Chúng ta đã thấy rằng
đối với Tỳ Bà Sa, bất kỳ nhóm từ biểu thị đúng ngữ pháp nào cũng biểu trưng một
vật nào đó, một quan điểm có thể đã bị phê phán và thay thế bằng thuyết mô tả
của Thế Thân. Thuyết này chủ trương đối với bất kỳ số hạng đơn không đổi hay
danh từ riêng n nào ta luôn luôn có thể thay nó bằng một thuộc từ N; thuộc từ
này chỉ đúng đối với vật mà n có liên quan, và trong đó n không xảy ra hoặc
không được cần đến. Thí dụ, đối với bất kỳ n nào, ta cũng có (ix)N(x), trong đó
ký hiệu (i...) cho thấy bất kỳ biểu thức nào theo sau thuộc dạng N(...) sẽ tạo
thành cùng với nó một mô tả có thể hủy. Và vì bất kỳ biểu thức nào có dạng N(x)
đều có thể luôn luôn được thay thế, theo các quy tắc được biết, bởi một tác
dụng f như f(x) chẳng hạn, thuyết này còn chủ trương đối với bất kỳ số hạng đơn
không đổi hoặc danh từ riêng hoặc ngay cả phát biểu nào trong đó chúng xảy ra
đều luôn luôn có một tác dụng như f(x).
Như vậy, nếu Tỳ Bà Sa chủ trương chữ ‘sinh’ phải biểu trưng một vật nào đó gọi
là ‘sinh’ để có thể chứng minh sự thật của những phát biểu như “anh nên biết sự
sinh ra cảm thọ của anh”, thì Thế Thân sẽ đáp rằng không có một vật như vật thể
gọi là sinh, cũng không cần thiết hay yêu cầu tạo ra một vật như thế. Vì luôn
luôn có một công cụ có thể loại bỏ dễ dàng những từ như sinh và tương tợ, và
trong đó không có một số hạng đơn không đổi hay danh từ riêng nào xảy ra. Vì
vậy, thay vì nói “bạn nên biết sự sinh ra cảm thọ của bạn”, ta luôn luôn có thể
nói “bạn nên biết cái gì đó mà bạn cảm nhận đang được hình thành”, chẳng hạn.
Hoặc ta còn có thể nói, “bạn nên biết cái gì đó bạn cảm nhận đang hiện hữu đã
không hiện hữu trước đây”, v.v. Trong những phát biểu thay thế này, từ ‘sinh’
còn không được cần đến, huống hồ một vật thể gọi là ‘sinh.’ Vì thế, quan niệm
được ưa chuộng nhất của Tỳ Bà Sa và rất nhiều trường phái triết học Ấn độ khác
như Mīmamsā cho rằng từ ngữ phải biểu trưng vật thể, hay “từ ngữ phải hiển lộ
vật thể” như cách dùng từ hoa mỹ của Abhidharmadīpa, đều bị loại bỏ ngay lập
tức. Trong hướng tư tưởng này của Thế Thân, không còn phải lo lắng về sự đe dọa
của những thực thể như ‘phi-hữu’ và những gì kèm theo nó. Đây là kết quả chính
yếu đầu tiên mà ông đã rút ra từ thuyết mô tả của mình.
Tuy nhiên, đó là một
kết quả tiêu cực, mặc dù quan trọng. Nó quan trọng là do sự kiện tất cả các số
hạng đơn không đổi hay danh từ riêng đều được giản lược thành một cái khả biến
x nào đó cùng với các thuộc từ riêng của chúng. Vì điều này, kết quả chính yếu
thứ hai có thể được rút ra, một kết quả tích cực khỏi phải nói. Kết quả này nằm
ở nhận thức: đối với bất kỳ số hạng hay danh từ riêng nào, để có thể giản lược
và thay thế chúng, thì phát biểu luôn luôn chứa đựng thành ngữ “cái gì đó
.....” Bây giờ, thành ngữ này có dạng ($x)(...), cho biết có một x như (...).
Rõ ràng, với dạng này, ta có thể thay nó, một cách phù hợp với phương pháp của
Thế Thân, bằng một biểu thức có dạng - ("x)(...); bởi vì, nói rằng cái gì
đó đang được hình thành thì cũng giống như nói không phải mọi cái đang được
hình thành. Tính hoán chuyển của hai biểu thức này dẫn Thế Thân đến nhận thức
rằng đối với bất kỳ thực thể x nào như thế cũng có bất kỳ một số các đặc tính
nào đó, như f,g ..., là đúng đối với nó, và nếu có một đặc tính f như thế là
đúng đối với nó, thì cũng có một đặc tính g như thế là đúng đối với nó. Đưa vào
ngôn ngữ ký hiệu, ta có:
(1) ("x)[f(x) É
g(x)] & ($x)f(x) ® ($x)g(x)
trong đó f(x) và g(x)
có thể biểu trưng bất kỳ đặc tính nào của x mà nó thế chỗ. Chẳng hạn, cái gì đó
đang được hình thành. Theo quan điểm của Thế Thân, điều này hàm ý cái gì đó có
thể sẵn sàng bị hủy. Như vậy, thật quan trọng để nhận ra rằng trong chủ trương
của Thế Thân, theo đó “sự sinh của cái gì đó” đồng nhất với “cái gì đó đang
được hình thành”, không hề hàm ý bất kỳ loại song quan ngữ nào; trái lại, một
kết quả có ý nghĩa quan trọng đã được khám phá. Bởi vì, bằng cách giản lược bất
kỳ số hạng đơn không đổi hay danh từ riêng nào thành các thuộc từ phù hợp với
chúng, lần đầu tiên trong lịch sử triết học Ấn độ, Thế Thân không những loại bỏ
vĩnh viễn sự coi trọng mang tính chất tôn giáo mà các trường phái như Mīmāmsaka
mắc phải đối với từ ngữ và các hậu quả xuất phát từ sự coi trọng này[1] như sự
giả định về thực tại tính của từ ngữ được tán thành một phần bởi Tỳ Bà Sa hoặc
trọn vẹn bởi các bộ phái khác, mà Thế Thân còn nhận ra, qua sự giản lược này,
khái niệm lan truyền (vyāpti) và ý nghĩa của nó.
Ngày nay, người ta
thường đồng ý một suy luận trong luận lý học Ấn độ có thể được viết dưới dạng:[2]
(2) ("x) [A(h,x) ® A(s,x)]
trong đó A(y,x) chỉ
quan hệ lan truyền của số hạng y trong x, h là đặc tính được biết (hetu), và s
là đặc tính được chứng minh (sādhya). Tuy nhiên, chỉ có thể viết một dạng như
thế nếu quan hệ lan truyền được giả định, như nó đã quá hiển nhiên mà không cần
phải chứng minh. Thế nhưng, cho đến thời đại Thế Thân quan hệ đó chưa bao giờ
được phát biểu và nghiên cứu công khai, mặc dù công bằng mà nói, cần lưu ý rằng
những người đi trước ông chắc chắn đã có thông tin về nó. Thí dụ, Nyāyasūtra đã
diễn tả ý tưởng rằng nếu một x nào đó tồn tại thì một y nào đó chắc phải tồn
tại.[3] Rõ ràng, tác giả của nó đã có một ý tưởng nào đó về khái niệm lan
truyền. Cũng phải nói điều như thế đối với Tỳ Bà Sa. Trong lời bàn của mình về
bốn tướng của pháp hữu vi, được dịch ở Chương III của nghiên cứu này, Thế Thân
có đề cập đến một định nghĩa của Tỳ Bà Sa mà ông xem là “không phổ biến”
(avyāpin).[4] Điều này chỉ rõ ít ra Tỳ Bà Sa hẳn đã biết đến khái niệm lan
truyền mặc dù có lẽ không phải theo ý nghĩa chuyên biệt của nó. Và với việc Thế
Thân sử dụng từ “avyāpin” ở đây, ta cũng có thể chấm dứt ngay khẳng định sai
lầm của một tác giả nào đó: “Nên lưu ý rằng các nhà luận lý học Phật giáo đã
không dùng từ vyāpin cho quan niệm này. Thay vì thế họ dùng từ ‘hetusādhyapratibandha’,
có nghĩa đen là ‘nối kết hetu và sādhya với nhau.’”[5]
Như vậy, mặc dù ngày
nay hầu như tất cả các tác phẩm luận lý của ông đã mất hoặc chỉ còn lại từng
phần trong nhiều bản dịch khác nhau, ta vẫn có thể, qua việc khám phá nguyên bản
Phạn văn Câu Xá Luận, tin chắc rằng trong phạm vi các tư liệu này cho phép thì
Thế Thân đã tìm ra không chỉ quan niệm lan truyền mà còn cả từ ngữ vyāpin,
chuyển tải ý nghĩa này. Vậy thì, vấn đề là ông đã tìm ra quan niệm này như thế
nào. Điều này tương đối dễ giải quyết, vì trong phạm vi của thuyết mô tả ta có
thể mong đợi một kết quả như thế. Ta đã thấy rằng để chống lại giả thuyết của
Tỳ Bà Sa về từ ngữ, Thế Thân đã phải phát minh một công cụ luận lý giúp ông
loại bỏ mỗi và mọi từ mà Tỳ Bà Sa có thể xem như biểu trưng các vật thể nào đó.
Công cụ đó về sau được đồng hóa thành thuyết mô tả tổng quát mà chúng ta đã bàn
đến. Nhưng một công cụ như thế chỉ có thể vận hành nếu một thuyết nào đó về
tính thay thế được giả định, trong đó cái thay thế được xem như tương đương với
cái mà nó có thể thay thế. Kết quả là việc loại bỏ một từ chỉ xảy ra khi tính
thay thế có sẵn được giả thiết, tức khi cái thay thế nó được lan truyền bởi nó.
Với một số hạng đơn n
không đổi, một thuộc từ N có thể như thế nào đó để cho (ix)N(x) là đúng đối với
bất kỳ cái gì mà n cũng đúng [đối với nó], nếu và chỉ nếu N được lan truyền bởi
n. Chẳng hạn, từ “sinh” có thể được thay bằng các nhóm từ như “cái gì đó đang
hình thành” hay “cái gì đó đang hiện hữu đã không hiện hữu trước đây”, nếu và chỉ
nếu tất cả chúng đều tương đương với nhau, có nghĩa là nếu và chỉ nếu các nhóm
từ đó được lan truyền bởi từ ‘sinh’ để chúng có thể chuyển tải những gì mà từ
ngữ đó chuyển tải. Vì thế tính khả hoán của từ đó phải dự liệu một quan hệ giữa
nó và cái thế chỗ nó. Số hạng n phải có một quan hệ R với N của nó để cho
(ix)N(x) là một thay thế có giá trị đối với n. Và để (ix)N(x) là một thay thế
có giá trị, quan hệ R đó phải là một quan hệ có sẵn, tức là quan hệ cho phép số
hạn n lan qua thuộc từ N của nó để cho (ix)N(x) chuyển tải được những gì chính
n chuyển tải. Nói cách khác, quan hệ đó phải là một quan hệ lan truyền, được
chứng minh rõ ràng trong công thức (1): với bất kỳ thực thể x nào như thế thì
bất kỳ một số đặc tính f, g, v.v. nào cũng đúng đối với nó, và nếu có một đặc
tính f như thế để cho f(x), thì cũng có một đặc tính g như thế để cho g(x). Như
vậy, khái niệm về quan hệ lan truyền đã hàm tàng trong thuyết mô tả của Thế
Thân. Thật vậy, một lý thuyết như thế khó có thể được đề ra nếu khái niệm đó
không được giả định. Để có giá trị, học thuyết về tính khả hoán phải phụ thuộc
vào sự có mặt của khái niệm này.
Nay nếu chúng ta
chuyển quan hệ lan truyền đó từ chữ sang câu thì rõ ràng chúng ta sẽ có một
quan hệ đồng nhất. Chúng ta đã chỉ ra rằng với bất kỳ biểu thức nào có dạng
(ix)N(x), ta luôn luôn có thể thay thế nó, theo các quy tắc được biết, bằng một
tác dụng F như F(x). Như vậy, thay vì nói “sinh là cái đang hiện hữu đã không
hiện hữu trước đây”, ta luôn luôn có thể nói “sinh chỉ cho cái gì đó đang hiện hữu
đã không hiện hữu trước đây”, tức, thay vì:
(3) n = (ix)N(x)
ta có:
(4) ("x) ($y)
[f(x):(x = y) ® g(y)]
Nói cách khác, khi ta
đồng nhất chữ ‘sinh’ với nhóm từ ‘cái gì đó đang hình thành’ thì tất nhiên câu
nói “đây là sự sinh của cái gì đó” nhất thiết phải có nghĩa “cái gì đó đang
hình thành” hoặc “đây là cái gì đó đang hình thành.” Quan hệ lan truyền giữa
chữ ‘sinh’ và nhóm từ ‘cái gì đó đang hình thành’ cho phép thay chữ trước bằng
nhóm từ sau trong bất kỳ văn mạch nào nơi nó được đòi hỏi và khi sự rõ ràng về
mặt triết học được cần đến. Tương tợ, quan hệ này phải có mặt trong việc khẳng
định rằng “đây là sự sinh của cái gì đó” cũng hàm ý “đây là cái gì đó được hình
thành.” Cả hai loại quan hệ này đều được gọi là lan truyền. Thật ra, tính lan
truyền thường được hiểu như một tiêu chuẩn để xem xét sự hoàn chỉnh của một
định nghĩa và như vậy nó được sử dụng phổ biến. Ta đã thấy Thế Thân sử dụng từ
avyāpin, không-phổ-biến, để phê phán định nghĩa của Tỳ Bà Sa. Gangeśa và học
phái của ông cũng phát triển một học thuyết phức tạp về định nghĩa, dựa vào
việc tìm hiểu những gì mà quan niệm ‘lan truyền’ chứa đựng.[6] Vì thế, ta có
thể nói rằng quan hệ lan truyền giữa các từ ngữ rơi vào phạm vi của học thuyết
về định nghĩa, nếu ta xem thuyết mô tả trong ý nghĩa giới hạn của nó là tương
đương với thuyết định nghĩa trong ý nghĩa phổ quát nhất của nó. Tuy nhiên, quan
hệ đó, nếu áp dụng cho các phát biểu, rõ ràng là một quan hệ đồng nhất. Vậy,
lan truyền là gì?
Từ vyāpin, lan
truyền, được dùng lần đầu tiên theo nghĩa chuyên môn của nó ở trong Vādavidhi,
trong đó người chống đối ông dùng nó để đưa ra một chứng cứ sai lầm dựa vào
“tính tương tợ của nhận thức.”[7] Cũng chính trong đó, lần đầu tiên Thế Thân
định nghĩa lan truyền là gì. Theo ông, “một vật mà nó không thể xuất hiện nếu
không có một vật khác thì được cho là được nối kết bất khả phân với vật khác
đó, thí dụ như lửa với khói”, và “suy luận là sự tri nhận trực tiếp về vật được
nối kết bất khả phân đó bởi người nào đó có ý thức về sự nối kết bất khả phân
đó.”[8] Vì thế, lan truyền được định nghĩa qua sự nối kết bất khả phân. Và
trong Vādavidhi, sự nối kết này đã được nhìn theo hai cách khác nhau. Thứ nhất,
nó được định nghĩa qua sự không-xảy-ra của một vật nếu không có sự xảy ra của
một vật khác mà nó được nối kết bất khả phân. Thứ hai, nó được định nghĩa qua
sự không-xảy-ra của một đặc tính, tức “một đặc tính mà nó không bao giờ xảy ra
trừ khi một đặc tính khác có mặt thì được cho là được nối kết bất khả phân với
đặc tính khác đó.”[9]
Hai quan điểm này
phản ánh rất rõ nguyên tắc chính của Thế Thân về thuyết mô tả, vốn khẳng định
rằng một số hạng đơn không đổi hay một danh từ riêng luôn luôn có thể được thay
bằng một thuộc từ thích hợp, và ngược lại. Giả định của chúng ta là khái niệm
lan truyền là quan niệm nền tảng của thuyết mô tả. Thế Thân không chỉ phát biểu
rằng sự xảy ra của một vật đòi hỏi sự xảy ra của một vật khác để có thể đáp ứng
các điều kiện lan truyền mà còn phát biểu rằng điều đó cũng đúng đối với các
đặc tính của một vật.
Vượt lên trên thuyết
mô tả thì định nghĩa vừa nêu, trước tiên, là một định nghĩa lan truyền khi nó
được áp dụng vào suy luận luận lý. Nói rằng Per (A,B), trong đó Per có nghĩa A
lan qua (pervading) B, cũng chính là nói rằng:
(5) ("x) (A(x) ®
B(x))
Có nghĩa là đối với
mỗi thực thể x, nếu được cho A(x) thì ta luôn luôn có thể suy ra B(x). Hoặc,
theo thuật ngữ của Thế Thân, nếu được cho h (hetu) ta luôn luôn có thể chứng
minh s (sādhya, cái được chứng minh), dĩ nhiên là với giả định Per(h,s). Nay ta
đã thấy rằng lan truyền được định nghĩa qua sự nối kết bất khả phân
(avinābhāva), nói rằng “một vật mà nó không bao giờ xảy ra trừ khi một vật khác
có mặt thì được gọi là vật được nối kết bất khả phân với vật khác đó; hoặc một
đặc tính mà nó không bao giờ xảy ra trừ khi một đặc tính khác có mặt thì được
cho là được nối kết bất khả phân với đặc tính khác đó.” Như vậy, không phải chỉ
có s bất cứ khi nào có h, mà bất cứ khi nào không có s thì nhất định cũng không
có h. Vì thế, định nghĩa này có dạng:
(6) ("x) ($y)
{-h(x) & ("x) ("y) (x = y) ® -[s(x)]}
và dạng này có thể
đơn giản hóa để cho công thức (5). Rõ ràng, định nghĩa lan truyền bằng sự nối
kết bất khả phân cũng chính là định nghĩa nó qua sự không-tách-ly
(avyabhicāritatva). Đây chính là ý nghĩa mà những người nối tiếp Thế Thân đã
hiểu. Vì thế, khi Thế Thân phát biểu “cái mà qua đó sự nối kết bất khả phân
được biểu thị, cái đó được gọi là thí dụ”, thì Pháp Xứng (Dharmakīrti) cũng đã
lập lại tương tợ khi nói rằng “vì vậy, h đang lan truyền s vì có quan hệ cần
thiết, và quan hệ này gồm hai loại, loại đồng nhất và loại ngoại động, và chính
sự nối kết bất khả phân đó được biểu trưng bởi cả hai loại thí dụ”,[10] mặc dù
trong Pramāṇavārttika, ông vẫn tiếp tục dùng từ avyabhicārita, không-tách-ly,
thay vì avinābhāva, nối kết bất khả phân. Việc dùng từ “nối kết bất khả phân”
để định nghĩa, hay ít ra, để hoán đổi từ ngữ “không-tách-ly” sau đó đã trở
thành phổ biến không chỉ trong số những người theo Thế Thân mà còn cả những
người thuộc các học phái khác, trong đó vị trí nổi bật nhất phải được dành cho
Navyanaiyāyika, đặc biệt là Gangeśa và Mathurānātha. Chẳng hạn, trong khi giải
thích từ avyabhicāra trong bài tụng 21 của phần Tự Suy Luận cuốn Nyāyabindu của
Pháp Xứng, thì Pháp Thượng (Dharmottara) đã không ngần ngại xem nó tương đương
với từ avinābhāva.[11] Mathurānātha, nếu không phải là Gangeśa, cũng vậy.
