NHẬN THỨC CĂN BẢN [^]
Dẹp bỏ tất cả những
huyền đàm siêu hình, con người trở về thực tại để giải quyết những vấn
đề của thực tại. Cuộc đời đầy những khổ đau. Chúng ta đang quằn quại
trong khổ đau, hốt hoảng như đang ở trong một ngôi nhà cháy, chịu đựng
không biết bao nhiêu não loạn và xót xa. Mũi tên độc khổ đau đang làm
cho chúng ta rên siết, hãy tìm cách nhổ mũi tên đó ra khỏi thân thể của
nhân loại. Chúng ta phải ý thức rằng chúng ta đang khổ đau. Đó là
nhận thức căn bản. Làm sao giải quyết vấn đề khổ đau thực tại nếu chúng
ta không có ý thức về khổ đau thực tại ? Làm sao có thể chữa lành được
bệnh khi ta không biết là ta đang có bệnh, hoặc giả biết là bệnh nhưng
không rõ là bệnh gì ?
Người Phật tử không phải
chỉ cần hiểu trên lý thuyết rằng cuộc đời là khổ đau. Người Phật tử
phải thường trực ý thức và thực nghiệm những khổ đau của cuộc đời. Chừng
nào khổ đau vẫn còn là một vấn đề phải giải quyết thì chừng ấy
đạo Phật còn có sứ mệnh, người Phật tử còn là người Phật tử. Mất liên
lạc với khổ đau, là mất tất cả. Lý tưởng giải thoát được nuôi dưỡng bằng
những chất liệu khổ đau, cũng như hoa sen được nuôi dưỡng bằng chất
bùn. Chừng nào anh không còn thấy khổ đau thì chừng ấy anh không còn là
Phật tử. Hoặc giả anh đã giải thoát khổ đau cho anh và mọi người chung
quanh anh, hoặc giả sống giữa khổ đau mà anh không hay không biết. Ngoài
hai trường hợp ấy, anh phải khổ đau, phải ý thức về sự đau khổ của anh
và của nhân loại nếu anh muốn đạt đến lý tưởng giải thoát khổ đau cho
anh và nhân loại. Cũng như một dân tộc muốn tranh đấu để thoát khỏi ách
nô lệ ngoại bang thì phải luôn luôn ý thức rằng mình đang bị nô lệ ngoại
bang. Ý thức ấy mất đi thì sự tranh đấu không còn và dân tộc ấy thất
bại. Con người cũng vậy, muốn giải thoát khổ đau phải luôn luôn ý thức
và thực nghiệm khổ đau.
Một khi ta bưng bít tâm
hồn, một khi ta không đủ can đảm nhìn vào thực trạng của hiện hữu, một
khi ta vùi thân trong cuộc sống của dễ dãi, của áo ấm cơm no, ta không
nhận thức được chân tướng của cuộc đời và ta có ảo tưởng rằng cuộc đời
là hạnh phúc. Cũng như dân tộc kia nô lệ khổ đau mà không biết mình nô
lệ khổ đau. Ý thức về khổ đau cố nhiên luôn luôn gây cho ta một xót xa
trong nội tâm, nhưng như chúng tôi đã nói, đó là những chất liệu cần
thiết để nuôi dưỡng lý tưởng. Không phải chỉ có lý tưởng giải thoát mới
cần được nuôi dưỡng bằng ý thức khổ đau. Lý tưởng nào cũng phải được
nuôi dưỡng bằng ý thức khổ đau. Cái khổ đau xót xa của một Việt vương
Câu Tiễn chẳng hạn là chất liệu nuôi dưỡng lý tưởng phục thù của vương.
Tại sao phải bảo tên hầu cận mỗi ngày nhắc cho mình nghe cái nhục mất
nước ? Tại sao phải treo một bọc mật đắng trước cửa để nếm mỗi khi đi ra
đi vào ? Đó là Câu Tiễn muốn nuôi dưỡng lý tưởng phục thù vậy.
Đức Phật luôn luôn nhắc
cho đệ tử Ngài thực nghiệm khổ đau, ý thức một cách thâm thiết về khổ
đau. Không phải chỉ là những khổ đau nhỏ bé của riêng mình mà là cả
thực tại khổ đau to lớn của nhân loại. Các vị Tỳ Kheo phải sống cuộc
đời "tam thường bất túc" (ba việc thường là cơm ăn, áo mặc, nhà ở không
bao giờ đầy đủ quá) không phải là để ép xác khổ hạnh mà là để sống
mãi trong ý thức minh mẫn về khổ đau của cuộc đời, để đừng có những
ảo tưởng sai lạc về cuộc đời. Sống cuộc đời bần tăng khất sĩ là để tiếp
xúc trực tiếp với quần chúng khổ đau, đau niềm đau của họ, thấy cái thực
trạng sinh hoạt tâm lý xã hội của họ. Chỉ cần mỗi ngày ba bữa cơm no,
một chức tước nhỏ bé là ta có thể dễ dàng mất hết liên lạc với thực
trạng khổ đau của cuộc đời, và như thế ta đã đánh mất lý tưởng của ta và
đánh mất luôn bản thân ta nữa. Cho nên nếp sống tăng sĩ trước hết là
nếp sống nuôi dưỡng ý thức khổ đau, phải tự nguyện tiếp xúc với đau
thương của cuộc đời và đồng lao cộng khổ với quần chúng. Một nếp sống
trưởng giả, đài các không phải là nếp sống tăng sĩ.
