Từ những gì đã nói, nay ta có thể hình thành
một số nhận xét cuối cùng về triết học Thế Thân cũng như ý nghĩa của nó đối với
chúng ta ngày nay. Ở Chương I, chúng tôi đã chỉ ra rằng có thể sử dụng phương
pháp di truyền để nghiên cứu triết học này, xem nó là sự phát triển từ một quan
tâm triết học ban đầu. Mối quan tâm sơ khởi này tập trung quanh vấn đề đối
tượng của thức chính xác là gì. Chúng ta đã thấy Thế Thân nỗ lực như thế nào để
đáp lại mối quan tâm đó qua việc phát triển một công cụ luận lý được chúng ta
ngày nay biết đến là sự mô tả. Từ công cụ này, các quan niệm mới được rút ra,
không chỉ để tăng cường giải pháp của ông mà còn giúp ông tìm ra một trả lời
thỏa đáng đối với quan tâm đó. Câu trả lời đặt nền tảng trên khái niệm mọi hoạt
động của một thức hoàn toàn được quy định bởi, và tùy thuộc trọn vẹn vào ngôn
ngữ. Như vậy, thức được xem như không hiện hữu chừng nào còn được định nghĩa là
một loại thức như thế. Không có cái gọi là thức thuần túy. Thức luôn luôn là
thức về cái gì đó. Vì lẽ đó, nó hàm chứa trong tự thân cái gì đó khác hơn chính
nó, điều này trước tiên tạo cho nó chuẩn mực của một thức và lập thành lý do
tồn tại của nó. Và ‘cái gì đó khác hơn chính nó’ này chính là ngôn ngữ. Chính
ngôn ngữ tạo cho thức cơ hội để nó tự lập thành. Cũng chính ngôn ngữ được bao
hàm để hiển bày các hoạt động của nó. Và cuối cùng, cũng chính ngôn ngữ làm cho
nó trở thành những gì nó là, tức là thức. Thật vậy, như Thế Thân đã nói, sự vận
hành của thức chỉ là một cấu trúc ngôn ngữ. Và thật khó để quan niệm một hoạt
động của thức mà không có ngôn ngữ nào kèm theo, dù là ngôn ngữ nói hay ở dạng
nào khác.
Vai trò rất quan trọng của ngôn ngữ trong
những hoạt động như thế nay đã được mọi người thừa nhận, không chỉ do các tiến
bộ đạt được trong các lãnh vực ngôn ngữ học tâm lý và nghiên cứu não bộ, mà còn
do khả năng con người có thể tạo ra sự thông minh nhân tạo.[1] Tuy nhiên, một
điều đặc biệt và kỳ lạ là những ý nghĩa đạt được này thường bị bỏ qua trong một
số triết gia hàng đầu. Vì vậy, kể từ khi Husserl đưa ra phát biểu nổi tiếng “ý
thức luôn là ý thức về cái gì đó”[2] thì vấn đề ý thức đã tiếp tục được bàn đến
để xem có một thức như thế không. Ngay cả Sartre cũng vẫn không xem xét đúng
vai trò chủ chốt đó mặc dù lý thuyết cởi mở của ông về thức cho thấy một sự cải
tiến quan trọng so với thuyết của Husserl và gần với thuyết của Thế Thân nhất ở
chỗ phủ nhận sự mặc định về tồn tại của một Bản thể siêu nghiệm. Mặc dù cùng
với Heidegger, ông đã thừa nhận “tôi là những gì tôi nói” và “tôi là ngôn ngữ”,
nhưng ông chỉ bằng lòng nói rằng “ngôn ngữ không phải là một hiện tượng được
thêm vào tồn-thể-vị-tha-thể (being-for-others). Nó vốn là tồn-thể-vị-tha-thể;
có nghĩa, sự thật là chủ thể tính tự kinh nghiệm chính nó như một đối tượng đối
với chủ thể tính khác. (...) Ngôn ngữ không phải là một bản năng của cấu trúc
nhân thể, nó cũng không phải là một phát minh của chủ thể tính chúng ta. Nhưng
cũng không cần xem nó như ‘tồn thể-ngoài-tự thể’ (being-outside-of-self) thuần
túy của Tại thể (Dasein). Nó hình thành một phần của điều kiện con người; nó
vốn là bằng chứng mà tiềm thể (for-itself) có thể nêu ra về cái
tồn-thể-vị-tha-thể của nó, và sau cùng nó là sự vượt qua bằng chứng này và sự
ứng dụng của nó đối với các khả năng mà các khả năng này là của tôi; tức, đối
với các khả năng là cái này hay cái kia của tôi đối với Tha thể.”[3] Như vậy,
“qua sự vụ độc nhất là dù tôi có thể làm gì đi nữa thì những hành vi của tôi
vốn được quan niệm và thực hiện một cách tự do, những dự định được thực hiện
theo khả năng của tôi đều có một ý nghĩa ở ngoài chúng, một ý nghĩa nằm ngoài
tôi và tôi kinh nghiệm nó. Chính theo ý nghĩa này—và chỉ theo ý nghĩa này—mà
Heidegger có lý khi tuyên bố rằng tôi là những gì tôi nói.” Nói cách khác, vai
trò ngôn ngữ được xét đến chỉ qua phương tiện giao tiếp và vì thế hoàn toàn
được định đoạt bởi tồn-thể-vị-tha-thể của nó theo nghĩa “nó dự tưởng một quan
hệ nguyên sơ với một chủ thể khác.”
Tuy nhiên, khi mô tả như thế về vai trò và,
theo một nghĩa nào đó, về yếu tính của ngôn ngữ, Sartre đã bỏ qua một điều rất
quan trọng, một điều cuối cùng đã dẫn ông đến một nhị nguyên luận mới, một mặt
đặt ra sự tồn tại của cái gọi là “tồn thể-hiển thể” (being-in-itself) và mặt
kia là sự tồn tại của “tồn thể-tiềm thể” (being-for-itself). Điểm mấu chốt là
ngôn ngữ không chỉ là tính thể của tồn thể-vị-tha-thể, mà nó còn là tính thể
của tồn thể-tiềm thể cũng như tồn thể-hiển thể. Ngôn ngữ là tính thể của tồn
thể-vị-tha-thể, hoặc đúng hơn, cũng là tính thể của tồn thể-tiềm thể và của tồn
thể-hiển thể vì chính ngôn ngữ làm cho thức trở thành cái không phải là nó và
không phải cái nó là, như chúng ta đã thấy. Chính do sự mô tả về ngã và pháp mà
thức tự chuyển biến, và sự chuyển biến này chỉ có thể xảy ra do sự kiện nó là
một cấu trúc ngôn ngữ, như Thế Thân đã nói. Tóm lại, dù có trường hợp ngôn ngữ
dự tưởng một quan hệ nguyên sơ với một chủ thể khác thì quan hệ này vẫn chỉ có
thể xảy ra do có một thức nào đó trước tiên. Nếu không, rốt cuộc thì quan hệ
với một chủ thể khác là gì?
Vì thế, nếu ngôn ngữ có thể dự tưởng một
“quan hệ nguyên sơ với một chủ thể khác” như Sartre đã đề xướng thì cùng lúc nó
phải là nhận thức của chủ thể có quan hệ nguyên sơ với chủ thể khác. Thế nhưng,
thức của một chủ thể chỉ có thể là một ngôn ngữ chừng nào nó là một cấu trúc
ngôn ngữ, một cấu trúc cho phép nó (thức) tự diễn đạt nhiều cách khác nhau và
thường xuyên khi hoàn cảnh sống đòi hỏi. Ở đây, chúng ta không cần phải bàn xem
có phải ngôn ngữ là nhân tố tiên khởi kích hoạt toàn bộ phát triển của hệ thần
kinh trung tâm trong con người hay không.[4] Tuy nhiên, nếu thật sự như thế,
như đã giả thiết, thì tiến trình chuyển biến của thức chỉ là một cấu trúc ngôn
ngữ. Kết quả, phát biểu “tôi là những gì tôi nói” không chỉ nên được diễn dịch
là “một chứng cứ mà tiềm thể có thể đưa ra về tồn-thể-vị-tha-thể của nó”, mà
còn là chứng cứ về chính tính thể của nó. Chính sự thất bại không nhận ra được
điểm này cuối cùng đã dẫn Sartre đến một ngụy thuyết mới về nhị nguyên của ông,
tức cái Pour-soi và En-soi. Một loại nhị nguyên luận đòi hỏi “một kết nối tổng
thể” phải được giải quyết và tái hợp ở chỗ “cái Pour-soi, thật ra, không là gì
cả mà chỉ là sự trống rỗng hoàn toàn của cái En-soi: nó giống như một lỗ hổng
của tồn thể ở trung tâm của Hữu thể.”
