[15]
THIỀN SƯ LIỄU QUÁN, CHÙA THIỀN TÔN - HUẾ
Nuớc ta
từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận
Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở
miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là
Ðàng Trong và Ðàng Ngoài.
Tuy nhiên, chế độ cầm quyền dù
có khác nhau mà lòng dân vẫn là một. Dân Ðàng Trong hay dân Ðàng ngoài vẫn coi
nước Việt Nam
là một, phong tục tập quán, văn hóa, tín ngưỡng vẫn giống nhau. Dân Ðàng Ngoài
tin Phật giáo, dân Ðàng Trong cũng tin Phật giáo, mặc dù Phật giáo lúc này đã
suy vi rất nhiều so với Phật giáo thời Lý Trần. Song do có lòng tin đó, mà Ðàng
Trong hay Ðàng Ngoài vẫn có các vị Thiền sư kể cả các vị Thiền sư Trung Quốc
qua tiếp tục truyền bá đạo Thiền thuộc phái Lâm Tế và Tào Ðộng.
Gặp lúc ở Tàu nhà Mãn Thanh lên
thay nhà Minh, những Tăng sĩ Tàu không thần phục nhà Thanh mới bỏ sang Việt Nam. Người vào
đất Bắc như Chuyết Công Hòa thượng, Minh Lương Hòa thượng, người vào đất Nam
như Tế Viên Hòa thượng, Giác Phong Lão tổ, Thọ Tôn Nguyên Thiều, Minh Hoằng Tử
Dung, Thạch Liêm Ðại Sán v.v... sang ở vùng Thuận Hóa và Bình Ðịnh. Trong
khoảng thời gian này, ở Ðàng Trong có một vị Thiền sư Việt Nam, đạo đức cao
siêu, tâm quang sáng rực, được tôn làm Tổ, đó là Hòa thượng Liễu Quán mà cuộc
đời của Ngài thật là một tấm gương tốt chói lọi của một trong những vị Sư thông
thái nhất xứ này.
Tổ Liễu Quán mở pháp môn ở núi
Thiên Thai thuộc Thuận Hóa. Ngài đặt bài kệ: "Thật Tế Ðại Ðạo, Tánh Hải
Thanh Trừng v.v..." để làm pháp hệ truyền thừa mãi đến này vẫn còn tiếp
nối. Hầu hết các chùa ở vùng Trung và Nam Việt đều thuộc phái Thiền Lâm Tế này,
trong khi việc truyền bá của các vị Thiền sư Trung Quốc không mấy rộng rãi và
liên tục cho bằng. Tổ Liễu Quán thật đã có một vị trí sáng chói trong lịch sử
Phật giáo cuối đời Hậu Lê. Vậy ở đây ta hãy tìm hiểu rõ hơn về ngài.
Ở khoảng ba cây số về phía Nam
đàn Nam giao có một ngôi tháp đến nay còn được giữ gìn hoàn hảo đẹp đẽ ở trên
một thửa đất có tường thành bao quanh, có tam cấp và hồ sen. Ðó là ngôi tháp
của Tổ Liễu Quán. Có thể nói đây là ngôi tháp hùng vĩ, cổ kính, uy nghiêm nhất
từ xưa còn lại ở miền Trung và Nam Việt.
Khuôn viên thấp gồm có kiến trúc
Pháp tường thành, nền hồ vôi, rộng vào khoảng 70 mét vuông, nếu kể toàn diện
tích đất chung quanh thì có thể gần một héc-ta, trong đó có phần trồng thông và
xoài.
Tháp có hai lớp tường thành bằng
đá bao quanh. Lớp trong hình bát giác cao độ 0m60 ở gần tháp. Lớp ngoài hình tứ
giác cao độ 1m80, dày 1m. trước tháp có tam cấp danh dự ngang 4 mét gồm 10 bậc.
