XXXIV. Phẩm 
Đẳng 
kiến 
      
1. Tôi nghe như vầy:
Một thời Tôn giả Xá-lợi-phất ở thành Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, 
vườn Cấp Cô Ðộc, cùng với chúng đại Tỳ-kheo 
năm trăm người.
      
Bấy giờ Tỳ-kheo đến chỗ Tôn giả 
Xá-lợi-phất, cùng hỏi thăm nhau rồi 
ngồi một bên. Lúc ấy, nhiều Tỳ-kheo bạch Tôn giả rằng:
- Tỳ-kheo giới thành tựu nên suy nghĩ những pháp gì?
Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:
      
- Tỳ-kheo giới thành tựu nên tư duy năm 
thạnh ấm, vô thường là khổ não, là nhiều
đau đớn, lo sợ; cũng nên tư duy khổ, 
không, vô ngã. Thế nào là năm? Nghĩa là 
sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm. Bấy giờ, Tỳ-kheo giới thành 
tựu suy nghĩ năm thạnh ấm này liền 
thành đạo Tu-đà-hoàn.
Tỳ-kheo bạch Tôn giả:
- Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn nên tư duy 
những pháp gì?
Tôn giả đáp:
      
- Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn cũng nên tư 
duy năm thạnh ấm này là khổ, là não, 
là nhiều đau đớn, lo sợ; cũng nên tư 
duy khổ, không, vô ngã. Chư Hiền nên biết, Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn 
nếu tư duy năm thạnh ấm này sẽ liền 
thành tựu quả Tư-đà-hàm.
Các Tỳ-kheo hỏi:
- Tỳ-kheo Tư-đà-hàm nên tư duy 
những pháp gì?
Tôn giả đáp:
      
- Tỳ-kheo Tư-đà-hàm cũng nên tư duy 
năm thạnh ấm này là khổ, là não, là 
nhiều đau đớn, lo sợ. Cũng nên tư duy 
khổ, không, vô ngã. Lúc ấy Tỳ-kheo Tư-đà-hàm 
ngay lúc tư duy năm thạnh ấm liền thành 
tựu quả A-na-hàm.
Các Tỳ-kheo hỏi:
- Tỳ-kheo A-na-hàm nên tư duy những pháp gì?
Tôn giả đáp:
      
- Tỳ-kheo A-na-hàm cũng nên tư duy năm 
thạnh ấm này là khổ, là não, là đau 
đớn, lo sợ. (Cũng nên tư duy khổ, không, vô ngã). Tỳ-kheo A-na-hàm 
lúc tư duy năm thạnh ấm liền thành 
A-la-hán.
Các Tỳ-kheo hỏi:
- Tỳ-kheo A-la-hán nên suy nghĩ những pháp gì?
Tôn giả đáp:
      
- Các Thầy có gì hỏi hơn nữa không? Tỳ-kheo A-la-hán việc làm
đã xong, không còn tạo hạnh, tâm hữu 
lậu được giải thoát, chẳng còn hướng 
trong biển sanh tử năm đường; không còn 
thọ hậu hữu, còn tạo tác gì nữa? Thế nên, chư Hiền! Tỳ-kheo trì giới, Tu-đà-hoàn, 
Tư-đà-hàm, A-na-hàm nên tư duy năm 
thạnh ấm. Như thế các Tỳ-kheo nên học 
điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Tôn giả Xá-lợi-phất nói xong, vui vẻ vâng làm.
*
2. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở trong vườn Lộc Uyển (chư tiên
đọa xứ) nước Ba-la-nạt.
      
Bấy giờ Như Lai thành đạo chưa được bao 
lâu, người đời gọi Ngài là Ðại Sa-môn. Khi
đó vua Ba-tư-nặc mới nối ngôi vua. Vua 
Ba-tư-nặc liền nghĩ rằng: "Nay ta mới nối ngôi vua, trước hết nên 
cưới con gái dòng họ Thích. Nếu được cho 
cưới, thật vừa lòng ta. Nếu không bằng lòng, ta sẽ dùng áp lực
đến bức bách".
      
Lúc ấy vua Ba-tư-nặc bảo một vị quan:
- Hãy đi đến nhà dòng họ Thích ở 
Ca-tỳ-la-vệ đem tên tuổi ta báo cho họ 
Thích rằng: "Vua Ba-tư-nặc vấn an sức khỏe chí ý vô lượng". Rồi hãy bảo họ 
Thích đó rằng ta muốn cưới con gái họ Thích. 
Nếu gả cho ta, ta sẽ ghi mãi ơn đức; 
nếu không thuận ta sẽ đem lực lượng đến áp bức. Ðại thần vâng lệnh 
vua, đến nước Ca-tỳ-la-vệ. Bấy giờ dòng 
họ Thích ở Ca-tỳ-la-vệ có năm trăm người nhóm 
chung một chỗ. Ðại thần liền đến 
chỗ năm trăm vị họ Thích; đem tên tuổi 
vua Ba-tư-nặc bảo họ Thích kia rằng:
- Vua Ba-tư-nặc ân cần hỏi thăm sức khỏe 
mong được chí ý vô lượng. Vua muốn cưới con gái họ Thích, nếu gả cho thật 
là đại hạnh, nếu không gả, vua sẽ dùng 
sức ép bức."
Các vị họ Thích nghe lời này xong, hết sức sân hận: "Chúng ta là dòng 
dõi lớn, duyên cớ gì lại cùng tên hèn mọn kết thân". Trong chúng hoặc có 
người nói nên cho, hoặc có người nói không nên cho.
Bấy giờ trong nhóm họ Thích có người tên Ma-ha-nam bảo mọi người rằng:
- Chư Hiền chớ sân giận. Vì sao thế? Vua Ba-tư-nặc là người bạo ác. Nếu
đương cự thì vua Ba-tư-nặc
đến sẽ đánh bại nước ta. Nay ta sẽ đến cùng 
Ba-tư-nặc tương kiến, bàn về sự tình này.
Trong nhà Ma-ha-nam có một tỳ nữ, sanh 
được một con gái diện mạo đoan chánh, hiếm có trên
đời. Ma-ha-nam sai tắm rửa cô gái này, 
cho mặc áo đẹp, ngồi trên xe vũ bảo,
đưa đến cho vua Ba-tư-nặc, lại tâu với vua 
rằng:
      
- Ðây là con gái của tôi, có thể cùng ngài thành thân.
Vua Ba-tư-nặc được cô gái này hết 
sức vui mừng, liền lập cô làm đệ nhất phu 
nhân. Chưa được vài ngày, cô mang thai, lại trải qua tám, chín 
tháng sanh ra một cậu bé đoan chánh vô song, 
thế gian hiếm có. Vua Ba-tư-nặc liền tụ tập các thầy tướng để đặt tên 
tự cho thái tử này.
Các thầy tướng nghe vua nói xong, liền tâu vua rằng:
- Ðại vương nên biết, lúc cầu phu nhân, các người họ Thích tranh luận 
với nhau, có người nói "nên cho", người nói "không nên cho", khiến
đây đó lưu ly. Nay nên
đặt tên gọi là Lưu Ly Tỳ-lưu-lặc.
Thầy tướng đặt hiệu xong, mỗi người từ chỗ 
ngồi đứng dậy mà đi.
      
Vua Ba-tư-nặc yêu thương thái tử Lưu Ly này, chưa từng rời mắt. Khi 
thái tử Lưu Ly vừa tám tuổi, vua bảo thái tử rằng:
- Nay con đã lớn, nên
đến Ca-tỳ-la-vệ học bắn cung.
Khi đó, vua Ba-tư-nặc cấp cho Thái tử 
những người hầu, khiến cỡi voi lớn đến nhà Ma-ha-nam dòng họ Thích, 
bảo Ma-ha-nam rằng:
- Vua Ba-tư-nặc sai con đến đây học các xạ 
thuật. Cúi mong ông bà, dạy dỗ mọi sự.
Ma-ha-nam bảo:
- Muốn học thuật thì khéo nên tập tành.
Thích Ma-ha-nam tụ họp năm trăm trẻ con 
khiến cùng học xạ thuật. Thái tử Lưu Ly cùng học xạ thuật với năm 
trăm trẻ.
      
Bấy giờ trong thành Ca-tỳ-la-vệ mới dựng một giảng
đường. Trời và nhân dân, Ma và Thiên 
ma trụ trong giảng đường này. Những 
người họ Thích nói với nhau:
- Nay giảng đường hoàn thành chưa 
lâu, vẽ vời chưa xong, không khác thiên cung. Chúng ta trước hết nên thỉnh 
Như Lai và Tỳ-kheo Tăng vào
đây để cúng dường, khiến chúng ta được phước 
vô cùng.
Khi ấy, họ Thích ở trên giảng đường trải 
các thứ tọa cụ, treo tràng phang bảo cái; dầu thơm rưới trên
đất, đốt các danh hương; lại chứa nước tốt, 
đốt sáng các đèn. Bấy giờ thái tử Lưu Ly dẫn năm 
trăm đứa trẻ đến giảng đường, rồi leo ngay lên tòa sư tử. Những 
người họ Thích trông thấy hết sức giận dữ, bèn xông tới lôi cánh tay thái 
tử, kéo ra ngoài cửa, xúm nhau mắng nhiếc:
- Ðây là đứa con nô tỳ, chư Thiên 
và mọi người chưa có ai dám vào đây, mà
đứa con nô tỳ này dám vào
đây ngồi.
      