Vấn đề Pour-soi và En-soi tạo thành một loại
nhị nguyên luận hư ngụy và một “kết nối tổng thể”, có thể dễ dàng chỉ ra bằng
cách cho thấy rằng chúng đều phụ thuộc vào ngôn ngữ để trở thành một phần nào
đó trong tiến trình tư tưởng trước tiên. Trước đây, chúng tôi đã mô tả
“pour-soi”, tức thức, là một cấu trúc ngôn ngữ như thế nào. Nay, trong phạm vi
cái “en-soi” được định nghĩa theo định nghĩa của Sartre, thì nó có thể, theo
cách như thế, được chứng minh chỉ là một sản phẩm của tiến trình cấu trúc ngôn
ngữ đó, tức một sản phẩm của thức.
Thí dụ, Sartre nói rằng “tồn thể bị cô lập
trong chính tồn thể của nó và không nằm trong bất kỳ nối kết nào với những gì
không phải chính nó. Sự biến dịch, sự chuyển hóa, hoặc bất cứ cái gì cho phép
chúng ta nói rằng tồn thể chưa phải là những gì nó là và nó đã là những gì nó
không là—tất cả những điều này đều không được phép về mặt nguyên lý. Bởi vì tồn
thể là tồn thể của chuyển thể và vì lẽ đó siêu việt chuyển thể.”[5] Chúng tôi
chọn phát biểu đặc thù này của Sartre để minh họa cái “en-soi” được quan niệm
và mô tả như thế nào. Nếu đọc nó, người ta sẽ bị giật mình ngay bởi tính chất
ngụy biện của nó trong khẳng định “tồn thể là tồn thể của chuyển thể và vì lẽ
đó siêu việt chuyển thể”. Ngoài ra, phát biểu này còn có khuynh hướng xác minh
những gì chính Sartre phủ nhận, tức “tồn thể en-soi không có nội thể đối lại
ngoại thể và tương tợ một xét đoán, một qui luật, một ý thức của chính nó. En-soi
không có gì bí ẩn; nó cụ thể.” Bởi vì, khi nói rằng bên ngoài chuyển thể còn có
một tồn thể mà tồn thể này “là tồn thể của chuyển thể” thì rõ ràng Sartre phải
cho rằng cái tồn thể en-soi thật sự có nội thể đối lại với ngoại thể và chẳng
có gì bí ẩn. Nếu không, nếu tồn thể là tồn thể của chuyển thể và tồn thể của
chuyển thể là tự thân chuyển thể thì làm sao tồn thể có thể siêu việt chuyển
thể? Và ở đây chúng ta thấy được bằng cách nào mà Sartre, qua tài xảo biện của
mình, đã loại trừ vấn đề chí tử ngàn đời của triết học Tây phương, tức tồn thể
đối với chuyển thể. Vấn đề này đã được Socrates phát biểu rõ ràng trong một
song thoại của ông với Cratylus mà Plato đã ghi lại trong Cratylus của ông như
sau:
Socrates: Làm thế nào để tìm hiểu hay khám
phá các thực thể có lẽ là một vấn đề quá lớn mà ông hoặc tôi đều không quyết
định được; thế nhưng, cũng đáng giá để đạt đến ngay cả kết luận này, đó là
chúng có thể được tìm hiểu và tìm kiếm, không phải từ danh tự mà qua tự thân
chúng nhiều hơn qua danh tự.
Cratylus: Điều đó thật hiển nhiên, thưa
Socrates.
Socrates: Vậy chúng ta hãy khảo sát một điểm
nữa để tránh bị phỉnh phờ bởi sự vụ rằng hầu hết các danh tự này đều hướng theo
một chiều. Giả sử, nên chứng thực rằng mặc dù những ai đưa ra các danh tự đều
làm thế với tin tưởng vạn vật đang biến dịch và trôi chảy—chính bản thân tôi
nghĩ rằng họ đã thật sự có tin tưởng đó—thì trong thực tế điều đó vẫn không
đúng, và tự thân những người đưa ra danh tự đó, sau khi bị rơi vào một dòng
xoáy, đều bị cuốn trôi và lôi kéo chúng ta theo họ. Cratylus xứng đáng của tôi,
hãy xem xét một vấn đề về cái tôi thường mơ: Chúng ta có sẽ khẳng định rằng có
bất kỳ một cái mỹ tuyệt đối, hoặc một cái thiện tuyệt đối, hoặc bất kỳ một hữu
thể tuyệt đối khác nào đó, hay không?
Cratylus: Tôi nghĩ có, thưa Socrates.
Socrates: Thế thì chúng ta hãy xét đến cái
tuyệt đối, không phải là một khuôn mặt đặc biệt nào đó hoặc cái gì đó thuộc
loại đó, có đẹp hay không, hay tất cả những thứ này có biến dịch hay không.
Theo ý chúng ta, cái mỹ tuyệt đối không phải luôn luôn như nó là hay sao?
Cratylus: Điều đó không tránh được.
Socrates: Nếu nó luôn luôn trôi chảy, vậy ta
có thể nói chính xác rằng nó là cái này, và nó là cái kia, hay, chính vào
khoảnh khắc chúng ta đang nói thì nó phải dứt khoát trở thành một cái gì khác
và trôi chảy và không còn là những gì nó là?
Cratylus: Điều đó không tránh được.
Socrates: Vậy thì, cái mà nó không bao giờ
giữ nguyên trạng làm sao có thể là cái gì đó được? Bởi vì nếu nó đã từng giữ
nguyên trạng, thì rõ ràng vào lúc đó nó không biến dịch; và nếu nó luôn luôn
giữ nguyên trạng và luôn luôn là như thế, làm sao nó có thể từng biến dịch hay
chuyển dịch mà không từ bỏ tự dạng của nó?
Cratylus: Nó không thể làm như thế tí nào
cả?
Socrates: Vâng, nó cũng không thể được ai
biết đến. Bởi vì, vào khoảnh khắc người tìm cách tìm hiểu nó tiếp cận nó thì nó
trở thành một cái khác và khác hẳn, để rồi tính thể và tướng trạng của nó không
còn có thể được biết đến; và chắc chắn rằng không có tri nhận nào biết được cái
mà nó không có một tướng trạng nào cả.
Cratylus: Nó giống như ngài nói.
