Chương V: Khái Niệm Giữa Vật Chất và Tâm
(Tâm-Bất-Tương-Ưng-Hành-Luận)
1- NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG CỦA PHÁP TÂM-BẤT-TƯƠNG-HÀNH.
Tâm và vật là hai yếu tố căn bản thành lập vạn hữu, do đó, ta có thể nói ngoài tâm và vật ra không có một yếu tố thứ ba. Song, nếu đứng trên lập trường hiện tượng mà nói thì cũng có những hiện tượng không hẳn thuộc về tâm cũng không hẳn thuộc về vật mà là ở khoảng giữa cả hai, nghĩa là, do những phối hợp của cả tâm và vật mà thành những hiện tượng tồn tại, đó là một sự thật không còn hồ nghi gì nữa. Tức như quan hệ, trạng thái và địa vị, v.v… là thuộc về loại này. Do đó, nếu muốn khảo sát tận cùng những yếu tố thành lập hiện tượng, thì ngoài tâm và vật ra, người ta không thể khảo sát đến những quan niệm khác. Tức là người ta phải xử lý những quan niệm đó như thế nào? Coi chúng như một hình thái tồn tại của tâm và vật ư? Hay coi chúng như một thức dạng giao thiệp ở khoảng giữa tâm và vật? Tuy đây có thể nói là thuộc vấn đề khác, thế nhưng dù sao đi nữa, ta không thể không khảo sát đến nó, nếu chỉ cho tâm và vật là tài liệu duy nhất thì, ở một phương diện nào đó, cũng có thuyết minh cho rõ ràng, tưởng đây cũng là một sự thật hiển nhiên.
Trong Phẩm-loại-túc-luận của Nam phương, về việc phân loại vạn hữu theo Nhân-duyên-luận, ngoài tâm và vật còn thêm cái gọi là “thi thiết” để thuyết minh. Đối với sự kiện này, trong A-tỳ-đạt-ma, đại khái từ phương diện ý thức mà bắt đầu luận cứu. thi thiết có nghĩa là “quan niệm” hoặc là “khái niệm”, và chính là khái niệm liên quan đến hình thức tồn tại. Bên Nam phương, thuyết này đã dần dần phát đạt và đến A-tỳ-đạt-ma-yếu-luận của A-nâu-lâu-đà thì nó đã được chia thành hai loại là Nghĩa-thi-thiết và Danh-thi-thiết. Nghĩa-thi-thiết là đối tượng của khái niệm; còn Danh-thi-thiết là chỉ đương thể của khái niệm đó khi duy chuyển đến ngôn ngữ.
Theo A-ô-ân-thị thì nghĩa thi thiết có 12 loại:
1- Chân-như-thi-thiết – liên quan đến quan niệm tồn tại, tức là đối với sự tồn tại của Đệ-nhất-nghĩa.
2- Chấp-thi-thiết, là quan niệm dẫn xuất từ sự tồn tại của Đệ-nhất-nghĩa, đại khái là quan niệm đi vào nhận thức của người ta mà tồn tại.
3- Tập-hợp-thi-thiết, là quan niệm thích ứng với sự tập hợp của sự vật.
4- Loại-thi-thiết, quan niệm về chủng hay loại.
5- Hình-thi-thiết, quan niệm đối với hình thái của vật.
6- Phương-thi-thiết, quan niệm về địa hay phương của vật.
7- Thời-thi-thiết, quan niệm về thời gian.
8- Không-thi-thiết, quan niệm về không gian.
9- Tướng-thi-thiết, quan niệm đối với các hiện tượng.
10- Phi-hữu-thi-thiết, quan niệm đối với sự tương tục của vật.
11- Tương-tục-thi-thiết, quan niệm đối với sự tương tục của vật.
12- Thế-tục-thi-thiết, quan niệm đối với sự biểu thị thông tục (Compendium of Ph. phàm phu. 5-6).
Những tư tưởng trên đây đã phát đạt theo thuận tự như thế nào là một vấn đề mà cho đến nay vẫn chưa ai hiểu rõ, thật là một điều không may. Nhưng sự thật hiển nhiên không ai chối cãi được là: những tư tưởng ấy là kết quả của sự khai triển lâu dài của các bậc luận sư Nam phương.
2- SỰ PHÁT TRIỂN TÂM-BẤT-TƯƠNG-ƯNG-HÀNH-PHÁP-QUAN CỦA LUẬN BỘ BẮC PHƯƠNG.