An lạc chân thật chỉ có
thể phát xuất từ ý thức khổ đau. Điều này chỉ có những người đã sống
trong cuộc đời một cách rào rạt mới có thể hiểu nổi. Đó là một sự thực
mà các bậc hiền nhân đều công nhận. Khổ đau làm con người trưởng thành,
không có khổ đau, con người không thành con người. Nhưng con người cần biết
sống với khổ đau, chứ không phải chỉ cần sống trong đau khổ.
"Niết bàn không ly khai với sinh tử khổ đau" chính là ý ấy.
Cả một nền đạo học được
thành lập trên nhận thức căn bản "cuộc đời đầy khổ đau" kia. Vì đạo Phật
muốn nuôi dưỡng mãi ý thức khổ đau làm chất liệu cho lý tưởng giải
thoát, cho nên nhiều người đã nghĩ rằng đạo Phật bi quan. Thực ra đạo
Phật không bi quan, mà cũng không lạc quan. Bi quan bao hàm một ý niệm
chán nản, tuyệt vọng. Đạo Phật nhận thức khổ đau để mà giải quyết khổ
đau, chứ không phải để thở dài mà buông xuôi hai tay. Đạo Phật đòi hỏi
can đảm, đòi hỏi kiên nhẫn, đòi hỏi đại hùng đại lực. Bi quan hay lạc
quan đều là những gì quá dễ dãi nông cạn. Không lạc quan một cách ngây
thơ vì một sự lạc quan như thế chứng tỏ thiếu nhận thức về thực tại của
hiện hữu; không bi quan một cách yếu đuối vì một sự bi quan như thế
chứng tỏ sự thiếu nhận thức về khả năng bất diệt của con người. Đạo Phật
bình thản nhận thức và cương quyết hành động.
Cho nên nghĩ rằng cửa
chùa là nơi mà người ta tìm đến để trốn tránh khổ đau thì thật là oan
uổng cho đạo Phật. Bởi vì giáo lý đạo Phật không dạy người ta trốn tránh
khổ đau. Mà nếu muốn chiến thắng khổ đau, trước hết phải khinh thường
khổ đau, phải can đảm nhìn khổ đau tận mặt, phải tuyên chiến với
đau khổ. Chúng ta chưa từng thấy ai sợ địch thủ mà chiến thắng được địch
thủ bao giờ. Đừng biến đạo Phật của kiên nhẫn, của quả cảm, của gian
khổ, của đại hùng đại lực thành một đạo Phật của cải lương vọng cổ "dưa
muối chay lòng, tu là cỗi phúc". Những kẻ hèn nhát yếu đuối ấy không
đáng được gọi là tăng sĩ. Người xuất gia phải là những vị đại trượng
phu.
Hình bóng của những con
người yếu đuối, mắt không dám nhìn thẳng, chân bước ngập ngừng, sợ sệt
khổ đau, khúm núm trước quyền lực, cố nhiên không phải là hình bóng của
người tăng sĩ. Hình bóng của người tăng phải là hình bóng của một Long
Thọ, một Huyền Trang, một Vạn Hạnh, đời sống thì đạm bạc, gian khổ, ý
chí thì vững chắc như kim cương, đức độ thì khiêm cung, nhẫn nhục, hành
nguyện thì rộng to như sóng biển. Người xuất gia phải có đôi mắt sáng
chiếu niềm tin, chói lòa nghị lực, người xuất gia phải có nụ cười bất
diệt khinh thường khổ đau. Có như thế mới làm biểu lộ chân tướng sáng rỡ
của đạo Phật. Mà muốn được như thế, điều thiết yếu trước tiên là nhận
thức thực trạng khổ đau, sống trong khổ đau, luyện mình thành sắt thép.
Ta chết đuối trong đau khổ nhưng ta thành Phật cũng nhờ đau khổ. Chính
đau khổ, chữa lành đau khổ, và khi đặt vấn đề nhận thức khổ đau làm đệ
nhất đế của Tứ Diệu Đế, đức Phật quả đã nhận thấy tầm quan trọng của sự
thực ấy một cách thâm thiết.