Socrates: Thế nhưng, chúng ta cũng không thể
nói rằng có sự tri nhận nào đó nếu mọi thứ đang biến dịch và không có gì giữ
nguyên cố định; bởi vì nếu tự thể tri nhận không biến dịch và vẫn tiếp tục là
tri nhận thì tri nhận sẽ giữ nguyên, và sẽ có sự tri nhận; nhưng nếu chính tính
thể của tri nhận biến dịch, vào khoảnh khắc của sự biến dịch, thành một tính
thể tri nhận khác thì sẽ không thể có tri nhận; và nếu nó luôn luôn biến dịch,
sẽ luôn luôn không có tri nhận, và qua lý luận này sẽ không có bất cứ cái gì
được biết đến và cũng không có bất cứ ai biết. Nhưng nếu luôn luôn có cái biết
và cái được biết—nếu cái mỹ, cái thiện, và tất cả các thực thể khác hiện
hữu—thì tôi không thấy được làm thế nào lại có bất kỳ sự tương tợ nào giữa các
điều kiện này của điều tôi bây giờ đang nói và [của] sự biến dịch hay sự chuyển
dịch. Nay, [vấn đề] đây có phải là tự thể của các sự vật, hay có phải thuyết
của Heracleitus và nhiều người khác là đúng, là một vấn đề khác; nhưng điều chắc
chắn là không có con người có ý thức nào có thể đặt bản thân mình và linh hồn
mình dưới sự khống chế của danh tự, và tin tưởng vào danh tự và những người đặt
ra chúng đến độ xác quyết rằng anh ta biết được bất kỳ điều gì; anh ta cũng
không lên án mình và mọi thứ và nói rằng không có sự vận hành trong đó, mà [anh
ta sẽ nói] rằng mọi thứ đang trôi chảy như những chiếc bình rò rỉ, hoặc tin
tưởng rằng mọi thứ thì giống như những người bị tác động của bệnh viêm chảy,
trôi chảy và chuyển dịch mọi thời. Cratylus, có lẽ thuyết này đúng, nhưng có lẽ
nó không đúng. Vì thế, ông phải xem xét một cách can đảm và thông suốt và không
chấp nhận bất cứ điều gì một cách khinh suất—bởi vì ông vẫn còn trẻ và đang
trong thời thanh xuân; lúc đó, nếu tìm ra chân lý sau cuộc tầm nghiên, ông hãy
cho ta biết.[6]
Như vậy, Socrates đã cho chúng ta một lý do
mạnh mẽ tại sao phải tồn tại một cái gì đó siêu việt cái đang biến dịch và
chuyển hóa để cho ngay cả tự thể những gì đang biến dịch và chuyển hóa cũng có
thể được tri nhận. Nói cách khác, phải tồn tại một tồn thể và tồn thể này là
tồn thể của chuyển thể và siêu việt chuyển thể. Trong mức độ đó, mô tả của
Sartre về khái niệm tồn thể-en-soi của ông phù hợp với quan niệm về tuyệt đối
của Socrates. Tuy nhiên, ngoài điều này ra, cái làm cho mô tả của Sartre trở
thành một thứ ngụy biện là chủ trương của ông “tồn thể-en-soi không có nội thể
đối lại với ngoại thể …[và] không có gì bí ẩn,” một điều không hề thấy trong
quan niệm của Socrates. Ít ra, Socrates đã cho chúng ta biết tại sao phải tồn
tại các tuyệt đối như mỹ hoặc thiện bằng cách chỉ ra rằng nếu mọi thứ đang biến
dịch và không có gì giữ cố định, sẽ luôn luôn không có sự tri nhận, cũng không
có người tri nhận và cái được tri nhận. Ngay cả Sartre cũng tìm cách tránh né
vấn đề này bằng loại lập luận lấp lửng như đã thấy. Thế nhưng, điểm nổi bật
nhất của song thoại trên giữa Socrates và Cratylus là Socrates, trong nội dung
trình bày của ông về vấn đề danh tự, đã bàn đến vấn đề chúng ta có thể tri nhận
gì nếu mọi thứ đang biến dịch. Và ở đây ông có thể cho chúng ta một chứng cứ
tại sao cái gọi là tồn thể ‘en-soi’ chỉ là một cấu trúc ngôn ngữ.
Chúng ta đã thấy rằng Socrates và Cratylus
đồng ý “làm thế nào để tìm hiểu hay khám phá các thực thể có lẽ là một vấn đề
quá lớn mà ông hoặc tôi đều không quyết định được; thế nhưng, cũng đáng giá để
đạt đến ngay cả kết luận này, đó là chúng có thể được tìm hiểu và tìm kiếm,
không phải từ danh tự mà qua tự thân chúng nhiều hơn qua danh tự”. Ngày nay,
chúng ta còn biết rõ hơn nhiều là mặc dù các thực thể “có thể được tìm hiểu và
tìm kiếm, không phải từ danh tự mà qua tự thân chúng nhiều hơn qua danh tự”
nhưng vẫn chính qua danh tự mà bất cứ thực thể nào cũng có thể được biết đến.
Chẳng hạn, bây giờ tôi đang quan sát cuốn sách màu xanh trên bàn viết của tôi.
Cuốn sách nằm ở đó. Nếu tôi có thể biết được bất cứ điều gì từ sự quan sát của
tôi thì không phải cuốn sách vật chất đó chuyển vào tri nhận của tôi và lấp đầy
một khoảng trống nào đó ở trong đó. Đúng hơn, chính thông tin của nó được
truyền vào não bộ tôi qua nhiều kênh vật lý khác nhau và vô số tiến trình hóa
học và cuối cùng nó sẽ được xử lý ở đó để tôi có thể có ý thức về cuốn sách của
tôi và tri nhận của tôi về nó. Vậy, rõ ràng nếu có một thực thể thì thực thể đó
chỉ được biết đến chừng nào nó là một loại thông tin được cung cấp cho chúng
ta. Và một khi đã như thế, điều tất yếu sẽ là nếu có gì đó có thể được biết đến
thì, xét theo nghĩa rộng nhất, nó chỉ có thể được biết qua chính danh tự của
nó. Thật vậy, như đã nói, khó quan niệm được rằng bất cứ hoạt động ý thức nào,
bất cứ tri nhận nào được biết đến mà không có ngôn ngữ được diễn đạt.
Khi vai trò của ngôn ngữ được quan niệm như
thế trong tiến trình tri nhận, hiển nhiên là vấn đề nan giải Socrates đặt ra có
thể tránh khỏi dễ dàng. Ông cho rằng nếu “mọi vật đang biến dịch và không có gì
giữ nguyên cố định,” thì “sẽ luôn luôn không có tri nhận, … sẽ không có bất cứ
cái gì được tri nhận và cũng không có bất cứ ai tri nhận”. Lý do đưa ra một
phát biểu như thế nằm ở nhận thức nếu mọi sự vật đang biến dịch và không có gì
giữ được cố định thì “vào khoảnh khắc người tìm cách tìm hiểu nó tiếp cận nó
thì nó trở thành một cái khác và khác hẳn, để rồi tính thể và tướng trạng của
nó không còn có thể được biết đến; và chắc chắn rằng không có tri nhận nào biết
được cái mà nó không có một tướng trạng nào cả”. Vì lẽ đó, nếu “chuyển biến của
thức là một cấu trúc ngôn ngữ” thì vẫn có thể có sự tri nhận cho dù và mặc dù
“mọi sự vật đang biến dịch và không có gì giữ nguyên cố định”. Bởi vì không
phải tự thân các sự vật cấu thành tri nhận mà chính thông tin chúng cung cấp
và, chịu sự xử lý trong não bộ con người, giúp sinh khởi tri nhận này. Như vậy,
cho dù “vạn vật đang biến dịch và không có gì giữ cố định” thì điều đó cũng
không hề gì. Thật vậy, trong chừng mực các sự vật đang biến dịch cũng như sự
tri nhận đang biến dịch được biết đến thì cái biết này chắc chắn không xuất
phát từ tự thân sự vật hay từ tri nhận. Bởi vì, nếu không phải thế, chúng phải
tồn tại trong hai sát na khác nhau trong cùng một lúc mới có thể chứng minh rằng
một khác biệt nào đó trong hai sát na này cho thấy sự có mặt của một thay đổi
trong chính chúng. Và hiển nhiên chúng không thể làm được điều này, bởi vì một
vật không thể tồn tại cùng lúc trong hai sát na khác nhau. Vì vậy, để có được
tri nhận về sự thay đổi, ta cần có cái gì đó hơn là tự thân các vật đang biến
dịch. Cái gì đó không phải là những cái tuyệt đối của Socrates, cũng không phải
là cái tồn thể ‘en-soi’ của Sartre vì chúng chỉ là những giả định dựa vào thông
tin mà tự thân các sự vật hiển thị. Như vậy, nhị nguyên luận hư ngụy của Sartre
về cái tồn thể ‘en-soi’ và tồn thể ‘pour-soi’ chính xác chỉ là những gì nó là,
tức một nhị nguyên luận hư ngụy. Cái tồn thể ‘en-soi’ không gì khác hơn một cấu
trúc ngôn ngữ; và cả cái tồn thể ‘pour-soi’ cũng thế, chỉ với điểm khác biệt dễ
thấy là trong khi cái sau là một tiến trình thì cấu trúc ngôn ngữ của cái trước
là một sản phẩm.