Đối với tư tưởng Tâm-bất-tương-ưng-hành-này, Bắc phương luận bộ đã triệt để chú ý. Lấy Hữu Bộ làm trung tâm, tư tưởng này tựa hồ ngụ ngầm một ý nghĩa trọng yếu. Trong Pháp-uẩn-túc-luận, Xá-lợi-phất-A-tỳ-đàm-luận, v.v… tư tưởng đó đã được biểu hiện một cách rõ ràng; nhất là đến Phát-trí-luận, Phẩm-loại-túc-luận thì tựa hồ nó đã chiếm một vị trí quan trọng, và đặc biệt đến Phẩm-loại-túc-luận, là một trong cái gọi là năm vị cùng với các pháp tương đối khác là Sắc, Tâm, Tâm sở, và Vô vi, nó ngầm chứa một ý nghĩa độc lập.
Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp có nghĩa là các pháp không giống với những tác dụng tâm lý của người ta và tính chất của tác dụng đó (đồng thời, chúng cũng lại khác với những tác dụng vật chất), nhưng chúng có ý nghĩa ở khoảng giữa tâm và vật. Về thuyết Thực Hữu, tuy Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp-luận bị Kinh Bộ phản đối, nhưng đứng về phương diện khảo sát vũ trụ thì ít ra cũng được các bộ phái thuộc Duy-tâm-luận-hệ thái dụng: điều này cứ xem cách thái dụng trong Thành-thật-luận và Duy-thức-luận thì đủ rõ.
Song, luận bộ Bắc phương dùng loại quan niệm nào làm Tâm- bất-tương-ưng-hành-pháp? Vấn đề này, nói theo hình thức tồn tại thì tuy đồng cũng đồng dạng với Thi thiết của Nam phương, nhưng về cách lập pháp thì có điểm rất bất đồng, chẳng hạn như cách biểu thị ngũ vị đã nói ở trên. Theo chỗ tôi hiểu, cái khái niệm được thu dụng sớm hơn hết có lẽ là Sinh, Trụ, Lão. Khái niệm này, trong A Hàm đã được đức Phật đề thị như tưởng Tam hữu, không những thế, đến khi quyết định địa vị của nó thì không thể quy định vào tâm hay vật được. Từ đó, quan niệm mệnh, đắc có lẽ cũng đã được thêm vào rồi cứ thế dần dần đã đi đến chỗ phức tạp. Chiếu theo văn hiến, luận Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm, trong mục “cộng-xứ-sở-nhiếp-pháp” cùng một lúc với tâm sở và vô vi, tuy đã thu dụng sinh, lão, tử, mệnh, kết, vô tưởng định, đắc quả, diệt tận định, v.v…(Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm quyển 1, Đại chính, 28, trang 526, hạ; Nghiên-cứu-a-tỳ-đạt-ma-luận, trang 129 dẫn dụng), nhưng vẫn chưa được rõ ràng, do đó mới mệnh danh là “Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp”. Rồi lại trong Pháp-uẩn-túc-luận, cũng ở mục Pháp xứ, đã thu dụng và thuyết minh những quan niệm trên, nhưng so với Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm-luận thì đã tiến bộ khá nhiều. Nghĩa là, cùng một lúc với các loại tâm sở và ba vô vi, đã kể đến đắc, vô-tưởng-định, diệt-tận-định, vô-tưởng-sự, mệnh căn, chúng-đồng-phận, y đắc, sự đắc, xứ đắc, sinh, lão, trụ, vô thường, danh thân, cú thân và văn thân (Pháp-uẩn-túc-luận quyển 10, Đại chính, 26, trang 500, hạ). Rồi trong Phẩm-loại-túc-luận cũng có đoạn văn đại lược cũng giống như đoạn văn trên đây: Đắc, Vô-tưởng-định, diệt định, vô tưởng sự, mệnh căn, chúng đồng phận, y đắc, xứ, sự đắc, sinh, lão, trụ, vô thường tính, danh thân, cú thân, văn thân; lại có những loại pháp khác như thế, không tương ưng với tâm, thì tóm lại đều gọi là Tâm-bất-tương-ưng-hành (Phẩm-loại-túc-luận quyển 1, Đại chính, 26, trang 692 hạ). Trong luận Phát trí quyển 17 (Đại chính, 26, trang 1008, trung), tuy có ghi bốn tướng và đắc nhưng đã không kết hợp lại và cũng không bảo là “bất-tương-ưng-hành”. Luận Đại-tỳ-bà-sa lại còn bàn đến các pháp trên đây một cách tường tế hơn; và ngộ nhập trong Nhập-A-tỳ-đạt-ma-luận (quyển hạ, Đại chính, 28, 986, thượng – 988, thượng), Ha-lê-bạt-ma trong Thành-thật-luận (quyển 7, Bất-tương-ưng-hành-phẩm 194, Đại chính, 32, trang 289, thượng) đã chỉnh lý các pháp đó và quy định thành mười lăm. Tức là: Đắc, phi đắc, vô tưởng định, điệt tận định, vô tưởng sự, hay, vô tưởng quả, mệnh căn, chúng đồng phận, dị sinh tính, sinh, trụ, dị, diệt, danh thân, cú thân và văn thân. Trong số này, luận Câu xá cắt bỏ dị sinh tính đi chỉ để giữ lại mười bốn Bất-tương-ưng-hành mà thôi, và các nhà học giả Câu xá của Trung Quốc, Nhật Bản đều tính theo con số Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp này.
