[03]
PHẢI CÓ CON MẮT TRẠCH PHÁP KHI XEM KINH
Khi dịch
xong kinh Trường A-hàm năm 1962 tôi cảm thấy có một vài thắc mắc tuy thông
thường nhưng sẽ không tránh khỏi xuất hiện một cách mau lẹ đến ít nhiều quý vị
đọc kinh này. Ðể giải thích phần nào những thắc mắc đó hầu tránh khỏi cái nạn
vì nghẹn bỏ ăn, ở đây xin nêu vài ý kiến theo trường hợp này:
1. Thuyết pháp độ sanh là bản
hoài của Phật, vậy tại sao khi Thành Ðạo rồi Ngài lại không muốn thuyết pháp,
đợi đến khi Phạm vương thưa thỉnh, Ngài mới thuyết?
- Xin thưa: Như kinh đã nói đến,
không phải Phật nhất định không muốn thuyết pháp, song Ngài còn ngần ngại giữa
một bên là giáo lý giác ngộ quá cao siêu, một bên căn tính chúng sanh quá thấp
kém, sợ đem giáo pháp ấy nói cho chúng sanh ấy có hại hơn có lợi. Trong lúc
Phật đang quán xét phải thuyết pháp cách nào mới đưa đến nhiều lợi ích, thì
Phạm vương đến thưa thỉnh. Như vậy việc thưa thỉnh này chỉ đáng xem là một việc
làm đúng lúc chớ không phải một quyết định tối hậu, mở đầu cuộc thuyết pháp của
Phật. Vả lại, thời bấy giờ dân Ấn Ðộ tin thờ Phạm thiên vương là chúa tể. Nay
thấy Phạm thiên vương thỉnh Phật thuyết pháp như vậy thì họ sẽ tôn kính Phật mà
lắng tai nghe, trừ bỏ lòng tự tôn vào giáo pháp của Bà-la-môn xưa nay. (Muốn
hiểu rộng hơn xin xem Luận Ðại Trí Ðộ quyển 7).
2. A Nan
không thỉnh Phật ở đời lâu thêm vì tâm trí bị Ma vương ám. Nhưng sau đó Ngài
nhận lời Ma vương nhập Niết-bàn, như thế phải chăng Phật thiên vị Ma vương?
- Xin thưa: Phàm ở đời việc gì
đến nó phải đến. Khi cơ duyên hóa độ đã mãn tất nhiên Phật vào Niết-bàn, dù khi
đó có hay không có Ma vương thưa thỉnh. Trái lại, khi cơ duyên hóa độ chưa mãn,
lúc Ngài ở bên sông Ni-liên-thuyền, lúc Ngài vừa Thành Ðạo, dù Ma vương có đến
thỉnh Phật vẫn không vào Niết-bàn. Vậy việc Phật nói với Ma vương sau ba tháng
sẽ vào Niết-bàn chỉ là một dịp Phật thổ lộ ý định của mình mà thôi.
3. Phật là bậc tự tại tự chủ,
sao Ngài không duy trì xác thân ở đời mãi mãi để làm lợi ích cho chúng sanh?
Nếu Phật còn phải chịu sự sống chết như mọi người, thì sao gọi Phật là tự tại
tự chủ?
- Xin thưa: Chân lý muôn đời của
vũ trụ là hễ có sinh thì có diệt, có hiệp thì có ly, không một ai có thể làm
cho khác đi được. Nhưng chúng sanh vì vô minh thường có tham vọng đi ngược lại
chân lý nên phải đau khổ đời đời. Trái lại chư Phật Bồ -tát giác ngộ, thể nhập
chân lý nên thường được tự tại như chân lý, một sự tự tại siêu tuyệt: Ở nơi
sinh mà bất sinh, ở nơi diệt mà bất diệt; bất sinh bất diệt tức giải thoát tự
tại ngoài vòng chi phối của bất cứ điều gì, dù là sinh là tử. Cho nên cùng một
hình thức sinh tử, ta thấy về xác thân mà ở nơi chúng sanh thì là luân hồi đau
khổ, ở nơi Phật thì lại tự tại giải thoát.