Đến đây, người ta có thể thắc mắc tại sao
chúng ta dừng lại lâu như thế để bàn về một loại nhị nguyên luận hư giả của
Sartre về cái tồn thể “en-soi’ và ‘pour-soi’. Hiển nhiên không phải bản thân
Sartre cũng không phải triết học ông có cái gì đó liên quan đến Thế Thân đến độ
phải thiết lập một quan hệ lịch sử công khai. Tuy nhiên, chúng ta có thể dùng
chúng như một thí dụ điển hình để thấy rõ các vấn đề hư ngụy trong triết học đã
tồn tại dai dẳng như thế nào, và từ đó chúng ta có thể thấy được giá trị của
nhiều đóng góp của chính Thế Thân hơn trong việc loại trừ các ngụy thuyết đó.
Chúng ta đã thấy rằng đứng trước một thế giới biến dịch thần tốc Socrates đã
phát biểu rằng phải tồn tại cái gì đó bất biến để cho cái đang biến dịch có thể
được tri nhận, và ông gọi cái đó là hữu thể tuyệt đối. Sartre cũng đồng ý, mặc
dù với những lý do hơi khác, là “tồn thể siêu việt chuyển thể”. Tuy nhiên,
trong khi Socrates ít ra cũng trình bày được nhận thức sắc bén của ông về sự
phức tạp của vấn đề và liên hệ của nó với vai trò của ngôn ngữ bằng sự hình
thành toàn bộ phát biểu của ông trong các giới hạn của một ngôn ngữ thì Sartre
đã hoàn toàn thất bại không nhận ra được như thế. Và đó là những gì làm cho lập
luận của ông thấp kém hơn của Socrates, và vì thế đã gần như một lối ngụy biện,
như đã nói. Phát biểu của Socrates, cho dù tính chất hấp dẫn của nó, ngày nay
vẫn không cần được tán dương, khi chúng ta biết rằng không phải cái hữu thể
tuyệt đối cho phép chúng ta tri nhận sự vật biến dịch như đã được giả thiết
trong phát biểu này; mà đúng hơn, chính tự thân ngôn ngữ của một người thực
hiện công việc đó. Và đây chính là tính thể của triết học Thế thân.
Thế Thân lớn lên trong một truyền thống
triết học vốn minh nhiên khẳng định rằng “không có người làm, hành động làm, và
cái được làm”, một khẳng định có thể được diễn giải theo ngôn ngữ của Socrates
thành “không có tri nhận, người tri nhận, và cái được tri nhận”.[7] Bởi vì
truyền thống này quan niệm vạn pháp đều được ràng buộc trong luật duyên khởi:
“khi cái này có thì cái kia có”. Vì thế khi một phát biểu thuộc loại “Tôi thấy
một cái cây” được đưa ra, người ta hiểu rằng nó không hàm ý gì khác hơn một mô
tả bình thường trong đó các điều kiện thuộc một số loại khác nhau thật sự hoạt
động và tác động lẫn nhau để tạo ra, trong trường hợp này, một sự vụ gọi là
“Tôi thấy một cái cây”, và trong đó không có người thấy, sự thấy, hay cái được
thấy nào được giả định là thuộc về một hữu thể hay những thực thể nào đó. Như
vậy, đúng với thuyết về vô-tự-tính của nó, truyền thống này xem mọi sự vụ và
mọi sự vật khác chỉ là một số loại phản ứng tương tợ như các phản ứng hóa học
và các kết quả của chúng.
Với truyền thống triết học đó, một điều quá
hiển nhiên là khi đối mặt với thách thức đặt ra bởi thuyết của Tỳ Bà Sa về đối
tượng của thức, Thế Thân đã đề ra giải pháp của riêng ông một cách rất đặc thù.
Trước tiên, ông tự hỏi có phải danh tự có thể là đối tượng của một thức. Kế
đến, nếu thế, cái gì sẽ xảy ra? Cuối cùng, một thuyết như thế mang ẩn nghĩa gì
trong hành động của con người? Từ những gì đã nói, chúng ta thấy rằng để trả
lời câu hỏi đầu, Thế Thân đã đề ra thuyết mô tả, minh chứng xác thực một danh
tự thật sự có thể là đối tượng của một thức, bởi vì bất kể ta nói “có sự sinh
ra một đứa bé” hay “một đứa bé chào đời” hay “cái được sinh ra là đứa bé”,
v.v., thì tất cả đều cùng ám chỉ một điều, đó là thông báo về sự ra đời của một
đứa bé. Nói cách khác, nếu nhiều phát biểu có thể được hiểu cùng chỉ cho một
điều thì không cần phải giả định hiện hữu của một cái gì đó đàng sau mỗi phát
biểu. Một khi một yêu cầu như thế không tồn tại, kết quả sẽ là mọi phát biểu,
mọi danh tự, tự nó có thể là đối tượng của thức.
Sở chứng đầu tiên này của Thế Thân đã dẫn
ông đến rất nhiều kết luận xa hơn mà một số trong đó đã được bàn đến chi tiết
trong các chương trước. Vì thế, chúng tôi sẽ không nhắc lại ở đây. Đủ để nói
rằng nếu mọi danh tự là đối tượng của thức thì điều tất yếu là mọi tri nhận phải
được định nghĩa tương tợ. Có nghĩa, nó phải được định nghĩa qua tên gọi của đối
tượng mà từ đó nó phát xuất và điều này tự nhiên dẫn đến kết luận mọi chuyển
biến của thức chỉ là một cấu trúc ngôn ngữ. Điều chúng ta quan tâm ở đây là
việc tìm hiểu tại sao Thế thân, với truyền thống triết học nói trên, lại chọn
cách giải quyết vấn đề trên bằng thuyết mô tả của ông. Chúng tôi đã nói rằng
đứng trước một thế giới thường hằng biến dịch, cả Socrates và Sartre đều giả
định sự tồn tại của cái gì đó bất biến hoặc nằm ngoài biến dịch, để có thể có
một tri nhận về thế giới đó. Chúng tôi cũng đã chứng minh rằng một giả thiết
như thế có thể tự phô bày tính chất không cần thiết của nó, nếu không phải là
hư ngụy và vô tích sự, trong việc tìm kiếm khả tính của tri nhận đó. Và khả
tính này, theo Thế Thân, không gì khác hơn tự thân ngôn ngữ. Ngôn ngữ cho phép
chúng ta nắm bắt cái đang biến dịch và ngay cả cái đang không hiện hữu. Như
chúng ta đã nói trước đây, phát hiện của Thế Thân về vai trò của ngôn ngữ trong
tiến trình tri nhận đó phần lớn đều bắt nguồn từ các nhân tố qui định của
truyền thống triết học của ông. Truyền thống này, như đã mô tả ở trên, loại trừ
hiển nhiên mọi khả năng giả định về sự tồn tại của bất kỳ thực thể nào ngoài
những gì xảy đến do “sự ngẫu nhiên (hetu) và sự tất yếu (pratītya)”.[8] Bởi vì
nếu cho rằng một sự vật chỉ là những gì xảy ra do nhân và duyên, thì ta còn có
thể dự tưởng được điều gì bên ngoài nó? Thật ra, nếu không phải như thế thì sự
vật sẽ mâu thuẫn với chính nó. Vì thế, ngay từ thời của đức Cồ Đàm Mâu Ni,
truyền thống này đã nỗ lực tự chứng thực rằng nó có thể đáp ứng những vấn đề
như những gì đã dẫn Socrates và Sartre đến những giải pháp của riêng họ mà
chẳng mấy thành công. Những khó khăn nó gặp phải trên đường đi có thể tìm thấy
trong rất nhiều cứ liệu mà chúng tôi đã chỉ ra hai trường hợp nổi bật nhất, đó
là của Nāgasena và Nāgārjuna.
Chúng ta có thể nhớ lại bằng cách nào
Nāgasena đã cố gắng chứng minh cho Milinda thấy chữ “xe” không biểu trưng một
vật gọi là “xe” bởi vì xe không phải là cái càng, cái trục, cái bánh, cái ách,
v.v., nhưng nó cũng không nằm ngoài những cái này; và bằng cách nào Nāgārjuna
đã lao tâm khổ trí chứng thực rằng nếu có cái gì đó hiện hữu bên ngoài cái xảy
ra do nhân duyên và có thể được chỉ thị bằng từ ngữ thì ngôn ngữ không thể nào
làm nổi việc đó về mặt luận lý. Bởi vì nếu như vậy thì khi một danh tự được
thốt ra, một tồn thể sẽ được gọi vào hiện hữu và không còn gì có thể được thêm
vào nữa. Nỗ lực của các triết gia này, cho dù đáng kính ngưỡng, vẫn tỏ ra hụt hẩng.