Trong cuốn
Tattvacintāmani, khi bàn về vấn đề suy luận, Gangeśa đã dành trọn một phần để
khảo sát sự lan truyền là gì, trong đó, ngoài ý kiến riêng của mình, ông đã bàn
đến hai mươi mốt định nghĩa khác nhau mà ông cho là không thỏa đáng. Trong số
đó, định nghĩa thứ mười chín cho rằng quan hệ lan truyền là loại quan hệ nối
kết bất khả phân.[12] Định nghĩa này dĩ nhiên không gì khác hơn định nghĩa của
Thế Thân. Khi bình giải nối kết bất khả phân là gì, Mathurānātha nói rằng đó là
“những gì khác với sự xảy ra trong một nơi không có s.”[13] Nhưng khi giải
nghĩa sự nối kết bất khả phân bằng các từ đó, rõ ràng ông đã đồng nhất định
nghĩa đó với định nghĩa số 1 về sự không-tách-ly là gì, bởi vì cùng nhóm từ này
đã được Gangeśa sử dụng để mô tả tính chất của không-tách-ly trong định nghĩa
số 1 nói trên.[14] Định nghĩa số 1 nói rằng không-tách-ly có thể được định
nghĩa là “sự không xảy ra [của h] ở nơi không có s”
(sādhyābhāvavad-avṛttitvam). Như vậy, dù Gangeśa xem định nghĩa lan truyền bằng
sự nối kết bất khả phân của nó như là một định nghĩa độc lập, Mathurānātha lập
tức nhận ra rằng đó chỉ là một dạng khác của định nghĩa về không-tách-ly. Điều
này hiển nhiên không làm chúng ta ngạc nhiên gì cả vì chúng ta đã thấy một sự
nhìn nhận như thế xuất hiện trong các tác phẩm của cả Pháp Xứng và Pháp Thượng;
đó là chỉ mới đề cập một vài luận sư đại biểu mà các nguyên tác Phạn ngữ của họ
vẫn còn giữ và được mọi người biết đến.
Nguyên nhân chúng tôi
nêu ra các diễn giải điển hình về những gì từ ‘nối kết bất khả phân’ ám chỉ
xuất phát từ các kết quả luận lý của chúng nhiều hơn là sự quan tâm về mặt lịch
sử. Chúng tôi đã nói rằng tất cả các tác phẩm luận lý của Thế Thân, như chúng
ta có thể biết được ngày nay, đều chỉ còn giữ được trong các mảng rời rạc, chủ
yếu bằng Hán văn và Tạng văn. Vì thế, chúng ta không có điều kiện thu thập đầy
đủ tài liệu để có thể đạt đến một hiểu biết hợp lý về các lý thuyết luận lý chủ
chốt của Thế Thân mà không phải nhờ vào các diễn giải khác có thể có được. Vì
vậy, dù chúng ta biết được định nghĩa Thế Thân đã cho về sự nối kết bất khả
phân và trường hợp trong đó nó được áp dụng, nhưng chúng ta vẫn không biết ông
đã đạt đến một định nghĩa như thế bằng cách nào và nó có giá trị ở chừng mực
nào. Sự phản bác được đưa ra về giá trị của một định lý phản chuyển là minh họa
phù hợp nhất.
Ở đây, người phản bác
Thế Thân, vốn dựa vào lập luận “tính chất không trường cửu của âm thanh được
suy ra từ trạng thái sinh khởi của nó do một cố gắng (công lực sinh), đã trả
lời rằng đây không phải là h đối với tính không trường cửu, vì trong trường hợp
của tia chớp, v.v. tính không trường cửu được tri nhận nhờ các phương tiện nhận
thức khác như hiện lượng, v.v.”; điều này rõ ràng muốn nói rằng, đối với ông
ta, tình trạng sinh khởi do một cố gắng không phải là lý do cần và đủ (h) để
khẳng định rằng một cái gì đó không trường cửu; bởi vì, như mọi người đều tự
nhìn thấy, tia chớp, vốn không trường cửu, đã không “khởi do một cố gắng.” Cũng
trong mảng luận thư còn lại đó, Thế Thân còn thêm rằng “những người khác trình
bày điều này (tức sự phản bác) theo một cách khác: ‘Không có h đối với sự không
trường cửu ở đây, vì không có sự lan truyền (vyāpti), giống hệt như trong
trường hợp của luận thuyết cho rằng hoạt động có ý thức nhất thiết phải hiện
hữu đối với cây cối, do chúng có ngủ vào ban đêm, một h chỉ xảy ra đối với loại
cây śirīsa.’”[15]
Về lời phản bác thứ
nhất, Thế Thân chỉ rõ rằng “chúng tôi không chủ trương mọi vật không trường cửu
đều khởi do một cố gắng, mà chỉ chủ trương cái đã khởi do một cố gắng thì phải
không trường cửu.”[16] Câu trả lời cho lời phản bác thứ hai nay đã mất. Tuy
nhiên, chúng ta có thể đoán rằng một lập luận tương tợ chắc hẳn đã được ông đưa
ra; đó là, chúng tôi không chủ trương tất cả các loại cây đều có hoạt động ý
thức chỉ vì các cây śirīsa đã có hoạt động như thế do sự kiện chúng ngủ vào ban
đêm. Những câu trả lời này dự kiến rõ ràng rằng chắc hẳn đã có một số bàn luận
về cái lập thành sự lan truyền và, từ đó, về sự nối kết bất khả phân. Bởi vì
khi chủ trương một định lý nào đó là đúng ở dạng thông thường của nó chứ không
phải ở dạng phản chuyển, tức cũng muốn nói rằng sự lan truyền và nối kết bất
khả phân phải có giới hạn nào đó, mà vượt ra khỏi giới hạn này thì nó không thể
ứng dụng được. Thế nhưng, những luận bàn như thế, nếu có xảy ra, bây giờ cũng
không thể tìm thấy.
Trần Na than phiền
rằng trong khi Thế Thân nêu ra các lập luận sai luận lý, ông chỉ đưa ra trường
hợp và thí dụ của nó mà không có nhận xét nào về khía cạnh lý thuyết.[17] Lời
than phiền này có thể xác chứng dựa vào những gì chúng ta biết được ngày nay.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nếu Thế Thân không bàn đến khía cạnh lý thuyết của
nhiều lập luận sai luận lý khác nhau thì có thể đây là trường hợp do ông đã
tiến hành một sự tra cứu triệt để trước đó khi tiếp cận vấn đề lan truyền và
định nghĩa của nó bằng sự nối kết bất khả phân. Chúng ta có thể suy đoán một
trường hợp như thế, bởi vì từ những gì còn lưu giữ được, chúng ta biết rằng Thế
Thân thực sự đã tỏ ra quan tâm đến một định nghĩa chính xác về lan truyền là
gì.
Sau khi định nghĩa
lan truyền là sự nối kết bất khả phân, có nghĩa là “một vật mà nó không bao giờ
xảy ra trừ khi có mặt một vật khác thì được gọi là cái được nối kết bất khả
phân với vật khác đó; hay, nói cách khác, một đặc tính mà nó không bao giờ xảy
ra trừ khi có mặt một đặc tính khác thì được nói là được nối kết bất khả phân
với đặc tính khác đó”, thì Thế Thân tiếp tục nói rằng “thí dụ như âm thanh
không bao giờ xuất hiện tách rời với sự không trường cửu, bởi vì cái đã khởi do
một cố gắng không bao giờ xảy ra mà lại tách rời với sự không trường cửu, và
tương tợ như thế, khói không bao giờ xảy ra tách rời với lửa.”[18] Phát biểu
thêm này nhằm đưa ra một số thí dụ cho định nghĩa của ông và chỉ rõ những gì
ông muốn nói về giới hạn cũng như sự áp dụng định nghĩa của ông về lan truyền
là sự nối kết bất khả phân và nội dung của nó “một vật hay một đặc tính mà nó
không bao giờ xảy nếu như không có sự hiện diện của một vật hay một đặc tính
khác thì được nói là được nối kết bất khả phân với vật hay đặc tính khác đó.”
Ông hẳn đã biết chắc rằng trạng thái sinh khởi do một cố gắng có thể được cho
là “được nối kết bất khả phân” với sự không trường cửu của âm thanh, nhưng chắc
chắn không nối kết với sự không trường cửu của tia chớp, điều mà chính ông đã
chỉ rõ. Nói cách khác, định lý phát biểu rằng bất kỳ vật gì đã khởi do một cố
gắng đều không trường cửu là một phát biểu đúng, nhưng không đúng trong trường
hợp ngược lại, tức bất kỳ vật gì không trường cửu cũng đều khởi do cố gắng.
Trong trường hợp của khói và lửa cũng thế: phát biểu bất kỳ khi nào có khói tất
cũng có lửa là một phát biểu đúng, nhưng không phải bất kỳ lúc nào có lửa cũng
đều phải có khói. Như vậy, qua các phát biểu này hiển nhiên Thế Thân phải biết
rằng định nghĩa của ông về lan truyền qua sự nối kết bất khả phân có thể được
áp dụng và thực hiện ở mức độ nào và ông đã bàn đến điều này trong phạm vi tra
cứu định nghĩa đó. Nếu không, có lẽ đối thủ của ông đã chỉ ra các khuyết điểm
của chính định nghĩa đó, viện lẽ rằng định nghĩa này thiếu tính phổ quát đối
với tất cả các trường hợp thuộc về nó, và vì thế quá hạn hẹp không thật sự phục
vụ được mục đích mà nó phải phục vụ như người ta nghĩ.
Giả định của chúng ta
được xác chứng thêm bởi sự im lặng đồng loạt của những người nối tiếp Thế Thân.
Họ tiếp tục sử dụng định nghĩa đó và thuyết minh bằng các thuật ngữ mới như
avyabhicāra, không-tách-ly, mà không biểu lộ nghi vấn nào. Trần Na là người đầu
tiên giới thiệu từ avyabhicāra như là từ đồng nghĩa với avinābhāva và cũng dùng
từ nāntarīyaka để thay cho từ avinābhāva. Thật vậy, các bản dịch Tây Tạng có
khi đã dùng cách diễn đạt tương tợ để dịch các từ mới này; chẳng hạn như dùng
med na mi hbyun ba để dịch cả từ avinābhāva và nāntarīyaka, mặc dù med na mi
hbyun ba là thành ngữ tiêu chuẩn để dịch từ avinābhāva.[19] Dĩ nhiên tình trạng
có vẻ như thiếu sự diễn đạt riêng biệt ở đây không làm chúng ta ngạc nhiên, bởi
vì trong cuốn Nyāyavārttika, Uddyotakara đã cho chúng ta biết rằng Trần Na định
nghĩa từ nāntarīyaka như sau: yo’rtho yam artham antarena na bhavati, sa
nāntarīyakaḥ, “một vật không xảy ra nếu không có vật khác là nāntarīyaka.”[20]
Thật vậy, những gì Trần Na nói về nāntarīyaka rất khớp với avinābhāva, vì định
nghĩa của ông hoàn toàn giống với định nghĩa của Thế Thân về hai từ này.[21] Vì
vậy, như Frauwallner đã nhận ra, từ những gì còn giữ được, chắc chắn Thế Thân
đã khởi xướng cách dùng các từ này và đã dùng chúng thế chỗ cho nhau như các từ
đồng nghĩa.[22]
Về từ avyabhicāra,
chúng ta đã nói rằng Trần Na là người đầu tiên giới thiệu nó, mặc dù với những
thông tin rải rác thu nhặt được về các tác phẩm luận lý của Thế Thân, chúng ta
vẫn có thể nói rằng có lẽ Thế Thân là người đầu tiên sử dụng từ này. Dù gì đi
nữa, khi mà những người nối tiếp Trần Na cũng như những người phê bình ông đều
xem nó là từ có thể hoán chuyển cho hai từ kia thì ta có thể đoan chắc rằng nó
thật sự chứa đựng cùng một nghĩa và hàm ý như thế. Chúng ta đã thấy Pháp Xứng
và Pháp Thượng dùng chúng như các từ đồng nghĩa. Cả Uddyotarakara và
Vacaspatimiśra cũng thế, mặc dù với sự chính xác hơn và sự đồng nhất đáng kể.
Họ chuyên dùng từ avinābhāva khi mô tả và phê phán thuyết lan truyền của cả Thế
Thân và Trần Na, mặc dù đôi khi cũng có nhắc đến hai từ kia.[23] Vì thế, ta có
thể chắc chắn rằng tất cả ba từ này, avinābhāva, nāntarīyaka và avyabhicāra,
cho đến thời của Gangeśa, đều được dùng thay cho nhau và có cùng nghĩa. Vào
thời của Gangeśa, hình như ông đã tách từ đầu với hai từ sau thành hai phạm trù
khác nhau, như ta đã thấy, bằng cách gom năm định nghĩa của avyabhicāra vào một
nhóm và định nghĩa của avinābhāva vào một nhóm riêng trong bảng liệt kê của ông
về các định nghĩa lan truyền. Ta cũng đã thấy rằng một sự phân chia như thế,
nếu có xảy ra, đã được Mathurānātha nhanh chóng điều chỉnh khi chính xác nhận
ra nó không là gì khác hơn một dạng khác của định nghĩa số 1 về sự
không-tách-ly. Như vậy, kể từ thời của Thế Thân và Trần Na, cả ba từ này đã
được dùng đồng nghĩa và hoán đổi cho nhau.
Mục đích của chúng ta
khi tái lập việc sử dụng các từ này về mặt lịch sử là nhằm đạt đến một sự hiểu
biết sâu hơn về những gì Thế Thân muốn nói khi ông định nghĩa lan truyền bằng
sự nối kết bất khả phân, bởi vì sự kiện các tác phẩm luận lý của ông chỉ còn
lại các mảng rời rạc đã không giúp chúng ta xác định trọn vẹn ý nghĩa cũng như
hàm ý chính xác của các từ này. Nay, ta biết rằng “nối kết bất khả phân” đồng
nghĩa với “không-tách-ly”; và, theo thông tin của Gangeśa, không-tách-ly có thể
được định nghĩa ít nhất theo năm cách, như đã được hiểu đến thời ông. Ông
nói:[24]
Nay, đối với sự hiểu
biết về lan truyền, tức nguyên nhân của một suy luận, thì lan truyền là gì? Nó
không chỉ là sự không-tách-ly của h đối với s, vì nó không phải là sự
không-tách-ly đó vốn được định nghĩa là sự không-xảy-ra của h ở nơi không có s
(1), cũng không phải là sự không-tách-ly được định nghĩa là sự không-xảy-ra của
h ở nơi không có s vốn khác với nơi có s (2), cũng không phải là sự
không-tách-ly được định nghĩa là h có một nơi khác với nơi không tồn tại cả hai
mà đối hữu của nó là một nơi có s (3), cũng không phải là sự không-tách-ly được
định nghĩa là h vốn là đối hữu của sự không tồn tại ở tất cả các nơi không có s
(4), cũng không phải là sự không-tách-ly được định nghĩa là sự không-xảy-ra của
h ở những gì khác hơn nơi có s (5), bởi vì lúc đó nó sẽ không thể áp dụng cho các
trường hợp thực hữu- phổ biến.
Như vậy, đến thời
Gangeśa, không-tách-ly có thể được định nghĩa ít nhất theo năm cách khác nhau,
như đã nêu trong đoạn dịch trên. Năm định nghĩa này, nếu ta thuyết minh bằng
luận lý toán học thì có thể dễ dàng chứng minh chúng tương đương với nhau, dù
rằng trong ngôn ngữ thông thường chúng hình như tách biệt nhau như ta có thể
tưởng tượng. Nhiều nhà nghiên cứu đã cố thuyết minh chúng, và không may các kết
quả đó đã đặt ra nhiều vấn đề, do cách dùng các ký hiệu khác nhau và các khái
niệm luận lý toán học của riêng từng người trong số họ.[25] Chẳng hạn như
thuyết minh gần đây nhất và thỏa đáng nhất hiện nay của Berg về các định nghĩa
này như sau:[26]
(i) ("x) – {h(x)
٨ x Î [y: – s(y)]}
(ii) ("x) – [(h)
٨ x Î (y: ("x) (s(z) ® y ≠ z)]
(iii) ($F) [("x)
("y) {[h(x) ٨ – F(y)] ® x ≠ y)] ("x) (F(x) ® s(x))]
(iv) ($F)
{("x)[h(x) ® F(x) ٨ ("x) [– s(x) ® – f(x)]}
(v) ("x) – [h(x)
٨ – s(x)]
trong đó F chỉ cho
đối hữu (pratiyogika) của một sự không tồn tại hỗ tương (anyonyābhāva), -F, đối
với h; và trong đó {y:s (y)} đọc là ‘nơi có s’, tức, vật thể y có s. Thuyết
minh trên của Berg, như đã nói, là thỏa đáng nhất vào lúc này. Tuy nhiên với
việc đưa vào ký hiệu Î, nó lại đặt ra vấn đề có phải khái niệm không-tách-ly,
như đã được Thế Thân và Trần Na cùng với những người tiếp nối họ nhận thức từ
đầu, có chứa đựng và chuyển tải khái niệm về chủng loại không, nhất là khi
chính ký hiệu Î có khả năng được diễn dịch và ứng dụng theo nhiều cách khác
nhau. Thí dụ, ta có một số lý thuyết song hành với nhau liên quan đến khái niệm
về chủng loại như thuyết của Russell, Zermelo, v.v., và mỗi thuyết đều có giá
trị và khó khăn riêng của chúng.[27] Chúng ta biết chắc rằng Trần Na bác bỏ
khái niệm đó, khi nó được những người cùng thời ông đeo bám, bằng cách trình
bày khái niệm này một cách hài hước như sau: “Nó (chủng loại) không đi, nó
không đứng, nó không tồn tại sau đó, nó không có thành phần, nó không rời chỗ
chứa của nó trước đó – đúng là cả một lô khuyết điểm!”[28]
Tuy nhiên ông vẫn đưa
ra thuyết của mình về điều này, theo đó chủng loại không phải là một lãnh vực
của các thực thể tự tồn tại, mà là một khái niệm trừu tượng có thể được định
nghĩa như thế nào đó để cho không một thực thể nào được mặc định và được gán
cho một thực tại tính. Như vậy, nếu chữ ‘bò’ có thể áp dụng cho cả một loạt các
thực thể riêng biệt có các đặc tính như thế-và-như thế, thì sẽ không cần phải
giả định sự tồn tại của bất kỳ thực thể nào được gọi là ‘tính chất bò’, một
tính chất mà các cá thể có tên là ‘bò’ đó đều có phần. Thay vì thế, người ta
quan niệm rằng một khả năng ứng dụng rộng rãi như thế xảy ra bởi vì chữ ‘bò’
loại bỏ bất cứ cái gì không phải là bò.[29] Thuyết về chủng loại này dĩ nhiên
có các giá trị riêng của nó, cho dù các tính chất nặng nề của nó đã được chúng
ta chỉ ra ở chương trước.