Rồi họ lại xô thái tử Lưu Ly ngã xuống 
đất. Thái tử Lưu Ly chỗi dậy, than một tiếng dài rồi ngó lại phía 
sau. Lúc ấy có người con của Phạm Chí tên là Hiếu Khổ. Thái tử Lưu Ly bảo 
Hiếu Khổ rằng:
- Họ Thích hủy nhục ta đến thế này. 
Sau này nếu ta nối ngôi vua, ông nên nhắc ta chuyện này.
Hiếu Khổ, người con Phạm Chí đáp:
      
- Xin vâng lời dạy của thái tử.
Từ đó, mỗi ngày người con Phạm Chí 
kia tâu Thái tử ba lần:
- Hãy nhớ mối nhục họ Thích.
Rồi nói kệ:
Tất cả đều sẽ tận,
Quả chín cũng sẽ rụng,
Hội họp ắt sẽ tan,
Có sanh thì có chết.
Ðến khi vua Ba-tư-nặc theo tuổi thọ qua 
đời, thái tử Lưu Ly được lập làm vua. Phạm chí Hiếu Khổ
đến chỗ vua nói rằng:
      
- Vua hãy nhớ xưa bị họ Thích hủy nhục.
Vua Lưu Ly đáp:
      
- Lành thay! Lành thay! Khéo nhớ việc cũ.
Khi ấy vua Lưu Ly liền nổi cơn giận dữ bảo quần thần:
- Nay chúa tể của nhân dân là ai?
Quần thầu tâu:
- Ngày nay do Ðại vương thống lãnh.
Vua Lưu Ly bảo:
- Các Ông mau sửa soạn xe, tụ tập bốn bộ binh. Ta muốn chinh phục họ 
Thích.
Chư thần đáp:
      
- Xin vâng, Ðại vương.
Quần thần nhận lệnh vua liền chiêu tập bốn binh chủng. Vua Lưu Ly dẫn 
bốn bộ binh đến nước Ca-tỳ-la-vệ.
      
Bấy giờ rất đông Tỳ-kheo nghe vua 
Lưu Ly chinh phạt họ Thích, liền đến chỗ Thế 
Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên, đem 
nhân duyên này kể lại đầy đủ cho Thế 
Tôn. Thế Tôn nghe xong liền đến cản vua Lưu Ly. Ngài
đến một cây khô không có cành lá ngồi 
kiết-già. Vua Lưu Ly từ xa thấy Thế Tôn ngồi dưới gốc cây, liền xuống xe
đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên. 
Bấy giờ vua Lưu Ly bạch Thế Tôn rằng:
- Có những cây tốt, cành lá sum sê như loại ni-câu-lưu v.v... Sao Ngài 
lại ngồi dưới cây khô này?
Thế Tôn đáp:
      
- Bóng mát của thân tộc hơn hẳn người ngoài.
Vua Lưu Ly liền nghĩ:
- Hôm nay Thế Tôn cố vì thân tộc. Vậy hôm nay ta nên trở về nước, chẳng 
nên chinh phạt Ca-tỳ-la-vệ.
Vua Lưu Ly liền cáo từ lui về. Khi ấy Phạm chí Hiếu Khổ lại tâu vua:
- Hãy nhớ xưa bị họ Thích làm nhục.
Vua Lưu Ly nghe lời này xong lại nổi sân giận.
- Các Ngươi mau sửa soạn xe cộ, tập họp bốn bộ binh. Ta muốn chinh phạt 
Ca-tỳ-la-vệ.
Quần thần lập tức chiêu tập bốn bộ binh ra khỏi thành Xá-vệ
đến Ca-tỳ-la-vệ chinh phạt họ Thích. Khi ấy 
rất đông Tỳ-kheo nghe được đến bạch Thế Tôn.
      
- Nay Lưu Ly hưng binh đi tấn công họ 
Thích.
      
Bấy giờ Thế Tôn nghe lời này xong liền dùng thần túc
đến bên 
đường ngồi dưới một gốc cây. Vua Lưu Ly xa thấy Thế Tôn ngồi dưới gốc cây 
liền xuống xe đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên. Bấy giờ 
vua Lưu Ly bạch Thế Tôn:
- Lại có những cây tốt sao Ngài không đến 
ngồi mà hôm nay Thế Tôn cớ gì lại ngồi dưới cây khô này?
Thế Tôn đáp:
      
- Bóng mát của thân tộc hơn người ngoài.
Khi ấy Thế Tôn liền nói kệ:
Bóng mát của thân tộc
Từ họ Thích có Phật
Ðều là cành lá Ta
Nên ngồi dưới cây ấy.
Vua Lưu Ly lại nghĩ:
- Ngày nay Thế Tôn phát xuất từ dòng họ Thích. Ta không nên chinh phạt, 
nên cùng quay về nước.
Vua Lưu Ly liền trở về thành Xá-vệ, Phạm chí Hiếu Khổ lại bảo vua rằng:
- Vua nên nhớ cái nhục họ Thích ngày xưa.
Vua Lưu Ly nghe xong, lại chiêu tập bốn bộ binh kéo ra khỏi thành Xá-vệ
đến Ca-tỳ-la-vệ. Khi ấy. Ðại 
Mục-kiền-liên nghe vua Lưu Ly chinh phạt họ Thích, liền
đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên. 
Bấy giờ Ðại Mục-kiền-liên bạch Thế Tôn:
- Hôm nay vua Lưu Ly triệu tập bốn bộ binh 
đi công phạt dòng họ Thích. Nay con đủ 
sức khiến cho vua Lưu Ly và bốn bộ binh, ném họ sang thế giới 
phương khác.
Thế Tôn bảo:
- Thầy há có thể đem túc duyên của 
họ Thích ném sang phương khác sao?
Tôn giả Mục-liên bạch Phật:
- Thật không thể đem túc duyên
đặt vào thế giới phương khác.
Thế Tôn bảo Mục-liền:
- Thầy về chỗ ngồi đi.
      
Mục-liên lại bạch Phật:
- Nay con có thể dời thành Ca-tỳ-la-vệ này 
để lên hư không.
Thế Tôn bảo:
- Nay Thầy có thể dời túc duyên của họ Thích
để trong hư không chăng?
      
Mục-liên đáp:
      
- Thưa không, Thế Tôn.
Phật bảo Mục-liên:
- Nay Thầy hãy về chỗ mình.
Bấy giờ Tôn giả Mục-liên lại bạch Phật:
- Cúi mong Thế Tôn cho phép con lấy lồng sắt thưa, chụp lên thành 
Ca-tỳ-la-vệ.
Thế Tôn bảo:
- Thế nào Mục-liên? Có thể lấy lồng sắt thưa chụp lên túc duyên chăng?
      
Mục-liên đáp:
      
- Thưa không, Thế Tôn.
Phật bảo Mục-liên:
- Nay Thầy trở về chỗ đi. Hôm nay họ Thích 
túc duyên đã chín, nay sẽ thọ 
báo.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Muốn hư không làm đất,
Lại khiến đất thành không,
Chỗ duyên xưa trói buộc,
Duyên này không hư bại.
Lúc ấy vua Lưu Ly đến Ca-tỳ-la-vệ. Các 
người họ Thích nghe "vua Lưu Ly đem bốn bộ binh đến công phạt chúng ta". 
Họ tụ tập bốn bộ chúng trong một do-tuần đến ngăn vua Lưu Ly.
      
Khi ấy, các người họ Thích trong một do-tuần từ xa bắn vua Lưu Ly; hoặc 
bắn vào tai mà không thương tổn đến tai; hoặc 
bắn vào búi tóc, không làm tổn thương 
đầu; hoặc bắn cung gãy, hoặc bắn dây cung không hại
đến người; hoặc bắn áo giáp không thương tổn 
người; hoặc bắn sàng tòa không hại người; hoặc bắn bánh xe hư, 
không thương tổn người; hoặc làm hư cờ xí không hại người.
Khi ấy vua Lưu Ly thấy việc này rồi sợ hãi bảo quần thần:
- Các Ngươi xem tên này từ đâu tới?
      
Quần thần đáp:
      
- Các người họ Thích này cách đây một 
do-tuần bắn tên đến.
      