Nó không thể duy trì luận lý của nó ở mức độ khiến người nghe hay người đọc tin
tưởng hoàn toàn vào sự chính xác của nó. Tuy nhiên, cho dù thất bại đó, phải
thừa nhận rằng cả Nāgasena và Nāgārjuna đã mở ra một viễn cảnh mới, chỉ rõ lối
thoát khả hữu độc nhất cho những ai chấp nhận thế giới quan của truyền thống
nói trên. Có nghĩa là nếu sự vật chỉ là những gì xảy ra do sự phù hợp tình cờ
của những điều kiện cần thiết và, vì thế, loại bỏ mọi giả định về sự tồn tại
của cái gì đó đàng sau hay bên ngoài chúng bởi lẽ chẳng có gì đàng sau hay bên
ngoài chúng để giả định, thì sẽ không cần thiết phải dự tưởng sự tồn tại của
bất cứ cái gì khác cả. Những gì ta biết về chúng đều xuất phát từ những thông
tin chúng cung cấp và những thông tin này, nói chung, được mã hóa theo một ngôn
ngữ nào đó được não bộ xử lý. Đó là kết luận đã đạt được một cách phổ quát bởi
cả Nāgasena và Nāgārjuna. Tuy nhiên nó lại không thể đứng vững do thiếu bằng
chứng, một khuyết điểm mà Thế Thân đã nhận ra và điều chỉnh chính xác. Phương thức
ông đóng góp vào sự điều chỉnh này rõ ràng là thuyết mô tả của ông.
Như đã nói, thuyết này cho thấy một đối
tượng có thể được mô tả một cách minh nhiên qua hơn một tên gọi hay một phát
biểu mà vẫn không gây ngộ nhận, trái lại còn dẫn đến nhận thức rằng đó không
phải là tự thân đối tượng mà ta biết. Bởi vì nếu không phải thế, làm thế nào
một vật có thể được diễn tả qua hơn một danh tự hay một phát biểu? Đúng hơn,
chính thông tin được đối tượng trình hiện qua nhiều phương tiện khác nhau cho
phép chúng ta tri nhận và mô tả nó nhiều hơn chỉ một cách. Và ở đây, chúng ta
có thể thấy tại sao với truyền thống triết học của ông, Thế Thân đã đề ra
thuyết mô tả khi bị thách thức bởi thuyết của Tỳ Bà Sa về đối tượng của thức,
và tại sao, với thuyết đó, ông đã tiếp tục cách mạng hóa không chỉ toàn bộ nền
tảng luận lý học Ấn Độ mà còn cả toàn bộ quan niệm về thức. Đối với ông, thức
chỉ là một tiến trình chuyển biến được định nghĩa như một cấu trúc ngôn ngữ.
Đến đây, ta vẫn có thể tự hỏi quan niệm về
thức như một cấu trúc ngôn ngữ có thật sự chính xác hay không; bởi vì thật vô
ích để bỏ công sức vào một cái gì đó mà ta đã biết là hoàn toàn sai lầm hay hư
ngụy. Thoạt nhìn, vấn đề vừa nêu hình như thật dễ trả lời. Thế nhưng, sau những
lần suy tư, rõ ràng là vấn đề thực sự chứa đầy mọi thứ chướng ngại, những
chướng ngại không dễ giải quyết như đã tưởng. Chẳng hạn, chúng ta sẽ lấy gì làm
tiêu chuẩn để xét đoán quan niệm của Thế Thân về thức là chính xác hay hư ngụy?
Chúng ta đã thấy rằng quan niệm đó được đạt đến như một kết quả luận lý của
tiến trình tư duy của ông, có nghĩa là nó được thiết lập ở ông dưới sức mạnh
suy diễn của chính ông. Vì thế, nếu ta có thể chấp nhận thuyết mô tả tiên khởi
của ông thì sẽ đạt đến kết luận tương tợ, và quan niệm về thức của Thế Thân
hoàn toàn có giá trị trong chừng mực nó là một kết quả luận lý của thuyết mô tả
của ông.
Tuy nhiên, cách tiếp cận vấn đề như thế rõ ràng không thỏa đáng vì không thể
đánh giá quan niệm này trên chính những giá trị của nó, và hơn nữa, nó (cách
tiếp cận) ngăn không cho chúng ta có được đánh giá nào cả; bởi lẽ một khi lý
thuyết tiên khởi của ông được thừa nhận thì tất nhiên quan niệm đó sẽ xuất hiện
như một kết luận khả hữu độc nhất, bất kể chúng ta suy nghĩ như thế nào đi nữa.
Mặt khác, nếu chúng ta có thể đánh giá theo những tiêu chuẩn chúng ta biết ngày
nay thì có lẽ chúng ta không những không công bằng với ông mà còn tự mình mang
lại những rủi ro bị sai lầm, nhất là đối với một khái niệm mơ hồ và hàm hỗn như
thức. Vì thế, không thiếu gì khó khăn trong câu hỏi nêu trên. Tuy nhiên, bởi đã
lỡ bàn đến, chúng tôi nghĩ rằng nó phải được giải đáp; và ở đây, chúng tôi chấp
nhận cách tiếp cận thứ hai, tức nhìn vào quan niệm về thức của Thế Thân từ quan
điểm của những gì chúng ta biết về nó ngày nay.
Trước đây, chúng tôi đã chỉ ra rằng từ những
gì biết được trong lãnh vực nghiên cứu não bộ và thông minh nhân tạo ngày nay,
bộ não và các phần phụ thuộc được xem như một loại máy tính có độ phức tạp và
khả tính cao nhất để tiến hành mọi chức năng thường được giao khoán cho thức. Vì
thế, thức có thể được định nghĩa như một cơ cấu xử lý thông tin với mọi thành
phần phụ thuộc quan yếu được biết đến của nó, bao gồm mọi vận hành có thể được
biết đến và có đủ khả năng thực hiện.[9] Một khi được định nghĩa như thế, ta có
thể dễ dàng thấy rằng không nhiều thì ít nó chỉ là một tiến trình cấu trúc ngôn
ngữ, như Thế Thân đã chủ trương. Dĩ nhiên, vẫn còn vấn nạn là cơ cấu xử lý
thông tin này có phải chỉ là một tiến trình ngôn ngữ không. Thí dụ, người ta đã
nói rằng tiến trình gọi là kích khởi không thuần túy mang tính ngôn ngữ, nếu
không phải là hoàn toàn vô ngôn, khi nó xảy ra trong con người hay con vật,[10]
dù rằng trong máy tính ngày nay, nó hoàn toàn phụ thuộc vào ngôn ngữ ở dạng này
hay dạng khác để được nhận biết. Hãy để ý một con chó, khi thấy chủ nó sửa soạn
đi dạo thì nó tỏ sự vui mừng bằng cách vẫy đuôi, v.v., “rõ ràng [là do nó]
tưởng tượng, tức được kích khởi bởi sự đoán trước,” mọi sự thích thú mà nó sắp
có. Vì thế, trong trường hợp của con chó, sự kích khởi này chỉ là một “kinh nghiệm
tưởng tượng”, và điều này đúng, bởi vì cho đến ngày nay, không ai cho rằng con
chó có ngôn ngữ của riêng nó. Và về điều này, có người đã tự chứng minh tính
xác thực của nó bằng cách cho thấy đôi khi họ đã tự đồng nhất với những sự vật
mà họ suy tưởng. Tuy nhiên, ngoài kinh nghiệm tưởng tượng của con chó ra, họ
còn thêm rằng “ý nghĩa của kinh nghiệm được kích khởi xuất hiện không phải vào
giây phút đó mà phải sau khi nó được giải phân qua các biểu tượng”.
