Chương
III: Thiền Định Luận
1-
GỢI ĐỀ. 
 
Yếu lĩnh của sự tu đạo tuy là giới, định, tuệ quân bình,  
nhưng trong đó, như đã nói ở trên, điểm có ý nghĩa trọng yếu hơn cả là 
thiền  định. Nếu đứng ở một phương diện mà nhận xét thì giới, định, tuệ 
tuy là quan hệ  chân vạc, nhưng nhận xét ở phương diện khác thì chúng 
lại là quan hệ giai đoạn  hỗ tương. Giới chủ yếu là chuẩn bị để được 
tuệ. điều này cứ xem trong Thanh Tịnh  Đạo luận nói do giới mà vượt ác 
thú, do định mà thoát khỏi Dục giới  và do tuệ  mà siêu tam giới thì đủ 
rõ (Vism, p..). Tựu trung, định không những chỉ ở giữa  mà còn khoáng 
trương cả hai bên, tức là tuệ siêu việt tam giới, ý nghĩa định  phát tuệ
thật ra cũng không ngoài sức định. Bởi vậy, ta có thể nói, trung tâm tu
đạo là định. Phật giáo không lập nên một đấng Thần linh mà trước sau 
vẫn chỉ lấy  tâm làm trung, và cái khế cơ điểm vể tôn giáo trong Phật 
giáo chủ yếu là ở sự tu  dưỡng thiền định, đó là điểm chúng ta cần ghi 
nhận. Song, sự tu dưỡng thiền định  này, theo một ý nghĩa nào đó, không 
những chỉ riêng cho Đại thừa, Tiểu thừa mà  bất luận học phái nào đều 
lấy định làm căn để cho sự tu dưỡng, có thể nói, nêu  xa lìa thiền định 
thì Phật giáo không còn là Phật giáo nữa. Bởi thế, chuyên lấy  ẩn tuẫn 
làm ý chỉ, do tâm thanh tịnh vắng lặng mà được giải thoát, sự tu đạo từ 
Nguyên thủy Phật giáo đến Tiểu thừa Phật giáo đều lấy thiền định làm 
nền tảng  cho tất cả sự tu đạo: điều này, tưởng cũng không có gì là lạ 
cả. Nếu bảo cái  thật thể của các tôn giáo hữu thần là ở như sự cấu đảo,
thì ta có thể nói thật  thể của Phật giáo là ở như thiền. 
 
2-
THIỀN QUÁN VỚI TỨ ĐẾ VÀ 12 NHÂN DUYÊN. 
 
Trưng theo giáo lý, như đã thường lập đi lập lại ở trên,  
Phật giáo nói nhiều giáo tướng, như nhân sinh quan, thế giới quan, thực 
tiễn  quan v.v… tuy triển khai dần dần, nhưng chỗ quy kết thì có thể nói
tất cả đều  phát xuất từ thiền. Vì thế mà trong các thực tiễn quan, 
thiền có một ý nghĩa  trong yếu nhất. Đương nhiên, mới nhìn qua thì thay
vì nói là Thiền quán lại nhận  là phương thức thuyết minh sự thực và lý
tưởng mà thiền chính là căn để của  phương thức đó: đây là điểm ta 
không thể bỏ qua, Như Tứ đế, 12 Nhân duyên, Tứ  niệm xứ lấy đó làm hình 
thức thuyết minh. Tứ đế thuyết minh nhân quả giải thoát  và luân hồi; 12
nhân duyên cho thấy do thuận quan mà luân hồi, do nghịch quan mà  giải 
thoát; còn Tứ niệm xứ đối với sự tồn tại của người ta mà phám đoán theo 
hai  phương diện sự thực và giá trị. Song, đây không phải là sự phán 
đoán lý luận, mà  là sự phán đoán thiền quán, không những thế, bất luận 
là Tứ đế, 12 nhân duyên  hay Tứ niệm xứ, khi tu hành thiền quán thì tất 
cả đều là một loại công án. Thêm  vào đó sự phân loại Dục giới, Sắc 
giới, Vô Sắc giới, nếu nhận xét theo tinh thần  đó thì, nhưng đã nói 
nhiều lần, chẳng qua cũng chỉ để thích ứng với thái độ tinh  thần tu 
thiền mà thôi. Lại nữa, Phật giáo hay nói đến những tổ chức sinh lý và  
cuối cùng thì cũng không ngoài cái thủ đoạn đem ứng dụng chúng vào thiền
quán  (như Bất tịnh quán chẳng hạn). Cứ như thế mà tham cứu thì ta thấy
giáo lý của  Phật giáo dù có thuyết minh bằng thái độ nào đi nữa, nhưng
tất cả đều có thể quy  kết ở thiền quán, vì, nếu không hiểu được thiền 
quán thì quyết không thể nắm  được cái chân lý của Phật giáo: tôi tưởng 
đây không phải là lời nói quá đáng.  Theo ý nghĩa ấy, sự phát đạt của 
giáo lý Phật giáo chẳng qua cũng chỉ là sự phát  đạt và biến thiên của 
thiền quán, Rốt cục, do thiền quán mà trạng thái tinh thần  đạt đến 
nguyên lý hóa, hiện tại hóa, rồi lấy đó làm cơ sở, đem những thuyết minh
và thực tiễn pháp thành lập tổ chức: đó là sự biến thiên của nền giáo 
lý Phật  giáo. Lại nữa, cũng là Phật giáo nhưng được chia thành nhiều 
Khế cơ điểm. Nhất  là muốn hiểu rõ Phật giáo Đại thừa thì người ta không
thể không nhớ kỹ điều này. 
 