Vua Lưu Ly bảo:
- Họ dù phát tâm muốn hại ta, phải cho họ chết hết mới nên trở về 
Xá-vệ.
Bấy giờ Phạm chí Hiếu Khổ đến trước tâu 
vua rằng:
      
- Ðại vương chớ sợ! Những người họ Thích này
đều trì giới, côn trùng còn chẳng hại 
huống là hại người. Nay ta nên tiến đến trước 
ắt có thể phá được họ Thích.
      
Vua Lưu Ly dần dần tiến lên hướng đến họ 
Thích. Những người họ Thích lại vào trong thành. Vua Lưu Ly ở ngoài 
thành bảo họ rằng:
- Các Ông mau mở cửa thành! Nếu không, ta sẽ giết hết các Ông.
Bấy giờ thành Ca-tỳ-la-vệ có đứa trẻ họ 
Thích, tuổi mới mười lăm tên là Xà-ma; nghe vua Lưu Ly nay ở ngoài 
cửa liền mặc giáp cầm gậy, đến trên 
thành một mình đánh nhau với vua Lưu Ly. Khi 
ấy đứa bé Xà-ma giết hại nhiều binh lính, họ chạy tán loạn, nói:
- Ðây là người nào? Là trời hay là quỷ thần? Xa trông giống như
đứa bé!
      
Lúc ấy vua Lưu Ly liền sợ hãi, vào tránh trong một hố
đất.
      
Họ Thích nghe binh lính vua Lưu Ly bị hại. Khi ấy, họ Thích liền gọi
đứa bé Xà-ma mà bảo rằng:
- Người tuổi nhỏ cớ sao làm nhục môn hộ của chúng ta? Há chẳng biết họ 
Thích tu hành pháp lành sao? Chúng ta còn chẳng thể hại côn trùng huống là 
mạng người sao? Chúng ta có thể phá tan quân lính này, một người chống 
muôn người, nhưng chúng ta lại nghĩ rằng: "Như thế giết hại chúng sanh 
không thể tính kể". Thế Tôn cũng nói: "Phàm người giết mạng người, chết sẽ 
vào địa ngục. Nếu sanh trong loài 
Người thọ mạng rất ngắn". Ngươi mau đi đi, 
không được ở đây nữa.
      
Khi ấy, đứa bé Xà-ma liền
đi ra khỏi nước, không vào Ca-tỳ-la-vệ 
nữa. Vua Lưu Ly lại đến giữa cửa bảo người ấy 
rằng:
      
- Mau mở cửa thành chẳng nên chần chờ.
Khi ấy, những người họ Thích bảo nhau rằng:
- Nên mở hay không mở?
Bấy giờ tệ ma Ba-tuần ở trong họ Thích, biến thành một người họ Thích 
bảo họ Thích:
- Các Ông nên mở cửa thành, chớ cũng chịu khốn hôm nay.
Họ Thích liền cho mở cửa thành. Khi ấy vua Lưu Ly liền bảo quần thần:
- Nay nhân dân họ Thích rất nhiều, chẳng phải
đao kiếm có thể hại hết được. Nên
đem chôn chân trong đất, rồi sau cho voi dữ 
đạp chết.
      
Bấy giờ quần thần vâng lệnh vua; liền dùng voi
đạp chết những người ấy. Vua Lưu Ly ra lệnh 
quần thần:
      
- Các Ông mau chọn năm trăm đàn bà
đẹp đẽ họ Thích.
      
Quần thần vâng lệnh vua, liền chọn năm 
trăm cô gái đoan chính đem đến chỗ vua. Khi ấy, Thích Ma-ha-nam đến chỗ 
vua Lưu Ly rồi bảo rằng:
      
- Hãy theo ý nguyện của tôi!
Vua Lưu Ly nói:
- Muốn nguyện những gì?
Ma-ha-nam bảo:
- Nay tôi lặn xuống đáy nước, tùy 
theo sự mau hay chậm của tôi, cho những người họ Thích
được chạy trốn. Nếu tôi ra khỏi mặt nước, thì 
tùy ý giết.
Vua Lưu Ly nói:
- Việc này rất hay.
Thích Ma-ha-nam liền nhảy xuống nước, lấy tóc cột vào gốc cây mà chết. 
Khi ấy, những người họ Thích trong thành Ca-tỳ-la-vệ, từ cửa Ðông ra lại
đi vào cửa Nam; hoặc từ cửa Nam ra lại 
vào cửa Bắc; hoặc từ cửa Tây ra lại vào cửa Bắc. Bấy giờ vua Lưu Ly bảo 
quần thần rằng:
- Tổ phụ Ma-ha-nam cớ sao ẩn trong nước 
đến giờ chưa ra?
      
Các quần thần nghe lệnh vua, nhảy xuống nước
đem Ma-ha-nam đã chết lên. Vua Lưu Ly 
thấy Ma-ha-nam đã chết rồi, mới sanh 
lòng hối hận:
- Nay ông của ta đã chết vì yêu 
thân tộc. Ta trước chẳng biết nên để ông 
chết. Nếu biết thế, trọn chẳng đến chinh phạt họ Thích.
      
Khi ấy vua Lưu Ly giết chín ngàn chín trăm 
chín mươi vạn người, máu chảy thành sông quanh thành Ca-tỳ-la-vệ, 
rồi đến vườn Ni-câu-lưu. Bấy giờ vua Lưu Ly 
bảo năm trăm cô gái họ Thích rằng:
      
- Các vị cẩn thận chớ có sầu lo. Ta là chồng các vị, các vị là vợ ta, 
phải nên tiếp đãi nhau.
Khi ấy, vua Lưu Ly bèn vươn tay bắt một cô, muốn
đùa cợt. Cô gái hỏi:
- Ðại vương muốn làm gì?
Vua đáp:
      
- Muốn cùng cô giao tình.
Cô gái đáp vua:
      
- Nay ta cớ sao phải cùng con của đầy tớ 
gái thông giao?
      
Vua Lưu Ly hết sức giận dữ, ra lệnh cho quần thần:
- Mau đem cô gái này chặt tay chân 
rồi đẩy xuống hầm sâu.
      
Quần thần tuân lệnh vua chặt tay chân cô gái, ném cô xuống hầm. Năm 
trăm cô gái đều mắng nhiếc vua:
      
- Ai mà đem thân này cùng con của
đầy tớ gái thông giao?
      
Vua giận dữ đem hết năm trăm cô chặt tay 
chân và xô xuống hầm sâu.
Lúc ấy vua Lưu Ly đã tàn hại hết 
Ca-tỳ-la-vệ rồi, liền trở về thành Xá-vệ. Bấy giờ Thái tử Kỳ-đà 
ở trong thâm cung cùng các kỹ nữ vui chơi. Vua Lưu Ly nghe tiếng
đàn hát liền hỏi:
- Ðây là âm thanh gì mà vang đến đây?
      
Quần thần đáp vua rằng:
      
- Ðây là Vương tử Kỳ-đà ở trong 
thâm cung, xướng kỹ nhạc để vui chơi.
      
Vua Lưu Ly liền sai người hầu:
- Ông quay voi này lại chỗ Vương tử Kỳ-đà.
Người giữ cửa từ xa trông thấy vua đến 
liền tâu rằng:
      
- Vua hãy thong thả, Vương tử Kỳ-đà
đang ở trong cung, vui ngũ dục, xin chớ quấy 
nhiễu.
      
Vua Lưu Ly liền rút kiếm giết người giữ cửa. Vương tử Kỳ-đà 
nghe vua Lưu Ly đứng ở ngoài cửa, 
chẳng từ giã kỹ nữ, đi ra ngoài cùng 
vua tương kiến.
- Kính chào Ðại vương! Nên vào nghỉ một chút!
Vua Lưu Ly bảo:
- Há Ông không biết ta cùng họ Thích đánh 
nhau sao?
      
