I.- ĐỊNH NGHĨA
Thanh là trong, Tịnh là sạch. Thanh tịnh là tánh trong sạch, không vướng
cáu bẩn, nhơ nhớp, là tánh trầm lặng, không náo động ồn ào. Thanh tịnh
là tánh đã được gạn lọc khỏi những gì xấu xa ô uế tạp nhạp, lăn xăn
trong cõi đời ô trọc nầy.
Không phải ở được nơi yên tĩnh, mát mẻ, mà đã cho đó là thanh tịnh.
Không phải chỉ ăn mặc sạch sẽ, tắm gội luôn luôn mà đã vội tưởng đó là
thanh tịnh. Thanh tịnh của đạo Phật là trong sạch từ bên ngoài đến bên
trong, từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói tới việc làm.
II.- TÁNH CHẤT THANH TỊNH TRONG ĐẠO PHẬT
Như trên đã nói, thanh tịnh theo nghĩa đạo Phật là sự trong sạch, vắng lặng hoàn toàn về mọi phương diện.
1.- Thân thanh tịnh:
Thân thể phải luôn luôn tắm rữa sạch sẽ, không chải chuốt vuốt ve, cũng
không tô son trét phấn. Áo quần phải luôn luôn thay giặt, không rách
rưới, nhưng cũng không xa hoa, lòe loẹt, kiểu cách. Thức ăn uống phải
giản dị, không rượu chè, trộm cướp, sát hại, dâm ô, hút sách, không cao
lương mỹ vị. Chỗ nghỉ ngơi phải hợp vệ sinh, không giường cao nệm ấm,
không trướng rũ, màn che.
2.- Khẩu thanh tịnh:
Lời nói luôn luôn chân thật, không thêm không bớt, không ngọt như mật,
không cay như tiêu, chua như dấm; không suồng sã, bỡn cợt như bướm hoa;
không sừng sộ, gầm thét như hùm như hổ; không hỗn hào như hổ như beo;
không độc dữ như rắn, như rít; không nhọn hai đầu như đòn xóc; không sắc
bén như gươm đao; không nặng nề như búa tạ. Trái lại, lời nói trong
trường hợp nào cũng phải trong sạch, ôn tồn, đúng đắn, lợi ích cho mọi
người, mọi vật ở chung quanh.
3.- Ý thanh tịnh:
Ý là phần quan trọng, chi phối tất cả những lời nói, cử chỉ, hành động,
đời sống của con người. Ý trong sạch, thì đời sống dễ trong sạch, ý
nhiễm ô thì đời sống bị xấu xa, hoen ố. Ý trong sạch là thế nào? Là
không vẩn đục bởi những tánh tham lam, giận dữ, kiêu căng, si mê, nghi
ngờ. Mỗi khi ta suy nghĩ, tưởng nhớ một điều gì, mà tư tưởng ta không bị
trộn lẫn bởi những tánh xấu nói trên, như thế là ý nghĩ ta được thanh
tịnh. Ý ta không nhiễm mùi hôi tanh của những tánh ấy, không nghe tiếng
gào thét, kêu gào, xúi giục, của dục vọng; ý ta trong sáng như thủy
tinh, vắng lặng như mặt nước hồ im; ý ta chói sáng mặt trời trí tuệ,
thơm ngát hương Từ bi, như thế là ý thanh tịnh.
4.- Hành động thanh tịnh:
Việc làm không vì danh lợi riêng cho mình, không vì thù oán, không vì
khoe khoang, không vì dâm ô; nói tóm lại là không vì dục vọng mà làm,
như thế là hành động thanh tịnh.Người có hành động thanh tịnh không mưu
mô lừa đảo, không ỷ mạnh hiếp yếu, không ỷ giàu hiếp nghèo, không ỷ thế
hiếp cô. Người có hành động thanh tịnh không xu nịnh ai, không bợ đỡ ai,
không sợ hãi ai để phải làm theo ý muốn bất chính của họ. Người có hành
động thanh tịnh bao giờ cũng thẳng thắn, đường đường, chính chính,
không bao giờ có một hậu ý đen tối nào trong lúc làm việc.
III.- CÔNG NĂNG CỦA THANH TỊNH
Như chúng ta đã thấy: mặc dù con người có Phật tánh nhưng vẫn mê mờ và
trôi lăn trong cảnh giới tối tăm đau khổ, là vì con người đầy cả dục
vọng, con người bị nhiễm ô, tánh Phật bị che lấp dưới bao nhiêu lớp bụi
bặm của tánh xấu. Nên chúng ta cần phải có một đời sống thanh tịnh. Ta
phải mượn thanh tịnh làm một cái chổi để quét bao nhiêu rác rến đang bao
phủ lấy ta từ trong và ngoài, từ trên xuống dưới. Tánh Phật như nước
trong, dục vọng như cáu bẩn làm đục nước trong. Muốn làm cho nước trong
phải cần đến phèn. Cũng thế, muốn cho tánh Phật không bị nhiễm ô, phải
cần đến thanh tịnh.