Còn sự lợi sự hại theo Phật thì
chúng sanh lắm lúc không đồng nhau. Cùng một chuyện chúng sanh thấy lợi, Phật
thấy không lợi, chúng sanh thấy hại, Phật thấy không hại. Do đó, dù Phật diệt
độ mà Ngài vẫn thấy chúng sanh còn được nhờ giáo pháp Phật để lại, để nổ lực tu
hành mà không sanh tâm ỷ lại vào sự tế độ của Phật. Mỗi người phải lo tự giác
ngộ chứ không ai giác ngộ thế cho ai được. Hễ ai giác ngộ được, người đó hết
đau khổ, dù Phật còn ở đời, mà chúng sanh không chịu tự lo giác ngộ theo phương
pháp Phật chỉ dạy cũng không ích gì.
Một câu chuyện tương tự dưới
đây, tuy đơn giản nhưng có thể làm một tiêu chuẩn cho ta suy nghiệm đến đường
lối cứu đời của Phật khác xa thường tình nghĩ tưởng: Lúc Phật còn tại thế, có
một người đàn bà không may phải làm dâu trong một gia đình ác độc, bà ta bị hất
hủi, bạc đãi đủ điều, nên chỉ còn biết đặt hy vọng vào đứa con độc nhất của
mình. Nhưng cũng rủi luôn cho bà, đứa con ấy vừa lên ba thì mệnh yểu. Bà đau
khổ điên cuồng ôm thây con đến mấy vị bác sĩ, nhờ cứu chữa. Bác sĩ, lương y nào
cũng lắc đầu bó tay. Cuối cùng có người vẽ cho bà tìm đến đức Thế Tôn, may ra
Ngài có thể cứu được con bà. Một tia hy vọng cuối cùng lại vụt sáng giữa lúc
tâm thần đang bối rối đau khổ, bà ôm xác con chạy gấp đến chỗ Phật, sau khi vái
chào, bà liền cầu xin Phật cho đứa con bà sống lại, Phật dạy: Ðược, Bà hãy đi
kiếm cho Ta một nắm hạt cải ở nhà nào từ xưa nay không có người chết, đem về
đây Ta sẽ cứu cho". Bà mừng rỡ lật đật chạy đi kiếm. Khi bà đến nhà thứ
nhất, được người đem cho nắm hạt cải. Bà liền hỏi chủ nhà: "Nhà này xưa
nay có ai chết không?" Chủ nhà trả lời: "đã có mấy người chết".
Bà ta nói đức Thế Tôn dặn kiếm thứ hạt cải ở nhà nào xưa nay không có người
chết, nên bà ta đem trả lại nắm hạt cải. Bà ta cũng hỏi và cũng không nhận như
nhà trước. Cứ như thế bà ta đi từ nhà nọ đến nhà kia khắp vùng mà vẫn không
kiếm ra một nắm hạt cải đúng như lời Phật dặn. Bỗng nhiên một giây phút tỉnh
ngộ, lý vô thường bật sáng trong tâm bà, phá tan bao điều sầu khổ, u ám, bà
lặng lẽ đem con đi chôn rồi trở lại tinh xá bạch Thế Tôn: "Việc Ngài dạy
con đã làm xong". Rồi bà đảnh lễ Phật xin quy y làm đệ tử.
Khi đọc chuyện này, không khéo
lại có người đặt lời phê phán: "Thế Phật có hơn gì mấy ông bác sĩ, lương
y? Phật còn không bằng các đạo sĩ, giáo chủ khác dùng phép lạ cứu người chết
rồi sống lại? Tình thương của Phật như thế tỏ ra một tình thương quá lạt lẽo
đến phũ phàng, một tình thương không thực tế! "Nhưng không, nếu cứ ôn tồn
suy nghĩ chắc người ta sẽ không phê phán một cách quá nông nổi và sai lầm đối
với lòng từ bi quá thâm thúy và thiết thực như trên của Phật. Ðối với Phật,
Ngài đã thấy rõ, sở dĩ chúng sanh đau khổ chỉ vì không giác ngộ được chân lý
thực tại vô thường, lại muốn bám chặt vào những mảnh vô thường và nhận chắc đó
là ta và của ta, vì vậy tình thương của Ngài là cốt làm thế nào phá trừ vô minh
đưa chúng sanh đến nơi giác ngộ tức hết đau khổ, nếu không như vậy, dù có làm
cách nào, cũng chỉ là cách cứu chữa tạm thời, đôi khi còn vì nó gây thêm đậm
nét đau khổ là khác. Ví dụ như ông thầy thuốc không chịu tìm chữa từ bịnh căn,
chỉ nghe con bịnh nói đau mắt, đau đầu bừa, không tìm nguyên nhân thì không bao
giờ hết bịnh, vì bịnh căn là mầm mống chưa trừ. Như vậy đến đây, ta hiểu được
rằng tại sao Phật không dùng phép lạ cứu sống đứa con người đàn bà kia. Chúng
ta cũng biết rõ rằng dù Phật có cứu sống đứa nhỏ bằng phép lạ đi nữa rồi một
ngày kia nó cũng vẫn già, vẫn bịnh, vẫn chết và người đàn bà mẹ nó, cũng vẫn
đau khổ như từ bao giờ không hơn không kém, nếu bà không một lần tỉnh ngộ như
trong khi đi xin hạt cải: chết sống không phải là khổ mà khổ vì không giác ngộ
lẽ chết sống.