Kỳ-đà 
đáp:
      
- Có nghe.
Vua Lưu Ly nói:
- Sao nay Ông cùng kỹ nữ đùa giỡn 
không chịu giúp ta?
Vương tử Kỳ-đà
đáp:
      
- Ta chẳng kham giết hại mạng chúng sanh.
Vua Lưu Ly hết sức giận dữ, rút gươm chém chết Vương tử Kỳ-đà. 
Vương tử Kỳ-đà chết rồi sanh lên cõi 
trời Ba mươi ba vui chơi cùng năm trăm thiên 
nữ.
Bấy giờ Thế Tôn dùng thiên nhãn xem Vương tử Kỳ-đà
đã chết sanh cõi trời Ba mươi ba, liền 
nói kệ:
Hưởng phúc trong Trời, Người,
Ðức Vương tử Kỳ-đà,
Làm lành sau hưởng báo,
Ðều do báo hiện tại.
Ðây lo kia cũng lo,
Lưu Ly hai chỗ lo,
Làm ác sau hưởng ác,
Ðều do báo hiện tại.
Nên nương công phước đức,
Trước làm sau cũng vậy,
Hoặc riêng một mình làm,
Hoặc lại người chẳng biết,
Làm ác có biết ác,
Trước làm sau cũng vậy,
Hoặc riêng một mình làm,
Hoặc lại người chẳng biết,
Hưởng phước trong Trời, Người,
Hai nơi đều hưởng phước,
Làm lành sau thọ báo,
Ðều do báo hiện tại.
Ðây lo kia cũng lo,
Làm ác hai chỗ lo,
Làm ác sau thọ báo,
Ðều do báo hiện tại.
Bấy giờ năm trăm cô gái họ Thích, tự quay 
về kêu xưng tên hiệu Như Lai:
- Như Lai ra đời cũng từ đây, xuất gia học 
đạo mà sau thành Phật, thế mà ngày nay Phật trọn chẳng thấy nhớ 
nghĩ chúng con gặp khổ não này, chịu đau đớn 
độc hại này. Thế Tôn cớ sao không thấy nhớ?
Bấy giờ Thế Tôn dùng thiên nhãn thông suốt nghe các cô họ Thích kêu oán 
với Phật. Thế Tôn liền bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy lại hết đây, cùng xem 
Ca-tỳ-la-vệ và cùng xem những người thân mạng chung.
Các Tỳ-kheo đáp:
      
- Xin vâng! Thế Tôn.
Bấy giờ Thế Tôn dẫn các Tỳ-kheo ra khỏi thành Xá-vệ
đến Ca-tỳ-la-vệ. Năm trăm cô gái họ Thích từ 
xa thấy Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo đến, 
thấy rồi đều hổ thẹn.
      
Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân và 
Tỳ-sa-môn Thiên vương đứng quạt sau Thế Tôn. 
Thế Tôn quay lại bảo Thích-đề-hoàn nhân:
- Những cô gái họ Thích này đều hổ thẹn.
      
Thích-đề-hoàn nhân
đáp:
      
- Ðúng vậy, Thế Tôn!
Thích-đề-hoàn nhân liền lấy y Trời 
trùm lên thân thể năm trăm cô gái này. 
Bấy giờ Thế Tôn bảo Tỳ-sa-môn Thiên vương:
- Các cô gái này đói khát lâu ngày, 
nên làm cách gì ban bố!
Tỳ-sa-môn Thiên vương bạch Phật:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Rồi Tỳ-sa-môn Thiên vương liền bày biện các thức
ăn tự nhiên của Trời cho các cô gái họ 
Thích đều được no đủ. Bấy giờ Thế Tôn dần dần 
thuyết pháp vi diệu cho các cô. Nghĩa là:
- Các pháp rồi sẽ ly tán, hội ngộ rồi sẽ biệt ly. Các Cô nên biết, năm 
thạnh ấm này đều sẽ chịu các đau khổ, 
phiền não này, đọa trong năm đường. Phàm 
thọ thân năm thạnh ấm này, ắt sẽ chịu 
hành báo này; đã có hành báo liền có 
thọ thai, đã có thọ thai lại sẽ chịu 
quả báo khổ vui. Nếu không có năm thạnh ấm thì 
liền chẳng thọ thân nữa. Nếu không thọ thân thì không có sanh. Vì không 
sanh thì không già, vì không già thì không có bệnh,
đã không có bệnh thì không có chết,
đã không có chết thì không có khổ não 
vì hội họp biệt ly. Thế nên các Cô nên nhớ sự biến
đổi thành bại của năm 
ấm này. Sở dĩ như thế, vì biết năm ấm 
thì biết năm dục, đã biết năm 
dục thì biết pháp ái, đã biết 
pháp ái thì biết pháp nhiễm trước. Biết các việc này rồi thì không tái 
sanh nữa, đã không tái sanh thì không 
sanh, lão, bệnh, tử.
Bấy giờ Thế Tôn dần dần thuyết pháp này cho các cô gái họ Thích. Luận 
là thí luận, giới luận, luận sanh thiên; dục là tưởng bất tịnh, xuất yếu 
là vui. Bấy giờ Thế Tôn quán xét các cô gái này tâm ý
đã khai mở, những pháp như Thế Tôn 
thường thuyết: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Thế Tôn 
đều thuyết hết cho họ.
      
Bấy giờ các cô gái, những trần cấu đã 
sạch, được pháp nhãn thanh tịnh, mỗi 
người ở chỗ mình mà mạng chung, đều sanh lên 
trời. Khi ấy Thế Tôn đến cửa Ðông, 
thấy khói lửa dậy trời liền nói kệ:
Tất cả hành vô thường,
Có sanh ắt có tử,
Chẳng sanh thì chẳng tử,
Diệt này là vui nhất.
      
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Tất cả các Thầy hãy đến vườn Ni-câu-lưu 
mà ngồi.
Khi ấy, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ðây là vườn Ni-câu-lưu. Ngày xưa Ta ở 
đây rộng thuyết giáo pháp cho các Tỳ-kheo mà ngày nay trống rỗng 
chẳng có nhân dân! Ngày xưa mấy ngàn vạn chúng ở
đây đắc đạo, được pháp nhãn thanh 
tịnh. Từ đây về sau, Như Lai chẳng còn
đến đây nữa!
      
Thế Tôn thuyết pháp cho các Tỳ-kheo rồi, mỗi người từ chỗ ngồi
đứng dậy mà
đi đến Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô 
Ðộc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay vua Lưu Ly và quân lính này chẳng còn ở
đời bao lâu nữa. Sau bảy ngày sẽ bị 
tiêu diệt.
Bấy giờ vua Lưu Ly nghe Thế Tôn thọ ký rằng vua Lưu Ly và quân lính sau 
bảy ngày sẽ bị tiêu diệt thì hoảng sợ bảo quần thần rằng:
- Nay Như Lai đã huyền ký rằng vua 
Lưu Ly chẳng còn ở đời lâu, sau bảy ngày 
sẽ cùng quân lính chết hết. Các Ông xem bên ngoài không có trộm giặc, 
nước, lửa, tai biến đến xâm phạm đất nước 
chăng? Vì cớ sao? Chư Phật Như Lai không có hai lời, lời nói trọn 
không đổi khác.
      
Bấy giờ Phạm chí Hiếu Khổ tâu vua:
- Vua chớ sợ hãi. Nay bên ngoài không có giặc cướp
đáng sợ, cũng không nước, lửa tai biến. Hôm 
nay Ðại vương hãy mau vui chơi.
Vua Lưu Ly nói:
- Phạm Chí nên biết, chư Phật Thế Tôn nói không có khác.
Vua Lưu Ly sai người đếm ngày,
đến đầu ngày thứ bảy, Ðại vương mừng 
rỡ không thể tự kềm, đem các quân binh cùng 
các thể nữ đến bên bờ sông A-chi-la 
vui chơi rồi nghỉ ở đó. Nửa đêm, có 
mây bất ngờ kéo đến, gió to mưa lớn rất mau. 
Vua Lưu Ly và quân lính bị nước cuốn hết, tất cả
đều tự tiêu diệt, thân hoại mạng chung 
sanh vào trong địa ngục A-tỳ. Lại có lửa Trời 
đốt cung điện trong thành. Bấy giờ Thế Tôn dùng thiên nhãn xem thấy 
vua Lưu Ly và bốn bộ chúng bị nước cuốn, đều 
mệnh chung vào trong địa ngục.
      
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Tạo ác thật quá sức,
Ðều do thân miệng làm,
Thân này chịu khổ não,
Thọ mạng cũng ngắn ngủi.
Nếu lúc ở tại nhà,
Thì bị lửa thiêu đốt,
Nếu lúc mạng đã hết,
Ắt sanh trong địa ngục.
      
Bấy giờ nhiều Tỳ-kheo trong chúng bạch Thế Tôn:
- Nay vua Lưu Ly và bốn bộ binh đã 
chết rồi sanh về đâu?
      
Thế Tôn bảo:
- Nay vua Lưu Ly vào trong địa ngục A tỳ.
      
Các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Những họ Thích này ngày xưa tạo nhân duyên gì mà nay bị vua Lưu Ly 
hại?
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ngày xưa trong thành La-duyệt này, có một làng
đánh cá. Khi ấy đời hết sức đói nghèo, 
người phải ăn rễ cây, một đấu vàng
đổi một đấu gạo. Trong làng
đó có một ao tắm lớn lại rất nhiều cá. Nhân 
dân trong thành La-duyệt đều đến ao 
bắt cá ăn. Ngay lúc đó, dưới nước có hai thứ cá: một tên Câu tỏa; 
hai tên Lưỡng thiệt (hai lưỡi). Khi đó, hai 
cá bảo nhau: "Chúng ta đối với những người này, trước tiên không có 
lỗi lầm. Ta là vật thuộc thủy tánh, không ở 
đất bằng. Nhân dân này đều đến ăn nuốt 
chúng ta. Ðời trước nếu có chút ít phước
đức gì sẽ dùng báo oán".
Bấy giờ trong làng có một đứa bé vừa tám 
tuổi, không đánh cá cũng không hại mạng chúng. Nhưng lúc những con cá kia 
chết ở trên bờ, đứa bé ấy thấy xong 
hết sức hoan hỷ.
      