Đối với quan niệm
chủng loại của Thế Thân, dù ta có thể chắc chắn rằng ông đã bác bỏ, giống như
Trần Na, ý tưởng về sự tồn tại của nó như một thực thể kiểu Plato, ta vẫn không
nắm chắc điều gì cả về những suy luận đặc trưng ông có trong đầu, nhất là đối
với thuyết lan truyền của ông. Mặc dù điều này, ta phải lưu ý rằng, trong khi
phê phán thuyết về từ ngữ của Tỳ Bà Sa, thuyết đã đặt nền tảng cho thuyết mô tả
của ông, Thế Thân đã mạnh mẽ phủ nhận nhu cầu phải giả định sự tồn tại của các
thực thể như “số” hoặc “khoáng trương” để giải thích các từ ‘một, hai’ hoặc
‘dài, ngắn’, vì theo ông những từ đó và tương tợ có thể được thay thế bởi các
nhóm từ khác tương đương. Vì thế, ngay khi khái niệm chủng loại và biểu tượng
của nó được đưa vào, ta luôn luôn có thể thay chỗ nó bằng một mô tả đúng, tức,
nếu có một chủng loại j như thế để cho đối với tất cả x thì x Î j , ta luôn
luôn có i(j) N(j). Như vậy, có thể lập luận rằng Berg đã chính xác khi đưa ký
hiệu Î vào thuyết minh của ông về năm định nghĩa về sự không-tách-ly, nếu đó là
các định nghĩa của Thế Thân. Thế nhưng, theo hiểu biết hạn hẹp hiện nay của
chúng ta về các tác phẩm luận lý của Thế Thân, chúng ta phải nhìn nhận rằng,
như đã nói trước đây, khái niệm không-tách-ly thuộc về thuật ngữ của Trần Na,
và như vậy việc đưa vào một ký hiệu như thế tương đối không cần thiết, nhất là
khi nó có thể tạo ra rắc rối và ngộ nhận. Vì vậy, chúng tôi đề nghị trình bày
lại năm định nghĩa này ở đây, chỉ dựa vào quan hệ đồng nhất hơn là chủng loại.
(7) ("x) – {(h(x)
& ("x) ("y) (x = y) ® [("y) – s(y)]}
(8) ("x) – {h(x)
& ("x) ("y) (x = y) ® [("y) ("z) s(z) ® y ≠ z)]}
(9) ($F) {("x)
("y) [(h(x) & - F(y)]} ® {(x ≠ y) & ("x) [F(x) ® s(x)]}
(10) ($F) {("x)
[h(x) ® F(x)] & ("x) [– s(x) ® – F(x)]}
(11) ("x) –
{h(x) & ("x) ("y) (x ≠ y) ® [("y) s(y)]}
Với thuyết minh mới
này, ta có thể dễ dàng chứng minh năm định nghĩa này tương đương với nhau về
mặt luận lý và chuyển tải chính xác quan niệm lan truyền, như đã được Thế Thân
định nghĩa trong phạm vi của khái niệm về sự nối kết bất khả phân. Một kết quả
như thế chắc chắn không gây nhiều ngạc nhiên nếu xét đến sự kiện Gangeśa đã
liệt kê chúng như những dạng khác nhau của định nghĩa đầu tiên về sự
không-tách-ly. Hơn nữa, Mathurānātha khi bình giải đoạn văn của Gangeśa cũng đã
nhận ra được chúng đồng nhất với nhau qua việc chỉ ra các trường hợp trong đó
mỗi định nghĩa sẽ không áp dụng được do sự khiếm khuyết của nó. Như vậy, ông đã
sử dụng trường hợp tương tợ của một suy luận rằng “nó sở đắc sự tiếp xúc với
một con khỉ bởi vì nó là cây này”, trong đó ba định nghĩa đầu không áp dụng
được và vì thế không có giá trị, nếu ta không kể đến định nghĩa thứ tư cũng có
loại suy luận đó trong số những suy luận khác thuộc các trường hợp mà nó không
đúng đối với chúng.[30] Về định nghĩa thứ năm, Mathurānātha đã nhét nó vào giữa
các đoạn văn khác trong giải thích của ông về định nghĩa thứ nhất như ông đã
thừa nhận.[31] Ngoài ra, ông còn lưu ý rằng định nghĩa thứ ba có thể được diễn
dịch để có nghĩa giống như định nghĩa thứ năm,[32] dù ông có thêm rằng chúng có
thể có sự khác nhau riêng.[33]
Việc nhận ra sự tương
đương của năm định nghĩa này còn được xác chứng thêm bởi phương pháp ngày nay.
Goekoop, sau khi chính thức hóa chúng bằng luận ký học ký hiệu hàm số diễn toán
lần thứ nhất (first-order predicate calculus), đã không bằng lòng với việc chỉ
phát biểu rằng chúng tương đương với nhau về mặt luận lý mà còn khẳng định rằng
chúng cũng tương đương với chính định nghĩa về lan truyền, vốn đã được chứng
minh là có giá trị. Ông nói, “Sự kiện năm định nghĩa tương đương với nhau về
luận lý và với công thức (6) của sự lan truyền có thể được chứng minh dễ dàng
bằng vi tích phân mà qua đó chúng ta đã thuyết minh chúng.”[34] Lý do chúng
không chỉ tương đương với nhau về luận lý mà còn tương đương với định nghĩa có
giá trị về sự lan truyền sẽ được bàn đến sau. Nay, chúng ta nên trở lại các
giải thích của Mathurānātha để xem các trường hợp ông nói đến có liên hệ như
thế nào với thuyết lan truyền và định nghĩa về nó của Thế Thân.
Chúng ta đã nói rằng
đối với Mathurānātha, định nghĩa thứ năm tương đương với định nghĩa thứ nhất,
và cũng tương đương với định nghĩa thứ ba ở phương diện nào đó. Sau khi giải
thích làm thế nào để diễn dịch nhóm từ “khác hơn nơi có s” của định nghĩa đó,
ông nhận xét rằng “như vậy định nghĩa này không bao quát để áp dụng nơi [có một
suy luận sai] như ‘Nó có khói vì nó có lửa’, cho dù trong h có sự không-xảy-ra
đối với một cái hồ, v.v., vốn khác hơn nơi có khói, và cho dù trong h không có
sự kết hợp của nước và sự xảy ra đối với cái khác hơn nơi có khói.”[35] Nhận
xét này thú vị ở điểm nó dẫn chúng ta trở lại một trường hợp suy luận được Thế
Thân xem là chứng cứ sai do sự chuyển hoán của nó mà chúng ta đã thuật lại ở
trên. Trong đó, đối thủ của ông, vì dựa vào suy luận thông thường cho rằng ‘âm
thanh thì không trường-cửu vì khởi do cố gắng’, đã chứng minh một suy luận như
thế là sai lầm bởi vì có các vật khác như chớp, v.v cũng không trường cửu nhưng
không khởi do cố gắng. Thế Thân thừa nhận sự kiện chớp là không trường cửu và
không khởi do cố gắng là một sự kiện có thật. Tuy nhiên, suy luận ‘âm thanh là
không trường cửu vì khởi do cố gắng’ cũng là một suy luận đúng chứ không phải
sai do sự kiện trên. Trái lại, nếu có một suy luận sai thì nó thuộc về phía của
đối thủ ông, và điều này là đúng. Đối thủ ông nghĩ rằng nếu một phát biểu là
đúng thì trường hợp phản chuyển của nó cũng đúng. Như vậy, nếu suy luận cho
rằng bất kỳ cái gì khởi do cố gắng đều không trường cửu là một suy luận đúng,
vậy thì phản chuyển của nó là bất kỳ cái gì không trường cửu đều khởi do cố
gắng cũng phải đúng, một điều rõ ràng không đúng. Vì vậy, sự ứng dụng sai cách
nói phản chuyển như trên được Thế Thân nắm rõ và nó cũng xuất hiện trong nhận
xét của Mathurānātha khi giải thích nội dung định nghĩa thứ năm. Một lần nữa,
nếu có một quan hệ sít sao như thế giữa chúng với nhau thì điều này cũng không
gây nhiều ngạc nhiên. Chúng ta có thể chỉ so sánh phần trình bày định nghĩa thứ
năm với phần trình bày định nghĩa thứ nhất và với công thức (6) để thấy rằng
chúng thật sự tương đương nếu không phải là hoàn toàn đồng nhất.
Với sự kiện năm định
nghĩa được chứng minh không những tương đương với nhau về luận lý mà còn cả với
định nghĩa có giá trị về sự lan truyền, chúng ta phải tự hỏi tại sao Gangeśa
khẳng định rằng “chúng không áp dụng được trong trường hợp các thực tại phổ
biến (universal-positive).” Mathurānātha làm rõ hơn khẳng định đó như sau:
Vì tất cả những định
nghĩa này quá hạn hẹp không thể áp dụng nơi s là một thực hữu-phổ biến, tác giả
của chúng ta phê bình tất cả với lời lẽ ‘vì lan truyền không phải là bất kỳ
định nghĩa nào trong số này nơi s là một thực hữu-phổ biến.’ Ý của ông là: (a)
lan truyền không phải là bất kỳ định nghĩa nào trong năm định nghĩa này nơi s
xảy ra hoàn toàn và là một thực hữu-phổ biến, như trong những suy luận có giá
trị như ‘Nó được đặt tên vì nó được biết đến’; và (b) lan truyền không phải là
bất kỳ định nghĩa nào trong bốn định nghĩa cuối nơi s không hoàn toàn xảy ra và
thực hữu-phổ biến, như trong các suy luận có giá trị như ‘Nó sở đắc sự không
tiếp xúc với một con khỉ vì nó sở đắc thực tại.’ Điều này bởi vì [trong trường
hợp (a)] người ta không thể tìm thấy thí dụ nào về sự không tồn tại của s mà
cái đối hữu bị giới hạn đối với nó bởi quan hệ hạn chế của tính khả chứng, cũng
không thể tìm thấy một thí dụ về sự không tồn tại hỗ tương mà cái đối hữu bị
giới hạn đối với nó bởi tình trạng của s có chỗ của nó mà chỗ này bị giới hạn
bởi quan hệ hạn chế của tính khả chứng; và vì [trong trường hợp (b)] người ta
không thể tìm thấy thí dụ nào về nơi không giới hạn trong s trong những suy
luận như ‘Nó sở đắc sự không tiếp xúc với một con khỉ vì nó sở đắc thực
tại.’[36]
Đó thực sự là một
minh giải rất hữu ích ở điểm nó cho chúng ta thông tin về những gì Gangeśa đặc
biệt có trong đầu ông khi ông sử dụng từ “thực hữu-phổ biến” để phê phán năm
định nghĩa về sự không-tách-ly. Các “thực hữu-phổ biến” là các trường hợp trong
đó có một từ không thể phủ định trong số các từ lan truyền. Như vậy, trong
trường hợp những suy luận như ‘Nó có thể được đặt tên vì nó có thể được biết đến’,
Gangeśa và bộ phái của mình đòi hỏi rằng những từ như ‘có thể đặt tên’ và ‘có
thể biết đến’ là không thể phủ định được, nhất là từ ‘có thể biết đến’; trong
Phạn văn, do tập quán ngôn ngữ nên từ này có dạng của một danh từ, jñeyatva, sự
khả tri, và vì thế, yêu cầu rằng ‘một vật thể không bao giờ xảy ra trừ khi một
vật thể khác có mặt’ thì không được đáp ứng. Và yêu cầu này là nền tảng của tất
cả năm định nghĩa trên. Kết quả là chúng cũng không được đáp ứng do trường hợp
đó.
Hiển nhiên, ta có thể
loại bỏ phê bình của Gangeśa vì nó chỉ là một nhận xét mang tính bộ phái về một
quy luật phổ quát, trong đó giáo điều của ông không thể vận dụng trôi chảy, và
vì lẽ đó, không đáng được xét đến. Hơn nữa, chúng ta đã giả định rằng năm định
nghĩa đó, vốn tương đương với nhau về mặt luận lý và chuyển tải đủ quan niệm
của Thế Thân về sự nối kết bất khả phân, thì cũng tương đương về luận lý với
định nghĩa có giá trị về sự lan truyền, định nghĩa mà ta có thể vạch ra một
cách thuận lợi nhất. Vì thế, không cần phải bàn cãi về phê phán của Gangeśa.
Ngoài ra, nếu xét giá trị ở bề mặt thì suy luận thuộc loại ‘Nó có thể được gọi
tên vì nó có thể được biết đến’ lại tạo ra một số khó khăn rất nghiêm trọng.
Chẳng hạn, dù Goekoop đã cố gắng chứng minh tại sao năm định nghĩa này ứng dụng
rất thích hợp với suy luận thuộc dạng ‘Nó có lửa vì nó có khói’, nhưng hoàn
toàn không thể ứng dụng cho trường hợp ‘Nó có thể được gọi tên vì nó có thể
được biết đến’, cho dù khẳng định chính xác mà ông đã đưa ra “Từ một quan điểm
thuần luận lý thì năm định nghĩa đều đúng...”[37], người ta vẫn có thể dễ dàng
rút ra một mâu thuẩn đối với suy luận thuộc dạng sau; như vậy, suy luận này sẽ
tự triệt tiêu khỏi bất kỳ sự bàn luận nào, huống hồ là phải chứng thực và suy
luận về nó.
Thật ra, trước đó
không lâu Potter đã chỉ ra rằng nếu ta chọn châm ngôn nổi tiếng của Naiyāyika,
nói rằng “tồn tại là có thể được biết đến và đặt tên” mà suy luận thuộc dạng
sau rõ ràng đã bắt nguồn từ đó, ít ra ở giá trị bề mặt của nó, thì ta có thể có
một nghịch lý sau: “Trong Phạn ngữ hoặc bất kỳ một ngôn ngữ phong phú nào khác,
từ ‘không thể đặt tên’ hay một chuyển ngữ của nó đều có thể được thốt ra. Nay
châm ngôn trên, vì áp dụng từ này, sẽ tạo ra một nghịch lý: bởi vì từ ‘không
thể đặt tên’ được thừa nhận như một tên gọi, cho nên có tồn tại cái không thể
đặt tên; nhưng vì mọi vật có tồn tại đều có thể đặt tên cho nên những cái không
thể đặt tên đều có thể được đặt tên; điều này tự mâu thuẩn.”[38] Sửa đổi nghịch
lý này với một số chữ thay thế, người ta có thể có sự tự mâu thuẩn sau đây đối
với suy luận trên: cái gì đó được đặt tên vì nó được biết đến:
Không-thể-đặt-tên là
một cái gì đó và nó chắc chắn có thể được biết đến.
Vì thế,
không-thể-đặt-tên thì có thể đặt tên vì nó là cái gì đó có thể được biết đến.
Rõ ràng, như chính
Potter đã nhận ra, những châm ngôn và suy luận như vừa được đề cập sẽ không
được xét đến theo giá trị bề mặt mà là theo thể hệ trong đó chúng vận hành, để
chúng có thể được hiểu và đánh giá đúng. Trong khi khảo nghiệm, Goekoop đã xét
suy luận đó theo giá trị bề mặt và vì thế đã chịu rủi ro không chính xác trong
việc đánh giá năm định nghĩa trên.
Thế nhưng, chính vì sự tồn tại của các khó khăn nghiêm trọng trong suy luận đó
mà nó đáng được tìm hiểu. Thật vậy, nếu ta đạt đến nghịch lý ‘cái
không-thể-đặt-tên thì có thể đặt tên’, nó sẽ lập tức làm chúng ta nhớ đến
nghịch lý của Russell về thuyết chủng loại, trong đó sự sai lầm thuộc loại:
($x) [(x Î x) ↔ -(x Î
x)]
thì có thể chứng
minh.[39] Nó dẫn chúng ta đến câu hỏi có phải thuyết lan truyền của Thế Thân có
liên hệ đến thuyết chủng loại hay không, và câu trả lời của nó chúng ta sẽ trở
lại ở cuối chương này. Ở đây, ta cần để ý rằng phê phán của Gangeśa không hẳn
vô giá trị nếu được xét và đánh giá đúng. Thật vậy, ta biết rằng với một luận
lý chủng loại nào đó, nếu ta có thể dịch các phát biểu thuộc một luận lý định
lượng nào đó thành luận lý chủng loại này, một cách dịch mà ai cũng biết là có
thể thực hiện bởi các quy tắc, thì sẽ có những phát biểu trong luận lý chủng
loại đó không thể diễn tả được nếu chỉ dựa vào giá trị của luận lý định
lượng.[40] Và đây thật sự là nguồn gốc phát sinh quan niệm về chủng loại trước
tiên. Như vậy, những từ được cho là không thể phủ định mà Gangeśa đã đề cập thì
không còn mang tính chất không-thể-phủ-định nhiều như những từ thuộc về chủng
loại. Chúng ta biết điều này bởi vì suy luận ‘Nó được đặt tên vì nó được biết
đến’, nếu căn cứ cách diễn giải nghiêm ngặt của Naiyāyika, thật sự không gì
khác hơn suy luận thuộc loại đồng nhất bởi lẽ ‘có thể đặt tên’ và ‘có thể biết’
đều là đặc tính của một vật thể. Cách diễn giải nghiêm ngặt, mà ta đã nhắc đến,
là cách này. Người ta thường lưu ý rằng “theo Nyāya, có một số thực thể mà sự
vắng mặt của nó không có nơi chốn; một thực thể như thế là đặc tính của sự
có-thể-được-đặt-tên (vācyatva, abhidheyatva), hay đặc tính của sự
có-thể-được-biết-đến (jñeyatva).”[41]
Với sự kiện Naiyāyika
“chủ trương mọi từ ngữ trong một nhận thức có giá trị phải tương ứng với một
thực thể đang tồn tại nào đó trong vũ trụ”, người ta sẽ tự hỏi vācyatva và
jñeyatva, hai từ có giá trị đối với ông, đang biểu thị một hay hai thực thể.
Thoạt nhìn, hình như chúng phải chỉ cho hai. Tuy nhiên, nếu nhìn lại thì chắc
chắn sẽ không phải như vậy nhờ vào giải thích của Uddyotakara. Trong luận thư
Kiranāvali, khi bàn về vấn đề chủng loại, Uddyotakara có nói đến sáu qui tắc
ngăn không cho cái gì đó là một chủng loại, và trong số đó qui tắc thứ hai gọi
là “tương đẳng” (tulyatva) có thể được phát biểu như sau: một biểu thức
‘x-tva’, áp dụng chính xác cho cùng các cá thể giống như một biểu thức ‘y-tva’
khác, có thể không biểu thị một nguyên tắc phổ quát thứ hai khác biệt với
nguyên tắc phổ quát mà ‘y-tva’ biểu thị.[42] Như vậy, suy luận “Nó có thể được
đặt tên vì nó có thể được biết đến” thật sự là một trùng phức vô vị, bởi vì nó
nối kết hai từ không những cùng dùng cho các thực thể giống nhau mà còn biểu
thị cùng một thực thể.
Vậy thì, những gì
chúng ta có về suy luận đó không phải là kiểu suy luận thuộc luận lý đồng nhất
hay định lượng mà đúng hơn là luận lý cổ điển. Vì vậy, việc so sánh nó với suy
luận kiểu ‘Nó có lửa vì nó có khói’, như Goekoop đã làm, thì không minh xác nếu
không phải là “không được chứng minh bằng thí dụ”, như Goekoop muốn nói. Chắc
chắn, kiểu lý kuận sau có thể được xem là hàm chứa khái niệm chủng loại, giống
hệt như tam đoạn luận tiêu chuẩn kiểu Aristote. Tuy nhiên, với việc tiếp tục
bàn cãi về vấn đề có phải luận lý học Ấn độ, nhất là luận lý Trần Na và trường
phái của ông, là nội hàm hay ngoại trương,[43] và về việc Trần Na bác bỏ thuyết
chủng loại thuộc kiểu Uddyotakara đại biểu và chúng ta đã nhắc đến ở trên, thì
tốt hơn là hãy tách biệt hai kiểu suy luận này.
Hơn nữa, suy luận “Nó
có thể được đặt tên vì nó có thể được biết đến” có thể rút ra một cách dễ dàng
từ qui tắc tương đẳng của Uddyotakara, trong khi đó suy luận “Nó có khói vì nó
có lửa” thì không thể, bởi lẽ các thuộc từ của suy luận đầu không chỉ áp dụng
cho các thực thể giống nhau mà còn biểu thị cùng một thực thể, trong khi các
thuộc từ của suy luận thứ hai thì không. Lửa và khói không áp dụng chính xác
cho các thực thể giống nhau, vì chúng ta có lửa của một hòn sắt nóng mà nó
không có khói, và cả hai cũng không biểu thị cùng một thực thể, vốn là kết quả
tự nhiên của trường hợp đầu. Điểm khác biệt cơ bản đó sẽ không làm ngạc nhiên,
vì người ta đã gợi ý rằng qui tắc tương đẳng của Uddyotakara có thể được thuyết
minh và nên được diễn giải như là định lý khoáng trương trong lý thuyết tập
hợp: Nếu A và B là các tập hợp và nếu mọi yếu tố của A là một yếu tố của B, và
ngược lại, thì A = B.
