OAN NGHIỆT SANH MỤT NHỌT
Chùa Quán Âm ở huyện Lâm Hải, tỉnh Triết Giang, trước kia
có vị hòa thượng pháp hiệu Hàm Huy, đã hơn 40 tuổi, là người nghiêm trì
giới luật.
Một hôm, hòa thượng đang đi tản bộ trên đường, ngang qua một quán bán
thịt chó, chủ quán mời mua thịt chó. Do nghiệp lực chiêu cảm, làm cho vị
hòa thượng giới luật tinh nghiêm đó bỗng dưng bị chiêu cảm bởi mùi
hương của thịt chó, đột nhiên nước miếng tuôn chảy, thèm thuồng, nghĩ
tưởng đến cảm giác ngậm miếng thịt chó vào miệng thích thú vô cùng.
Nhưng ngay lập tức thầy xua tan ý nghĩ thèm thuồng đó và vội vàng quay
trở về chùa.
Sau khi thầy về chùa, bỗng toàn thân sốt nóng, trên thân dần dần mọc ra
18 cái nhọt độc, mỗi nhọt độc đều có hình giống như đầu người, gây đau
đớn không thể chịu nổi. Nếu có người khác nhìn thấy nhọt độc thì đớn đau
có phần giảm đi, nhưng nếu che lại không cho người khác thấy thì lập
tức đau đớn thấu xương thấu tủy. Tuy đã mời thỉnh rất nhiều thầy thuốc
danh tiếng, song tất cả đều bó tay, không chữa trị được.
Sau khi chịu sự hành hạ đau đớn như vậy một thời gian, hòa thượng Hàm
Huy liền tự suy ngẫm, đây hẳn là do oan nghiệt ác báo từ đời trước. Thầy
liền quì trước hình tượng đức Như Lai, kiền thành tụng kinh Kim Cang,
phát nguyện sám hối tất cả những lỗi lầm đã gây ra trong quá khứ và hiện
tại.
Một buổi trưa nọ, thầy đang thiu thiu ngủ bỗng như giựt mình tỉnh giấc,
hoảng hốt thấy 18 cái nhọt độc cùng lúc nhô lên giống như những hình
người bị chặt đầu, từ trong yết hầu lại vang ra tiếng hỏi:
– Ông có biết chúng tôi không?
Hòa thượng đáp:
– Tôi không biết.
– Ông không biết thật sao? Vậy tôi sẽ nhắc cho ông nhớ. Vào đời nhà Kim,
ông làm chức thống lãnh binh lính, chúng tôi đều là thuộc hạ dưới quyền
của ông. Ông ra lệnh cho chúng tôi canh giữ cửa ra vào chỗ đóng quân.
Trong bọn chúng tôi có hai người lén xuống núi, gặp một phụ nữ đi một
mình liền cưỡng hiếp. Cô ta về nói với chồng, chồng cô tức giận đến báo
với ông. Song ông không chịu điều tra xem ai là người phạm tội, lại hạ
lệnh xử chém hết thảy 18 người giữ cổng chúng tôi. Hai tên phạm tội
cưỡng hiếp, cố nhiên đáng tội chết, nhưng chúng tôi không liên quan gì
đến việc làm tội lỗi của họ, lại bị ông xử chém. Oán thù như thế, làm
sao có thể không trả? Chúng tôi theo ông đã hơn 200 năm, nhưng ông biết
tin theo Phật, những đời trước đều làm thiện tích đức, nay lại xuất gia
nghiêm trì giới luật, nên lúc nào cũng có thiện thần hộ pháp theo bảo
vệ, chúng tôi không dám xâm phạm. Mới đây nhìn thấy thịt chó ông khởi
tâm muốn ăn, như vậy là đã phá giới, khiến thiện thần hộ pháp đều xa
lánh, chúng tôi mới có cơ hội báo oán này. Nay ông lại tụng kinh cầu
nguyện giải trừ oan trái, vậy chúng tôi cho ông thêm ba năm nữa, sau đó
nhất định quay lại lấy mạng ông.