Tỳ-kheo nên biết! Các Thầy chớ xem rằng nhân dân trong thành La-duyệt 
bấy giờ là người nào khác, nay họ chính là những người họ Thích vậy. Con 
cá Câu tỏa bấy giờ, nay là vua Lưu Ly. Con cá Lưỡng thiệt bấy giờ, nay là 
Phạm chí Hiếu Khổ. Ðứa bé thấy cá trên bờ mà cười lúc
đó, nay chính là Ta. Dòng họ Thích lúc 
ấy ngồi ăn cá. Do nhân duyên này trong 
vô số kiếp vào trong địa ngục, nay chịu sự 
trả thù này. Ta lúc ấy ngồi thấy mà cười, nay bị
đau đầu như đá đè, ví như lấy
đầu đội núi Tu-di. Vì sao như thế? Vì 
Như Lai không thọ thân nữa, đã xả bỏ 
các hành, qua hết các nguy nan. Ðó là, này các Tỳ-kheo! Do nhân duyên này, 
nay chịu quả báo này. Các Tỳ-kheo nên giữ gìn hành
động của thân, miệng, ý; nên nhớ cung 
kính thừa sự người Phạm hạnh. Như thế, các Tỳ-kheo! Nên học
điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
3. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nên biết Thiên tử khi sắp mạng chung có năm 
điềm chưa từng có ứng hiện ở trước. Thế nào là năm? 
Hoa héo, y phục cáu bẩn, thân thể hôi hám, chẳng ưa địa vị của mình, 
Thiên nữ tinh tán.
Ðó là Thiên tử lúc sắp mạng chung có năm 
điềm ứng này. Bấy giờ Thiên tử hết sức sầu lo,
đấm ngực kêu gào. Khi ấy các Thiên tử
đến chỗ Thiên tử này, bảo Thiên tử 
này:
- Nay Ông tương lai có thể sanh chỗ lành, 
đã sanh chỗ lành, chóng được lợi lành,
đã được 
lợi lành nên nhớ an xử thiện nghiệp.
Khi đó, các vị Trời dạy dỗ Thiên tử 
ấy như thế.
Một Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Trời Ba mươi ba, thế nào là được sanh cõi 
lành? Thế nào là chóng được lợi lành? 
Thế nào là an xử nghiệp lành?
Thế Tôn bảo:
- Nhân gian đối với Trời là cõi 
lành, được cõi lành. Ðược lợi lành là 
sanh nhà chánh kiến, tùng sự bậc thiện tri thức, ở trong pháp Như Lai
được tín căn. Ðó gọi là chóng
được lợi lành. Thế nào gọi là an xử 
nghiệp lành? Là ở trong pháp Như Lai được tín 
căn, cạo bỏ râu tóc, do lòng tin kiên cố, xuất gia học
đạo. Kia đã học
đạo, giới tánh đầy đủ, các căn đầy đủ, ăn 
uống biết đủ, hằng nhớ kinh hành đắc 
Tam minh. Ðó gọi là an xử nghiệp lành.
Thế Tôn liền nói kệ này:
Người là cõi lành Trời,
Bạn tốt là lợi lành,
Xuất gia là nghiệp lành,
Hữu lậu hết, vô lậu.
Tỳ-kheo nên biết, Trời Ba mươi ba dính mắc vào ngũ dục. Họ cho nhân 
gian là cõi lành, ở pháp Như Lai được xuất 
gia, làm lợi lành mà được tam đạt. Vì 
sao thế? Phật Thế Tôn đều xuất hiện ở nhân 
gian chẳng phải do Trời mà được. Thế nên 
Tỳ-kheo! Ở đây mạng chung sẽ sanh lên 
Trời.
Bấy giờ Tỳ-kheo kia bạch Thế Tôn rằng:
- Thế nào là Tỳ-kheo sẽ sanh cõi lành?
Thế Tôn bảo:
- Niết-bàn là cõi lành của Tỳ-kheo. Nay Tỳ-kheo các Thầy nên cầu phương 
tiện được đến Niết-bàn. Như thế, 
Tỳ-kheo nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
4. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Sa-môn xuất gia có năm pháp hủy nhục. 
Thế nào là năm? Ðầu tóc dài, 
móng tay dài, y phục bẩn thỉu, chẳng biết thời nghi, nói năng 
nhiều.
      
Vì sao thế? Tỳ-kheo có nhiều luận thuyết lại có năm 
việc. Thế nào là năm? Người chẳng tin 
lời, chẳng nhận lời dạy, người chẳng ưa gặp, nói láo, cãi lộn kia
đây.
      
Ðó là người nói năng nhiều có năm việc này. 
Tỳ-kheo nên từ bỏ năm điều này. Chớ có 
tưởng tà. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều 
này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
5. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn cùng ở với năm trăm vị 
Tỳ-kheo. Khi đó vua Tần-bà-sa-la ra lệnh cho quần thần:
- Mau sửa soạn kiệu xe để ta đến thành 
Xá-vệ thăm viếng đức Thế Tôn.
      
Quần thần vâng lời vua, sửa soạn kiệu xe, 
đến trước vua tâu rằng:
      
- Sửa soạn đã xong, xin vua biết 
phải thời.
Bấy giờ vua Tần-bà-sa-la lên kiệu xe ra khỏi thành La-duyệt
đến thành Xá-vệ, dần
đến Tinh xá Kỳ Hoàn, muốn vào tinh xá. 
Phàm pháp quán đảnh của vua có năm uy dung, 
vua đều bỏ xuống một bên, đi đến trước 
Thế Tôn đảnh lễ rồi lui về một bên. Khi ấy, Thế Tôn dần dần thuyết 
pháp vi diệu cho vua. Vua nghe pháp xong, bạch
đức Thế Tôn:
      
- Cúi mong Như Lai hãy nhập hạ tại thành La-duyệt, con sẽ cung cấp y 
phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men.
      
Bấy giờ Thế Tôn im lặng, nhận lời thỉnh của vua Tần-bà-sa-la. Vua thấy 
Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh rồi, liền đứng 
lên lạy, đi nhiễu ba vòng rồi 
lui đi; trở về thành La-duyệt, vào 
cung. Khi ấy, vua Tần-bà-sa-la ở chỗ vắng vẻ chợt nghĩ: "Ta cũng
đủ sức cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng 
cho đến trọn đời về y phục, thức ăn uống, giường nằm và thuốc men, 
nhưng cũng nên lân mẫn người hạ liệt". Lúc ấy vua Tần-bà-sa-la tìm quần 
thần bảo:
- Hôm qua ta sanh niệm này: "Ta có thể suốt
đời cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng 
y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men. Cũng lại nên thương 
xót người thấp kém". Các Ông nên đốc suất 
nhau lần lượt dâng thức ăn cho Như Lai và chư Hiền, sẽ
được hưởng phước lâu dài vô cùng.
Khi ấy, vua nước Ma-kiệt liền ở ngay trước cửa cung lập một giảng
đường lớn, lại bày biện vật dụng
đựng thức ăn.
      
Bấy giờ, Thế Tôn ra khỏi nước Xá-vệ dẫn năm 
trăm chúng Tỳ-kheo du hóa trong nhân gian lần lần đến vườn trúc Ca-lan-đà 
thành La-duyệt. Vua Tần-bà-sa-la nghe Thế Tôn 
đến vườn trúc Ca-lan-đà liền lên kiệu xe
đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. 
Vua Tần-bà-sa-la bạch Thế Tôn:
- Con ở chỗ nhàn vắng liền sanh niệm này: "Như ta hôm nay có thể cúng 
dường y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc 
men". Rồi nhớ đến người thấp kém, con liền bảo quần thần: "Các Ngươi mỗi 
người nên sắm sửa thức ăn uống, lần 
lượt cúng dường thức ăn lên Phật". Bạch Thế Tôn, thế nào? Như thế 
nên hay không nên?
Thế Tôn bảo:
- Lành thay! Lành thay! Ðại vương có nhiều lợi ích. Vì Trời, Người mà 
làm ruộng phước.
Vua Tần-bà-sa-la bạch Thế Tôn rằng:
- Cúi mong Thế Tôn ngày mai vào cung thọ thực.
Lúc ấy, vua Tần-bà-sa-la đã thấy 
Thế Tôn im lặng nhận lời mời. Vua liền đứng 
dậy cúi lạy lui đi. 
      