(12) x = y ↔
("w) (x Î w ↔ y Î w)
Cho dù thuyết minh và
diễn dịch này có thể được chứng minh là sai hay không khớp,[44] vẫn không có
bất cứ nghi ngờ gì về trường hợp nào mà qui tắc đó áp dụng và về hàm ý mà nó
chuyển tải trong các suy luận thuộc kiểu ‘Nó có thể được đặt tên vì nó có thể
được biết đến.’ Nhưng nếu thuyết minh đó hay một thuyết minh tương tợ nào đó có
cùng dạng được chứng minh là đúng cùng với một số định lý khác, thì ta có thể
hy vọng một nghịch lý thuộc loại trên sẽ tự nhiên nảy sinh.
Vì thế, cần lưu ý
rằng trong khi rút ra nghịch lý thú vị nói trên về cái không-thể-đặt-tên từ
châm ngôn “tồn tại là có thể được biết đến và đặt tên”, Potter đã xin lỗi
Naiyāyika. Ông nói rằng nếu ta có thể rút ra một nghịch lý như thế thì đó không
phải là lỗi của hệ Naiyāyika, bởi vì, ông lập luận, trong hệ thống đó sẽ có một
cơ cấu nào đó ngăn không cho những từ như ‘không-thể-đặt-tên’ nhập vào phạm trù
những cái có-thể đặt-tên và vì thế nghịch lý sẽ không xảy ra. Đúng ra là chúng
ta có lỗi khi tách châm ngôn đó ra khỏi phạm vi ngôn ngữ lý tưởng của họ và rồi
ứng dụng sai lạc vào thế giới biện luận thông thường, điều đã khiến cho nghịch
lý này xuất hiện. Tuy nhiên, lời xin lỗi này không cần thiết và gây ngộ nhận.
Bởi vì rõ ràng Potter đã quên rằng nhiều hệ ngôn ngữ lý tưởng khác nhau của thế
kỷ này vẫn sa vào các nghịch lý, những hệ ngôn ngữ mà trong phạm vi nào đó nhất
định còn mãnh liệt và được tổ chức chu đáo một cách rộng rãi hơn cả hệ ngôn ngữ
của Naiyāyika. Theo một tính toán mới đây thì số lượng các nghịch lý này không
dưới con số mười bảy và đã khiến cho một nhà luận lý toán học nổi tiếng phải
“đau khổ” ý thức rằng những lý thuyết toán học ngày nay có thể bị sai lầm
nghiêm trọng.[45]
Đó là chưa kể đến
những nghịch lý khác dường như đã có sẵn trong ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta
như nghịch lý của Người Nói Láo của Epimenides hay nghịch lý về phần Người Nói
của Long Thọ. Như vậy, nếu có thể rút ra một nghịch lý từ học thuyết chính “tồn
tại là có thể được biết và được đặt tên” của Naiyāyika thì tại sao người ta lại
cần phải xin lỗi về điều đó? Thật vậy, nếu một nghịch lý xảy ra trong một hệ
thống, ta nên dành thì giờ tìm xem tại sao và từ đâu nó đã xuất hiện, để có thể
tiếp cận tính chất liên quán cũng như giá trị của nó. Dù sao lời xin lỗi của
Potter vẫn nghe có vẻ hoài cổ và hiếu kỳ; nó làm chúng ta nhớ đến thời
Uddyotakara còn sống và hăng hái dự vào những cuộc tranh biện với các đối thủ
của ông.
Ngoài lời xin lỗi ra,
giờ đây đã rõ rằng điều Gangeśa muốn nói khi đề cập đến tính bất khả dụng của
năm định nghĩa về sự không-tách-ly không phải là chúng không thể ứng dụng vào
những trường hợp thực hữu-phổ biến vốn được định nghĩa hoặc bằng các từ ngữ
không thể phủ định hoặc bằng sự thiếu vắng các thí dụ không tương tợ, mà là
chúng không thể ứng dụng cho những trường hợp nào đó trong một luận lý chủng
loại. Chúng ta bàn luận dài dòng về phê phán của Gangeśa cốt để có thể trình
bày các quan niệm cơ bản đã không thể được giải thích rõ ràng qua những gì mà
từ ngữ “thực hữu-phổ biến” chuyển tải trong các thí dụ Mathurānātha đã cho và
các diễn dịch thông thường như của Goekoop hay Ingalls. Một sự phô diễn như thế
không thể thiếu nếu chúng ta có ý đánh giá đầy đủ các ẩn nghĩa của nó không chỉ
đối với năm định nghĩa về sự không-tách-ly mà còn cả định nghĩa về sự nối kết
bất khả phân. Điều này không chỉ vì chúng ta có thể đồng nhất không-tách-ly với
nối kết bất khả phân, và vì thế, tất cả các định nghĩa về chúng đều tương
đương, như đã thấy; mà còn vì việc Gangeśa đã sử dụng cùng một lập luận do ông
đề ra để phê phán các định nghĩa về không-tách-ly cũng như định nghĩa về nối
kết bất khả phân, nhằm khẳng định một định nghĩa như thế thì “không áp dụng
được cho các trường hợp thực hữu-phổ biến.”[46]
Phần lớn các ẩn ý của
nhận xét có phê phán này không nằm trong những gì nó phát biểu mà là trong
những gì nó không nói ra, bởi vì, phát biểu “nó không áp dụng cho các trường
hợp xác định-phổ biến” không những chỉ cho việc thiếu các thí dụ không tương
tợ, mà còn cho sự thiếu các thí dụ không tương tợ trong trường hợp của một luận
lý chủng loại. Như vậy, dù có thể có tình huống mà Gangeśa thực sự không có
những hàm ý như chúng ta đã diễn dịch qua phát biểu đó, thì vẫn không nên có
bất kỳ nghi ngờ nào về sự hỗ trợ có thể có mà một diễn dịch như thế mang lại
cho chúng ta trong việc tìm kiếm một sự hiểu biết đúng và hợp lý về thuyết lan
truyền của Thế Thân cũng như định nghĩa của nó bằng sự nối kết bất khả phân;
bởi vì ít ra nó cũng được sử dụng như một loại kích thích nhằm thúc đẩy chúng
ta tìm hiểu giá trị và tính liên quán của thuyết đó đồng thời chỉ ra phương
hướng mà hướng tìm hiểu này sẽ dẫn đến.
Tình huống đó, mặc dù
chưa hẳn đã xảy ra, nhưng phải được cảnh báo, vì chúng ta biết rằng các diễn
giải có thể chọn lựa khác, giống như những diễn dịch của Goekoop, không phải là
vô chứng cứ về phần chúng. Chẳng hạn, có lúc chúng ta đã nhắc đến nhóm từ “việc
thiếu các thí dụ không tương tợ” ở đoạn trên. Nhóm từ này có thể dễ dàng nhận
ra như một lối dịch tự do của định nghĩa chính xác về thực hữu-phổ biến là gì,
định nghĩa mà một số nhà luận lý học Navyanaiyāyika đã trình bày từ thời của
Uddyotakara. Thí dụ, trong tác phẩm Siddhāntamuktāvalī của mình, Viśvannātha
Pañcānana đã đưa ra định nghĩa: “Thực hữu-phổ biến là cái không có các trường
hợp không tương tợ”; và thêm rằng .”..như trong mệnh đề kiểu‘cái bình có thể
được đặt tên vì nó có thể được biết đến’, bởi vì ở đó, do mọi vật đều có thể
được đặt tên, cho nên không có trường hợp không tương tợ.”[47] ❑
(còn tiếp)
Việt dịch: Đạo Sinh
[1] Xem Staal,
Negation and the Law of Contradiction in Indian Thought, BSOAS XXV (1962): 52-71;
Pandey, The Problem of Meaning in Indian Philosophy, Delhi: Motilal Banarsidass, 1963: 13-16.
[2] Staal,
“Contraposition in Indian Logic”, trong Logic, Methodology and Philosophy of
Science: Proceedings of the 1960 International Congress, ed. Ernest Nagel et
al., Stanford: Standford University Press, 1962: 634.
[3] Nyāyasūtra i. 1.
36-38.
[4] Abhidharmakośa
II. 46a: yadā tarhi sadṛṣṭa utpadyate/ na te nirviśeṣā bhavanti/ katham idam
jñayate/ kṣiptākṣptabalidurbalakṣiptasya vajrādeśa cirāsutarapātakālabhedāt tan
mahābhūtānām parināmaviśeṣasiddheḥ/ nātibahuviśeṣabhinās tu saṃskārāḥ saty apy
anyathātve sadṛṣṭā eva dṛśyante/ antimasya tarhi śabdārciḥkṣaṇasya
parinirvāṇakāle ca ṣaḍāyatanasyottarakṣaṇābhāvāt sthiyanyathātvaṃ nāstīty
avyāpinī lakṣaṇavyavasthā prāpnoti/
[5] Barliṅgay, A Modern Introduction to Indian Logic, Delhi: National
Publishing House, 1965: 109. Uno cũng đã đưa ra một phát biểu tương tợ, dù ít
chính xác hơn. Xem Uno, “The Concept of Vyāpti in the Nyāya School”,
Acta Asiatica III (1962): 16-29.
[6] Staal, The Theory
of Definition in Indian Logic, JAOS LXXXI (1961): 122-126; Annambhatta,
“Tarkasamgraha”, trong Le Compendium des Topiques d’Annambhatta, ed. &
transl. Foucher, Paris:
Adrien-Maisonneuve, 1949: 11-14.
[7] Frauwwallner,
Vasubandhu’s Vādavidhih, WZKSOA I (1957): 104-146: Fragment 16a.
[8] Vādavidhi,
Fragment 10.
[9] Vādavidhi,
Fragment 4.
[10] Dharmakīrti, The
Pramāṇavārttikam of Dharmakīrti, ed. Raniero Gnoli, Roma: Instituto Italiano
per il Medico ed Estremo Oriente, 1960: 17.
[11] Dharmottara,
Nyāyabinduṭīkā, ed. Serbatskoi, Petrograd:
Rossi ’skoi Akademi’ Nauk’, 1918: 25.
[12] Gangeśa,
Tattvacintāmani, part II: Anumānakhanda by Gangeśopādhyāya with Mathurānātha’s
Commentary, Calcutta:
Bibliotheca Indica, 1892: 85: nāpy avinābhāvaḥ.
[13] Gangeśa, op.
cit., p 88: sādhyābhāvavad-vṛtti-bhina. Xem thêm bình giải của Raghunātha,
Tattvacintāmani-dīdhiti-prakāsa by Bhavananda Siddantavagisa with
Tattva-cintāmani and Dīdhiti, ed. Mahāmohopādhyāya Suruccharana
Tarkadarshanatirtha, Calcutta:
Bibliotheca Indica, 1991: 299.
[14] Gangeśa, op.
cit., p 30: sādhyābhāvavad-avṛttitvam.
[15] Vādavidhi,
Fragment 16a.
[16] Vādavidhi,
Fragment 16b.
[17] Vādavidhi,
Fragment 7.
[18] Vādavidhi,
Fragment 4.
[19] Xem Indices
Verborum, op. cit.: 18a-b & 61a.
[20] Uddyotakara,
Nyāyavārttika: 56; xem thêm chú thích 8 ở trên.
[21] Thật ra, có thể
chính Thế Thân cũng đã dùng từ nāntarīyaka, vì theo Durvekamiśra,
Hetubinduṭīkāloka, ed. Sukhlaji Sanghavi, Baroda:
Oriental Institute, 1949, p. 317, thì câu nói “nāntarīyakārthadarśanaṃ tadvido
’numānam” là của Thế Thân.
[22] Frauwallner, op.
cit., fragment 4; Uddyotakara, op. cit.: 55 & 131.
[23] Điều này không
có nghĩa từ avinābhāva không phổ biến. Thật ra, nếu đọc bảng từ vựng của
Hetubindu và Hetubinduṭīkā được lập ra trong ấn bản của Sanghavi, ta sẽ thấy rõ
rằng avinābhāva vẫn rất phổ biến nếu so với avyabhicāra: tỷ lệ là 4/1 trong
Hetubindu mặc dù Pháp Xứng thích dùng từ sau hơn trong Nyāyabindu và
Pramāṇavārttikā của ông. Trong Hetubinduṭīkā còn tìm thấy tỷ lệ cao hơn: 16/1.
Tính phổ biến của từ avinābhāva có lẽ do cách dùng thường xuyên của các nhà phê
bình như Uddyottara, Vacaśpatimiśra, v.v. Chẳng hạn, xem Vacaśpatimiśra,
Nyāyavārttikatātparyaṭīkā, ed. Rajeshwara Sastri Dravid, Benares: Kashi,
Sanskrit Series, 1925:158-159, trong đó ông dẫn lời của Pháp Xứng:
kāryakāraṇabhāvād vā svabhāvād vā niyāmakāt/ avinābhāvaniyamo ’darśanān na
darśanāt//
[24] Gangeśa,
Tattvacintāmani: 27-31: nanv anumiti hetu vyāpti jñane kā vyāptiḥ na tāvad
avyabhicaritatvaṃ tad dhi na sādhyābhāvavad avṛttitvaṃ sādhyavadbhinna
sādhyābhāvavad avṛttitvaṃ sādhyavat pratiyogikānyo’nyābhāvāsāmānādhikaraṇyaṃ
sakala sādhyābhāvavan niṣṭthābhāva pratiyogitvaṃ sādhyavad anyāvṛttitvaṃ va
kevalānvayiny abhāvād iti.
[25] Bochenski, Formale Logik, Freiburg/München: Verlag Karl Alber, 1962:
511-512.
Bochenski có năm định
nghĩa được thuyết minh như sau:
1. gCs º g(-V/O/A)s
2. gCs º
g(-V/O/VO/D)s
3. gCs º g(O/D/G/O)s
4. gCs º
g(G/A/I/O/A)s
5. gCs º g(-V/D/O)s
trong đó gCs chỉ cho
quan hệ lan truyền giữa h và s mà ông gọi là g và s, và V, A, D, I, G và O chỉ
cho quan hệ của sự xảy ra, vắng mặt, khác nhau, tồn hữu, đối hữu,và nơi chốn,
theo thứ tự liệt kê. Staal phê phán thuyết minh trên và đã thuyết minh lại qua
thuyết định lượng và các khả biến hạn chế theo dạng “F(x)”.
1. V(h,s) =d -A
{h,αyB[y, αx(x ≠ s)]}
2. V(h,s) =d -A {(h,αuB[u,αzA(z,αy(y
≠ αxB(x,s)))])}
3. V(h,s) =d B(x,h) ≠
αy[y ≠ αxB(x,s)}
4. V(h,s) =d (αyB)
{-A[h,αyB(y,αx(x ≠ s))]}
5. V(h,s) = -A
{h,αy[y ≠ αxB(x,s)]}
Goekoop hình như bác
bỏ việc sử dụng các khả biến hạn chế và định lượng hạn chế và, thay vì thế, trở
lại cách dùng hàm số diễn toán lần nhất của Hilbert-Ackermann “mà không chút
thay đổi”:
1-2. {(y) {Ay ® -(Ex)[(z)(Bz ® -Szx) & Ryx)]}
3&5. (y)(Ay ®
-(Ex) {(w) [(Ez)(Bz & Szw) ® (x ≠ w)] & Ryx}
4. (y) {Ay ® (x) [(z)
(Bz ® -Szx) ® -Ryx]}
[26] Berge, Journal
of Symbolic Logic XXXV (1970): 572-573.
[27] Russell,
“Mathematical Logic as Based on the Theory of Types”, American Journal of
Mathematics XXX (1908): 222-262.
[28]
Sarvadarśanasaṃgraha of Sāyana-Mādhava, ed. Vasudev Shastri Abhyankar, Poona: The Bhandarkar
Oriental Research Institute, 1924: 27.
[29] Dignāga,
Pramāṇasamuccaya I, p.14a4.
[30] Gangeśa,
Tattvacintāmani: pp. 36,39.
[31] Gangeśa,
Tattvacintāmani: p. 30.
[32] Gangeśa,
Tattvacintāmani: p. 42.
[33] Gangeśa,
Tattvacintāmani: pp. 43,47.
[34] Goekoop, The
Logic of Invariable Concomittance in the Tattvacintāmani, Dordrecht, 1967: 32-34 & 63-64.
[35] Gangeśa,
Tattvacintāmani: p. 46.
[36] Gangeśa,
Tattvacintāmani: pp. 47-48: sarvāny va lakṣaṇāni kevalānvayy avyāptyādūsayati
kevalānvayy abhāvād iti/ pañcānām eva lakṣaṇānām idam vācyam jñeyatvād
ity-āadi-vyāpya-vṛtti-kevalānvayi-sādhyake/ (dvitīyādi-lakṣaṇa-catuṣṭasya tu)
kapi-samyogābhāvavām sattvād ity-ādy-avyāpya-vṛtti-sādhyke ’pi cābhāvād ity
arthaḥ/ sādhyatāvacchedaka-sambandhā-vacchinnasādhyatāvacchedakāvacchinnapratiyogitāka-sādhyābhāvasya/
sādhyatāvacchedaka - sambandhena
sādhyavattvāvacchinna-pratiyogitākānyonyābhāvasya cāprasiddhatvāt/ kapi-samyo
gā-bhāvavān sattvād ity-adau
niravacchinna-sādhyābhāvādhikaraṇatvasyāprasiddhatvāc ceti bhāvaḥ//”
[37] Goekoop, op.
cit.: 63-64. Thí dụ “Nó có thể được đặt tên vì có thể được biết đến” xuất hiện
ở các trang 62-63, dù Goekoop đã không đề cập đến các tính chất đặc biệt của
quan niệm Navya-naiyāyika về tính khả danh và tính khả tri. Ingalls, op. cit.,
các trang 61-62 đã nhắc đến đặc điểm này và vì thế cảnh báo độc giả về ý nghĩa
có thể có trong trường hợp đặc biệt này, dù ông hình như đã nói về tính khả
danh và tính khả tri như hai thực thể khác nhau – một điều không chính xác. Xem
thêm chú thích 41.
[38] Potter, Astitvam
Jñyatvam Abhidheyatvam, WZKSOA XII-XIII (1968)/1969): 275-280; Presupposition
in Indian Philosophy, Englewood
Cliff: J. Wiley, 1965.
[39] Russell, The
Principles of Mathematics, London: Cambridge University Press, 1903: 101-107.
[40] Quine, Methods of Logic: 225-231; Rosser, Logic for Mathematicians, New York: McGraw-Hill
Book Company, Inc., 1953: 197-213.
[41] Ingalls, op.
cit.: 61. Đó là một phát biểu gây hiểu lầm, vì vācyatva và jñeyatva có thể bị
xem đang biểu thị hai thực thể, trong khi theo Navya-naiyāyika, hay ít ra theo
Udayana, chúng biểu thị một và chỉ một thực thể.
[42] Udayana,
Praśastapādabhāsyam with the Commentary Kiranāvalī of Udayanācārya, ed.
Jitendrra S. Jetly, Baroda:
Oriental Institute, 1971: 22-23.