Nhưng, trong Phẩm-loại-túc-luận cũng đã nói: “… Ngoài ra, nếu có những loại pháp như thế, không tương ưng với tâm, thì tóm lại đều gọi là Tâm-bất-tương-ưng-hành”, như vậy thì Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp quyết không phải chỉ hạn định ở con số mười lăm hay mười bốn kể trên. Do đó, theo quan điểm này, Đại-thừa-duy-thức phái lại tăng thêm con số đó lên. Trong Đại thừa A-tỳ-đạt-ma-tập-luận của Vô Trước (quyển 1, Đại chính, 31, trang 665, trung), Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp được liệt kê như sau: đắc, vô-tưởng-định, diệt-tận-định, vô-tưởng-dị-thục, mệnh căn, chúng-đồng-phận, sinh, lão, trụ, vô thường, danh thân, cú thân, văn thân, dị sinh tính, lưu chuyển, định dị, tương ưng, thế tốc, thứ đệ, thời, phương, số, và hòa hợp, tất cả là hai mươi ba (về cách giải thích pháp này, xem Đại thừa A-tỳ-đạt-ma-tập-luận của An Tuệ (quyển 2, Đại chính, 31,trang 700, thượng) ).
Cái phương pháp lập thành tuy có khác nhau, nhưng điểm chủ yếu thì các pháp Bất-tương-ưng-hành, bất luận pháp nào, đều là kết quả rút tỉa từ quan niệm trừu tượng về sự tồn tại và sự hoạt động của vạn hữu. Nhất là Hữu Bộ cho các pháp đó cũng tồn tại hệt như tâm và vật, và, theo nhiều phương thức, coi tâm và vật là nguyên lý thúc đẩy hoạt động. Chẳng hạn, khi một hiện tượng nào đó phát sinh, dĩ nhiên là trong đó có thêm nhân duyên, nhưng, sở dĩ phải quan niệm đến sự tồn tại của Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp là để hoàn thành cái nguyên nhân của sự vật đó. Cũng thế, vạn hữu sở dĩ có trụ có diệt là do ở cái nguyên lý trụ diệt, nếu người ta gạt bỏ nguyên lý trụ diệt đi thì không sẽ thuyết minh được cái nguyên nhân căn bản của sự trụ diệt của vạn hữu. Về điểm này, giữa cách giải thuyết của Hữu Bộ và thuyết của phái Thắng Luận cho rằng những nguyên lý thực, đức, nghiệp đồng, dị hòa hợp lại mà phát khởi, những hiện tượng cụ thể, có chỗ bất tương đồng. Do đó, theo ý nghĩa ấy, thuyết Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp-thực-hữu là giáo lý đã biểu thị rõ rệt nhất cái đặc trưng của Hữu Bộ; đồng thời, cũng lại là cái mốc để kiểm tra lại dấu vết phát triển của tư tưởng Hữu Bộ. Mà phái phản đối thuyết này, như đã nói ở trên là Kinh Bộ, rồi đến Thành thật luận, Duy thức luận[1], v.v…, cho đó là giả lập để lại công kích thuyết thực hữu hơn nữa.
Song, nói tóm lại, thuyết Bất-tương-ưng-hành này chính do Hữu Bộ đã đề xướng, và dù nó đã được tán thành hay bị phản đối chăng nữa người ta cũng không thể phủ nhận được sự thật là: nhờ thuyết đó mà sự khảo sát vạn hữu đã trở nên tinh mật hơn.