Bấy giờ, Thế Tôn sáng sớm ngày mai đắp y 
ôm bát vào thành, đến cung vua, mỗi 
người theo thứ tự mà ngồi. Khi ấy vua cung cấp món
ăn trăm vị, tự tay châm chước, hoan hỉ chẳng 
loạn. Khi ấy vua Tần-bà-sa-la thấy Thế Tôn
ăn xong, cất dẹp bình bát, lấy một ghế 
thấp đến trước Như Lai ngồi.
      
Bấy giờ Thế Tôn dần dần thuyết pháp vi diệu cho vua, khiến phát tâm 
hoan hỉ. Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho vua và các
đại thần. Luận, nghĩa là thí luận, 
giới luận, luận sanh thiên; dục là tưởng bất thịnh; dâm là uế ác; xuất yếu 
là vui.
Lúc ấy, Thế Tôn biết chúng sanh kia tâm ý 
đã khai mở, không còn hồ nghi pháp mà chư Phật Thế Tôn thường 
thuyết là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Thế Tôn đều 
thuyết hết cho họ. Ngay tại chỗ ngồi, hơn sáu mươi người, các trần cấu 
sạch, được pháp nhãn thanh tịnh. Sáu mươi
đại thần và năm 
trăm thiên nhân, các trần cấu sạch, 
được pháp nhãn thanh tịnh.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ tụng cho vua Tần-bà-sa-la và nhân dân:
Tế tự, lửa hơn hết,
Các sách, tụng hơn hết,
Vua đáng trọng trong người,
Các dòng, biển là nguồn,
Giữa sao, trăng chiếu sáng,
Ánh sáng, mặt trời hơn,
Trên dưới và bốn phương,
Các nơi có vạn vật,
Trời cùng với người đời,
Phật là cao trọng nhất,
Người muốn cầu phước đức,
Nên cúng dường chư Phật.
Thế Tôn nói kệ này rồi, liền từ chỗ ngồi 
đứng lên mà đi. Khi đó nhân dân trong 
thành La-duyệt, tùy sự quý tiện và theo nhà nhiều ít, cúng dường 
thức ăn đến Phật và Tỳ-kheo Tăng.
      
Bấy giờ, Phật ở vườn Trúc Ca-la-đà, 
nhân dân trong nước không ai không cúng dường. Các Phạm chí trong thành 
La-duyệt đến lượt cúng thức ăn. Lúc đó, các 
Phạm chí ấy tụ họp một chỗ, bàn luận với nhau:
- Chúng ta mỗi người bỏ ra ba lượng tiền vàng
để cúng thức
ăn.
      
Bấy giờ, trong thành La-duyệt có một Phạm Chí tên là Kê Ðầu, hết sức 
nghèo khó, chỉ tự đủ sống, không có tiền vàng
để nộp, liền bị các Phạm chí trục xuất ra 
khỏi chúng. Khi ấy, Phạm chí Kê Ðầu trở về nhà bảo vợ:
- Nay Bà nên biết, các Phạm chí đã 
xua đuổi ta, không cho ở trong chúng. Vì 
sao? Do ta không có tiền vàng.
Người vợ bảo:
- Hãy trở vào thành, theo người mượn nợ, ắt sẽ
được. Lại bảo chủ nợ: "Bảy ngày sau sẽ 
trả nợ, nếu không trả được, tôi và vợ 
sẽ làm tôi tớ".
Phạm Chí theo lời vợ liền vào trong thành, 
đi khắp nơi hỏi mượn trọn chẳng thể 
được, trở về bảo vợ:
      
- Ở chỗ ta cầu hỏi chẳng được, làm 
sao bây giờ?
Người vợ bảo:
- Phía Ðông thành La-duyệt có đại Trưởng 
giả tên Bất-xà-mật-đa-la nhiều tiền 
của, có thể đến ông ta mà mượn nợ, bảo rằng: "Hãy bằng lòng cho ba 
lạng tiền vàng, sau bảy ngày sẽ đem trả lại. 
Nếu không trả được, tôi và vợ tôi sẽ làm tôi tớ".
Phạm chí nghe theo lời vợ đến Bất-xà-mật-đa-la 
để mượn tiền vàng, bảo rằng: "Chẳng quá bảy ngày sẽ
đem hoàn lại; nếu không hoàn lại, tôi 
và vợ sẽ đem thân làm tôi tớ".
Bất-xà-mật-đa-la liền cho tiền vàng. 
Phạm chí Kê Ðầu liền đem tiền vàng này 
về nói với vợ:
- Ðã được tiền vàng, phải nên làm 
gì?
Người vợ bảo:
- Nên đem tiền này nộp trong chúng.
Phạm Chí cầm tiền vàng đến chúng nộp. Các 
Phạm chí bảo Phạm chí này rằng:
- Chúng ta đã biện
đủ rồi. Hãy
đem tiền vàng này trở về
đi, chẳng cần đứng trong chúng này.
Phạm chí liền trở về nhà, đem chuyện này 
nói với vợ. Người vợ bảo:
- Hai chúng ta cùng đến chỗ Thế Tôn tự trình 
bày ý mọn.
Bấy giờ Phạm chí đem vợ đến chỗ Thế Tôn cùng 
thăm hỏi nhau rồi ngồi một bên. Người 
vợ cũng lễ chân Phật và ngồi một bên. Khi ấy Phạm chí
đem chuyện này bạch
đủ với Thế Tôn. Thế Tôn bảo Phạm chí:
      
- Như nay Ông nên vì Như Lai và Tỳ-kheo Tăng
bày biện thức ăn uống.
      
Phạm chí quay lại nhìn sững vợ. Người vợ 
đáp:
      
- Chỉ theo lời Phật dạy, chớ có nghi nan.
Phạm chí liền từ chỗ ngồi đứng lên
đến trước bạch Phật:
      
- Cúi mong Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo hãy nhận lời mời của con.
Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh của Phạm chí.
Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân vòng tay
đứng hầu sau Thế Tôn. Thế Tôn quay lại bảo 
Thích-đề-hoàn-nhân.
- Ông hãy giúp Phạm chí này cùng biện thức 
ăn.
      
Thích-đề-hoàn-nhân bạch Phật:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Bấy giờ Tỳ-sa-môn Thiên vương cách Phật chẳng xa, dẫn các chúng quỷ 
thần đông không tính kể, từ xa quạt Thế Tôn. 
Thích-đề-hoàn-nhân bảo Tỳ-sa-môn Thiên vương rằng:
- Ông cũng nên giúp Phạm chí này bày biện các thức
ăn.
      
Tỳ-sa-môn đáp:
      
- Rất tốt Thiên vương!
Rồi Tỳ-sa-môn Thiên vương đến trước Phật 
cúi lạy, nhiễu Phật ba vòng, tự ẩn hình và biến thành hình người, 
lãnh năm trăm quỷ thần cùng biện thức
ăn. Tỳ-sa-môn Thiên vương cùng dạy các 
quỷ thần:
- Các Ông mau đến rừng Chiên-đàn, 
lấy Chiên-đàn bỏ vào bếp sắt.
Có năm trăm quỷ thần ở trong đó làm 
thức ăn. Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân 
bảo Thiên tử Tự Tại:
- Hôm nay Tỳ-sa-môn đã làm bếp sắt 
cho Phật và Tỳ-kheo Tăng dùng cơm. Nay 
Ông hãy hóa làm giảng đường để Phật và 
Tỳ-kheo Tăng dùng cơm trong
đó.
      
Thiên tử Tự Tại đáp:
      
- Việc này rất đẹp.
      
Khi ấy Thiên tử Tự Tại nghe lời Thích-đề-hoàn-nhân, 
hóa ra một giảng đường bảy báu, cách thành 
La-duyệt không xa. Bảy báu là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, mã não, xích 
châu, xà cừ. Lại hóa làm bốn bậc cấp vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly. Trên 
bậc thềm vàng hóa làm cây bạc, trên bậc thềm bạc hóa làm cây vàng, rễ 
vàng, cọng vàng, cành vàng, lá vàng. Nếu ở trên bậc vàng, hóa làm lá bạc, 
cành bạc. Trên bậc thủy tinh hóa làm cây lưu ly; cũng
đủ thứ loại không thể tính kể. Lại lấy đủ thứ 
báu chất trong đó. Lại lấy bảy báu trùm lên trên, chung quanh bốn 
mặt treo các linh vàng tốt. Các linh đó đều 
phát ra tám thứ âm thanh. Lại hóa làm sàng tòa tốt trải các nệm 
tốt, treo cờ kết tủa, lọng dù, hiếm có ở đời. 
Bấy giờ dùng Ngưu-đầu-chiên-đàn
đốt lửa nấu thức ăn. Quanh thành 
La-duyệt mười hai do-tuần mùi hương xông lên 
đầy khắp. Vua nước Ma-kiệt bảo các quần thần:
      
- Ta từ lúc sanh trưởng trong thâm cung chưa hề nghe mùi hương này. Bên 
thành La-duyệt do đâu nghe mùi hương 
thơm này?
Quần thần tâu vua:
- Ðây là trong nhà bếp của Phạm chí Kê Ðầu. Mà hương Chiên-Ðàn của Trời 
là điềm lành ứng hiện.
Vua Tần-bà-sa-la dạy các quần thần:
- Mau sửa soạn xe kiệu, ta muốn đến chỗ 
Thế Tôn hỏi thăm duyên này.
Các quần thần đáp vua:
      
- Xin vâng, Ðại vương!
(Vua Tần-bà-sa-la liền đến chỗ Thế Tôn, 
cúi lạy đứng một bên). Bấy giờ Quốc vương thấy trong nhà bếp sắt 
này có năm trăm người làm thức
ăn, thấy rồi liền bảo:
      
- Ðây là ai làm thức ăn uống?
      