[43] Kitagawa, Indo
koten ronrigaku no kenkyu, Tokyo, 1965: 3-9;
Potter, Astitvam Jñeyatvam Abhidheyatvam, WZKSOA XII-XIII (1968): 279-280; Matilal,
Epistemology, Logic and Grammar in Indian Philosophical Analysis, The Hague: Mouton, 1971:
65-70.
[44] Baliṅgay, A
Modern Introduction to Indian Logic, Delhi:
National Publishing House, 1965: 84-85; Matilal, The Navya-nyāya Doctrine of
Negation, Cambridge:
Havard University Press, 1968: 41-42, trong đó jāti được định nghĩa là
($x) ($y) ($z) [Rxyz
& (x ≠ y) & (y ≠ z) & (x ≠ z)]
[45] Rosser, Logic
for Mathematicians, New York:
McGraw-Hill, 1953: 200-207.
[46] Gangeśa,
Tattvacintāmani: p. 85: nāpy avinābhāvaḥ kevalānvayiny abhāvāt/.
[47] Viśvanātha,
Nyāyāsiddhāntamuktāvalī, ed. Harirāma Éukla Sāstrī, Varaṇasi: The Chowkhamba
Sanskrit Series Office, 1972: 501.
(Xem tiếp Chương 4b)
Chương 4(tt)
Một Số Kết Quả Luận
Lý
Annambhatta, người
cùng thời với ông, cũng đề nghị một định nghĩa theo hướng đó, nói rằng “Thực
hữu-phổ biến là cái có cái lan truyền luôn luôn xác thực, như trong suy luận
‘cái bình có thể được đặt tên vì nó có thể được biết đến, giống như tấm vải’,
bởi vì trong trường hợp này không có sự lan truyền phủ định của tính khả danh
và tính khả tri, do mọi vật đều vừa có thể được đặt tên vừa có thể được biết
đến.”[1] Đối với các định nghĩa này, Staal đề nghị thuyết minh như sau:[2]
(13) -($x) -A(s,x)
hoặc ("x) A(s,x)
Nay ta biết rằng
trong số các lý luận sai khác nhau Thế Thân có liệt kê trường hợp một suy luận
căn cứ trên quan hệ ngược lại, trường hợp chúng ta đã bàn đến trước đây. Quan
hệ này cho phép đối thủ của Thế Thân chuyển luận đề đúng của ông “bất kỳ cái gì
sinh khởi do một cố gắng đều không trường cửu” thành một luận đề sai “bất kỳ
cái gì không trường cửu đều khởi do một cố gắng.” Việc ông nhận ra sự áp dụng
sai quan hệ đó và, từ đó, nhận ra nguồn gốc của ngộ nhận này chứng tỏ một cách
rõ ràng rằng chắc chắn ông phải biết đến luật đối hoán mà sau này Kumārila
Bhatta đã diễn tả một cách đơn giản nhưng rất rõ ràng như sau: “Nếu duy trì
quan hệ của cái lan truyền và cái được lan truyền giữa hai thực thể, thì tất
nhiên cũng duy trì được quan hệ ngược lại giữa các phủ định của chúng.”[3] Với
luật này, ta có thể chuyển công thức (2) thành một công thức tương đương:
(14) ("x)
[A(h,x) ® A(s,x)] ↔ ("x) [-A(s,x) ® -A(h,x)]
nói rằng Per(A,B) nếu
Per(-B,-A), và ngược lại. Thế nhưng, rõ ràng công thức (14) và vì thế công thức
(2) không đứng vững nếu công thức (13) có giá trị, bởi vì chi bên phải của (14)
trong trường hợp đó không thể định nghĩa được. Như vậy, nếu thuyết lan truyền
của Thế Thân thực sự dựa vào luật đối hoán, thì phê phán của Gangeśa, được diễn
giải trong phạm vi định nghĩa của Navyanaiyāyika về thực hữu-phổ biến như
Ingalls và Goekoop đã làm, hoàn toàn có giá trị. Thật vậy, khái niệm thực
hữu-phổ biến chỉ có thể được tri nhận song song với luật đó. Tuy nhiên, nếu
thuyết của Thế Thân không dựa trên luật đó thì chúng ta sẽ có một tình huống hoàn
toàn khác hẳn. Vì thế, bắt buộc phải tìm xem thuyết của ông có thật sự căn cứ
vào luật đó hay không.
Như Staal đã lưu ý,
việc phân loại suy luận thành ba nhóm, trong đó suy luận thực hữu-phổ biến bắt
nguồn từ thuyết được gọi là “ba đặc tính của h”, có thể thuyết minh theo các
công thức sau nếu sử dụng giải thích của Pháp Xứng:
(i) “h chỉ xảy ra
trong cái được suy luận”
(15) ("x) [h(x)
® A(x,p)]
trong đó p thay cho
cái được suy luận.
(ii) “h chỉ xảy ra
trong các trường hợp tương tợ”
(16) ("x) {h((x)
® [Si(x,p) ٨ s(x)]
(iii) “h không xảy ra
trong các trường hợp không tương tợ.”[4]
17) ("x) – [h(x)
® s(x)]
Ba đặc tính này được
Thế Thân công bố lần đầu tiên trong Như Thực Luận của ông.[5] Có người cho rằng
chính Pháp Xứng đã cho chúng một dạng được định lượng bằng cách đưa vào phụ từ
eva, chỉ.[6] Tuy nhiên, một đề nghị như thế hình như thiếu cơ sở, nhất là đối
với tình trạng manh mún của hiểu biết chúng ta về các tác phẩm luận lý của Thế
Thân, những hiểu biết chủ yếu xuất phát từ các bản dịch Hán văn và Tạng văn.
Như vậy, ngày nay chúng ta biết đến công bố trên trong Như Thực Luận là nhờ bản
dịch Hán văn, một điều không có gì bảo đảm cho cách dùng chữ chính xác của bản
Phạn, nhất là khi nó được dịch bởi Chân Đế, một dịch giả đôi khi đã không bám
sát nguyên bản nhiều lắm, như ta đã thấy trong bản dịch Câu Xá Luận của ông. Vì
thế, nếu không quá chú trọng đến vấn đề này ở đây thì ta có thể cho rằng thuyết
về ba đặc tính của h ở dạng định lượng của nó đã được Thế Thân giảng giải, và
rằng các công thức (15), (16) và (17) mô tả thuyết này bằng ngôn ngữ ký hiệu.
Vì lẽ đó, cần phải
lưu ý thêm rằng không phải “Trong các bản về sau chỗ của Anumeya đã thay bằng
pakṣa và chỗ của asapakṣa bằng vipakṣa”, như Staal đã yêu cầu, bởi vì các chữ
này, tức pakṣa và vipakṣa, đã xuất hiện trong các tác phẩm của Thế Thân rồi, và
vì chúng ta biết rằng Pháp Xứng, theo chân Trần Na, thường sử dụng cách dùng từ
của Trần Na thay vì của Thế Thân.[7] Việc ông sử dụng nhiều lần từ avyabhicāra
để thay cho avinābhāva ở trong Nyāyabindu cũng như trong Pramāṇavārttika, là
trường hợp điển hình nhất.[8]
Với ba đặc tính này
của h, người ta tự hỏi có thể có sự loại suy của một suy luận tổng quát theo
dạng được diễn đạt trong công thức (2) không. Theo Staal, câu trả lời cho câu
hỏi này là chỉ có thể trong trường hợp luật đối hoán được giả thiết. Thế nhưng,
như Berg đã chỉ ra một cách chính xác,[9] yêu cầu phải có luật này thực sự sinh
khởi từ hệ thống chính thức của Staal hơn là từ ba đặc tính do Thế Thân đề ra.
Trong hệ thống của Staal, các đặc tính (ii) và (iii) được chính thức hóa như
sau:
(a) ("y) {A(h,y)
® {y = αx [(x ≠ p) ٨ A(s,x)]}
(b) [αx –A(s,x)]
-A[h,αx –A(s,x)]
Nay, nếu ta loại suy
(2) từ (b), thì luật đối hoán phải được giả thiết, vì (b) chỉ cho câu đối hoán
của (2) theo luật:
[αxF(x)] G[µxF(x)] ↔ ("x) [F(x) ® G(x)]
được đề ra trong hệ
thống của Staal, và một loại suy như thế sẽ cho chúng ta chi bên phải của công
thức (14) tương đương:
("x) [-A(s,x) ®
-A(h,x)]
Tuy nhiên, nếu ta
thuyết minh ba đặc tính này theo hệ của Berg hay của chúng ta, như đã thấy
trước đây, thì không cần đến luật đối hoán như thế, vì ta có thể loại suy (2)
từ (16) và (17) rất dễ dàng do (16) thì tương tợ với định nghĩa (7), và (17)
tương tợ với (11). Như vậy, người ta sẽ có khuynh hướng đồng ý với đánh giá của
Berg rằng “cố gắng của Staal nhằm thiết lập một hình ảnh đồng hình dị chủng về
‘ngôn ngữ tự nhiên được phân tích’ trong hệ thống chính thức của riêng ông thật
không thích hợp về cả luận lý lẫn sư phạm.”[10]
Điều khá thú vị là
thuyết minh của Staal, mặc dù “không thích hợp về cả luận lý lẫn sư phạm”, đã
ném một ánh sáng kỳ lạ lên lời phê phán của Gangeśa đối với năm định nghĩa về
sự không-tách-ly và định nghĩa về nối kết bất khả phân. Hãy nhớ là Goekoop đã
nhận ra sự tương đương với nhau về luận lý của sáu định nghĩa này cũng như sự
tương đương giữa chúng với định nghĩa có giá trị về lan truyền, khi ông thuyết
minh chúng dựa vào hàm số diễn toán lần thứ nhất, trong hệ thống của ông như
sau:
(g1) (y) {Ay ® -(Ex)
{(z) (Bz ® -SZX) ٨ Ryx]}
(g2) (y) {Ay ® -(Ex)
[(w) (Ez) (Bz & Szw) ® (x≠w) & Ryx]}
(g3) (y) {Ay ® (x)
[(z) (Bz -Szx) ® -Ryx]}
trong đó (g1) là biểu
thức của các định nghĩa số 1 và 2, và tôi phải thêm rằng, kể cả định nghĩa về
nối kết bất khả phân, mà chính Goekoop đã thừa nhận là một dạng khác của định
nghĩa số 1; (g2) là biểu thức của các định nghĩa số 3 và 5; và (g3) là biểu
thức của định nghĩa số 4. Kế đó ông so sánh chúng với định nghĩa có giá trị về
lan truyền:
(g4) (x) [(Ey) (Ay
& Ryx) ® (Ey) (By & Syx)]
và nhận ra rằng chúng
thực sự tương đương với (g4) và vì thế, “theo quan điểm thuần luận lý”, chúng
chính xác. Tuy nhiên, ông tiếp tục nhận xét rằng “trong trường hợp của các thực
hữu-phổ biến thì điều kiện:
(g5) (Ex) (y) (By ®
-Syx)
không thành. Kết quả
là (g4) vốn là biểu thức của định nghĩa lan truyền được chính ông lập thành và
vì thế được xem như có giá trị đã không đáp ứng được (g5); vì thế tự thân định
nghĩa này không đáp ứng khái niệm lan truyền.[11] Những sự không liên quán này
có lẽ sẽ không lôi cuốn được chú ý của chúng ta nếu không có sự kiện điều kiện
(g5) là một biểu thức khác của công thức (13). Và điều kiện được (13) đặt ra
thì có thể áp dụng cho các định nghĩa về lan truyền và cho suy luận chỉ khi
luật đối hoán được diễn đạt bởi (14) được giả thiết, như thuyết minh của Staal
đã chỉ rõ. Thế nhưng, Goekoop đã đề cập đến luật đó không chỉ một lần, mặc dù
ông tiếp tục cho rằng cả năm định nghĩa và định nghĩa về nối kết bất khả phân
đều đúng do chúng tương đương với định nghĩa lan truyền của ông, định nghĩa mà
chúng ta giả thiết là phải có giá trị ít nhất theo quan điểm ông. Nếu không,
người ta sẽ tự hỏi tại sao rốt cùng ông phải mất công thiết lập nó. Một tình
huống khó hiểu như thế có lẽ xảy ra do ông nghĩ mình chỉ là người truyền đạt tư
tưởng của Gangeśa.
Thật vậy, Gangeśa đã
thiết lập phê phán của mình về các trường hợp thực hữu-phổ biến mà không hề đề
cập đến luật đối hoán trong phạm vi khảo sát của ông về khái niệm lan truyền.
Nếu chúng ta tạm thời loại trừ khả năng những phê phán của ông vẫn dựa trên
khái niệm chủng loại, thì rồi chúng ta cũng buộc phải nhìn nhận rằng ông đã
phải dựa vào luật đối hoán. Theo thuyết minh nói trên của Staal, khả năng này
rất có thể xảy ra, bởi vì mặc dù Gangeśa không nhắc đến luật đó trong khảo sát
của ông về khái niệm lan truyền, nhưng ông đã sống vào thời khoảng mà việc
chuyển thể ba đặc tính của h do Thế Thân tìm ra thành ba kiểu suy luận đã hoàn
chỉnh và được lập thành. Chính ông là người đã mở ra thời kỳ của Navya-nyāya và
góp phần vào việc phổ biến và phát triển phân loại đó.
a có thể nói rằng
phân loại mới này, dù bắt nguồn từ ba đặc tính của h, hầu như không có được nền
tảng chung, một điều sẽ được nhận ra ngay, với luận lý đặt nền tảng trên thuyết
ba tánh của h. Nó chia suy luận thành ba loại phù hợp với s là phổ biến, trống
rỗng hoặc không phải cả hai. Trong trường hợp s là phổ biến, nó được gọi là
“thực hữu-phổ biến.” Nếu nó trống rỗng, nó được gọi là “phủ định-phổ biến.” Nếu
không phải hai trường hợp đó, nó được gọi là “thực hữu-phủ định.” Gangeśa, theo
chân Uddyotakara, đã cho chúng ta phân loại này cùng với định nghĩa của nó.[12]
Cần lưu ý rằng cả ba trường hợp này đều được định nghĩa dựa vào s mà không phải
h, bởi vì đây là điểm khác biệt rất quan trọng, một điều đã bị hầu hết các tác
giả sau Gangeśa bỏ qua, kể cả các tác giả thời nay.
Chẳng hạn,
Viśvanātha, khi bình giải câu “Suy luận có ba loại” trong tác phẩm
Siddhānatamuktāvalī của ông, đã nói rằng:
Suy luận có ba loại
tùy theo nó là thực hữu-phổ biến, phủ định-phổ biến hay vừa thực hữu vừa phủ
định. Trong số này, cái không có các trường hợp không tương tợ là thực hữu-phổ
biến, như ‘Một cái bình thì có thể được đặt tên và được biết’, bởi vì trong đó
không có các trường hợp không tương tợ bởi lẽ mọi vật đều có thể được đặt tên.
Cái không có trường hợp tương tợ là phủ định-phổ biến, như “Đất thì khác với
các vật khác vì nó có mùi’, bởi vì trong đó do không biết rõ sự khác biệt với
mười ba thực thể như nước, v.v., cho nên đã thiếu mất một trường hợp tương tợ,
hoặc những gì rõ ràng có cái được suy luận. Cái có cả trường hợp tương tợ và
không tương tợ là thực hữu-phủ định, như ‘Nó có lửa vì nó có khói’, bởi vì nó
có các trường hợp tương tợ, như nhà bếp, và các trường hợp không tương tợ, như
cái hồ.[13]
Như vậy, qua giải
thích ba kiểu suy luận theo cách trên, Viśvanātha đã đồng nhất thuyết về ba
kiểu suy luận với thuyết ba đặc tính của h; và làm thế là không chính xác. Lý
do là vì trong khi Gangeśa định nghĩa sự phân loại của ông dựa vào s thì Thế
Thân và, như sẽ thấy, Trần Na lại căn cứ sự phân loại của họ vào h. Sự nhầm lẫn
này đã lan rộng vào thời của Viśvanātha. Annambhatta, không mắc phải tình trạng
tối nghĩa của Viśvanātha, đã minh nhiên đề cập đến ba loại của h và gọi chúng
là thực hữu-phủ định, thực hữu-phổ biến và phủ định-phổ biến. Ông nói:
h có ba loại: thực hữu-phủ định, thực hữu-phổ biến và phủ định-phổ biến. Thực
hữu-phủ định là cái có cả lan truyền xác định lẫn phủ định, như trong trường
hợp có cái gì đó có khói và lửa là vật được suy luận, thì phát biểu “nơi nào có
khói, nơi đó có lửa, như trong nhà bếp’ là một lan truyền xác định; và phát
biểu ‘nơi nào không có lửa thì cũng không có khói, như trong hồ’ là một lan
truyền phủ định. Thực hữu-phổ biến là cái khiến cho cái lan truyền luôn luôn
xác định, như “Cái bình thì có thể được đặt tên và được biết, như tấm vải’, bởi
vì trong trường hợp này không có lan truyền phủ định của tính khả tri và khả
danh, bởi lẽ mọi vật đều có thể được biết và đặt tên. Phủ định-phổ biến là cái
khiến cho cái lan truyền luôn luôn phủ định, như “Đất thì khác với các vật
khác, không có mùi, và cái này thì không phải như vậy, cho nên cái kia không
phải như vậy’, bởi vì trong trường hợp này không có thí dụ xác định cho phát
biểu ‘bất cứ cái gì có mùi đều khác với các vật khác’, bởi lẽ pakṣatva đó luôn
luôn là đất.[14]
Như vậy, Annambhatta
đã pha trộn thuyết ba kiểu suy luận với thuyết ba đặc tính của h để gây ra nhầm
lẫn là ‘h có ba loại: thực hữu-phủ định, thực hữu-phổ biến và phủ định-phổ
biến.”
Nhầm lẫn này vẫn lan
tràn cho đến ngày nay. Chẳng hạn như Matilal, dù ông đã phân biệt thành công
quan niệm của Trần Na về “thực hữu-phổ biến” với quan niệm của Uddyotakara cũng
như trình bày chính xác các định nghĩa của Gangeśa về ba kiểu suy luận, nhưng
lại không thể làm rõ tại sao hai người này lại đưa ra một thuyết mới như thế và
những hệ quả gì mà thuyết này đã mang lại đối với quan niệm của Trần Na.[15]
Thay vì thế, ông lại tiếp tục bàn về quan điểm của Uddyotakara và Gangeśa, chỉ
ra rằng những người này đã sử dụng ngôn ngữ và các thí dụ của Trần Na, và vì
thế đã tạo một ấn tượng sai lạc là không có những khác nhau cơ bản nào cả giữa
luận lý của Trần Na và họ. Ta còn có thể nói rằng Matilal đã không nhận ra ý
nghĩa phát biểu của Gangeśa về trường hợp thực hữu-phổ biến mà, trong những
trường hợp này, nó là “đặc tính luôn luôn hiện hữu”, điều mà chính Matilal đã
nói đến. Trong trường hợp của Staal và vì thế cũng của Goekoop, nhầm lẫn này
còn lớn hơn và không phải ít hứng thú. Staal mở đầu bằng việc chứng minh rằng
với hệ thống chính thức của ông ta có thể loại suy công thức (2) từ (16) và
(17) chỉ khi luật đối hoán được giả thiết. Rồi ông phê phán Stcherbatsky và
những người khác đã không biết được rằng (16) và (17) là tương đương và “rằng
sự tương đương này tạo thành mối quan hệ luận lý, tức sự đối hoán.”[16]
Và vì thế mối quan hệ
luận lý này được quan niệm là nền tảng của luận lý Pháp Xứng, nếu không phải là
của Trần Na và Thế Thân. Cuối cùng, ông tiếp tục bày tỏ rằng mối quan hệ đó
cũng là cơ sở của luận lý Gangeśa đã thống ngự phần còn lại của luận lý học Ấn
độ sau Trần Na và Pháp Xứng. Với một trình bày như thế, Staal đã không phân
biệt được, giống như Matilal, các lập luận giữa Trần Na và Uddyotakara, tức nên
xem h hay s là phổ biến, mặc dù ông có tình cờ nhắc đến tên của người sau. Như
vậy, đối với Staal, kể từ khi Thế Thân tìm ra ba đặc tính của h cho đến thời
của Viśvanātha, Annambhatta và những người khác, chẳng có một chút khác biệt
nào giữa các quan điểm liên quan đến ba đặc tính đó, cho dù có lập luận của
Uddyotakara và các định nghĩa mới của Gangeśa. Vì vậy, đó là một nhầm lẫn hoàn
toàn.