3-
Ý NGHĨA THIỀN ĐỊNH. 
 
Phật giáo là một tôn giáo lấy thiền làm trung tâm thành  
lập, có rất nhiếu ký lục về thiền, đồng thời, cũng có nhiều cách để biểu
diễn  thuật ngữ thiền. Về phương diện tổng luận, tôi tưởng trước hết 
hãy nói về bản  chất của thiền. Nói một cách đại thể, thiền của Phật 
giáo chẳng có gì sai khác  với phương pháp tu dưỡng nhất ban của Ấn Độ 
thời bấy giờ mà người ta mệnh danh  là Du Già, Tam Ma Địa. Không những 
thế, thiền của Phật giáo chính cũng đã thoát  hóa từ những phương pháp 
tu dưỡng ấy, điều này tôi đã trình bày ở một nơi khác  rồi. Do đó, về 
phương diện bản chất của thiền - mặc dù về phương pháp hay nội  dung 
quan niệm có chỗ bất đồng – cũng chẳng có gì sai biệt với sự tu dưỡng 
nhất  ban Du Già. Chủ yếu, cột tâm vào một chỗ[1],  thống nhất các biều 
tượng, cuối cùng phải đến chỗ vô niệm, vô tưởng: đó là tu  định. Theo ý 
nghĩa ấy thì đặc chất của định rõ ràng là tiêu cực chế chỉ sự tán  loạn 
của tâm, Nhưng, mục đích của sự tu định không những chỉ tiêu cực trấn áp
tán loạn nội tâm mà còn, đồng thời với sự trấn áp ấy, dồn hết tâm lực 
vào một  điểm, dựa trên sự quan sát triệt để một đối tượng nào đó khiền 
cho chình mình,  cuối cùng, cũng hòa với đồi tượng ấy làm một; đứng về 
phương diện này thì tu  định có mục đích tích cực: đó là điểm chúng ta 
cần ghi nhận. Có thể nói, mục  tiêu tu định là ở điểm này. Thiền có hai 
phương diện tuy cùng gọi là thiền, là  định – phân biệt về nội dung – 
nhưng trong đó bao hàm nhiều tâm thái, và; để  biểu đạt những tâm thái 
đó, đã sản sinh ra nhiều thuật ngữ, đây là lẽ tự nhiên. 
 
Trưng theo kinh Du Già thì có những thuật ngữ như Du  Già, 
Tam ma địa, Tam ma bát đề, Đà diễn na và Tha lạp na v.v… và ý nghĩa của 
mỗi  thuật ngữ, không nhiều thì ít, có chỗ sai khác. Trong Phật giáo 
cũng có nhiều  thuật ngữ, phổ thông thường nói là bảy tên của định (Du 
già sư địa luận lược  biên, quyển 5, Đại chính, 43, trang 66 trở đi. 
(Câu xá, quyển 28). Dó là nói vể  khởi nguyên, về sau, trong sự hỗ 
tương, tuy không khu biệt một cách chặt chẽ,  nhưng đến A-tỳ-đạt-ma, vốn
ưa thích nghiêm cách hóa tất cả tựa hồ đã khu biệt nó  môt cách rất 
chặt chẽ. Sau đây là những danh xưng: 
 
a- Tam-ma-thả-đa (đẳng dẫn) hai định dùng cho cả hữu tâm  
và vô tâm. 
 
b- Tam-ma-địa (Tam muội, đẳng trì): lấy tính tâm nhất  cánh
làm đặc chất, chỉ dùng cho định hữu tâm. 
 
c- Tam-ma-bát-để (đẳng chí): thông cả hữu tâm, vô tâm  
thường được xưng tổng quát là Tứ thiền, Tứ vô sắc định. 
 
d- Đà-diễn-na, Thiền na (Tĩnh lự): tuy đặc biệt chỉ dùng  
cho từ thiền định, nhưng đến Đại thừa nó đã trở thành tên chung cho tất 
cả thiền  định, thiền trong thiền định là chữ ihàna (thiền na) mà ra. 
 