Thanh tịnh rất cần thiết cho người tu hành. Thiếu đức tánh ấy, thì dù cố
công trì chí bao nhiêu trong việc tu hành cũng vô ích, như nấu cát mà
mong thành cơm. Dù ta có bao nhiêu việc bố thí lợi tha mà tâm ta thiếu
thanh tịnh, thì những việc làm ấy cũng mất hết ý nghĩa cao quý và hiệu
quả của chúng.
Người thanh tịnh sẽ có một đời sống nhẹ nhàng, thanh thoát, tâm không
bận bịu một ý nghĩ đen tối nào; thân khoan khoái, dể chịu. Người thanh
tịnh đi đến đâu như mang theo một vừng ánh sáng, một làn khí trong, như
tỏa ra một mùi hương mát dịu. Người thanh tịnh chẳng khác gì một đóa hoa
sen, "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Với cánh trắng, nhụy vàng,
hương dịu, nó được người đời quý chuộng mến yêu, đặt lên bàn thờ tôn
kính như thế nào, thì người thanh tịnh cũng được như thế ấy.
IV.- GƯƠNG THANH TỊNH CỦA ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI
Khi còn tại gia, đức Thích Ca sống giữa cảnh xa hoa, trong cung đàn
tiếng nhạc, trong nệm gấm, mền nhung, giữa hương sắc dục lạc, thế mà
ngài vẫn không bị nhiễm ô, chìm đắm trong biển xa hoa, sa lầy trong vũng
bùn nhục dục ấy. Ngài là hòn ngọc quý, rơi trong bùn mà không nhiễm
bùn. Như đóa hoa sen quyết trồi đầu lên khỏi đám bùn thối tha, ngài
quyết thoát ra khỏi cảnh dục lạc ô uế trong cung vui để sống cuộc đời
phóng khoáng, thanh thoát. Trong khi đi tìm đạo, mặc dù sống trong cảnh
tối tăm nguy hiểm, ngài vẫn luôn luôn giữ tâm ý trong trắng bình thản.
Trước khi thành đạo, ngài còn bị ma Vương đem cung đàn tiếng địch, đem
hương sắc mỹ nhân đến quấy phá ngài dưới gốc Bồ đề, nhưng bao nhiêu cố
gắng phá hoại của ma vương đều vô ích, tâm hồn Ngài vẫn trong sáng như
gương, bình thản như mặt nước hồ thu, mà gió dục vọng không còn đủ sức
để thổi lên nữa.
Đức tánh thanh tịnh của ngài đã có ảnh hưởng lớn lao trong đời sống. Cho
nên, mặc dù đức Phật đã nhập diệt trên hai ngàn rưỡi năm mà đức tánh
thanh tịnh của ngài còn phảng phất trong cõi trời Á Đông trong các đền
chùa, điện tháp. Mỗi khi chúng ta đến viếng một cảnh chùa theo đúng
chánh pháp, chúng ta thấy trong người nhẹ nhàng, khoan khoái; chúng ta
nghe như bao nhiêu tiếng kêu gào của dục vọng lắng xuống, im đi, để
nhường chỗ cho một nỗi thanh thoát êm đềm lan dần trong tâm hồn ta.
V.- NGƯỜI PHẬT TỬ PHẢI DƯỠNG TÁNH THANH TỊNH NHƯ THẾ NÀO TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY?
Như chúng ta đã thấy, tánh chất của thanh tịnh bao gồm tất cả
mọi phương diện của đời sống. Cho nên, muốn dưỡng tánh thanh tịnh, chúng
ta không thể chú trọng đến phần vật chất mà bỏ phần tinh thần, hay
ngược lại, chú trọng phần tinh thần mà bỏ vật chất. Đừng bắt chước những
người ngụy biện, hay bừa bãi, thường nói rằng: "Tu là cốt ở tâm, hình
thức không đáng kể. Ta thanh tịnh ở trong lòng là đủ rồi". Nói như thế
là không nhận rõ ảnh hưởng mạnh mẽ của hoàn cảnh. Nếu chúng ta muốn có
thanh tịnh mà sống giữa cảnh xa hoa trụy lạc, thường ngày bày ra trước
mắt ta bao nhiêu trò ô uế, rót vào tai ta bao nhiêu nhạc điệu, lời lẽ
dâm ô, xông vào mũi ta bao nhiêu mùi vị béo bùi, đắp vào mình ta bao
nhiêu tơ lụa mơn trớn, nếu sống trong cảnh ấy mà ta không bị nhiễm ô,
thì ta là một vị thánh. Những thánh nhân ở đời nầy thật quá hiếm hoi;
cho nên ta rất dễ thành quỷ sứ.