Ở ngoài nhìn trên cổng tường vào tháp có biển đề chữ: "Ðàm hoa lạc khứ hữu
du hương" (Hoa Ðàm rụng hương thơm vẫn còn). Hai bên có hai câu đối:
"Bửu đạt trường minh bất đoạn môn tiền lưu lục thủy; Pháp thân độc lộ y
nhiên tạo lý khán thanh sơn" (Tiếng linh báu ngân dài cùng dòng nước lục
trước cửa chảy hoài không dứt; Pháp thân lộng y nhiên bất động ngắm núi xanh).
Phía trong tường thành là ngôi
tháp dựng ở chính giữa, hình bát giác hồ vôi, cao 7 tầng độ 6 mét, mặt trước có
bia đá áp sát vào và mang các dòng chữ: bên trên: "Vô lượng quang",
dòng giữa bia: "Sắc tú Chánh giác Viên ngộ Liễu Quán lão Hòa thượng chi
tháp". Hai bên có hai câu đối: "Bỗng át chân phong gia kế thuật; Tân
lương mỹ hóa quốc bao sùng" (Chân phong của phép Thiền đánh hét được ngài
kế thừa truyền thuật; Ðức hòa tốt đẹp của bậc Thầy hướng đạo được cả nước khen
ngợi tôn sùng).
Áp sát mặt trong tường thành bên
trái của tháp có tấm bi đá sa thạch cao 1m, rộng 0m60, văn bia gồm gần 1.500
chữ Hán, do người cháu trong đạo của Tổ Liễu Quán, bấy giờ đang làm Sư ở chùa
Tang Liên bên Trung Quốc soạn và dựng năm thứ 9 niên hiệu Cảnh Hưng (1748, vua
Lê Hiển Tôn), đúng 6 năm sau ngày Tổ Liễu Quán viên tịch.
Chính nội dung tấm bia này là
một tài liệu đầy đủ nhất còn lại cho ta biết rõ công hạnh tu chứng và hóa đạo
của Tổ Liễu Quán.
Dưới đây là bản dịch các điểm
chính tấm bia ấy: "Ðặc điểm căn bản của Phật giáo chúng ta là gì? - Theo
Phật giáo, con người không phải từ cửa tử sanh ra, cũng phải chết đi là đi vào
cửa tử. Thế nên người xưa sống trong rừng sâu hang động, chỉ ăn ngủ sơ sài,
chẳng có gì quan trọng đáng lo nghĩ hơn là vấn đề sống và chết.
Tìm được một người chấp nhận hy
sinh cho đạo pháp, nhất là lúc Phật giáo đang suy đồi như Hòa thượng Liễu Quán
của chúng ta thật là điều hy hữu.
Ngài Quán làng Bạc Mã, huyện
Ðồng xuân phủ Phú Yên, họ Lê, pháp danh Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán. Tu học từ
thuở nhỏ, ngài tỏ ra thông minh khí tiết hơn các bạn đồng học. Mất mẹ năm lên
sáu, theo ý nguyện của ngài, thân phụ ngài đã gởi ngài đến chùa Hội Tôn thụ
giáo với Tế Viên Hòa thượng. Bảy năm sau Tế Viên Hòa thượng tịch, Ngài ra Huế
vào chùa Hàm Long (tức chùa Bảo Quốc ngày nay) thụ học với Giác Phong lão tổ.
Năm Tân tị (1691), sau khi xuống
tóc được một năm, ngài được gọi về làng cũ để giúp đỡ phụ thân trong lúc già
yếu. Nhà nghèo ngài phải đi hái củi bán lấy tiền lo thuốc thang. Bốn năm sau
phụ thân qua đời vào năm Ất hợi (1695) ngài lại trở ra Huế chính thức thụ giới
Sa-di với Thạch Liêm Ðại Sán Hòa thượng. Năm Ðinh sửu (1697) ngài tiếp tục thụ
giới Cụ túc với Từ Lâm lão Hòa thượng.