3- TƯỚNG TRẠNG CỦA CÁC PHÁP TÂM-BẤT-TƯƠNG-ƯNG-HÀNH.
Ý nghĩa mỗi pháp Tâm-bất-tương-ưng-hành như thế nào, nếu giải thích một cách tường tế thì cực kỳ khó khăn, nên, ở đây, tôi chỉ nói qua một cách đơn giản mà thôi.
Trước hết, hãy bắt đầu từ “đắc”. Đắc là một khái niệm đặc sắc nhất trong Tâm-bất-tương-ưng-hành. Đắc nghĩa là “được”, tức là chỉ trạng thái đã đạt đến cảnh giới nhất định nào đó. Chẳng hạn, lúc đầu chỉ mới nói là “được” diệt tận định, “được” vô tưởng định, v.v… nhưng dần dần về sau chính cái “được” ấy đã trở thành một trong những pháp Tâm-bất-tương-ưng-hành, tức là do nơi tâm mà được một tập quán nhất định, vậy khái niệm trừu tượng “được” là từ trạng thái “không mất” mà có. Lý do tại sao phải thành lập “đắc” là vì khi giải phẩu hiện tượng, cắt bỏ các yếu tố thì những yếu tố đó sẽ trở thành những vật độc lập, rồi khi phải kết hợp những yếu tố đó lại thì cần phải có khái niệm “đắc”.
Theo sự thuyết minh của luận Đại-tỳ-bà-sa thì thánh nhân và phàm phu tuy là hai nhưng trong một lúc còn trụ ở tâm vô ký. Nếu chỉ xét về phương diện tạm thời và cùng ở tâm vô ký này thì dù thánh nhân hay phàm phu, có thể nói không có gì sai khác. Nhưng điểm bất đồng là trong tâm thánh nhân đã thành tựu được trí vô lậu “không mất”, còn phàm phu thì có phiền não, cho nên, một lúc nào đó, nếu bỏ tâm vô ký đi tâm phàm phu sẽ hoạt động mà khiến cho thành nhân và phàm phu khác nhau. Sự cần thiết của khái niệm “đắc” chính là ở điểm đó, cho nên, dù ngay trong lúc tụ ở vô ký tâm, nhưng trong thánh nhân thì có trí vô lậu, trong phàm phu có phiền não, ở đây, muốn kết hợp cả hai, không thể không có “đắc”, đó là lý do tại sao “đắc” được coi là một nguyên lý độc lập vậy.
Trên đây chỉ mới thuyết minh sơ lược về “đắc” mà thôi, khi vấn đề này được bàn luận một cách tường tế thì người ta còn chia ra “hoặch” (chưa được, nay được) và “thành tựu” (được rồi, không mất); hoặc có khi chia nó thành ba loại là: “Pháp-tiền-đắc”, “pháp-câu-đắc” và “pháp-hậu-đắc”, và đến đây giáo lý “đắc” đã khai triển một cách cực phức tạp. Muốn biềt tường tận, xin xem luận Bà sa, quyển 158 (Đại chính, 27, trang 801, hạ) và luận Câu xá, quyển 4. Một điểm nữa nên chú là: tác dụng của “đắc” chỉ áp dụng cho những tâm lý mà thôi, bởi thế, nó không bao giờ được dùng trong những trường hợp “được” gạo, “được” tiền.
Thứ đến, “phi đắc”. Phi đắc là tác dụng hoạt động ngược lại với đắc, là pháp khiến “được rồi mà mất”. Trước luận Bà sa nó vẫn chưa được lập thành trong những pháp Bất-tương-ưng-hành, nhưng, đến luận Bà sa, vì “đắc” được phát triển mạnh, nên phi đắc cũng được biệt lập thành một.
Thứ ba vô-tưởng-định, thứ tư diệt-tận-định và thứ năm vô-tưởng-quả là trạng thái tuyệt diệu của tâm. Song đó không phải là cảnh giới tuyệt nhiên không có, nhưng không thể là tâm hay vật được, vì thế mà kêu là Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp. Tuy Đại-chúng-bộ và Hóa-địa-bộ bảo là vô vi, nhưng ở đây nó là Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp.