Các quỷ thần dùng hình người đáp:
      
- Phạm chí Kê Ðầu thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng 
cúng dường.
      
Quốc Vương lại thấy ở xa có giảng đường 
cao rộng, liền hỏi người hầu:
      
- Ðây là ai tạo giảng đường mà xưa 
chưa có, ai tạo ra?
Quần thần đáp:
      
- Chẳng biết duyên này.
Khi ấy vua Tần-bà-sa-la nghĩ rằng: "Nay ta 
đến chỗ Thế Tôn hỏi nghĩa này, vì Phật Thế Tôn không nghĩa gì chẳng 
biết, không việc gì chẳng thấy".
Bấy giờ vua Tần-bà-sa-la nước Ma-kiệt đến 
chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên. Vua Tần-bà-sa-la bạch Phật:
- Ngày xưa chẳng thấy giảng đường cao rộng 
này, mà hôm nay lại thấy. Ngày xưa chẳng thấy nhà bếp sắt này, hôm 
nay lại thấy. Dùng vật gì và do ai biến ra?
Thế Tôn bảo:
- Ðại Vương nên biết! Ðây là Tỳ-sa-môn Thiên vương tạo nhà bếp, Thiên 
tử Tự Tại tạo giảng đường này.
Vua nước Ma-kiệt ở trên chỗ ngồi, buồn khóc lẫn lộn, chẳng thể nín
được. Thế Tôn bảo:
      
- Ðại vương! Cớ sao buồn khóc đến thế?
      
Vua Tần-bà-sa-la bạch Phật:
- Chẳng dám buồn khóc, chỉ nghĩ đến nhân 
dân đời sau chẳng gặp được bậc Thánh ra đời. Người đời sau bỏn xẻn, đắm 
trước tài vật chẳng có oai đức, còn 
chẳng nghe được tên của báu vật kỳ lạ 
này, huống nữa là thấy sao? Nay nhờ ơn Như Lai mà có sự biến hóa lạ lùng 
này xuất hiện ở đời. Thế nên con buồn 
khóc.
Thế Tôn bảo:
- Ðời tương lai, Quốc vương và nhân dân thực chẳng thấy sự biến hóa 
này.
Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp cho Quốc vương, khiến phát tâm hoan hỉ. Vua 
nghe pháp rồi liền từ chỗ ngồi đứng lên
đi. Tỳ-sa-môn Thiên vương ngay ngày ấy 
bảo Phạm chí Kê Ðầu:
- Ông đưa tay phải ra.
      
Kê Ðầu liền xòe tay phải. Tỳ-sa-môn Thiên vương trao cho thoi vàng rồi 
bảo:
- Ông đem thoi vàng này ném xuống
đất!
      
Phạm chí liền ném xuống đất bèn 
thành trăm ngàn lượng vàng. Thiên 
vương Tỳ-sa-môn bảo:
- Ông đem thoi vàng này vào trong 
thành mua các thứ thức ăn uống đem đến đây.
      
Phạm chí vâng lời Thiên vương liền đem vàng 
này vào thành mua các thức ăn uống đem đến nhà 
bếp. Khi ấy Tỳ-sa-môn Thiên vương tắm rửa cho Phạm chí, cho mặc các thứ y 
phục, tay cầm lư hương dạy bạch Phật.
- Giờ đã
đến, nay đã
đúng giờ. Mong Thế Tôn chiếu cố.
      
Khi ấy Phạm chí vâng lời tay bưng lư hương mà bạch:
- Ðã đến giờ, cúi mong chiếu cố.
      
Thế Tôn biết đã
đến giờ, đắp y, ôm bát dẫn các chúng Tỳ-kheo 
đi đến giảng đường, tuần tự ngồi. Và chúng Tỳ-kheo-ni cũng tuần tự 
ngồi. Phạm chí Kê Ðầu thấy thức ăn rất nhiều 
mà chúng Tăng lại ít,
đi đến 
trước bạch Thế Tôn:
      
- Hôm nay thức ăn uống rất là phong 
phú mà Tỳ-kheo Tăng ít, chẳng rõ phải 
thế nào?
Thế Tôn bảo:
- Phạm chí! Nay Ông tay cầm lò hương lên trên
đài cao hướng về Ðông, Tây, Nam, Bắc 
rồi nói rằng: 'Các đệ tử của Phật 
Thích-ca-văn được sáu thần thông, lậu tận A-la-hán, tập họp hết ở giảng 
đường này'.
Phạm chí bạch:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Phạm chí theo lời Phật dạy liền lên trên lầu, thỉnh các bậc A-la-hán 
lậu tận. Khi ấy, phương Ðông có hai vạn một ngàn A-la-hán, từ phương Ðông
đến giảng đường này; phương Nam hai 
vạn một ngàn; phương Tây hai vạn một ngàn; phương Bắc hai vạn một ngàn 
A-la-hán tụ tập tại giảng đường này. 
Bấy giờ, trên giảng đường có tám vạn bốn ngàn 
A-la-hán tụ tập một chỗ. Vua Tần-bà-sa-la đem 
quần thần đến cho Thế Tôn cúi lạy và lễ các Tỳ-kheo Tăng. 
Khi ấy, Phạm chí Kê Ðầu thấy Tỳ-kheo Tăng 
rồi, vui mừng hớn hở không thể kềm nổi, lấy đồ vật đựng thức ăn cúng dường 
cơm Phật và Tỳ-kheo Tăng, tự tay châm 
chước không nề mỏi mệt, nhưng vẫn còn thừa thức
ăn. Phạm chí Kê Ðầu
đến trước bạch đức Thế Tôn:
      
- Nay cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng mà 
vẫn còn dư thức ăn.
      
Thế Tôn bảo:
- Nay Ông nên thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng 
cúng dường bảy ngày.
Phạm chí đáp:
      
- Xin vâng, Cù-đàm!
Khi ấy Phạm chi Kê Ðầu đến trước quỳ thẳng 
bạch Thế Tôn:
      
- Nay con xin thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng 
để cúng dường bảy ngày; con sẽ cung cấp y phục, thức
ăn uống, giường nằm, thuốc men.
      
Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh. Khi ấy, trong
đại chúng có Tỳ-kheo-ni tên 
Xá-cưu-lợi. Tỳ-kheo-ni bạch Phật:
- Nay con trong lòng sanh niệm, có đệ tử 
của Phật Thích-ca-văn, lậu tận A-la-hán nào không tụ tập ở
đây chăng? Và dùng thiên nhãn xem 
phương Ðông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc thay
đều xem xét hết, không ai mà không
đến, thảy đều vân tập cả. Nay đại hội này 
thuần là La-hán chân nhân vân tập.
Thế Tôn bảo:
- Ðúng thế! Xá-cưu-lợi. Ðúng như lời Ngươi. Ðại hội này toàn là chân 
nhân Ðông, Tây, Nam Bắc đều tụ tập.
      
Bấy giờ Thế Tôn đem nhân duyên này 
bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy có thấy trong hàng Tỳ-kheo-ni, người có thiên nhãn
đệ nhất là Tỳ-kheo-ni Xá-cưu-lợi chăng?
      