đ- Chất-đa-y-ca-a-yết-la-đa; tâm nhất cảnh tính, chỉ  dùng 
cho hữu tâm định, đại lược đồng nghĩa với Tam-ma-địa. 
 
e- Xa-ma-tha (chỉ): danh từ này được dùng song song với  
Tỳ-bát-xà-na (quán). Đối với tác dụng tích cực quán tưởng, nó là tác 
dụng tiêu  cực chuyên làm cho tâm chìm lắng xuống. Đây cũng chỉ cho hữu 
tâm định thôi. 
 
g- Hiện-pháp-lạc-trụ: trong Tứ thiền, đặc biệt là vào  
trạng thái căn bản định, duy chỉ có Thánh tâm. 
 
Những danh từ trên đây, như vừa nói ở trước, khi được  dùng
một cách mặc nhiên thì không phân biệt chặt chẽ, nhưng về phương diện  
A-tỳ-đạt-ma, khi chúng được dùng một cách nghiêm khắc, thì cái phạm vi 
của bảy  danh từ kể trên, nếu nói một cách đại lược, thì đã từ phạm vi 
rộng nhất dần dần  biểu hiện tâm thái đặc thù ở phạm vi hẹp. Song, một 
danh từ chung đó đại biều  cho thiền định của Phật giáo, là Tam-ma-địa. 
Dứng về phương diện Du Già sử mà  nhận xét, trong Áo Nghĩa Thư cổ xưa, 
danh từ vẫn chưa thấy được biểu hiện, đến  thời đại học phái nó mới bắt 
đầu được dùng làm thuật ngữ. Nhưng, trong Phật  giáo, nó được thu dụng 
ngay từ đầu, bởi thế, khi muốn nói đến thiền định, người  ta luôn luôn 
dùng danh từ này. Nói một cách đơn giản, Chính định trong Bát chính  
đạo, định Ngũ căn, Ngũ lực, tất cả đều được biểu hiện bằng một danh từ  
Tam-ma-địa. Danh từ này do tiếng sam + v- dha. Cái gọi là trị tâm nhất 
xứ (giữ  tâm ở một chỗ) tức là ý nghĩa tổng trì hay đẳng trì vậy. Tâm 
thái biểu hiện  thiện định một cách thật thích đáng đại khái đã từ đây 
để rồi đã đi đến cách  dùng rất rộng rãi. 
 
Phật Âm, trong A-tha-sa-lị-noa (pp. 118-9), đã giải  thích 
Tam-ma-địa như sau: 
 
“Làm cho tâm chuyên chú vào một cảnh, đặc tướng của nó  là 
không động loạn, không trạo cử, tác dụng của nó là kết hợp các pháp cùng
sinh  (tâm, tâm sở) vào một chỗ, cũng như nước rửa, biểu hiện của nó là
lấy tĩnh tâm  làm phát sinh trí tuệ. Vì có tĩnh tâm mới thấy rõ chân 
lý, bởi thế, chỉ lấy sự  vui làm chỗ lập cước. Tóm lại, khi không có gió
thì đèn đứng ngay,tâm được đứng  vững là nhờ Tam muội, người ta cần ghi
nhớ điều đó” (Rhys Davids; Yogàvacàras  Manua of Indian Mysticism as 
Practicsd by Buddhists London 1896, p. XXVI, trích  dụng). 
 
Trên đây, có thể nói, là sự giải thích gần thỏa đáng. 
 
4-
KHÓA ĐỀ THIỀN ĐỊNH. 
 