Vì thế, trong cách dùng hiện nay, “tiến
trình kích khởi hoàn toàn được che giấu bởi ngôn ngữ theo sau nó gần như trực
tiếp và dường như được trộn lẫn với chính suy tưởng.” Bằng chứng của phát biểu
này được rút ra chủ yếu từ những nghiên cứu dựa vào nhiều trường hợp bị mất khả
năng ngôn ngữ khác nhau, nhất là các loại chủ thể đã trải qua cái gọi là giải
phẩu tách não bộ,[11] trong đó, do một bệnh nào đó mà hai bán cầu não cần phải
được tách ra ở phần liên hợp chính của não bộ (corpus callosum). Ở các bệnh
nhân này, sau khi phục hồi sau giải phẩu, người ta tìm thấy tình trạng bị mất
khả năng ngôn ngữ xuất hiện dưới dạng nào đó, trong đó chủ thể không thể gọi
tên đối tượng nếu chỉ được nhìn thấy bằng mắt trái hay chỉ được chạm đến bằng
tay trái, mặc dù những người đó có thể nhận ra nó. Tuy nhiên, dùng các trường
hợp này làm bằng chứng để khẳng định rằng, trong con người, các chức năng nhận
thức, ngay cả cái phức tạp nhất trong số chúng, không liên quan trực tiếp đến
ngôn ngữ hay bất kỳ phương tiện diễn tả mang tính biểu tượng nào khác, là một
việc làm không đúng chỗ, nếu không phải hoàn toàn sai lầm. Bởi vì, đối với tình
trạng bị mất khả năng ngôn ngữ, khi được định nghĩa là sự rối loạn chức năng
ngôn ngữ, nó hàm nghĩa không phải ngôn ngữ không liên quan mật thiết đến chính
sự rối loạn chức năng này, không chỉ theo nghĩa chính nó là cái sinh khởi tình
trạng rối loạn đó trước tiên mà còn với nghĩa rằng, khi sự rối loạn này xảy ra,
thì ngôn ngữ vẫn không tự động bị loại bỏ hoàn toàn khỏi các chức năng nhận
thức của một người bị mất khả năng ngôn ngữ. Thật vậy, nếu ta chấp nhận giả
thuyết nội tại của ngôn ngữ, một giả thuyết dẫn đến nhận thức “kể từ khi ngôn
ngữ phát âm xuất hiện trong chủng loại con người, nó không chỉ cho phép sự tiến
hóa của con người” và “ngày nay khả tính của ngôn ngữ vốn tự hiển lộ qua quá trình
phát triển của việc hình thành từng bước các tính chất di truyền (epigenetic)
của não bộ là một phần ‘nhân tính’ được xác định ở trung tâm toàn bộ cấu trúc
di truyền của một sinh vật (genome) theo một ngôn ngữ hoàn toàn khác với bộ mã
di truyền”, thì thật khó để thấy rằng làm thế nào con người cùng lúc có thể đưa
ra quan niệm “các chức năng nhận thức trong con người, ngay cả cái phức tạp
nhất trong số chúng, không liên quan trực tiếp đến ngôn ngữ hay bất cứ phương
tiện diễn tả mang tính biểu tượng nào khác”.
Và ở đây chưa đề cập đến giả thuyết gây
nhiều tranh cãi cho rằng sự hiện khởi của bộ não con người từ tiền thân sơ khai
của nó là kết quả của việc con người sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện thông tin
bằng biểu tượng nguyên sơ nhất. Chính do việc sử dụng này mà một chọn lựa mới
xảy ra, một chọn lựa “chắc hẳn đã tạo điều kiện cho những phát triển của chính
sự thể hiện ngôn ngữ và, vì thế, cho sự phát triển của cơ quan phục vụ sự thể
hiện này, tức bộ não”. Như vậy, theo quan điểm này, chính ngôn ngữ kích hoạt sự
hiện khởi của não bộ con người trước tiên. Vì thế, nếu ta đồng ý rằng não bộ
với các phần phụ thuộc của nó thực hiện mọi chức năng thường được gán ghép cho
cái gọi là thức, và rằng nó làm thế do áp lực của tiến trình tiến hóa của chính
nó, thì làm sao ta có thể khẳng định rằng “các chức năng nhận thức trong con
người, ngay cả cái phức tạp trong số chúng, không liên quan trực tiếp đến ngôn
ngữ hay bất cứ phương tiện diễn tả mang tính biểu tượng nào khác”? Thật vậy,
khi khẳng định như thế, con người đã liều lĩnh đối nghịch với chính mình.
Như vậy, ít ra cho tới điểm này, các chứng
cứ không những không phủ nhận quan niệm về thức của Thế Thân mà còn có khuynh
hướng tán thành tính chính xác của nó. Dĩ nhiên, không phải chúng tôi đang tìm
kiếm các chứng cứ tân tiến để bảo vệ triết học hay ý thức hệ của ông. Bởi vì,
chúng tôi đã nói rằng quan niệm về thức của ông có một nền tảng luận lý vững
chắc để thiết lập chính nó mà không phải cần đến bất kỳ một thừa nhận nào khác:
nó chỉ có thể được chấp nhận hoặc bị bác bỏ hoàn toàn cùng với các tiền đề cũng
như kết quả của nó. Những gì chúng tôi làm là chứng minh rằng trong giới hạn
cho phép của các kiến thức chúng ta có được ngày nay về điều kiện sinh vật của
con người, chúng ta có thể tự mình thấy được chúng ta tiếp cận được chừng nào
con đường suy tư và tư tưởng của Thế Thân. Chính ở đây mà các ẩn nghĩa, nếu có,
của triết học ông đối với chúng ta ngày nay phải được tìm thấy. Và chính xác vì
điều này mà chúng tôi đã nêu ra và bàn thảo vấn đề liệu có phải quan niệm về thức
của ông là chính xác hay không. Và chúng tôi đã bằng lòng với giải đáp của mình
trong tình trạng kiến thức chúng ta có được ngày nay, những kiến thức đã chỉ ra
rằng có các lý do để một quan niệm như thế là chính xác. Với đánh giá này trong
đầu, chúng tôi sẽ tiếp tục xét đến các ẩn nghĩa có thể là gì.
Ngày nay, một điều càng ngày càng trở nên vô
cùng hiển nhiên là “con người cuối cùng đã biết rằng hắn chỉ có một mình trong
cái mênh mông lạnh lùng của vũ trụ mà trong đó hắn đã tình cờ xuất hiện” và
rằng mọi hệ thống giá trị đều “thuộc về một mình hắn”, ngoài ra không có bổn
phận, không có định mệnh được khắc ghi ở bất cứ nơi nào khác. Vì thế, hắn hoàn
toàn tùy “chọn giữa Vương quốc và Bóng tối”.[12] Thế nhưng, cho dù một điều
càng ngày càng hiển nhiên như thế, vẫn không tìm thấy một nền tảng đầy ấn tượng
nào cho việc nhìn thấy một quan điểm như thế của/về con người. Một điều bi đát
hơn là nếu nó được thừa nhận một cách phổ biến thì sẽ không có chút lý do nào
để giả định một điều như thế. Bởi vì có ai quan tâm đến một cái nhìn như thế
khi “biết rằng chỉ có một mình mình trong cái mênh mông lạnh lùng của vũ trụ mà
trong đó mình đã tình cờ xuất hiện” và rằng bên ngoài mình “chẳng có một trách
nhiệm nào, một định mệnh nào được khắc ghi ở bất cứ nơi đâu”? Thật ra, nếu điều
đó được thừa nhận thì, như Camus đã nói, “chỉ có một vấn đề triết học thật sự
nghiêm trọng, đó là tự tử”. Vì thế, thật kỳ thú khi thấy rằng Monod, người đã
bắt đầu tác phẩm của mình bằng lời dẫn từ cái ý tưởng khó chịu của Camus trong
khi bàn đến cái nhìn đó, một quan điểm mà tự thân ông cũng thừa nhận nhưng lại
không đạt được một kết luận giống như kết luận của Camus vừa nói đến ở trên. Có
lẽ ông đã tự mãn với khẳng định “cho dù người ta không tin Chúa, tự tử vẫn
không hợp pháp” của Camus để rồi ông bằng lòng để dành lại “việc xét xem cuộc
đời đáng hay không đáng sống thì cũng giống như trả lời câu hỏi nền tảng của
triết học” cho những người khác để trở về với “tất cả những gì còn lại …xảy đến
sau đó”, như tìm hiểu xem có tồn tại một chủ nghĩa nhân ái khoa học xã hội thật
thụ hay không,[13] vốn có lẽ là một chủ đề nhiều hứng thú và lợi lạc hơn vấn đề
khô khan và buồn tẻ về sự tự tử. Dù thế nào đi nữa, nếu quan điểm trên được
thừa nhận thì thân phận con người không khác mấy so với thân phận của Sisyphus,
một người vẫn đang mãi bôn ba, “tin tưởng về cái nguồn gốc rất người của tất cả
những gì thuộc về người, một người mù ao ước được nhìn thấy và cùng lúc biết
rằng bóng đêm là vô tận”.