Như đã nói trên, nhầm
lẫn của các nhà nghiên cứu ngày nay bắt nguồn từ nhầm lẫn của các tác giả đi
trước, trong số đó chúng ta đã nhắc đến Viśvanātha và Annambhatta như những
người đại diện. Thật vậy, sau khi dẫn hai tác giả này và chính thức hóa các
phát biểu của họ về ba kiểu suy luận, Staal nhận xét rằng “trong nhiều bản văn
khác nhau này sự đối hoán được mặc nhiên thừa nhận đối với sự lan truyền và suy
luận trong các điều kiện sau:
V(h,s) ↔ V(negation
of s, negation of h)”
Vì thế, khi
Visvanātha định nghĩa một cách mơ hồ thực hữu-phổ biến là “cái không có những
trường hợp không tương tợ”, ông đã ngầm giúp Staal nối kết, và sau đó là đồng
nhất định nghĩa đó với định nghĩa về đặt tính thứ hai được diễn ta qua công
thức (16), và từ đó, đã xem sự tồn tại của luật đối hoán dưới dạng tiêu chuẩn
của suy luận Ấn độ như đã được viết trong công thức (2). Nay ta đã chỉ rõ rằng
thuyết ba đặc tính của h hoàn toàn khác với sự phân loại suy luận thành ba
kiểu, bởi vì trong khi thuyết đầu căn cứ vào h thì thuyết sau lại đặt nền tảng
ở s. Sự khác nhau này thật cơ bản bởi lẽ nó sẽ cho ta hai loại luận lý hoàn
toàn khác nhau, một căn cứ trên thuyết lan truyền, và một căn cứ trên luật đối
hoán. Và Berg phải là người nhận lãnh vinh dự đã nhận ra đầu tiên sự khác nhau
cơ bản này.
Trong bài phê bình
của mình về khảo luận “Đối Hoán Trong Luận Lý Ấn Độ” của Staal,[17] Berge đã
chỉ ra rằng “sự nhận ra luật này (tức luật đối hoán) rõ ràng tùy thuộc vào việc
chính thức hóa của riêng tác giả căn cứ vào những cái khả biến có hạn chế” và
“theo một cách diễn dịch khác, trực tiếp hơn, . . ., thì vấn đề đối hoán trong
trường hợp đặc thù này đã biến mất.” Sau đó ông tiếp tục nhận xét biện luận của
Staal về luật đó. Trong nhận xét này, ông nối kết luật đó với phân loại suy
luận thành ba kiểu của Navya-naiyāyika “tùy theo sādhya có phải là (a) phổ
biến, (b) trống rỗng, hay (c) không phải cả hai.” Ông còn thêm nhận xét rõ ràng
rằng “các nhà luận lý Navya-nyāya đã áp đặt sự hạn chế lên luật đối hoán khi
cho rằng các trường hợp (a) và (b) phải bị loại trừ, bởi vì nếu không thì các
phần đối hợp của hai phụ thức chính của luật này sẽ không thể là các điểm nhận
thức có giá trị.” Nhận xét này, dù rất hiển nhiên, nhưng thật thú vị ở chỗ nó
cho chúng ta một cái nhìn khá kín đáo về những gì thực sự tạo thành nền tảng
cho phân loại các suy luận của Navya-naiyāyika.
Thật vậy, nó mở đường
cho việc nhận ra rằng Navya-naiyāyika, kể cả Gangeśa, thiết lập luận lý của họ
phần lớn và chủ yếu dựa vào luật đối hoán. Và chính từ quan điểm của luật này
mà họ nhìn và phán xét các hệ thống luận lý khác. Sau khi nói về điều này, cần
phải nói thêm rằng điều đó không có nghĩa là chúng tôi gán cho Berg khẳng định
rằng luận lý của Gangeśa chủ yếu dựa vào luật đối hoán. Khẳng định đó là của
chúng tôi. Ý nghĩa của khẳng định này nằm ở sự kiện nó không chỉ cho chúng ta
thấy những gì làm nền tảng cho phê phán của Gangeśa về các định nghĩa
không-tách-ly và nối kết bất khả phân, mà nó còn ném một tia sáng lên vấn đề có
phải Trần Na và luận lý của trường phái ông đã đặt nền tảng trên cùng luật đối
hoán này không, như Staal đã chỉ ra. Thật vậy, điểm thứ hai là đặc điểm thú vị
nhất của sai lầm và nhầm lẫn to lớn của Staal.
Việc các nhà luận lý
hậu-Gangeśa xem luận lý của họ được thiết lập trên luật đối hoán thì quá hiển
nhiên khi đọc các tác phẩm của họ. Thí dụ như trường hợp của Annambhatta đã nói
ở trên. Ông định nghĩa loại suy luận thực hữu-phủ định như sau: “Thực hữu-phủ
định là cái có sự lan truyền vừa xác định vừa phủ định, như trong trường hợp có
cái gì đó có lửa và khói là vật được suy luận thì phát biểu ‘nơi nào có lửa,
nơi đó có khói, như trong nhà bếp’ là lan truyền xác định, và phát biểu ‘nơi
nào không có lửa, nơi đó không có khói, như trong hồ’ là lan truyền phủ định.”
Định nghĩa này chắc chắn là một phát biểu thuộc luật đối hoán, như Staal nhìn
nhận và thuyết minh thành công thức tương đương (14), sau khi đã dẫn quan điểm
của Kumārila và bình giải của Keśavamiśra về nó.[18] Như vậy, không còn nghi
ngờ gì nữa về vị trí của luật này trong luận lý hậu-Gangeśa.
Ngay trong luận lý
của Gangeśa, dù đã có sự phân biệt rõ ràng nhưng trường hợp thực hữu-phổ biến
có liên quan đến h và trường hợp thực hữu-phổ biến liên quan đến s cũng dã được
kết hợp trong nỗ lực đạt đến một “định nghĩa cuối cùng về lan truyền” của ông,
trong đó không những các trường hợp của loại thực hữu-phủ định được kể đến mà
còn cả các trường hợp của thực hữu-phổ biến. Kết quả là ta phải kết luận rằng
luận lý của ông trước sau đều dựa vào luật đó. Thật vậy, cái gọi là “định nghĩa
cuối cùng” của ông không gì khác hơn một loạt tám định nghĩa được kết liên với
nhau để bảo đảm rằng mọi trường hợp, không kể thuộc loại gì, đều được bao gồm
trong đó; mặc dù lúc đầu nó nhằm vượt qua cái giới hạn mà luật đối hoán, vốn
được họ sử dụng một cách vô tình, đã áp đặt lên họ; đó là “mọi trường hợp trong
đó s là phổ biến hay trống rỗng phải được loại trừ bởi lẽ luật đó không thể áp
dụng cho chúng.[19] Vì thế, các nhà luận lý sau này như Viśvanātha và
Annambhatta bắt đầu đơn giản hóa định nghĩa này và đồng thời duy trì ý định ban
đầu của nó, tức định nghĩa lan truyền như thế nào đó để có thể bao hàm tất cả
các trường hợp. Khi làm thể họ đã vứt bỏ mọi cái tinh tế mà Gangeśa đã dùng để
tô điểm cho định nghĩa của ông như cách dùng các đại từ liên hệ và chỉ thị thế
chỗ cho các từ thông thường như h và s, một đặc điểm mà một số nhà khả cứu hiện
đại xem là “thú vị” và có “một tính chất trang trọng.”
Như vậy Annambhatta
định nghĩa nó là “tình trạng của h có cùng nơi với s, vốn không phải là một đối
hữu của một sự vắng mặt tuyệt đối, có cùng nơi với h.”[20] Viśvanātha đề ra một
định nghĩa tương tợ, nói rằng: “lan truyền được cho là tình trạng của h có cùng
nơi với s, vốn không thể là một đối hữu của một sự vắng mặt ở nơi có h.”[21]
“Định nghĩa cuối cùng” của Gangeśa vì thế có thể thuyết minh như sau:[22]
(18) ($x) (h(x) &
s(x) & ("x) {h(x) ® ("F) [-F(x) ® -("y) (s(y) ® F(y))]})
một thuyết minh mà nó
có thể không tương đương với định nghĩa có giá trị về lan truyền, như Goekoop
đã khẳng định. Staal đã chỉ ra “nhiều phê phán” mà biểu thức trên chỉ ra và
những phê phán này không phải hoàn toàn vô căn cứ.[23] Đào sâu thêm về vấn đề
này không phải là việc của chúng ta ở đây. Chừng đó cũng đủ để nói rằng với
việc đưa ý tưởng quỹ tích vào định nghĩa này để làm điều kiện chính thì “định
nghĩa cuối cùng” này đã chứng kiến một sự thoái bộ đáng tiếc đối với tiến trình
chính thức hóa luận lý học.
Vì vậy, khi gạt qua
diễn giải về phê phán của Gangeśa đối với năm định nghĩa không-tách-ly và định
nghĩa nối kết bất khả phân dựa vào luận lý chủng loại đồng thời quan sát nó từ
quan điểm của một nhà bình luận truyền thống hiểu rõ từ ngữ ‘thực hữu-phổ biến’
chính xác như những gì nó được dự định, chúng ta đã đạt đến một khám phá thú vị
là phần lớn phê phán của Gangeśa đã không dựa vào khái niệm chủng loại, một
khái niệm mà chúng ta đoán có lẽ vẫn còn rối rắm đối với ông, mà lại dựa vào
quan điểm của ông về nền tảng luận lý của ông. Nền tảng này không gì khác hơn
là luật đối hoán. Và trong khi nghiên cứu các hệ luận lý khác, ông đã lập tức
phóng cái nhìn đó lên chúng. Vì thế, ông nghĩ rằng các định nghĩa của Thế Thân
và Trần Na về nối kết bất khả phân và sự không-tách-ly có thể được diễn dịch
theo luật đó. Vì vậy, cái kết quả mà ta có thể nói trước là chúng không bao hàm
các trường hợp mà luật đó áp đặt.
Tuy nhiên, ta đã chứng minh rằng luật đó không vận hành trong thuyết của Thế
Thân về ba tánh, và trong đó nó cũng không hề được xem là luật. Nhiều lắm là nó
được dùng như một đề dẫn mà dưới đó ông liệt kê tất cả các suy luận sai được
bao gồm dưới cái tên “phản chuyển ngữ.” Cùng với Berg, ta đã chứng minh thêm
rằng thuyết ba đặc tính của h do Thế Thân tìm ra và sau đó được Trần Na và Pháp
Xứng khai triển không cần phải và không nên thuyết minh bằng luật đó, như Staal
đòi hỏi và Gangeśa cũng như những người nối tiếp ông như Viśvanātha và
Annambhatta đã hiểu. Như vậy, có thể nói rằng phê phán của Gangeśa về năm định
nghĩa không-tách-ly và định nghĩa nối kết bất khả phân như đã nói đến thì không
giá trị và đã phát sinh do ngộ nhận của ông về vai trò của chúng. Và mọi nhầm
lẫn đã bắt nguồn từ ngộ nhận này, cuối cùng đã dẫn đến thuyết minh của Staal,
khẳng định rằng luật đối hoán phải đang vận hành trong luận lý về ba đặc tính
của h.
Chắc chắn ngộ nhận đó
cũng có nguồn gốc của nó. Chúng ta đã chỉ ra rằng mặc dù Gangeśa phân biệt được
trường hợp thực hữu-phổ biến đối với h và trường hợp thực hữu-phổ biến đối với
s, cuối cùng ông đã kết thúc bằng cách hòa trộn chúng với nhau để phù hợp với
quan điểm của ông trên nền tảng luận lý của ông và sự phân loại các suy luận
thành ba kiểu của ông; và cả hai đều căn cứ vào luật đối hoán. Những nhầm lẫn
như thế không hề gây ngạc nhiên khi được xét trong khuôn khổ thời đại của ông.
Chẳng hạn, một người cùng thời với ông, có tên là Manikantha, vẫn giải thích từ
“thực hữu-phổ biến” không phải liên quan đến s, như Gangeśa đã làm, mà lại liên
quan đến h, làm như nó là một từ mới dành cho một trong ba đặt tính trong luận
lý của Thế Thân và Trần Na. Và nếu truy tầm thêm thì ta sẽ lập tức nhận ra rằng
ngộ nhận và những nhầm lẫn nói trên không hề khởi đầu với Gangeśa và những
người khác, mà ít nhất là với Pháp Thượng.
Trong luận thư
Nyāyabindutīkā của mình, Pháp Thượng đã hiểu các đặc tính (16) và (17) qua luật
đối hoán, như Stcherbatsky đã đề cập và sau đó Staal đã thuyết minh về nó.[24]
Sau khi giải thích ba đặc tính của h qua các thuật ngữ của Pháp Xứng, Pháp
Thượng đặt ra vấn đề sau đây cùng với giải đáp của ông:
Nay, khi nói rằng sự
xảy ra chỉ có trong các trường hợp tương tợ, thì có phải là không nhất thiết
kết luận rằng sự không xảy ra chỉ có trong các trường hợp không tương tợ? Vậy
tại sao hai mệnh đề được đề cập? Câu trả lời như sau. Hoặc xác định hoặc phủ
định nên được sử dụng, mỗi cái đều cần thiết, và không cách nào khác. Vì thế,
để nhấn mạnh nó, cả hai mệnh đề được đề cập. Tuy nhiên, nếu cả hai mệnh đề được
dùng không với sự cần thiết, thì kết quả tiếp theo sẽ xảy ra là bất kỳ cái gì
xảy ra trong trường hợp tương tợ và không xảy ra trong trường hợp không tương
tợ đều là h. Và rồi sẽ có [những suy luận không giá trị như] ‘Nó thì đen, vì nó
là con của người đó, như ở những đứa trẻ chúng ta thấy’, trong đó tình trạng
‘là con của người đó’ là h. Vì thế, cả xác định và phủ định nên được sử dụng
chỉ với sự cần thiết để việc nối kết h chứng thực với s của nó nhất thiết phải
xảy ra. Và vì chúng cần phải được sử dụng mà không có ngoại lệ, cho nên chỉ một
trong hai được dùng đến chứ không phải hai, tức là, hoặc xác định hoặc phủ định
cần phải được sử dụng. Như vậy, vì tính chất sư phạm, cả hai mệnh đề được đề
cập.[25]
Rõ ràng, việc hỏi câu
hỏi và trả lời nó theo cách đó “chỉ có thể được giải thích bằng giả thiết rằng
tác giả đã biết luật đối hoán và sự cần thiết của nó trong nội dung này”, như
Staal đã phát biểu. Chắc chắn, trong đoạn văn trên rõ ràng Pháp Thượng, dù cố ý
hay vô tình, đã xem xét thuyết ba đặc tính của h qua luật đó. Vì vậy, hiển
nhiên ông phải là người tạo ra mọi thứ nhầm lẫn và ngộ nhận mà những nhà luận
lý nối tiếp ông phải hứng chịu, kể cả Gangeśa và Staal, ở các thời đại sau cho
đến ngày nay. Thật vậy chính Staal đã nhận ra nguồn gốc của những suy luận ưa
chuộng nhất như ‘Nó có sự tiếp xúc với một con khỉ vì nó là cây này’, một suy
luận mà, như đã thấy, Raghunātha và Mathurātha thường xuyên nhắc lại trong các
tác phẩm của họ khi bình giải các bài viết của Gangeśa, trong thí dụ mà Pháp
Thượng đã cho ở trên, tức, ‘Nó thì đen vì nó là con của người đó.’
Như vậy, nhờ thuyết
minh của Staal, mặc dù “tính chất không thích nghi về cả luận lý lẫn sư phạm”
của nó, nay ta không chỉ có thể thấy được tại sao Gangeśa phê phán năm định
nghĩa không-tách-ly—những định nghĩa phải thừa nhận là chính xác “từ một quan
điểm thuần luận lý”—, mà còn biết được ông đã rút ra phê phán này từ đâu. Vì
thế, không phải bàn thêm gì nữa, ngoại trừ sự gợi ý về vấn đề luận lý chủng
loại trong các tác phẩm luận lý của Thế Thân, ta có thể gạt bỏ những nhận xét
phê phán của Gangeśa giống như chỉ là một ngộ nhận, và trở lại các định
nghĩa-không-tách ly và nối kết bất khả phân đã được thuyết minh trước đây.
Về căn bản, thuyết
minh của chúng ta về năm định nghĩa không-tách-ly chính là thuyết minh của
Berg, như được chứng minh rõ ràng qua sự so sánh các công thức (7) – (11) với
các công thức (i) – (v), chỉ trừ một điều là ta thay ký hiệu chủng loại Î của
ông bằng ký hiệu đồng nhất = của chúng ta vì những lý do đã nói trước đây.
Chúng ta cũng chỉ ra rằng định nghĩa nói kết bất khả phân của Thế Thân là một
dạng khác của định nghĩa thứ nhất và vì thế có thể biểu thị bằng cùng công thức
(7), nếu không phải là (11). Tuy nhiên, chúng ta đã không nói đến việc xác minh
cách dùng ký hiệu của chúng ta, và người ta có thể thắc mắc không biết rốt cùng
nó có được xác minh hay không, nhất là khi hầu hết mọi người đều tin rằng Thế
Thân có chủ trương thuyết gọi là “sự biến thiên phổ quát.”[26]
Vả lại, chúng ta đã
không nói gì về định nghĩa có thể có về ký hiệu trong luận lý của Thế Thân. Bây
giờ là cơ hội để tiếp cận các vấn đề này và để xem chúng ta sẽ có nhữg giải
pháp gì đối với chúng. Trước hết, trong tình trạng manh mún hiện nay của các
tác phẩm luận lý của Thế Thân, không có phát biểu nào được giữ lại có liên quan
đến vấn đề đồng nhất, hoặc bất kỳ loại quan hệ luận lý nào khác về vấn đề đó.
Thứ hai, ta còn không thể biết ông có từng bàn về các vấn đề thuộc loại đó hay
không trong các tác phẩm của ông khi chúng vẫn còn giữ được nguyên vẹn. Tuy
nhiên, dựa vào thuyết mô tả của ông, ta phải cần thiết giả định rằng có lẽ ông
đã biết đến các quan hệ luận lý này, kể cả quan hệ đồng nhất, bởi lẽ nếu không
có giả định như thế thì không thể nào quan niệm được lý thuyết đó.
Thay thế một từ n
bằng một thuộc từ N để có một mô tả (ix)N(x) mà không biết đến sự tồn tại của
một loại quan hệ nào đó giữa chúng là điều khó có thể tưởng tượng được. Thật
vậy, trong những vận hành như thế thì quan hệ đồng nhất đã được giả định; nếu
không, điều trước tiên là chúng không thể nào tự khởi động. Hơn nữa, một loại
quan hệ nào đó phải có sẵn trong định nghĩa nối kết bất khả phân của Thế Thân.
Vì vậy, mặc dù chúng ta không có phát biểu minh nhiên nào từ các tác phẩm của
ông về vấn đề các quan hệ luận lý, nhưng chắc chắn là ông đã dùng đến chúng.