 Bản chất  của thiền định là như thế, nhưng khi luận 
cứu về vấn đề này thì nên chia thành  mấy bộ môn cho đúng? Muốn thuyết 
minh điểm này, trước hết phải nói rõ về mục  đích tu thiền đã. Nói một 
cách tóm tắt thì mục đích tối cao của sự tu thiền là ở  như sự giải 
thoát nhưng ngoài mục đích chính đó ra, tu thiền cũng cón có những  mục 
đích phụ nữa mà, nếu muốn luận cứu về thiền, tất cũng phải xem chúng như
những khóa đề để khảo sát. A-tỳ-đạt-ma chia mục đích tu thiền thành ba
hay bốn  loại, nhưng lấy bốn làm thông lệ: Thứ nhất, là đắc hiện pháp 
lạc trụ; Thứ hai,  đắc thắng trí kiến; Thứ ba, đắc phân biệt tuệ; Thứ 
tư, là tận chư phiền não (lậu  tận) (Câu xá, quyển 28; Thành Thật, quyển
12, Từ tu định phẩm 158 cũng giống  nhau). Thứ nhất hiện pháp lạc trụ 
có nghĩa là nhờ tu định mà thân tâm được an  tĩnh; thứ hai thắng trí 
kiến nghĩa là được thần thông; thứ ba phân biệt được tuệ  tức là thấy 
được tính, tướng của các pháp như thế; thứ tư lậu tận đã được giải  
thoát tối cao. Xem thế thì bốn điểm trên đây là khóa đề của Thiền na và 
nếu cứ  lấy đó mà luận về Thiền quán một cách tổ hợp cũng được, nhưng, 
thật ra bốn điểm  trên chủ yếu là dựa vào công đức tu thiền mà đưa ra số
mục, bởi vậy, nếu thuyết  minh về cái gọi là thiền mà chỉ có thế thôi 
thì chưa đủ. Về điểm này, tôi đã nói  qua một nơi khác,[2]  Nếu muốn luận 
cứu một cách có căn bản về nhất ban thiền thì những mục sau đây  cần 
phải được lưu ý. Thứ nhất là tâm lý quan; yếu nghĩa của thiền là làm cho
tâm  chuyên chú vào một cảnh. Nếu xử lý tâm như thế nào? Đó là vấn đề 
tiên quyết.  Trong đề mục Tâm lý luận Phật giáo mà tôi đã trình bày ở 
trên có một khóa trình  nói về Thiền định tâmlý luận chính cũng ở đó. 
Trước khi bàn về Thiền định tâm lý  luận, phải nói qua tâm lý luận nhất 
ban, đó là một đề mục của Thiền định luận.  Thứ hai là lý tưởng luận: 
làm thế nào để do thiền mà đạt được lý tưởng tối cao?  Nội dung của 
thiền, trên quan hệ quy định, nếu không phải là lý tưởng luận thì  thiền
không thể được thành lập; thứ ba là phương pháp luận: làm thế nào cho 
tâm  được thống nhất để thực hiện lý tưởng, đó là phương pháp thực tiễn 
mà, theo một  ý nghĩa nào đó, là vấn đề trung tâm của thiền; thứ tư là 
thần thông và những yếu  tố khác: đây là dựa vào công đức của thiền mà 
nói chứ chưa hẳn đã là mục đích  tối cao của thiền. Bất luận trong hiện 
tại, quá khứ, dựa vào kiện khang pháp, an  tĩnh pháp cho đến sức bất khả
tư gnhị của thiền, nếu cho đó là một mục đích tu  dưỡng của thiền, thì 
đó phải đặt thành một đề mục khác để luận cứu.Hình thức  Thiền định luận
được chỉnh lý ít nhất phải có bốn đề mục này, nhưng ở đây, trong  Tâm 
lý luận nhất ban của Phật giáo đã bàn qua rồi. Còn lý tưởng luận nên 
việc  bàn riêng với thiền luận, về thần thông lực cũng là một bộ phận 
của tuệ, tưởng  cũng phải nên luận cứu một cach thích đáng, vậy, rốt 
cục, chỉ cón lại có phương  pháp luận mà thôi. Song, phương pháp luận 
trong trường hợp Phật giáo, không  những là phương pháp bề ngoài mà còn 
bao hàm ý nghĩa dùng công án với Thiền quán  như thế nào cho thích ứng. 
Bởi thế, theo ý nghĩa ấy, phương pháp luận lại có thể  chia thành hai đề
mục: một là phương pháp bề ngoài, hai là phương pháp nội dung.  Phương 
pháp trước, khi nhập định, luận về những dụng ý bên ngoài (cũng có hơi 
đề  cập đến nội dung); còn phương pháp thứ hai nên chuyên luận về nội 
dung của pháp  quan. Như vậy, tập hợp tất cả ý nghĩa ấy để lại nói rõ ý 
nghĩa Cửu thứ đệ định  thì phải đề cập đến tất cả nghị luận của 
A-tỳ-đạt-ma và, như vậy, vấn đề nói ra  sẽ cực kỳ phiền tỏa, bởi thế, ở 
đây, tôi xin kết thúc chương này (Thiền định  luận).  
 
 	 
 		 		[1]
Về điểm này, có vài định nghĩa rõ ràng, giản dị nhất: 1- Tâm trụ một
chỗ  		là tướng tam muội Thành Thật, quyển 12, Định nhân phẩm 155), 2- 
Định có  		nghĩa là thanh tịnh, có công đức tinh tiến và tịch tĩnh thật 
yên tĩnh,  		không tán loạn, gọi là định (Giải thoát đạo luận, quyển 2, 
Phân biệt  		định phẩm 4, Đại chính, 32, tr. 406, ha), 3- Định nghĩa là 
khéo ở vào  		một cảnh (Câu xá, quyển 28).
 		 		[2]
Xem bài khảo sát về sự triển khai của tư tưởng Phật giáo  với Thiền 
trong mục “Từ Chân không đến Diệu hữu).