Từ đó, quả nhiên nhọt độc của hòa thượng Hàm Huy không phát tác nữa.
Nhưng đúng ba năm sau, chúng phát tác trở lại kịch liệt hơn lần trước,
thối rữa và làm cho đau nhức không sao chịu nổi. Những cái nhọt độc oan
nghiệt ấy đã hành hạ ông mãi cho đến chết. Than ôi! Chỉ vì xem nhẹ mạng
người, giết oan người vô tội nên phải chịu báo ứng. Chuyện nhân quả rõ
ràng như vậy, há có thể không tin được sao?
(trích Báo ứng ký thật)
QUỐC SƯ NGỘ ĐẠT
Đời vua Đường Ý Tông, ở Trường An có một thầy tăng mắc bệnh ghẻ lở,
hằng ngày luôn thất tha thất thiểu trong bộ áo quần rách mướp, mặt mày
khô đét, thân hình gầy còm, tay chân lở loét, ai trông thấy cũng nhờm
gớm. Thỉnh thoảng một vài người vì động lòng trắc ẩn, biếu cho chút ít
thức ăn, ngoài ra không ai dám đến gần hoặc hỏi han điều gì cả, cho nên
cũng chẳng ai biết thầy từ đâu đến và bệnh tật ra sao.
Một hôm, trên đường về chùa An Quốc, thầy tình cờ gặp một vị tăng khác là Ngộ Đạt.
Thấy người đồng phạm hạnh trong cơn hoạn nạn, Ngộ Đạt quá thương và cố
thỉnh về ở với mình. Trước tấm chân tình và lời lẽ thiết tha, thầy tăng
kia nhận lời. Ngộ Đạt đưa vị ấy về chùa, cung kính chăm sóc như bậc
thầy. Mỗi buổi sáng, Ngộ Đạt lấy nước nóng rửa lau mụt ghẻ, không hề tỏ
vẻ nhờm gớm.
Sau một thời gian khá lâu, thầy thấy bệnh tình đã khá rất hơn rất nhiều
nên xin từ giã ra đi. Ngộ Đạt tỏ lòng quyến luyến, cố thỉnh thầy lưu lại
thêm ít hôm nữa, nhưng thầy không đổi ý. Thấy vậy, Ngộ Đạt thiết tha
xin đi theo để sớm hôm hầu hạ, thầy cũng từ chối nốt. Thầy nói:
– Ngày sau trên đường danh đức, thầy rất hiển đạt. Thầy nên ở lại, đừng
theo tôi mà phải chịu cảnh rày đây mai đó, làm mai một khả năng giáo hóa
của mình. Nhưng có một điều là sau này thầy phải hết sức chú ý mỗi khi
được xưng tán, ca ngợi, vì những sự tôn vinh có thể làm tổn thương đạo
hạnh. Tôi rất cảm kích tấm lòng tốt của thầy, vậy nếu sau này có gặp tai
nạn gì thì nên đến tìm tôi ở núi Trà Lũng, Tây Thục, Bành Châu. Cứ lên
đến lưng chừng núi, chỗ có hai cây tùng to gọi là Song Tùng Lãnh thì sẽ
gặp được tôi.
Dặn dò xong, thầy từ biệt, Ngộ Đạt rơm rớm nước mắt, trông theo đến khi khuất bóng mới trở về.
Ngày tháng thấm thoát trôi qua, quả nhiên về sau Ngộ Đạt trở thành một
vị danh tăng được rất nhiều người kính phục. Bấy giờ, ở kinh đô người
người đều biết và khâm phục tài đức của sư. Họ biết sư là một vị sư có
tài đức và thuyết giảng giáo pháp rất sâu xa. Sư hiểu biết rộng, hóa độ
được nhiều người, tiếng thơm vang khắp nơi.