Năm Kỹ mão (1699) ngài đi khắp
Tòng Lâm thăm viếng nhiều chùa để học hỏi đạo lý, và quyết định hiến thân cho
đời sống đạo, chẳng quản đạm bạc gian lao. Từ đó ngài tinh chuyên tu tập.
Năm Nhâm ngọ (1702) ngài đến
Long Sơn đầu sư với Tử Dung Hòa thượng (người sáng lập Ấn Tôn Từ Ðàm hiện nay),
một vị Hòa thượng có tiếng thông thái khéo dạy người niệm Phật tham Thiền của
thời này.
Trước khi chấp nhận ngài làm học
trò, Hòa thượng Tử Dung đã thử nhiều lần và bắt ngài giải thích câu sau đây:
"Muôn pháp quy về một, một về đâu?". Ngài đã tìm kiếm 8, 9 năm không
ra câu giải đáp và đã thất vọng.
Một hôm nhân đọc Truyền Ðăng
Lục, ngài gặp câu: "Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ" (Chỉ vật
truyền tâm, chỗ mà người ngoại cuộc không hiểu được), bỗng nhiên ngài thấy đã
tìm ra câu giải đáp mà thầy mình đã đặt ra, nhưng vì đường sá xa cách, không
thể đến trình chỗ ngộ với thầy ngay được.
Năm Mậu tý (1708) ngài đến Long
Sơn (Huế) để đệ trình kết quả với câu: "Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội
xứ". Hòa thượng Tử Dung lại dạy câu: "Ðứng ở mé bờ cao vút buông tay,
tự mình chịu lấy, chết rồi sống lại, bấy giờ không ai có thể dối người"
(Huyền nhai tán thủ, tự khẳng thừa đương, tuyệt hậu tái tô, khi quân bất đắc).
Ngài vỗ tay cười lớn tiếng. Hòa thượng nói: "Không phải vậy đâu".
Ngài liền đọc: "Xứng chùy nguyên thị thiết". (Cái dùi nguyên là sắt).
Hòa thượng đáp: "Cũng không phải vậy đâu".
Hôm sau Hòa thượng lại tiếp tục
thử ngài bằng câu: "Công án ngày qua chưa giải đáp xong, hãy nói lại
xem?". ngài liền đọc hai câu: Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi.
Hòa thượng tán thán.
Năm Nhâm thìn (1712) khi Hòa
thượng Tử Dung vào Quảng Nam
để làm lễ Toàn Viện (?) ngài Liễu Quán trình Hòa thượng bài kệ dục Phật (tắm
Phật). Xem bài kệ, Hòa thượng đặt cho ngài câu hỏi sau đây: "Tổ Tổ truyền
cho nhau, Phật Phật trao cho nhau, chưa rõ truyền trao cái gì ấy?". Ngài
Liễu Quán đáp: "Măng đá mọc chồi dài một trượng, phủ phất lông rùa nặng ba
cân". Hòa thượng Tử Dung tiếp hỏi: "Thuyền trượt trên núi cao, ngựa
chạy dưới đáy biển" nghĩa là gì? Ngài đáp: "Trâu đất gãy sừng rống
thâu đêm, đàn cầm không giây gảy suốt ngày".
Rồi ngài chép lại tất cả những
câu đối đáp trình ngay lên Hòa thượng Tử Dung và được Hòa thượng hoàn toàn thừa
nhận.
Ngài là người có trí thông minh
phi thường, chí nguyện siêu việt.
Năm Nhâm dần (1722) ngài về trụ
ở Tổ đình Thiền Tôn - Huế. Trong các năm Quý sửu. Giáp dần, Ất mão (1733, 1734,
1735) ngài mở bốn đại giới đàn theo lời thỉnh cầu của các hàng cư sĩ, xuất gia
và các quan viên hộ pháp. Năm Canh thân (1740) sau khi truyền giới đàn Long
Hoa, ngài trở lại tổ đình.