Thứ sáu là mệnh căn. Mệnh căn có nghĩa là thọ mệnh, là cái nguyên lý làm cho ta sống còn. Theo ý nghĩa ấy, mệnh căn ở đây có vẻ giống như cái gọi là “Cùng-sinh-tử-uẩn” của Hóa-địa-bộ, hay, “Phi-tức-phi-ly-uẩn-ngã” của Độc-tử-bộ; nhưng, nếu theo Hữu Bộ thì cái đó không phải vật, mà cũng không phải tâm, nó hoàn toàn là trạng thái do tâm, thân tương tục mà thành một nguyên lý trừu tượng, và tuyệt nhiên không có một ý nghĩa linh ồn nào cả (Nam phương cho nó là một của vật chất).
Thứ bảy: chúng-đồng-phận, nguyên-lý-hóa khái niệm về chủng hoặc loại, là quy định các pháp đồng loại với nhau. Có hai loại: vô-sai-biệt và hữu-sai-biệt. Vô-sai-biệt thì như người chẳng hạn, bất luận là đàn ông, đàn bà, già hay trẻ, đứng về phương diện người mà nói, là đồng nhất; còn hữu-sai-biệt thì như giữa loài người có đàn ông, đàn bà khác nhau, đó chính là cái niệm khu biệt tương đương về chủng hay loại. Cách thuyết minh này có thể nói cũng tương tự của thuyết phái Thắng Luận chia đồng phận thành cao-đẳng-đồng và liệt-đẳng-đồng.
Thứ tám dị-sinh-tình – là nói về địa vị trừu tượng của phàm phu. Khái niệm này được Hữu Bộ thành lập, nhưng Câu xá luận không thừa nhận.
Từ thứ chín đến thứ mười hai sinh, trụ, dị, diệt, là bốn tướng của các pháp hữu vi, từ Bà sa trở về sau đã thành một vấn đề được thảo luận một cách rất sôi nổi. Chẳng hạn, lúc đầu, Phát-trí-luận hoặc Phẩm-loại-túc-luận coi bốn tướng sinh, trụ, dị diệt là nguyên lý của vạn hữu và xử lý chúng một cách đơn thuần, nhưng đến luận Bà sa (quyển 39, Đại chính, 27, trang 200, hạ) thì ngoài tứ tướng còn tìm đến nguyên lý của sinh, trụ, diệt là gì? Một khi vấn đề đó được nêu ra thì nghiễm nhiên nó trở thành rất phức tạp. Như vậy là luận Bà sa, ngoài, sinh, trụ, dị, diệt ra còn muốn biến sinh, trụ, dị, diệt thành nguyên lý của chính sinh, trụ, dị, diệt, và để vượt qua nỗi khó khăn đó, bèn đề xướng thuyết gọi là “Tiểu-tứ-tướng” hay “Tùy-tướng”. Nhưng thật ra điều đó chỉ làm cho vấn đề trở nên rắc rối thêm chứ không đạt đến một giải quyết triệt để chân chính nào cả.
Thứ mười ba đến thứ mười lăm: danh, cú, văn (các nhà Thí-Dụ cho danh, cú, văn thân không thật có; các nhà Thanh luận thì bảo danh, cú, văn lấy tiếng (thanh) làm tự tính, tông này cũng xếp chúng vào loại Bất-tương-ưng-hành-pháp, Bà sa quyển 14, Đại chính, 27, trang 70, thượng). đây là chia ngôn ngữ và nội dung của nó thành ba loại nguyên lý. Danh có nghĩa là danh từ (danh thuyên tự tính); cú, như núi cao, nước chảy, v.v… là giải bày nghĩa lý (cú thuyên sai biệt); tự là tự mẫu và tự vận như a, I, u, b, c, k,… người ta nhờ chữ mà phát thành tiếng, nhờ danh mà nói lên đối tượng và nhờ cú mà phát biểu nghĩa lý. Cách giải thích những nguyên lý đặc thù này cũng tương đương như cách giải thích của Văn-điển-phái, đó là điểm ta cần ghi nhận.
Tất cả mười lăm loại trên đây đều được Hữu Bộ thái dụng; còn những thành phần sẽ được liệt kê sau đây chủ yếu là do Duy-thức-phái thành lập, nhưng về uyên nguyên của chúng thì vẫn bắt nguồn từ sự thuyết minh trong luận Bà sa.
Thứ mười sáu: lưu-chuyển – là nói sự liện tục bất đoạn của nhân quả.
Thứ mười bảy: định-dị - là nói nhân quả có nhiều sai biệt.
Thứ mười tám: tương-ưng – là nói sự quan hệ nhất định bất-tương-ly của nhân quả.