4. Chúng sanh đau khổ nhưng kém
hèn không tự cứu lấy mình được mới chạy đến Phật cầu cứu. Thay vì phải soi
sáng, cứu độ cho họ, Phật lại dạy: "Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà
đi". Như thế nghĩa là sao? Nếu chúng sanh tự thắp đuốc lên mà đi được thì
phỏng có lợi ích gì mà họ phải chạy đến Phật?
- Xin thưa: Phật dạy mỗi người
phải tự giác ngộ lấy mình chớ không ai giác ngộ thế cho được, đó là lời dạy chí
lý hiển nhiên đúng thật không thể chối cãi được, và câu "Các ngươi hãy tự
thắp đuốc lên mà đi" đã nằm trong ý nghĩa tự giác ngộ đó. Tuy nhiên, nếu
suốt một đời giáo hóa của Phật, thỉ chung Ngài chỉ dạy có một câu ấy bất cứ đối
với ai và bất cứ lúc nào, thì cũng đáng cho ta sự thắc mắc trên, bởi nếu như
vậy, chúng ta sẽ không hiểu gì là cái đuốc. Tại sao phải tự thắp, làm thế nào
để thắp và đi về đâu. Nhưng đằng này khác hẳn, sau giáo pháp Phật đã dạy, giáo
pháp đó không ích lợi gì cả nếu chúng sanh không chịu khó học hỏi kinh nghiệm
thực hành, nương giáo pháp để tự tạo lấy sự giác ngộ chính trong lòng mình.
Phật vì thương chúng sanh cho nên Ngài lại phải nhắc nhở chúng sanh lo thực
hành với lời dạy trên.
Giáo pháp như ngón tay chỉ, chân
lý ví như mặt trăng, Phật truyền dạy giáo pháp khác nào như Phật đã đưa tay chỉ
mặt trăng (đây là Phật khai hóa cứu độ cho chúng sanh), người muốn thấy mặt trăng,
tất phải định thần mở mắt nhìn theo hướng tay chỉ, không phải chờ ai nhìn thế
mà cho thấy được. Nếu Phật có nhìn thấy hay người khác có nhìn thấy, cũng chỉ
là Phật thấy, mấy người kia thấy, chớ không phải mình thấy. Giáo pháp lại có
thể ví như những điều kiện bên ngoài để tạo ra hạnh phúc chân thật bên trong;
khi một người có đủ các điều kiện ấy mà vẫn thấy mình chưa đủ hạnh phúc thì họ
phải lo tự tạo lấy hạnh phúc cho họ, chớ không ai bên ngoài xen vào hay mang
lại một hạnh phúc chân thật trong lòng họ được.
Ðể hiểu rõ hơn, ta cần xác nhận
thời gian tính lời dạy trên trong quá trình thuyết giáo của Phật. Theo như
trong kinh này thì câu "Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi" đã được
Phật dạy vào lúc sắp nhập Niết-bàn và lúc nhiều giáo pháp đã được Phật nói ra.
Như thế có theo Phật ta mới hiểu rõ đường lối tu hành, mới thoát khỏi các ý
nghĩ ỷ lại sai lầm rằng ta có thể nhờ người khác đem lại giác ngộ và hạnh phúc
chân thật cho ta, và mới hiểu tại sao phải tự thắp đuốc lên mà đi và thắp bằng
cách nào để khỏi bị ở mãi trong chốn tối tăm đau khổ.
5. Ðạo Phật chủ trương lý trí,
chú trọng thực tiễn, tại sao trong kinh còn có những chỗ nói đến các vị thần,
như thiên thần, lâm thần, thọ thần v.v... Như thế Phật giáo cũng tin có quỷ
thần, mơ hồ? Phật giáo cũng là một đa thần giáo?