Vua Ý Tông qua nhiều lần thăm dò thử thách mới thỉnh sư vào cung thuyết
pháp. Cách ít lâu sau liền phong sư làm Quốc sư và ban cho một pháp tòa
bằng gỗ trầm thơm quý. Đối với người thế gian thì còn có danh vọng nào
cao hơn được nữa!
Một hôm, khi đang ngồi trên ghế trầm, sư bèn khởi niệm suy nghĩ rằng
mình tài đức không ai bằng, được vua kính, quan phục, trăm họ kính nể,
sư cảm thấy thật không còn nấc thang nào cao hơn nữa. Lòng tự đắc dâng
lên tột độ, bỗng nghe xây xẩm mặt mày, sư vội bảo đồ đệ dìu vào phương
trượng, nằm mê man suốt hai ba giờ sau mới tỉnh lại. Cảm giác trong mình
khó chịu, sư biết đã thọ bệnh, liền rờ xuống đầu gối nghe đau, vội vén
quần lên, thật hết sức kinh ngạc, một mụt ghẻ giống tạc như mặt người,
có đầy đủ mắt, tai, mũi, miệng... Thật đáng kinh sợ!
Sư ngất lịm, các đồ đệ kêu vực mãi mới mở mắt, bỗng nghe dưới mụt ghẻ
nghiến răng, đau buốt thấu xương, quá khổ sở không cách gì cứu chữa. Các
danh y trong nước đều được vua mời đến chữa trị cho sư, nhưng mỗi lần
thoa thuốc là mỗi lần chết giấc chứ không thấy thuyên giảm chút nào.
Nhưng thật lạ, chỉ cần đút thịt vào thì thấy mụt ghẻ ăn ngay và lại nghe
trong người dễ chịu, thật là căn bệnh quái lạ xưa nay chưa từng thấy!
Quốc sư Ngộ Đạt chịu khổ sở đau đớn như vậy hơn tháng trời. Sư ngẫm nghĩ
lại thấy cuộc đời thật bèo bọt vô thường, chẳng có gì bền chắc, danh
vọng vật chất cũng chẳng có gì đáng để luyến lưu, ham muốn. Chợt nhớ đến
lời của vị thầy già bị bệnh khi xưa, sư như sực tỉnh cơn mộng, quả
nhiên nhận biết khổ nạn của mình chắc chắn đã xuất phát từ sự khởi tâm
kiêu mạn. Nhận ra điều đó rồi, sư bèn cố gắng cắn răng chịu đựng lên
đường sang Tây Thục.
Vất vả khổ sở suốt mấy tuần mới đến được chân núi. Đường dốc quanh co,
mãi đến hoàng hôn sư mới tìm ra được dấu vết theo lời mô tả của vị sư
già. Kìa là hai cây tùng đã lộ bóng, nhưng vị thầy đâu chẳng thấy hình
dạng. Nếu không gặp được người, đêm nay chắc phải làm mồi cho thú dữ vì
giữa chốn hoang sơ này làm gì có chỗ an toàn để nghỉ qua đêm?
Sư còn đang ngơ ngác nhìn quanh bốn phía, trong lòng lo sợ, bồi hồi thì
bỗng nhận ra hình bóng thân yêu quen thuộc của vị thầy ngày xưa hiện ra
trên một tảng đá gần đó. Sư kêu to lên một tiếng mừng rỡ rồi quên hẳn cả
sự đau đớn, chạy vội đến và leo nhanh lên tảng đá, ôm choàng lấy vị
thầy và hỏi han rối rít.
Sau khi bộc lộ hết những nỗi vui mừng, khao khát của mình rồi, sư vừa
khóc vừa kể lại nỗi đau đớn mình đang gánh chịu cho vị thầy nghe. Thầy
liền an ủi và dìu Ngộ Đạt về thảo am trên lưng chừng núi. Sư thưa:
– Bạch thầy! Kẻ đệ tử đang lâm vào cơn khổ nạn bức bách, khổ sở không
bút mực nào tả xiết. Xin thầy rủ lòng từ bi ra tay tế độ, giúp cho đệ tử
thoát nạn, ơn đức ấy suốt đời con không bao giờ quên.