Hoàn cảnh thanh tịnh bên ngoài giúp ta dễ thanh tịnh bên trong. Tất
nhiên trong cõi đời đã gọi là ô trọc nầy, khó có cảnh hoàn toàn thanh
tịnh. Nhưng trong phạm vi tương đối, ta có thể tạo ra, hay tìm kiếm một
hoàn cảnh tạm gọi là thanh tịnh được. Ta tập sống có vệ sinh, điều độ,
thứ tự. Ta tập xua đuổi những ý nghĩ xấu xa, đen tối. Ta tập hành động
theo lẽ phải, theo bác ái, vị tha. Ta tìm những kinh sách có những tư
tưởng trong sáng, tiến bộ để đọc, tìm thầy bạn có đạo đức để học hỏi kết
giao, ta tìm những cảnh chùa theo đúng chánh pháp để tới lui tu dưỡng.
Trong khi chúng ta tìm được một hoành cảnh tạm gọi là thanh tịnh, hành
động những việc có tánh cách thanh tịnh rồi, chúng ta đừng vội thỏa mãn,
yên trí là chúng ta đã tiến bước trên con đường thanh tịnh. Chúng ta
cần phải đề phòng những ý nghĩ nhỏ nhiệm sâu kín, đen tối, xấu xa len
lén chen vào trong những công việc tốt đẹp của chúng ta, làm cho chúng
trở thành hữu lậu, nhiễm ô. Sau đây là vài ba thí dụ thường thấy hằng
ngày: Chẳng hạn khi ta cho kẻ hành khất một vài đồng bạc, vì lòng thành
thật thương xót họ. Đó là một việc thiện quý báu; nhưng bên cạnh động
lực chính ấy, ta còn có ý mong cho người xung quanh biết mình là kẻ nhân
từ. Như thế là bố thí mà còn bị phiền não tham danh chen vào.
Khi một người hành khất đeo riết ta xin cho được, ta bực tức vất vào nón
người ấy vài đồng để khỏi bị quấy rầy, như thế là bố thí mà không phải
vì từ thiện, mà là vì sân hận. Khi ta giúp đỡ ai một điều gì, mà ta mong
ước một ngày kia người ấy sẽ giúp đỡ lại ta, như thế là làm việc lợi
tha với mục đích ích kỷ.
Khi ta mang ơn của ai mà vội vàng tìm cách để trả ơn, vì sợ để lâu ơn sẽ
nặng, hay người làm ơn sẽ có dịp nhờ vả ta nhiều hơn, như thế là trả ơn
mà động lực chính là bội bạc.
Khi ta là một kẻ giàu có, hay có địa vị cao mà ta ăn mặc xoàng xĩnh,
rách rưới với dụng ý để cho người ta trầm trồ, khen ngợi, như thế là ta
làm vẻ nhu mì với dụng ý khoe khoang.
Khi ta làm điều gì hay đẹp, do sự háo thắng hay cốt cho mọi người khen ngợi, như thế là ta ngạo mạn, muốn được hơn người.
Khi ta đến chùa, thành thật vì mục đích muốn hiểu đạo và cầu giải thoát,
nhưng vì đến chậm hay thiếy chổ, ta phải đứng lạy sau người, hay ngồi
nghe giảng vào hàng ghế cuối, hay ăn uống không được trọng đãi v.v... ta
đâm ra buồn phiền trách móc: "Tôi như thế này mà nhà chùa để tôi đứng
sau, ngồi dưới, xem thường, khinh dễ v.v..." Như thế là đến chùa để tìm
thanh tịnh mà lại hóa ra đi ôm ấp thêm phiền não, ô trược.
Những thí dụ trên cho chúng ta thấy hoàn cảnh thì thanh tịnh, việc làm thì đẹp đẽ, mà động cơ thì bất tịnh, nhiễm ô.
Vậy trong đời sống hằng ngày, mỗi lúc nghĩ, mỗi lúc nói, mỗi lúc làm,
mỗi lúc nằm, ngồi, đi, đứng, chúng ta phải luôn luôn tự xét xem đã thanh
tịnh chưa. Trong trường hợp những nhiễm ô thô thiển dễ trừ, ta hãy mạnh
dạn trừ ngay; trong trường hợp những nhiễm ô sâu xa, vi tế khó trừ, ta
hãy tập phép quán "nhị không" để phá trừ ngã chấp và pháp chấp. Làm được
như thế là ta đã dưỡng tánh thanh tịnh của Phật mà mỗi chúng ta đều sẵn
có, ở trạng thái tiềm tàng trong ta.