Vào các thế kỷ tiếp đó, khi khám phá của ông được khai triển thêm trong tay của
Trần Na và Pháp Xứng, ta biết rằng ba loại quan hệ đã được bàn đến, những quan
hệ mà họ cho là cơ bản và chúng có thể dùng làm tiêu chuẩn để phân biệt ba loại
luận lý. Quan hệ thứ nhất trong số này là quan hệ phủ định mà ta có thể tìm
thấy trong các suy luận như ‘Không có cái bình ở đây vì không có sự tri nhận về
nó.’ Quan hệ thứ hai gọi là quan hệ đồng nhất thuộc loại ‘Đây là một cái cây vì
nó là sisampa.’ Loại thứ ba gọi là quan hệ “nhân quả” như được tìm thấy trong
suy luận ưa ý nhất ‘Nó có lửa vì nó có khói.’[27]
Tạm gác qua một bên
quan hệ phủ định thì hai quan hệ còn lại được nhận ra rất rõ trong các tác phẩm
của Thế Thân. Quan hệ đống nhất đã được nhắc đến trong sự nối kết với thuyết mô
tả. Tuy nhiên, thí dụ Pháp Xứng đã cho thì thú vị ở điểm nó không chỉ diễn đạt
quan hệ đó trong một trường hợp đặc trưng, mà điều đáng nói là nó đặt lại vấn
đề chủng loại. Bởi vì nói rằng sisampa có một quan hệ đồng nhất với cái cây
cũng là nói rằng cây là một tổ hợp A mà sisampa là một thành viên của nó trong
số các thành viên khác. Như vậy, quan hệ này không hoàn toàn là đồng nhất mà
đúng hơn nó là quan hệ thành phần. Vì lẽ đó, quan hệ đồng nhất được biểu hiện
trong thuyết mô tả của Thế Thân không hoàn toàn là một với thuyết mà Pháp Xứng
có ý ám chỉ. Tuy nhiên, điều này không dẫn đến kết luận rằng cái gọi là quan hệ
đồng nhất thuộc loại sau không được Thế Thân biết tới. Chúng ta sẽ chỉ ra rằng
chính sự tìm ra quan hệ đó đã thúc đẩy ông đi đến một thuyết minh mới về lý
luận luận lý và một định nghĩa mới về lan truyền mà những nhà luận lý tiếp đó
muốn gọi là “lan truyền nội tại.”
Loại quan hệ thứ ba
đều có trong hầu hết các mảng còn lại của các tác phẩm luận lý của Thế Thân.
Điểm đặc trưng của quan hệ này nằm ở sự kiện nó có tên là “quan hệ nhân quả”
(causal relation), hay chính xác hơn, là “quan hệ hệ quả” (consequential
relation). Thí dụ về nó như sau: ‘Nó có lửa vì nó có khói.’ Để có giá trị, kể
từ thời của Thế Thân suy luận đó phải có phát biểu chứng tỏ sự “nối kết bất khả
phân” giữa khói và lửa, và thường có dạng “bất cứ cái gì có khói thì có lửa.”
Vì thế, ở đây chúng ta có một quan hệ ngoại động hơn là một quan hệ nhân quả,
bởi vì qua quan hệ này, thí dụ sẽ có dạng:
(19) A = B
B = C
A = C
(Hiển nhiên, nó
cũng thuộc dạng: {[(p ® q) & p] ® q}, nhưng chúng ta không cần bàn đến ở
đây). Vì vậy, cái gọi là quan hệ nhân quả thực sự là một quan hệ ngoại động. Và
vì lẽ đó, xét về thể cách suy luận thì nó là một phương pháp khẳng định (modus
ponens). Trong Vādavidhi, Thế Thân chủ yếu vẫn nói về quan hệ này và các modus
ponens của nó. Và chúng ta không nên ngạc nhiên về điều này, bởi vì với quan hệ
ngoại động ta luôn có thể loại suy phần còn lại. Chẳng hạn, cho R(A,B) và
R(B,C), ta không chỉ có R(A,C) mà còn R(A,A), là biểu thức của một quan hệ tự
phản trong trường hợp B=A, và R(A,B) và R(B,A) là biểu thức của một quan hệ đối
xứng khi A=C.
Điều thú vị là một
khi quan hệ như thế được thiết lập, tức một quan hệ mang tính chất tự phản, đối
xứng và ngoại động, thì ta có thể dễ dàng định nghĩa khái niệm đồng nhất như
sau:[28]
(20) x = y « ("w) {[r(x,w) « r(y,w)] & [r(w,x) « r(w,y)]}
và có thể giản lược
thành
(21) x = y «
("w) [w(x) « w(y)]
Công thức này có thể
được viết lại theo công thức (12)
x = y « ("w) (x Î w « y Î w)
để diễn đạt định lý
khoáng trương. Và đây là điểm thú vị, bởi vì hiển nhiên là khái niệm đồng nhất
có thể được định nghĩa bằng khái niệm chủng loại, và khái niệm đồng đẳng (pure
equality) bằng khái niệm quan hệ tương đương. Cần chú ý là quan hệ tương đương
là quan hệ tự phản, đối xứng và ngoại động. Như vậy, trong văn mạch phạm vi
này, người ta có thể xem quan hệ đồng nhất có nghĩa chính xác như những gì Pháp
Xứng muốn nói, đó là quan hệ chủng loại. Và vì thế, ngay trong phạm vi của
Vādavidhi, quan hệ đồng nhất cũng có thể định nghĩa bằng quan hệ chủng loại.
Như vậy, nếu không quá nới rộng luật thay thế trong thuyết mô tả của Thế Thân,
ta có thể nói rằng trong tác phẩm đó quan hệ đồng nhất có thể được diễn giải
như là quan hệ chủng loại. Lúc đó điều tất yếu là các công thức (7) – (11) có
thể viết lại thành các công thức (i) – (v) của Berg mà không có bất kỳ nhầm lẫn
nào đối với vấn đề chủng loại trong luận lý của Thế Thân.
Sau khi định nghĩa
khái niệm lan truyền trong các công thức (5) – (11), thật dễ dàng thấy rằng Thế
Thân đã thiết lập các biểu đồ luận lý của ông như thế nào. Ngày xưa, mặc dù
chúng ta có các biểu đồ rõ ràng về suy luận, nhưng chưa có cái nào trong số
chúng được bàn đến một cách đặc trưng, ngoại trừ dạng mười chi mà Kỳ Na Giáo đã
đề ra cho chính họ.[29] Vào thời của Caraka, ông đã nhận ra nhu cầu lý luận
đúng luận lý trong y học cho mục đích chẩn bệnh; vì vậy, cuốn y thư nổi tiếng
của ông, Samhita, đã dành một trong những phần của nó để bàn đến nhiều khía
cạnh khác nhau của lý luận luận lý trong y học.[30] Tiếp nối Caraka, Gautama
Aksapāda, lần đầu tiên trong lịch sử Ấn đã bắt đầu hệ thống hóa phần lớn các
kiến thức về nhận thức luận và luận lý của thời đại ông thành một hệ thống các
cách ngôn, mà ông gọi là Nyāyasūtra hay Luận lý Thư, mặc dù giống như bất cứ
cuốn sách nào cùng tên thuộc thời đó, nó không chỉ bàn đến luận lý như thế, mà
còn cả một số các vấn đề khác ngoài chủ đề chính. Trong Nyāyasūtra, ông công
nhiên qui định rằng bất kỳ dạng lý luận nào cũng phải có năm chi sau đây:[31]
1. Luận đề (tôn): Núi
này đang có lửa
2. Lý do (nhân): Vì
nó đang có khói
3. Thí dụ (dụ): Như
trong nhà bếp
4. Áp dụng (dụng): Và
cái này như thế
5. Kết luận (kết): Vì
vậy cái kia cũng thế.
Các dạng lý luận này
đã tồn tại đến thời Thế Thân mà không có bất cứ khảo cứu và cải tiến nào. Rõ
ràng, khi nhìn nó, người ta có thể dễ dàng nhận ra đó là một loại lý luận loại
suy nào đó, mặc dù đã không đạt được mức độ chính thức đáng mong muốn. Và do
khuyết điểm hiển nhiên này, người ta có thể tự hỏi rốt cùng đó có phải là một
biểu đồ suy luận hay không. Trong bất cứ trường hợp nào thì khi Thế Thân bắt
đầu viết về luận lý, ông vẫn chấp nhận biểu đồ năm chi đó. Tuy nhiên, một cải
tiến chưa từng có trước đó cuối cùng đã tách rời luận lý Ấn độ ra khỏi di sản
thực tiễn của các chẩn đoán y học của Caraka và lý luận của Gautama, và đưa nó
vào lộ trình dẫn đến một khoa học chân chính về luận lý. Và cải tiến này không
gì khác hơn sự tìm hiểu những điều kiện cho phép ta suy luận A(s,x) đối với mỗi
một x nếu có A(h,x), điều đã dẫn đến sự ra đời của thuyết ba đặc tính của h.
Trong Như Thực Luận
cũng như trong một trần thuật của Huệ Chiểu, Thế Thân vẫn nói về đồ biểu năm
chi.[32] Nhưng trong cùng tác phẩm này ông đã tìm thấy rằng nếu cho một suy
luận có dạng
("x) [A(h,x) «
A(s,x)]
để suy ra A(s,x), ta
phải có A(h,x), và trong đó h phải đáp ứng ba điều kiện sau:[33]
(i) h xảy ra trong s.
(ii) h (chỉ) xảy ra
trong các trường hợp tương tợ.
(iii) h không xảy ra
trong các trường hợp không tương tợ.
Chúng ta đã chính
thức hóa ba điều kiện này, những điều kiện đã từng được gọi là “ba tánh”, trong
các công thức (15) – (17) ở trên. Một khi đã có ba điều kiện này, ta có thể
thấy ngay rằng chúng được áp đặt lên Thế Thân để loại bỏ biểu đồ năm chi và
thay nó bằng một cái mới, bởi vì bây giờ suy luận không còn dựa vào tỷ giảo nữa
mà là một cơ sở mạnh mẽ hơn nhiều, đó là tính khả loại suy của nhiều thành phần
khác nhau có liên quan trong đó. Như vậy, trong Vādavidhi, tác phẩm luận lý kế
tiếp của ông, Thế Thân đã thực sự bác bỏ biểu đồ năm chi, một hành động có thể
tạo ra một phê phán đáng kể từ những người chống đối ông suốt trong lịch sử, và
đã thay nó bằng một biểu đồ ba chi, có dạng tổng quát như sau:
1. Luận đề: Núi có
lửa
2. Lý do: Vì nó có
khói
3. Tiền đề: Bất kỳ
nơi nào có khói, nơi đó có lửa, như trong nhà bếp.[34]
Chi thứ ba được Thế
Thân định nghĩa là một phát biểu của sự lan truyền, xác định “nối kết bất khả
phân” giữa luận đề và lý do. Nói cách khác, nó thuộc dạng:
("x) [A(h,x) ®
A(s,x)]
vì vậy, khi có lý do
h như
("x) A(h,x)
ta luôn luôn có thể
loại suy tiền đề s
($x) A(s,x)
Ngày nay, điều hoàn
toàn mới lạ trong biểu đồ ba chi này và giúp phân biệt với biểu đồ năm chi của
Gautama như một khám phá mới không phải là nó giản lược năm chi nặng nề thành
biểu đồ khả dụng ba chi, mặc dù đó đúng là cái nó mang lại, mà là nó đã đưa vào
tiền đề phát biểu chính xác quan hệ lan truyền giữa chi thứ nhất và thứ hai và
lập thành chi thứ ba. Tại sao việc đưa vào này lại là một khám phá mới? Bởi vì
nó được rút ra từ thuyết ba tánh của Thế Thân. Ta đã biết rằng với các điều
kiện (i) – (iii) như được biểu thị bởi các công thức (15) – (17), ta luôn có
thể loại suy (2) và công thức này, như đã thấy, cũng là một biểu thức của chi
thứ ba. Vì vậy, không phải vô cớ hay chỉ vì tính chất rườm rà của biểu đồ năm
chi mà Thế Thân loại bỏ nó và thay bằng biểu đồ ba chi. Và kết luận này còn
được củng cố thêm bởi phương pháp chứng cứ ngày nay là, nếu cho các công thức
(15) – (17), ta luôn có thể loại suy (2), như đã được chứng minh trước đây. Như
vậy, lần đầu tiên trong lịch sử luận lý Ấn độ, người ta được chỉ cho thấy tại
sao một dạng suy luận nào đó thì thuộc loại như nó là mà không phải cách nào
khác.[35] Đây quả thật là đỉnh cao những thành tựu và thiên tài của Thế Thân.
Hơn nữa, dù chi thứ
ba của biểu đồ mới được viết dưới dạng:
("x) A(h,x) ®
A(s,x)
nhưng thật ra nó phải
thuộc dạng
(22) ("x) {(A,x)
& ($x) [A(h,x) ® A(s,x)]} ® A(s,x)
bởi vì nó không những
phát biểu rằng ‘bất kỳ nơi nào có khói thì nơi đó có lửa’, mà còn ‘như ở trong
nhà bếp’, một điều minh định rõ ràng phạm vi được mô tả bởi phát biểu trước
không phải là một phạm vi trống rỗng. Tuy nhiên, nếu đúng thật như thế, như một
số tác giả đã chủ trương, thì ta có thể dễ dàng thấy rằng ba điều kiện được
diễn đạt bởi các công thức (15) – (17) không cần thiết gì cả. Thật vậy, điều
này sẽ đưa biểu đồ ba chi trở lại lối suy luận cũ, tức lý luận bằng tỷ giảo,
của Nyāyasūtra. Vì lẽ đó biện pháp luận lý sẽ là loại hẳn công thức được đưa
vào:
(23) ("x)
(A(h,x) ® A(s,x))
và chỉ giữ lại thành
phần lan truyền cần thiết được biểu thị bởi công thức (2). Mong rằng đây là
những gì Thế Thân đã làm trong Như Thực Luận II, có lẽ là tác phẩm luận lý sau
cùng của ông. Trong Pramāṇasamuccaya, Trần Na thuật rằng có một luận thư tên là
Như Thực Luận, chủ trương thí dụ được cho trong chi thứ ba của biểu đồ mới thì
không cần thiết và vì thế có thể bỏ đi.[36] Mặc dù chỉ trích mạnh mẽ thuyết này
nhưng ông đã không cho chúng ta biết tác giả là ai. Điều kỳ lạ hơn là ông cũng
đã trích dẫn cuốn đó trong một vài trường hợp khác, trong đó ông tỏ ra tán
thành các quan niệm của nó.[37] Tình huống này càng phức tạp hơn khi một số nhà
bình giải về ông đã nhầm lẫn ghi lại tên tác phẩm này ở dạng số nhiều và như
thế đã khiến cho những người khác tin rằng có lẽ có trên một luận thư mang tên
Như Thực Luận.[38]
Thật vậy, một tin tưởng như thế đã được Tucci nghĩ đến. Cùng với sự kiện Như
Thực Luận mà Trần Na dẫn có chủ trương một biểu đồ hai chi trong khi dịch bản
Hán văn của tác phẩm cùng tên chỉ có biểu đồ cũ năm chi, ông có ý kiến rằng
cuốn sau, từ đây trở đi sẽ được gọi là Như Thực Luận I, thì khác với cuốn
trước, cuốn mà chúng ta đã gọi tên Như Thực Luận II. Giờ đây, sự kiện Như Thực
Luận I là một trong các tác phẩm của Thế Thân, nếu không muốn nói là tác phẩm
đầu tiên của ông về luận lý, là điều chắc chắn không nghi ngờ gì nữa, và vì thế
chúng ta không cần bàn thêm gì nữa.[39] Về Như Thực Luận II, Frauwallner đã chỉ
ra tính chất không đáng tin cậy của hình thức số nhiều và vì thế đã loại bỏ
quan niệm cho rằng tên Như Thực Luận không phải là một danh từ riêng mà là từ
chỉ chung cho một loạt các bài viết bàn về cái như thực (tarka).[40]
Nay chúng ta thêm
chứng cứ sau để chứng minh rằng biểu đồ hai chi, mặc dù đã bị Trần Na và những
người khác chỉ trích, thật sự đã được Thế Thân sử dụng trong các tác phẩm khác
của ông. Chẳng hạn trong Câu Xá Luận, ta có suy luận thuộc dạng ‘Nếu người ta
đã cần đến một nhân cho sự hủy diệt thì người ta sẽ cần đến một nhân cho mọi sự
hủy diệt.’[41] Tương tợ, trong Thành Nghiệp Luận, Thế Thân đôi khi áp dụng suy
luận đó cho những lập luận của ông như ‘Nếu một vật an trụ thì nó không có
chuyển động’ hay ‘Nếu nó không chuyển động thì nó thường xuyên an trụ’, hay
‘Nếu nó không an trụ thì nó cũng không có chuyển động’, mà không hề đề cập đến
chi thứ ba của biểu đồ ba chi.[42] Vì thế, khẳng định rằng, như Tucci đã làm,
biểu đồ suy luận hai chi “chắc chắn không được Thế Thân chấp nhận” là sai hoàn
toàn. Thật vậy, những suy luận thuộc dạng ‘Nếu nó không có chuyển động, nó
thường xuyên đình trụ’ có thể được biểu thị chính xác qua công thức
(2) ("x) [A(h,x)
® A(s,x)]
mà không cần thêm vào
công thức (23) một khi các điều kiện trong (15) – (17) được phát biểu, vì ta có
thể loại suy (2) từ (15) – (17).
Kết luận đó thú vị
trong nhiều cách. Thứ nhất, nó dẫn chúng ta đến nhận thức rằng với biểu đồ suy
luận mới hai chi Thế Thân có thể giải quyết toàn bộ khó khăn Gangeśa đã đặt ra
về các trường hợp thực hữu-phổ biến, bởi lẽ trong thuyết minh mới này, nếu cho:
(24) ("x) (h(x)
® g(x)
ta có thể loại suy
(25) ("x) h(x) ®
("x)g(x)
Dạng loại suy mới
mạnh mẽ này về sau đã được Arcata Dharmakaradatta nhận ra.[43] Ông hiểu rằng
thí dụ được cho trong chi thứ ba không dùng để chứng minh một luận đề là đúng
hay sai, mà chỉ là một hướng dẫn cho người không hiểu biết, mặc dù nó thường bị
phê phán và bỏ qua bởi hầu hết các nhà luận lý khác, dĩ nhiên kể cả Trần Na,
Gangeśa. Và nhờ nhận ra điều này mà Arcata đã có thể chứng minh rằng người ta
có thể rút ra một kết luận tự nhiên thuộc loại “Tất cả đều sát na diệt’ từ tiền
đề ‘Bất kỳ cái gì thực hữu đều thuộc sát na diệt’, một điểm Gangeśa đã bỏ sót
trong phê phán của ông về định nghĩa nối kết bất khả phân của Thế Thân.