– Không hề gì! Không hề gì! Oan nghiệt ông đã vay từ nhiều đời nhiều
kiếp về trước, ngày nay phải trả. Ông phải chịu đựng để trả xong món nợ
máu ấy mới mong được giải thoát. Đức Thế Tôn khả kính của chúng ta khi
xưa còn thị hiện những nạn gươm vàng đâm vế, ba tháng ăn lúa ngựa...
huống gì hạng phàm phu chúng ta làm sao thoát được. Nợ mình đã trả thì
sẽ hết, nhưng điều quan trọng là đừng vay thêm nữa.
– Bạch thầy! Thầy nói nợ máu là thế nào, đệ tử không sao hiểu được? Xin thầy hoan hỉ giảng cho.
– Chuyện ấy rồi thầy sẽ rõ, vì rồi sẽ có người nói cho thầy biết.
Rạng sáng hôm sau, thầy bảo đồng tử dẫn Ngộ Đạt xuống dòng suối gần đó
lấy nước rửa ghẻ. Đồng tử vừa định khoát nước lên rửa thì nghe có tiếng
thét từ trong mụt ghẻ phát ra:
– Khoan, hãy khoan đã. Ta có việc cần muốn nói với ông ấy.
Ngộ Đạt còn chưa hoàn hồn đã nghe mụt ghẻ nói tiếp:
– Tiếng đồn ông là người học rộng, vậy đã từng đọc Tây Hán thư chưa?
Thầy Ngộ Đạt đáp:
– Đã từng xem qua vài lượt.
– Vậy ông có nhớ chuyện Viên Áng gièm tâu với vua Cảnh Đế chém chết Triệu Thố ở phía đông chợ không?
– Có nhớ! Nhưng hỏi như vậy để làm gì?
– Chính ông là Viên Áng ngày đó, còn tôi là Triệu Thố đây. Ông hại chết
tôi oan ức đến dường nào ông có biết chăng? Thù ấy, oán ấy thâm xương
thấu cốt, tôi đã 10 đời luôn ở bên ông tìm dịp báo thù, nhưng trong suốt
10 đời ông luôn làm bậc cao tăng, giới luật tinh nghiêm, tôi phải đành
ôm hận, nhưng quyết theo mãi, đến khi nào trả xong mối thù, đòi xong nợ
máu mới thôi. Vừa rồi, được dịp thuận tiện, ông vì được vua kính chuộng,
ban cho tòa trầm hương, phong làm quốc sư, vinh quang hiển hách, do đó
tâm danh lợi nổi lên, khí kiêu căng bừng khởi, làm suy giảm đức hạnh,
tôi mới nhân cơ hội đó làm hại ông để đòi món nợ trên. Ngày nay, may nhờ
thầy Ca-nặc-ca thương xót ra tay giải cứu cho ông, lại còn dùng nước
tam-muội rửa tội. Nhờ thần lực của thầy giúp cho ông và tôi từ đây về
sau oán hận không còn, cừu thù tan hết. Vậy kính khuyên ông hãy cố gắng
tinh tấn tu hành, viên thành đạo nghiệp. Xin bái biệt!
Ngộ Đạt nghe xong, mình nổi đầy gai ốc, đồng thời với tay khoát nước rửa
mụt ghẻ, nước vừa chạm đến thịt, sư nghe đau buốt thấu xương, ngất lịm.
Khi tỉnh lại, mụt ghẻ đã lành, da thịt liền lại như xưa, không có chút
vết sẹo nào. Thầy vui mừng đến chảy nước mắt, vội trở lên núi cảm tạ ân
đức của tổ, phát nguyện tinh tấn tu hành, không dám giải đãi.
Bộ Thủy sám 3 quyển hiện nay đang lưu hành chính là phương pháp sám hối do quốc sư Ngộ Đạt viết ra.