Dĩ nhiên, một kết quả buồn thảm như thế
không nhất thiết phải là kết quả của việc chấp nhận cái nhìn được mô tả ở trên.
Một người có thể ý thức rằng “anh ta chỉ có một mình trong cái mênh mông lạnh
lùng của vũ trụ mà trong đó anh ta đã tình cờ xuất hiện”, rằng mọi hệ thống giá
trị đều thuộc về mình anh mà chẳng có bổn phận hay định mệnh nào được ghi khắc
ở bất cứ đâu, và rằng anh ta hoàn toàn tùy “chọn giữa Vương quốc và Bóng tối”,
mà không nhất thiết phải liều lĩnh đối mặt với “chỉ một vấn đề triết học thật
sự nghiêm trọng, đó là tự tử”. Và điều này xảy ra nhờ sự nhận ra cùng lúc rằng
ngay cả thức, cái cho phép chúng ta ý thức về một cái nhìn như thế, cũng chỉ là
một tiến trình cấu trúc ngôn ngữ. Bởi vì, khi nhận ra như thế, anh ta biết rằng
cái nhìn đó chỉ là một trong số những cái nhìn khả hữu khác mà tiến trình vừa nói
có khả năng cấu thành. Chính ở đó ẩn tàng nguồn gốc của tự do con người. Sự tự
do này không nằm trong “sự lựa chọn đạo đức một giá trị uyên nguyên làm nên tri
thức”, như Monod đã lập luận sau khi đánh bại nhiều thuyết đạo đức khác nhau
của “các liên minh chủ trương vạn vật hữu linh” trước đây.
Bởi vì, bất cứ khi nào “một giá trị uyên
nguyên” được chọn, thì cái theo sau chỉ là một sự hiển bày tất yếu của giá trị
đó. Như vậy, tự do lúc đó sẽ trở thành một loại nhu yếu, và dĩ nhiên chẳng phải
tự do gì cả. Đó là chưa kể đến nguy cơ một chọn lựa đạo đức như thế có thể được
một đảng cầm quyền đem ra áp dụng và lúc đó họ sẽ hoàn toàn có thể áp đặt nó
lên người khác, và như vậy là họ đã thực hiện khía cạnh đặc thù của “đạo đức
học tri thức”; có nghĩa, chính con người sẽ áp đặt đạo đức lên chính mình, đồng
thời dứt khoát sẽ tìm ra các điều kiện để chứng thực mọi lời nói hay hành động
của mình. Thật ra, tự do chỉ tồn tại trong mỗi cá thể và cá thể có thể thể hiện
nó ở mức cao nhất mà các điều kiện của cá thể đó cho phép. Vì thế, ngay cả một
tù nhân ở trong ngục vẫn có thể có tự do theo nghĩa đó, bởi vì qua sự kiện anh
ta bị nhốt tù, anh ta vẫn thể hiện tự do của mình, có lẽ một cách tiêu cực, để
đối lại với tự do của những người cố hạn chế anh ta bằng sự nhốt tù. Khi tự do
được định nghĩa như vậy, chúng ta có thể hiểu được tại sao một tập thể có thể
đánh mất hoàn toàn tự do của nó trong khi mỗi cá thể vẫn có thể giữ được nguyên
vẹn tự do của mình, một sự tự do sẽ được dùng đến vào một lúc nào đó trong
tương lai để làm nơi nương tựa chính cho sức mạnh phục hồi tự do của tập thể.
Nhưng nếu tự do có thể được quan niệm như vậy, và với mô tả trên về quan điểm
hiện đại về sự tiến hóa của loài người, thì chỉ có một quan niệm có thể chấp
nhận được về thân phận con người, một quan niệm giải thoát chúng ta khỏi các hệ
quả buồn thảm từ phân tích của Camus và đồng thời tăng cường giá trị của quan
điểm vừa nêu. Và quan niệm duy nhất có thể chấp nhận được về thân phận con
người này không gì khác hơn khái niệm chuyển biến của thức chỉ là một cấu trúc
ngôn ngữ. Chính chức năng đặc biệt này của ý thức con người đã giúp phân biệt
rạch ròi với mọi loại chức năng khác có thể tìm thấy trong thế giới loài vật.
Và có lẽ chính nó đã tạo điều kiện cho sự phát triển khả năng ngôn ngữ của não
bộ con người. Trong các chừng mực này, chức năng của một thức thật sự được dùng
để tiến hành bất kỳ cấu trúc ngôn ngữ nào khi cần đến. Nhờ vào khả năng này,
một khả năng hình như vô tận, trong việc tạo ra bất kỳ cấu trúc ngôn ngữ cần
thiết và khả tri nào mà tự do của một cá thể được bảo đảm và khẳng định. Tự do
này là bổn hữu hay kế thừa từ các phân tử cấu thành một cá thể và [các phân tử
này lại] sở hữu cá thể này làm cái gìn giữ tính uyên nguyên của chúng do một sự
ngẫu nhiên nào đó trong quá khứ xa xôi, hay chỉ là một cơ cấu nội tại dưới áp
lực của tiến trình chọn lựa của sự tiến hóa để bảo đảm cho sự sống còn ít nhất
của một kẻ duy trì nòi giống may mắn nào đó? Dĩ nhiên, đây là câu hỏi không thể
giải đáp. Những gì chúng ta có thể đoan chắc là trong giới hạn của cấu trúc
ngôn ngữ của mỗi cá thể, con người có tự do tuyệt đối để cấu thành những diễn
đạt và những phát biểu riêng của mình khi thấy thích hợp,[14] kề từ khi điều
kiện sinh lý cho phép con người làm như thế, một điều kiện bắt đầu từ lúc con
người được mười tám tháng tuổi.
Với sự tự do đó, thật khó tưởng tượng làm
thế nào con người ở giai đoạn tiến hóa này lại có thể từ bỏ nó để đánh đổi bất
cứ loại đạo đức hạn chế nào, kể cả cái gọi là “đạo đức tri thức”. Thật ra, ngay
cả đối với sự mềm yếu hiển nhiên và cố hữu của cấu trúc sinh học của mình thì
con người vẫn tảng lờ, nếu không phải là phủ nhận hay khước từ, cái sự thật cố
hữu và hiển nhiên đó bằng cách nương vào mọi loại huyền thoại, tôn giáo và
triết học. Một sự y cứ như thế không nhất thiết hàm nghĩa rằng hắn đang kiếm
tìm một phương tiện trấn áp nỗi lo sợ của chính hắn, như một số người đã lập
luận mới đây; bởi vì ta có thể đồng thời cho thấy điều ngược lại là một sự
nương tựa như thế chỉ đặc biệt nhằm nói lên cái tự do mà hắn sở đắc, một sự tự
do đặt nền tảng chính yếu trên sự vận hành tự do của ý thức hắn, tức sức mạnh
cấu thành và xử lý ngôn ngữ của hắn. Vì thế, sức mạnh xâm lấn của một quan niệm
không nhất thiết chỉ bao gồm khả năng giải quyết lo sợ của con người một cách
tiêu cực bằng những giải thích của nó về thân phận con người và chia cho con
người một chỗ đứng nhất định “trong một số phận định sẵn”. Đúng hơn, sức mạnh
của nó phải nằm trong khả năng đáp ứng những đòi hỏi về tự do con người, một sự
tự do, như đã nói, mong muốn phủ nhận và khước từ sự mềm yếu của hiện hữu sinh
học của nó, một sự tự do mong muốn được tuyệt đối.