Thứ mười chín: thế tốc – là nói sự lưu chuyển nhanh chóng của nhân quả.
Thứ hai mươi: thứ đệ - là nói tuy nhân quả lưu chuyển rất có thứ tự.
Thứ hai mốt: thời – là nói nhân quả tương tục trong ba đời.
Thứ hai mươi hai: phương – là nói nhân quả chuyển khắp đông, tây, nam, bắc.
Thứ hai ba: số - là nói về số mục, như một, hai, ba, v.v…
Thứ hai mươi bốn: hoà hợp – là nói nhân quả do nhiều duyên hòa hợp mà thành (Đại thừa A-tỳ-đạt-ma- tạp-tập-luận quyển 2, Đại chính, 31, trang 700-701).
4- SỰ QUAN HỆ GIỮA TÂM-BẤT-TƯƠNG-ƯNG-HÀNH-PHÁP, VÔ-VI-PHÁP VÀ NHÂN-DUYÊN-QUAN.
Sau hết, trong chưong này, vẫn còn một điểm nữa cần phải được chú ý, đó là sự quan hệ giữa Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp và Vô-vi-pháp, đã trình bày ở trên, cùng nhân-duyên-quan, sẽ được trình bày sau, như thế nào? Vô vi dĩ nhiên đã được thành lập theo tiêu chuẩn bất biến bất động; Nhân-duyên-quan thì, trái lại, được thành lập để thuyết minh cái quy định “động” của vạn hữu, do đó, có thể nói hai quan niệm trên hoàn toàn đối lập nhau. Vậy, giữa hai quan niệm đó, Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp đứng trên cương vị nào? Nếu nói một cách đại thể thì nó đứng ở địa vị trung gian. Đứng trên quan niệm hoạt động của vạn hữu mà nói thì Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp tuy giống như nhân duyên do hoạt động vạn hữu quy định, nhưng lại không “động” như nhân duyên; đồng thời, đứng về phương diện bất biến mà nói thì tuy giống như vô vi nhưng lại không có cái tính bất biến cố định của vô vi, cho nên, có thể nóiTâm-bất-tương-ưng-hành-pháp là quan niệm đứng khoảng giữa vô vi và nhân duyên. Vì đứng ở khoảng giữa nên Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp được coi là có liên lạc mật thiết với nhân duyên và vô vi, điều này cứ xem Đại-chúng-bộ coi pháp tắc của nhân duyên cũng như vô vi thì đủ rõ. Hơn nữa, vì là ở khoảng giữa nên, tùy theo cách nhận xét, Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp rất dễ biến thành vô vi hoặc nhân duyên, điều đó tưởng không có gì là lạ cả. Chẳng hạn như Đông-Sơn-Bộ chủ trương rằng đắc là vô vi. Lại nữa, như Đại-chúng-bộ và Hóa-địa-bộ thừa nhận Tứ-vô-sắc là vô vi, thì, về điểm này, dĩ nhiên là Vô-tưởng-định, diệt-tận-định và vô-tưởng-sư, v.v… rất có thể cũng có thể xếp vào loại vô vi. Đồng thời, những Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp khác đều có thể được thu nhiếp vào nhân duyên theo nghĩa rộng; nói một cách đơn giản, chẳng hạn như A-tỳ-đạt-ma-pháp-yếu-luận của Nam phương đã xếp toàn bộ Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp vào bộ Nhân-duyên-luận. Như vậy, nếu quan niệm về Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp này được khoáng đại ra thì trong đó có thể thu nhiếp cả vô vi lẫn nhân duyên, đồng thời ở phương diện tương phản, nếu vô vi hoặc nhân duyên được mở rộng thì, theo tôi, dù không thiết lập Tâm-bất-tương-ưng-hành-pháp riêng biệt đi nữa cũng có thể bao gồm tất cả các loại pháp rồi.
Tóm lại, ba quan niệm về vô vi, Tâm-bất-tương-ưng-hành và nhân duyên rất có liên hệ mật thiết về mặt tâm lý: đó là điểm ta không thể quên khi nghiên cứu vấn đề này.
[1] Phái Duy Thức cho nó là giả lập – Đại thừa A-tỳ-đạt-ma-tập-luận quyển 1, Đại chính, 31, trang 665, hạ - nhưng trong Thành-thật-luận quyển 5, Pháp tụ, thiên 18, Đại chính, 32, trang 252, trung, hạ, lại định nghĩa cho nó là “vô tác nghiệp”.