Ðương thời Hiếu Minh vương
Nguyễn Phúc Chu cảm phục đạo đức và danh tiếng của ngài, triệu ngài vào cung,
nhưng ngài muốn giữ sự tự tại ở chốn lầm tuyền nên đã từ tạ lời thỉnh mà không
đến.
Mùa xuân năm Nhâm tuất (1742)
ngài lại mở giới đàn tại chùa Viên Thông. Vào cuối thu, tháng 9 năm ấy (tháng
10 năm 1742) ngài lâm bịnh nhưng không có dấu hiệu gì trầm trọng. Tháng 10 năm
ấy, ngài họp các đệ tử nói: "Tôi sẽ ra đi, sứ mạng của tôi ở đời này đã
xong". Các đệ tử khóc òa. Ngài khuyên bảo: "Tại sao các vị khóc? Chư
Phật còn nhập Niết-bàn. Tôi cũng vậy, tôi đến đi rõ ràng, về có nơi chốn. Xin
đừng buồn rầu, hãy cố gắng tinh tấn hơn lên".
Tháng 11 âm lịch năm ấy, mấy
ngày trước khi mất, ngài ngồi dậy tự tay viết bốn câu:
"Ngoài bảy mươi năm trong thế giới
Không không sắc sắc thấy dung thông
Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ
Nào phải ân cần hỏi tổ tông".
Viết xong, ngài bảo các đệ tử:
"Các vị xem này, tôi đến với cõi đời này giản dị biết bao nhiêu. Tôi sẽ ra
đi trọn vẹn. Mai sau các vị hãy áp dụng thực hành Thánh hạnh. Xin hãy cố gắng
chớ quên lời dạy bảo của tôi".
Ngày 22 tháng 11 năm Nhâm tuất
(tháng 12 năm 1742) sau khi dùng trà, hành lễ buổi sáng, ngài hỏi đệ tử mấy
giờ. Các đệ tử đáp bây giờ là giờ mùi (khoảng 1 đến 3 giờ chiều), ngài thở hơi
cuối cùng.
Chúa Minh vương Nguyễn Phúc Chu
ban thụy hiệu là Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng để khắc bia.
Di thể được chuyển mai táng ngày
19 tháng 2 năm Quý hợi (1743) ở ngôi tháp mới nằm phía Nam núi Thiên Thai, trên
the đất làng An Cựu, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (cũ).
Ngài Liễu Quán sinh giờ Thìn
(khoảng 7 đến 9 giờ sáng) ngày 13 tháng 11 năm Ðinh vị (1667), viên tịch ngày
22 tháng 11 năm Nhâm tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ III (1742), 43 tuổi hạ, 76
tuổi đời, độ 49 đệ tử xuất gia danh tiếng và rất đông đệ tử tại gia.
Người thế tục cho rằng thế gian
có sanh tử khứ lai, nhưng đối với Ngài Liễu Quán thì không như vậy. Thương kính
Ngài, vị Thiền sư khả kính của chúng ta không còn nữa, Ngài đã nhập Niết-bàn.
Vậy không phải nói gì cho Ngài nữa, nhưng những công nghiệp phục vụ đạo pháp
của Ngài được ghi lại đây là để làm tỏ rạng đạo giáo cho tương lai chúng ta.
Xin thú nhận rằng, nhân duyên
nhập đạo, sự nghiệp truyền đăng của ngài quá đặc biệt lớn lao, tôi không sao rõ
hết được, nên nơi đây chỉ thuật lại được đôi phần, như kẻ mù rờ voi vậy.
Pháp hiệu Thiện Kế kính soạn.
(Sư Thiện Kế sau về Trung Quốc
và mất luôn bên ấy).
Hiện nay cách phía sau tháp độ
800 mét có chùa Thiền Tôn do Ngài sáng lập và các đệ tử tiếp tục thừa kế trùng
tu còn được đẹp đẽ khang trang, trong đó có quả đại hồng chung đúc năm Cảnh
Hưng thứ 8 (1747) là di vật quý nhất.
15.11.1986