- Xin thưa: Phật giáo không hề
lấy việc tin quỷ thần, cầu khấn, thầm làm phương châm giải khổ, nhưng Phật giáo
quan niệm giữa vũ trụ có vô lượng thế giới và vô số chúng sanh xuất hiện dưới
vô số hình thức sai khác, lớn có, bé có, ở hư không có, ở dưới biển có, hữu
hình có, vô hình có, tùy theo căn thức và nghiệp cảm. Mỗi chúng sanh cũng chỉ
là mỗi chúng sanh, không chúng sanh nào có thể sáng tạo và cai quản chúng sanh
nào, ngoại trừ tánh cách tương quan hổ thành theo luật nhân duyên nhân quả. Do
đó, Phật không bao giờ khuyên dạy người ta cầu xin phúc họa nơi quỷ thần, mà
dạy người ta lo cầu xin họa phúc ngay nơi mình. Khác với đa số người thế gian
và đa thần giáo xem quỷ thần như những vị sáng tạo và có quyền phép ban phước
giáng họa và người ta cần đến đó cầu xin hoặc sợ sệt kính lễ, trong khi Phật
giáo dù nói đến thần này thần kia chỉ có nghĩa tại chỗ kia chỗ nọ mà thôi, có
với không có nó không là việc bận rộn đến tinh thần của những Phật tử chân
chánh.
6. Người ta nói "Quốc gia
hưng vong thất phu hữu trách", một thường dân còn có bổn phận đối với quốc
gia xứ sở, huống những người cầm quyền trị vì, thế nhưng trong kinh có đoạn kể
chuyện vua tôi nước nọ đều xuất gia cả. Xuất gia như thế có hại cho quốc gia
không? Có thụ động, trốn trách nhiệm không?
- Xin thưa: giá trị của sự xuất
gia ở chỗ khác đã có nói nhiều, ở đây xin tóm tắt rằng sự xuất gia chân chính
bao gồm một ý nghĩa từ bỏ dục vọng, tham lam, ngã chấp, để khuôn mình trong lối
sống đạo đức với chí hướng cầu chân thiện mỹ và ban phát chân thiện mỹ. Xuất
gia như thế đâu phải là một hành vi thụ động, trốn đời, hại đời? Và đâu dễ có
mấy người xuất gia, khiến đến nỗi quốc gia phải suy yếu vì họ? Vả chăng việc
nước là việc chung, không người này còn người khác, một số rất nhỏ người xuất gia
có thấm vào đâu với đại đa số dân chúng. Một điều mà thiết tưởng ai cũng thấy
rõ, nước mạnh không nhất thiết phải dân đông nhưng cốt phải muôn dân nhất trí,
và muốn cho muôn dân nhất trí là phải có đạo đức, hy sinh, công chính. Mọi
người dân trong khi cố công kiến thiết, họ cũng phải cố công xây dựng ở họ, ở
người khác một sức mạnh đạo đức, biết hy sinh, không ích kỷ, không cố vị tham
quyền mới duy trì được nền an lạc chung. Như thế suy đến chuyện xuất gia của
vua tôi nước nọ, thay vì nói đó là yếm thế, trốn trách nhiệm, ta hãy nói đó là
một cử chỉ cao thượng hiếm có, đã nêu một gương sáng không tham cố quyền lợi,
không cố thủ địa vị là điều xưa nay thật khó tìm thấy ở trong bao nhiêu người
có địa vị trong tay. Tuy vậy, thật ra việc xuất gia như trên rất hiếm có trong
lịch sử và giả sử có ta cũng thấy rõ đâu có làm hại cho quốc gia, xã hội bằng
những con người bất nhân vô đạo, cố vị tham quyền kết tụ lại trong quốc gia hay
thế giới, mà xưa nay đâu đâu cũng có. Cứ xem nhân loại ngày nay ta cũng đủ thấy
là hiện đang đau khổ vì dục vọng hay những lời dạy ly dục và sự xuất gia như
trên?
Tóm lại, trong khi xem kinh, nên
có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời
nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu, và
suy nghiệm lối thuyết pháp tất đàn của Phật mới mong học được những chỗ đáng
học, nắm được chỗ chính yếu của giáo lý để khỏi kẹt vào những thắc mắc không
trọng hệ nhưng lắm lúc làm trở ngại những giáo lý trọng hệ cần được chú tâm suy
tầm tu niệm nhiều hơn.