáo một ít hình thái
tân thời như ký nhi viện, bệnh viện, trường học, - mô phỏng hình thức tổ
chức của một vài tông giáo Tây phương. Những cố gắng ấy được thúc đẩy
do mặc cảm nói trên thì nhiều, do ý thức chuyển hiện đạo Phật vào thời
đại thì ít. Đạo Phật không thể biểu lộ được sinh khí mình bằng những
hoạt động xã hội căn cứ trên ý niệm tự ái tôn giáo. Không thoát xác
được, đạo Phật mang những thứ trang sức ấy vào như mang những thứ trang
sức không phù hợp với chính mình, và do đó lúng túng - cái lúng túng của
một bà cụ già mặc áo tân thời.
Kỳ thực, vấn đề đặt ra
cho đạo Phật là vấn đề hiện đại hóa (actualisation) mà không phải là vấn
đề tân thời hóa (modernisation). Hiện đại hóa có nghĩa là một sự thoát
xác, một sự cởi bỏ xiềng xích hình thức để giải phóng cho nội dung Phật
chất (nội dung bản chất Phật giáo). Phải sống trong cuộc đời với một ý
thức hệ sáng tỏ, đáp ứng được với xã hội, đưa đạo Phật vào ngự trong
lòng người, đánh tan mọi nghi nan, thắc mắc, khổ đau, vượt được những tà
thuyết và thái độ hiện đang dày xéo và hăm dọa tự do an lạc của con
người. Phải dựng nên cho đạo Phật một hình thái sinh hoạt mới, hợp lý,
làm hiển lộ được Phật chất và nắm giữ được những truyền thống tốt đẹp
của đạo Phật trong lịch sử.