Tuy nhiên, để thực hiện suy luận đó, người ta cần có sẵn khái niệm chủng loại
như được định nghĩa trong (20) – (21). Điều này cũng thế trong trường hợp suy
luận ‘Đây là một cái cây vì nó là simsapa’ Pháp Xứng đã cho ở trên. Bởi vì
trong cả hai trường hợp đều ngầm chứa các lượng từ về chủng loại mà khi được
viết đầy đủ chúng sẽ trở thành “vừa phổ biến vừa thực hữu.” Như vậy, dù phát
biểu ‘Đây là một cái cây vì nó là simsapa’ có thể viết dưới dạng
(26) ("x) [f(x)
® g(x)]
nhưng điều nó thật sự
chuyển tải lại thuộc dạng
(27) ($w) ("z)
("x) (x Î x « x Î w)
trong đó w biểu trưng
chủng loại cây nói chung, và z biểu trưng chủng loại cây simsapa nói riêng. Và
cái được (27) biểu thị thì không được biểu thị thỏa đáng bởi (26) do các lượng
từ hỗn hợp của công thức trước. Vì vậy, ta có thể nói rằng Thế Thân đã đưa vào
một luận lý chủng loại cùng với việc giới thiệu biểu đồ suy luận hai chi của
ông. Hiện nay chúng ta không biết ông đã bàn đến và đánh giá luận lý này như
thế nào, bởi vì không còn mảng nào liên quan đến nó còn giữ được. Thế nhưng,
điều này không có nghĩa ông không biết đến lợi ích của một luận lý như thế
trong một số trường hợp. Các thí dụ đã cho ở trên minh chứng đầy đủ điều này.
Cho đến nay, chúng ta
đã mô tả luận lý của Thế Thân như chúng ta hiểu từ một số lượng hạn chế của các
mảng mà chúng ta biết đến và còn giữ được từ những tác phẩm luận lý của ông.
Chúng ta đã không nói gì về đặc điểm của luận lý này cũng như loại ký hiệu mà
chúng ta đã sử dụng. Điều này vì chúng ta tin rằng khi nghiên cứu một luận lý
như của Thế Thân, ta không nên có định kiến ngay cả đối với loại công cụ mà ta
sử dụng để thực hiện việc làm này, bởi vì nó có thể dẫn chúng ta đến một kết
luận sai lạc.
Nay, ở chặng cuối của
việc làm này, một điều trở nên quá hiển nhiên là ta có thể phân biệt ít ra ba
loại luận lý chính trong tác phẩm của ông. Thứ nhất là luận lý đồng nhất; thứ
hai là luận lý định lượng. Hai luận lý này được kết hợp để cho ra các diễn đạt
như các công thức (7) – (11) chẳng hạn. Chúng thuộc các loại đơn giản nhất, và
điều này không nên ngạc nhiên. Như Quine đã nhận xét trong lời giới thiệu của
ông cho lần tái bản cuốn Incomplete Symbols: Descriptions của Whitehead và
Russell rằng “Một điều quan trọng của việc sử dụng tất cả các số hạng đơn ngoài
số lượng các biến số là: luận lý định lượng và đồng nhất không còn cần được
quan niệm theo cách nào khác ngoài dạng đơn giản nhất của nó, bao gồm các từ
thuộc về thuộc từ, các biến số, các từ định lượng, các tác dụng thuộc nguyên
lý, và ‘=’”, [44] vì thế tại sao luận lý Thế Thân lại khác biệt với thuyết mô
tả của ông?
Trong cùng các công
thức đó, ta có thể dễ dàng nhận ra sự hiện diện của một hàm tử F. Và hàm tử này
thật sự chỉ ra rằng sớm muộn gì nó cũng sẽ được tác động lên Thế Thân để ông
đạt đến một luận lý chủng loại và đây là loại luận lý thứ ba chúng ta nói đến ở
trên. Lý do? Bởi vì trong một số phát biểu như chúng ta đã thấy, luận lý đồng
nhất và định lượng sẽ không thể chuyển tải đầy đủ ý nghĩa của chúng. Như vậy,
một luận lý chủng loại phải được quan niệm, dù hiện nay chúng ta hoàn toàn
không nắm rõ nội dung chính xác của nó do thiếu tư liệu trong các mảng luận lý
của Thế Thân. Một khi, ba loại luận lý này được thiết lập, đương nhiên điều tất
yếu là các ký hiệu chúng ta sử dụng nhìn chung đều thuộc về chúng mà không có
bất kỳ phân biệt nào. Vì thế ta không cần phải minh định hệ thống ký hiệu gì ta
đã dùng đến. Chúng được dùng, và nếu chúng phù hợp, cho việc khám phá luận lý
học của Thế Thân và không cho mục đích nào khác.
Sau khi đã định nghĩa
luận lý của ông và nội dung của nó, vậy ta có thể rút ra kết luận gì từ nó? Ta
đã thấy rằng lan truyền là khái niệm cơ bản của luận lý Thế Thân và vì thế
quyết định toàn bộ phát triển kế tiếp các khám phá luận lý của ông. Có hai
nguồn phát khởi khái niệm này. Thứ nhất là việc nhận ra rằng để bất kỳ suy luận
thuộc bất kỳ dạng nào có thể có giá trị, cần có những điều kiện nào đó mà nó
phải đáp ứng. Như vậy, nếu cho một suy luận có dạng tổng quát
("x) (A(h,x) ®
A(s,x))
Thế Thân chỉ ra rằng
nó phải đáp ứng ba điều kiện được diễn đạt trong các công thức (15)–(17). Sự
thừa nhận ba điều kiện này dẫn đến việc thiết lập quan hệ cần thiết giữa h và
s, cái mà ông gọi là “nối kết bất khả phân” hay lan truyền.
Nguồn kia xuất phát
chủ yếu từ chính thuyết mô tả. Lúc đầu chúng ta đã nói rằng thuyết này không
những chủ trương nếu cho một n thì luôn luôn có một N như (ix)N(x), mà còn nếu
cho một n sẽ luôn luôn có một F như F(x). Và từ đó ta có thể có một biểu đồ suy
luận thuộc dạng
{("x) [f(x) É
g(x)] & ("x) f(x)} É ("x)g(x)
như được biểu thị
trong công thức (1). Vì thế, về phương diện này không được quá nhấn mạnh rằng
chính thuyết mô tả đã thúc đẩy Thế Thân tìm hiểu các điều kiện của một suy luận
mà không phải là cái gì khác. Vì thế, thuyết này đóng vai trò quyết định trong
lãnh vực luận lý.
Một khi khái niệm lan
truyền được định nghĩa, nhiều thuyết minh luận lý khác nhau thuộc loại mới này
phải được cần đến, và nổi bật nhất trong số đó hẳn là sự giản lược biểu đồ lý
luận tỷ giảo năm chi thành loại chính thức hoàn chỉnh ba chi, và rồi là loại
hai chi. Chúng ta đã chỉ ra rằng việc giản lược biểu đồ cũ năm chi thành biểu
đồ mới ba chi không phải tình cờ, mà do những nỗ lực và lý do tinh tế. Không
cần phải nói, nó không phải là đóng góp của Trần Na như được khẳng định từ
trước đến nay. Thế nhưng, điểm thú vị lại nằm ở lần giản lược thứ hai của biểu
đồ mới ba chi này thành một biểu đồ còn mới hơn, đó là hai chi.
Sự giản lược này thật
hứng thú, bởi vì lần đầu tiên giá trị của một suy luận được thiết lập không
phải dựa vào quan hệ về một thực thể ngoài luận lý mà dựa vào sức mạnh của
chính nó. Và như thế, khái niệm giản lược chính thức đã đạt đến đỉnh cao của
nó. Thật không may là hướng tư tưởng này đã không được những người kế thừa Thế
Thân nắm bắt. Họ thường xuyên xem nó như đối tượng của sự phê phán và vì thế đã
chối bỏ nó. Thất bại của họ trong việc đánh giá tầm quan trọng của nó có lẽ là
yếu tố quan trọng nhất góp phần vào tình trạng chết cứng của tư tưởng và khoa
học truyền thống Ấn độ sau thời ông. Tuy nhiên, nếu giá trị của một suy luận
được quyết định ở chính nó, thì các phát biểu thuộc dạng “sự thật của một phát
biểu tùy thuộc vào sự tồn tại của chúng như là cái gì đó trong vũ trụ” sẽ là
gì? Câu hỏi này, chúng ta sẽ xét đến ở chương sau.¤
dịch Việt: Đạo Sinh
[1] Annambhatta,
Tarkasaṃgraha, ed. Foucher, p. 134.
[2] Staal,
“Contraposition in Indian Logic, Logic, Methodology and Philosophy of Science”,
Proceedings of the 1960 International Congress, Stanford: Stanford University
Press, 1962: 638-639.
[3] Kumārila, The Mīmāṃsāślokavārtika of Kumārila Bhatta, ed. Rāma Sāstrī
Tailanga, Benares: Chowkhambā Sanskrit Series,
1898: 384-385: Section Anumānaparicchedaḥ, verses 121-122.
[4] Dharmakīrti, Nyāyabindu, ed. Serbatskoi, Petrograd,
1918: 18-19.
[5] Như Thực Luận,
Taisho 1633, p 30c20-21: 我 立 因。 種 相 是 根 本 法。同 類 所 攝 異 類 相 離。
[6] Staal, “Contraposition in Indian Logic: 634; Kajiyama, Bukkyo tetsugaku ni
okeru meidai kaishaku”, in Kanakura hakushi koki kinen Indogaku Bukkyogaku
ronshu, ed. Tsukamoto Mekio Kyoto: Heirakuji shoden, 1966: 423-438.
[7] Vādavidhi,
Fragment 1.
[8] Một lần nữa, cần
lưu ý rằng khi nói như vậy chúng tôi cho rằng Pháp Xứng hoàn toàn nương theo
các thuật ngữ và quan điểm của Trần Na. Như vậy, dù đã lập lại từ avyabhicāra
trong Nyāyabindu và Pramāṇavārttika, nhưng Hetubindu vẫn bàn đến bài tụng lấy
từ Pramāṇavārttika:
pakṣadharmas tadamsena vyāpto hetus tridhaiva saḥ/
avinābhāvaniyamād
dhetvābhāsās tato’pare//
trong đó từ
avinābhāva tự chứng thực một cách hiển nhiên và được sử dụng trong toàn bản
luận này. Xem Steinkellner, Dharmakīrti’s Hetubinduḥ, Teil I, Sitzungsberichte
der Osterreichischen Akademie der Wissenschaften, Philosophisch-Historische
Klasse, 252. Band, 1. Abhandlung, pp.30-39. Như vậy, ở p.39, chúng tôi đọc:
“etallakṣaṇas tridhaiva so hetus triprakāra eva, svabhāvaḥ kāryam anupalabdhiś
ceti yathānitye kasmiṃścit sādhye sattvam agnimati pradeśe dhūmo’bhāve
copalabdhilakṣaṇaprāptasyānupalabdhir ity atraiva trividhe ’vinābhāvaniyamāt,
pakṣadharmasya yathoktā vyāptir avinābhāvaḥ sa trividhād dhetor anyatra nāstīty
atraiva niyata ucyate…”
[9] Berg, Review of
Staal’s “Contraposition in Indian Logic”, in Journal of Symbolic Logic, XXXV
(1970: 570ff.
[10] Berg, op. cit.:
575.
[11] Goekoop, op.
cit.: 63-64.
[12] Gangeśa,
Tattvacintāmani (Anumāna-khanda), ed. with the Dīdhiti commentary of Raghunātha
and the sub-commentary of Gadādhara, Benares:
Chowkhambā Sanskrit Series, 1926: 1326; Uddyotakara, Nyāyavārttika: 46.
[13] Viśvanātha,
Nyāyasiddhāntamuktāvalī, ed. Narayancharan Shastri et. al., Varanasi, 1972:
464-466: anvayavyāptir uktaiva vyatirekād ihocyate/ traividhyam iti/ anumānm hi
trividham kevalānvayikevala-vyatirekyanvayavyatirekibhedāt/ tatrāsadvipakṣaḥ
kevalānvayī yathā ghaṭo ’bhidheyaḥ prameyatvād ity ādau, tatra hi sarvasyaivābhidheyatvād
vipakṣāsattvam/ asatsapakṣaḥ kevalavyatirekī yathā pṛthivī itarebhyo bhidyate
gandhavattvād ity ādau tatra hi jalāditrayodasabhedasya pūrvam aniscitatayā
niścitasādhyavataḥ sapakṣasyābhāva iti/ satsapakṣavipakṣo ’nvayavyatirekī yathā
vahnimān dhūmād ity ādau tatra sapakṣasya mahānasāder vipakṣasya jalahradādeś
ca sattvam iti//
[14] Annambhatta,
Tarkasaṃgraha: 132-134: “liṅgam trividham anvayavyatireki kevalānvayi
kevalavyatireki ca/ anvayena vyatirekena ca vyātimad anvayavyatireki yathā
vahnau sādhye dhūmavattvam yatra dhūmas tatrāgniḥ yathā mahānasaity
anvayavyāptiḥ/ yatra vahnir nāsti tatra dhūmo ’pi nāsti yathā mahāhradaiti
vyatirekavyāptiḥ/ anvayamātravyāptikam kevalānvayi yathā ghaṭo ’bhidheyaḥ
prameyatvāt patavat atra prameyatvābhidheyatvayor vyatirekamātravyāptikam
kevalavyatireki yathā pṛthivī itarebhyo bhidyate gandhavattvāt yad itarebhyo na
bhidyate na tad gandhavat yathā jalam na ceyam tathā pṛthivīmātrasya
pakṣatvāt//.” Về từ pakṣatva, xem Manikantha, Nyāyaratna, ed. Subrahmanya Sastri
and V. Krishnamacharya, Madras:
Madras Government Oriental Series, 1953: 109-115.
[15] Matilal,
“Gangeśa on the Concept of Universal Property (kevalānvayin)”, Logic
Methodology and Philosophy of Science III, Proceedings of the Third
International Congress for Logic, Methodology and Philosophy of Science,
Amsterdam 1967, Amsterdam: North-Holland Pub. Co.,
1968: 531-542.
[16] Staal,
Contraposition in Indian Logic: 636.
[17] Berg, op. cit.
574-575.
[18] Keśavamiśra,
Tarkabhāsā, ed. Srī Shobhita Miśra, Banaras:
The Chowkhambā Sanskrit Series Office, 1953: 66-68.
[19] Gangeśa,
Tattvacintāmani: 100-160.
[20] Annambhatta,
Tarkasaṃgraha: 124.
[21] Viśvanātha,
Nyāyāsiddhāntamuktāvalī, ed. Narayancharan Shastri & Swetvaikuntha Shastri,
Varaṇasi: The Chowkhambā Sanskrit Series Office, 1972: 232-246.
[22] Berg, Journal of
Symbolic Logic XXXV (1970): 573;
[23] Calari
Sesācārya, Pramāṇacandrikā, ed. & transl. Susil Kumar Maitra, Calcutta: Calcutta
University, 1936:
143-144.
[24] Stcherbatsky,
Buddhist Logic II: 53.
[25] Dharmottara,
Nyāyabinduṭikā, ed. Serbatskoi, Petrograd, 1918: 20: nanu ca sapakṣa eva
sattvan ity ukte vipakṣae ’sattvam eveti gamyate eva/ tat kim artham punar
ubhayor upādānam kṛtam/ tad ucyate/ anvayo vyatireko vā niyamavān eva
prayoktavyo nānyatheti darayitum dvayor apy upādānam kṛtam/ aniyame hi dvayor
api prayoge ’yam arthaḥ syāt/ sapakṣe yo ’sti vipakṣe ca nāsti sa hetur iti/
tathā ca sati sa syāmas tatputratvād dṛśyamānaputravad iti tatputratvam hetuḥ
syāt/ tasmān niyamavator evānvayavyatirekayoḥ prayogaḥ kartavyo/ yena
pratibandho gamyeta sādhanasya sādhyena/ niyamavatoś ca prayoge ’vasyakartavye
dvayor eka eva prayoktavyo na dvāv iti niyamavān evānvayo vyatireko vā
prayoktavya iti sikṣaṇārtham dvayor upādānam iti//.
[26] Mookerjee,
Buddhist Philosophy of Universal Flux, Calcutta:
Calcutta University,
1935; cf. Murti, Central Philosophy of Buddhism, London: Allen & Unwin, 1953; also Staal,
Negation and the Law of Contradiction in Indian Thought: a Comparative Study,
BSOAS XXV (1962): 52-71.
[27] Dharmakīti, The Pramāṇavārttikam of Dharmakīrti: 2.
[28] Hailperin,
“Remarks on Identity and Description in First-Order Axiom Systems”, Journal of
Symbolic Logic XIX (1954): 14-20. Xem theem Beth, The Foundations of
Mathematics: 224-231.
[29] Vādidevaśri, Syāvādaratnākāra, Poona:
Arhat Mata Prabhakara: 556; Bhadrabāhu, Daśavaikālikaniryukti, Agamodaya, gāthā
49-50.
[30] Caraka,
Carakasaṃhitā I, ed. Vinayacandra Vāsiṣṭha & Jayadeva Sarmā, Ajamer: Ārya
sāhitya mandala, 1954: 740 & 814.
[31] Nyāyasūtra
1.1.32-39.
[32] Như Thực Luận,
Taisho 1633: 30c2-4: 論曰。 聲無 常因功力生。 無 中 間 生 故。譬 如 瓦 器 因 功 力 生。 生 已 破 滅。聲 亦 如 是。故 聲 無 常。
Huệ Chiểu, Nhân Minh
Nghĩa Đoán, Taisho 1841: 144b29-c1: 如世親説五能立。亦不非於舊陳。
Huệ Chiểu, ibid.:
155b13-24: 解小乘外道。立有五分。慈尊無箸陳那等。
但立。分。合結為成於喻。是喻。之差别。善立於喻。足顯合結。無繁喻外。别立二支。又云。瑜伽同類即當對法合支。對法既立喻訖。何故復説合支。結既許同世 親合支。如何即别。又瑜伽引喻之言。為同為異。若其是總同類即是喻。何關對法合支。若引喻即説為同類。與世親合支何别。作斯會教全不相當。應知。對法合 結。與世親不殊。
p157c11-14: 又據世親五支之中。明缺減過者。有二十五或二十一。謂闕一有五。闕二有。。闕。有十。全闕有一。取捨如前。准此。只有二十。句。二十五句一總不相當。或是 寫錯。更勘餘本。
[33] Như Thực Luận,
Taisho 1633, p 30c20-21: 我 立 因。 種 相 是 根 本 法。同 類 所 攝 異 類 相 離。
[34] Khuy Cơ, Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Sớ, Taisho 1840: p. 94a1-2;
Vacaspatimiśra, Nyāyavārttikatātparyaṭīkā 298: atra vasubandhunā pratijñādayas
trayo ’vayavā durvihitā akṣapādalakṣaṇena ity uktam/.
[35] Baliṅgay, “The
Significance of Drishanta in Indian Logic”, in Essays in Philosophy Presented
to Dr. T. M. P. Mahadevan on His Fiftieth Birthday, ed. Chari, Madras: Ganesh & Co.
1962: 163-175.
[36] Dignāga,
Pramāṇasanuccaya IV: 66b4-5; Frauwallner, Vasubandhu’s Vādavidhiḥ, WZKSOA
(1957): 145-146; Tucci, Buddhist Logic before Diṅnāga, JRAS (1929): 486-487.
[37] Dignāga, Pramāṇasanuccaya III: 44a7-b1; Frauwallner, Vasubandhu’s
Vādavidhiḥ: 144-145; Tucci, op. cit.: 486.
[38] Dignāga,
Pramāṇasanuccaya III: 44a7-b1; IV: 66b4-5.
[39] Wen Kuei, Jen
ming ju cheng li lun shu, Dainippon Zokuzokyo 86, p. 355a9-13.
[40] Frauwallner,
Vasubandhu’s Vādavidhiḥ, p. 144.
[41] Abhidharmakośa
IV 3a-b, LVP pp.4-9.
[42]
Karmasiddhiprakaraṇa, ed. Yamagucchi, Kyoto:
Hozokan, 1951: 7.
[43] Arcata,
Hetubinduṭīkā: 62-63.
[44] Van Heijenoort, From
Frege to Godel, Cambridge, Mass: Havard University
Press, 1967: 217.