Tương tợ, đã có gợi ý rằng “sự phát minh các
huyền thoại và tôn giáo, sự sáng tạo các hệ thống triết học hoằng viễn là cái
giá con người đã phải trả để tồn tại như một sinh vật xã hội mà không bị biến
thành một cái máy tự động”. Tuy nhiên, vẫn có thể lập luận ngược lại rằng nếu
có thể có sự phát minh và sáng tạo vừa nói thì không phải vì chúng là cái giá
con người phải trả cho sự tồn tại như một sinh vật xã hội của hắn, mà đúng hơn
là vì con người sở đắc một sự tự do và tự do này cần được thể hiện cho dù đến
độ phải loại bỏ nền tảng sinh học của hiện hữu của hắn. Kết quả, nếu giả thuyết
về tự do được chấp nhận, người ta không còn bị buộc phải nương tựa vào hơn một
yếu tố cơ bản trong việc giải thích các hiện tượng phổ biến như các huyền
thoại, các tôn giáo, các triết học, v.v.
Có người nói rằng chúng ta không biết chắc
có phải tự do con người là một sở hữu vật bổn hữu và/hay thừa kế của cấu trúc
con người hay là một cơ cấu nội tại như là kết quả của tiến trình tuyển chọn
của sự tiến hóa. Thế nhưng, chúng ta biết chắc rằng tự do này có sự hiển lộ
riêng của nó trong điều kiện con người dưới dạng một cấu trúc-xử lý ngôn ngữ
thường được gọi là thức. Chính cấu trúc-xử lý ngôn ngữ này phải được xét đến
nếu hiện hữu con người được bàn đến một cách đúng đắn. Bởi vì nó biểu trưng
thành tựu cao nhất từ trước đến nay mà tiến trình đạt được một cách ngẫu nhiên
và tất yếu đã từng vươn tới. Vì vậy, chúng tôi cho rằng bất kể tự do con người
là một sở hữu vật sinh học mang tính kế thừa hay một cơ cấu nội hàm, nếu chúng
ta định nghĩa chuyển biến của thức là một cấu trúc ngôn ngữ, như Thế Thân đã
làm, thì cấu trúc ngôn ngữ đó sẽ là sự hiện hành cụ thể độc nhất của tự do con
người được nói đó. Và đó chính là nơi ẩn tàng ý nghĩa rõ ràng nhất của triết
học Thế Thân đối với nhu cầu cấp bách của chúng ta, nhu cầu phải có một thái độ
hợp lý trong đời sống khi mà chúng ta “cuối cùng biết được rằng con người chỉ
có một mình trong cái mênh mông lạnh lùng của vũ trụ mà trong đó hắn đã tình cờ
xuất hiện và rằng số mệnh này, bổn phận của hắn không được khắc ghi ở bất cứ
nơi nào khác; hắn hoàn toàn tùy ‘chọn giữa Vương quốc và Bóng tối’”.
Dịch Việt: Đạo Sinh
[1] Lenneberg, Biological Foundation of
Language, New York: John Wiley & Son, 1967; Whorf, Language, Thought and
Reality, New York: Penguin Book, 1956; Basson and O’Conner, “Language and
Philosophy: Some Suggestions for an Empirical Approach”, Philosophy XXII
(1947): 49-65; Bogoch, The Future of the Brain Sciences, New York: Academic
Press, 1969; Quarton et. al., The Neurosciences, New York, 1967; Nilsson,
Problem-Solving Methods in Artificial Intelligence, New York: MacGraw-Hill
Computer Science Series, 1971; Fogel et. al., Artificial Intelligence through
Stimulated Evolution, New York: John Wiley & Son, 1966; George, The Brain
as a Computer, Oxford: Oxford University Press, 1962.
[2] Husserl, Logische Untersuchungen, Halle:
Niemeyer, 1900-1901; Spiegelberg, “Der Begriff der Intentionalität in der
Scholastik, bei Brentano und bei Husserl”, Philosophische Hefte V (1936):
175-191; Sartre, “Une idée fondamentale de Husserl: L’Intentionalité”, trong
Situations I, Paris: Gallimard, 1946: 89=92; Sartre, “La Transcendance de
L’Ego: Esquisse d’une description phénoménologique”, Recherches philosophiques
VI (1936/1937): 85-123; Gurvitsch, “On the Intentionality of Consciousness”,
trong Philosophical Essays in Memory of Edmund Husserl, ed. M. Farber,
Cambridge, Mass: Harvard University Press, 1940; Waelhens, “L’Idée phénoménologique
d’intentionalité”, trong Husserl et la Pensée moderne, ed, van Breda et. al.
The Hague: Martinus Nijhoff, 1959; Mohanty, Husserl’s Concept of
Intentionality, Analecta Husserliana I (1970): 100-132.
[3] Sartre, L’Être et le Néant, Paris:
Gallimard, 1943. Tôi đã dùng bản dịch của Hazel Barnes, Being and Nothingness,
New York: Washington Square Press, 1966: 455-6.
[4] Leroi-Gourhan, Le Geste et la Parole,
Paris: Albin Miched, 1964; Monod, Le Hasard et la Nécessité, Paris: Edition du
Seuil 1970; Pribram, The Languages of the Brain, Englewood Cliffs:
Prentice-Hall, 1971; Langer, Mind: An Essay on Human Feeling II, Baltimore:
Johns Hopkins University Press, 1973.
[5] Sartre, Being and Nothingness, pp
lxxviii-lxxix.
[6] Plato, Cratylus, ed. H. N. Fowler,
Cambridge, Mass: Harvard University Press, 1953: 186-190: bản dịch Anh ngữ của
Fowler.
[7] Viṃśatikā ad 8: nāstīha sattva ātmā vā
dharmās tv ete sahetūkāḥ iti vacānāt/. Cf. Abhidharmakośa IX: 475;
Vimalākīrtinirdeśasūtra, Taishō 475: 537c16 & Taishō 476: 558c4.
[8] Pratītyasamutpādavyākhyā TT 5496. cf.
Tucci, A Fragment from the Pratītyasamutpāda of Vasubandhu, JRAS (1930):
611-623. Đối với một số người, việc chúng tôi dùng các từ “chance” (ngẫu nhiên
tính) và “necessity” (tất yếu tính) để dịch hetu và pratītya, có lẽ gợi lên một
khả năng tân tiến nào đó, đặc biệt là khả năng thuộc kiểu Monod. Nó khiến ta
nhớ đến Le Hasard et la Nécessité (Paris, 1970) của Monod. Nhưng chúng tôi nghĩ
rằng đó là hai từ hay nhất để chuyển tải chính xác những gì mà các khái niệm về
hetu và pratītya thực sự ám chỉ.
[9] George, The Brain as Computer, Oxford:
Oxford University Press, 1962; Young, A Model of the Brain, Oxford: Oxford
University Press, 1964; Hubel and Wiesel, Journal of Physiology 148 (1959):
574-591; Wiesel and Hubel, Journal of Neurophysiology XXIX (1966): 1115-1156.
[10] Monod, Le Hasard et la Nécessité,
Paris: Editions du Seuil, 1970; Langer, Mind: an Essay on Human Feeling II,
Baltimore, 1973; Trần Đức Thảo, “Le mouvement de l’indication comme forme
originaire de la conscience”, La Pensée 147 (1969): 3-46, 148 (1969): 71-111
& 149 (1970): 93-106; ibid. La Phénoménologie & le Matérialisme
dialectique, Paris: Minh Tân, 1951.
[11] Levi-Agresti and Sperry, Proceedings of
the National Academy of Sciences, Washington, U.S.A. 61 (1968): 1151.
[12] Camus, Le Mythe de Sisyphe, Paris:
Gallimard, 1942: 3; also The Myth of Sisyphus, transl. Justin O’Brien, New
York: Vintage Books, 1955, trong đó Camus tóm tắt rõ ràng quan điểm của ông
trong lời tựa viết riêng cho ấn bản Huê Kỳ đó.
[13] Monod, op. cit. p 194.
[14] Lenneberg, Biological
Foundations of Language, New York: John Wiley & Son, 1967; Chomsky,
Cartesian Linguistics, Cambridge, Mass: MIT Press, 1966: Fondor and Katz, The
Structure of Language: Reading in the Philosophy of Language, Englewood Cliffs:
Prentice-Hall, 1964.