Phạm chí Kê Ðầu trong bảy ngày cúng dường, thánh chúng y phục, thức
ăn uống, giường nằm và thuốc men; lại 
dùng hoa hương rải trên Như Lai. Khi ấy, hoa này ở trên không hóa thành
đài giao lộ bảy báu. Phạm chí thấy
đài giao lộ xong, vui mừng nhảy nhót 
không thể tự kềm, đến trước bạch Phật:
      
- Cúi mong Thế Tôn cho phép con nhập đạo làm 
Sa-môn.
Bấy giờ Phạm chí Kê Ðầu liền được hành
đạo, các căn tịch tĩnh, tự tu chí mình, 
trừ bỏ thùy miên; nếu mắt thấy sắc cũng không khởi tưởng niệm; nhãn căn 
cũng không có ác tưởng rong ruỗi các niệm, mà biết phòng hộ nhãn căn; 
nếu tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi biết vị, thân biết xúc chạm, 
chẳng khởi tưởng xúc chạm; ý biết pháp cũng thế. Lúc ấy Phạm chí liền diệt
được năm kiết sử che đậy tâm người, khiến 
người không trí tuệ, cũng không có ý sát hại, mà tịnh tâm mình, 
không giết, không nghĩ giết, không bảo người giết, tay không cầm dao gậy, 
khởi lòng nhân từ với tất cả chúng sanh; trừ bỏ tâm không cho mà lấy, 
chẳng khởi tâm trộm mà tịnh tâm mình, thường có tâm bố thí,
đối với tất cả chúng sanh cũng khiến không 
trộm cắp; mình không dâm dật, cũng lại dạy người khiến không dâm 
dật, hàng tu Phạm hạnh, thanh tịnh không tỳ vết, ở trong phạm hạnh mà tịnh 
tâm mình; cũng không nói hư vọng, cũng không dạy người khiến vọng ngữ; 
hằng nghĩ chí thành, không có dối trá cuống hoặc người
đời, nơi ấy tịnh tâm mình; lại không 
hai lưỡi, cũng không dạy người khiến hai lưỡi; nếu nghe lời ở
đây, không truyền chỗ khác; nếu nghe lời chỗ 
khác, không truyền đến đây, ở đây tịnh ý mình.
Ðối với sự ăn uống, vị ấy biết đủ, không 
đắm mùi vị chẳng để ý vẻ tươi tốt, 
không cần mập trắng, chỉ muốn giữ thân thể được toàn mạng; muốn trừ 
cảm thọ cũ, khiến cái mới chẳng sanh; đắc đạo 
tu hành, ở mãi đất vô vi. Ví như nam 
nữ dùng cao sáp bôi lên vết thương (mụn nhọt), chỉ muốn trừ cho 
lành. Ðây cũng như thế. Sở dĩ đối với thức 
ăn, vị ấy biết đủ là muốn khiến cho sự cảm thọ cũ
được trừ lành, cái mới chẳng sanh; 
hoặc lại khi ấy thấu hiểu, hành đạo không mất 
thời tiết, chẳng mất hành Ba mươi bảy 
đạo phẩm; hoặc ngồi hoặc đi trừ khử thùy miên cái; hoặc lúc
đầu hôm, hoặc ngồi hoặc đi, trừ khử thùy 
miên cái, hoặc giữa đêm nằm hông phải 
sát đất, hai chân chồng lên nhau, cột 
ý ở chỗ sáng suốt. Vị ấy lại lúc cuối đêm 
hoặc ngồi, hoặc kinh hành mà tịnh ý mình.
Khi đó ăn uống, vị ấy biết đủ, kinh hành 
không mất thời tiết, trừ khử dục tưởng bất tịnh, không có các hạnh ác mà 
nhập Sơ thiền, có giác có quán dừng niệm nương sự hoan lạc mà vào Nhị 
thiền; không có lạc, xả niệm thanh tịnh, tự biết thân có lạc, chỗ chư Hiền 
cầu, xả niệm thanh tịnh vào Tam thiền. Vị ấy khổ vui
đã diệt, không còn sầu lo, không khổ 
không vui, xả niệm thanh tịnh vào Tứ thiền.
Vị ấy dùng tâm tam-muội, thanh tịnh không tỳ vết, cũng
được không chỗ sợ, lại được tam muội tự nhớ 
việc vô số đời; vị ấy liền nhớ việc quá khứ hoặc một
đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười 
đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, 
ngàn đời, vạn đời, mấy ngàn vạn
đời, kiếp thành, kiếp hoại, kiếp thành 
hoại: 'Ta từng sanh ở chỗ kia, họ gì tên gì, 
ăn thức ăn như thế, chịu khổ vui như thế, thọ mạng dài ngắn, chết
đây sanh kia, chết kia sanh đây', nhân duyên 
gốc ngọn đều rõ biết hết.
Vị ấy lại dùng tâm tam muội, thanh tịnh không tỳ vết,
được không sợ, xem thấy chúng sanh, người 
sanh, người chết; lại dùng thiên nhãn xem chúng sanh người sanh, 
người chết, nẻo lành nẻo dữ, sắc lành, sắc ác, hoặc
đẹp, hoặc xấu, đi theo loại nào, thảy
đều biết hết. Hoặc có chúng sanh thân, 
miệng, ý, làm ác, phỉ báng Hiền Thánh tạo gốc nghiệp tà, thân hoại mạng 
chung sanh trong địa ngục. Hoặc lại có chúng 
sanh thân, miệng, ý làm lành, không hủy báng Hiền Thánh, thân hoại 
mạng chung sanh chỗ lành lên Trời. Lại dùng thiên nhãn thanh tịnh xem 
chúng sanh hoặc đẹp, hoặc xấu, nẻo lành, 
nẻo dữ, sắc lành, sắc ác thảy đều biết cả, 
được không sợ. Lại tâm bố thí dứt hết các lậu.
      
Lại quán khổ này, như thật mà biết. Ðây là Khổ,
đây là Khổ tập, Khổ diệt, Khổ xuất 
yếu, như thật mà biết. Vị ấy quán như thế rồi, tâm dục lậu, tâm hữu lậu, 
tâm vô minh lậu được giải thoát. Ðã
được giải thoát liền được trí giải thoát, 
sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã 
lập, việc làm đã xong, không còn tái 
sanh nữa, như thật mà biết. Bấy giờ Phạm chí Kê Ðầu liền thành A-la-hán.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
6. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Thế gian có năm việc tuyệt chẳng thể 
được. Thế nào là năm? Vật đáng mất 
muốn cho không mất, điều này 
chẳng thể được; pháp diệt tận muốn cho 
không tận, điều này chẳng thể
được; phàm pháp già muốn cho không 
già, điều này chẳng thể
được; phàm pháp bệnh muốn cho không 
bệnh, điều này chẳng thể
được. Ðó là, này Tỳ-kheo! Có năm 
việc này tuyệt chẳng thể được. Nếu Như 
Lai ra đời hay không ra đời, thế giới này hằng trụ như cũ, mà không 
hư hại có tiếng mất diệt, sanh, lão, bệnh tử; hoặc sanh, hoặc chết
đều trở về gốc. Ðó là, này Tỳ-kheo! Có 
năm việc khó được này. Hãy cầu phương 
tiện tu hành năm căn. Thế nào là năm? 
Nghĩa là tín căn, tinh tấn căn, niệm 
căn, định căn, và tuệ căn. Ðó 
là Tỳ-kheo hành năm căn này rồi liền 
thành Tu-đà-hoàn, hướng Tư-đà-hàm, 
chuyển tiến thành Tư-đà-hàm, chuyển 
tiến diệt năm kiết sử thành A-na-hàm, 
ở đó nhập Niết-bàn, không trở lại
đời này nữa, chuyển tiến hữu lậu tận 
thành vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, tự thân chứng
được và tự du hóa, không còn thọ thai 
nữa, như thật mà biết. Nên tìm phương tiện trừ năm 
việc trước, tu hành năm căn. Như thế, 
Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
7. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay có năm người chẳng thể trị liệu. Thế 
nào là năm? Người xiểm nịnh, 
không thể trị liệu; người gian tà, không thể trị liệu; người nói ác không 
thể trị liệu; người tật đố không thể trị 
liệu; người phản bội không thể trị liệu.
      
Ðó là này Tỳ-kheo! Có năm người này 
chẳng thể trị liệu.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:
Người gian tà ác khẩu,
Tật đố, người phản bội,
Người này không thể trị,
Bị người trí từ bỏ.
Thế nên, các Tỳ-kheo! Thường nên học chính ý từ bỏ tật
đố, tu hành oai nghi, nói ra
đúng pháp. Nên biết
đền ơn, nghĩ đến công nuôi dưỡng, ơn nhỏ còn 
chẳng quên, huống nữa là ơn lớn. Chớ ôm lòng xan tham, lại cũng chẳng nên 
tự khoe mình, chẳng chê bai người khác. Như thế, Tỳ-kheo, nên học
điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
8. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ngày xưa Thích-đề-hoàn-nhân bảo 
Trời Ba mươi ba:
'Nếu lúc chư Hiền cùng A-tu-la chiến đấu, 
nếu A-tu-la chẳng bằng, chư Thiên thắng được, 
các Ông hãy bắt A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la 
trói năm vòng mang đến đây!'
      
Lúc đó A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la lại bảo 
các A-tu-la:
      
- 'Các Khanh hôm nay cùng chư Thiên chiến 
đấu, nếu thắng được hãy trói Thích-đề-hoàn-nhân
đưa đến đây!'
      
Tỳ-kheo nên biết! Bấy giờ hai bên đánh 
nhau, chư Thiên thắng, A-tu-la thua, Trời Ba mươi ba bắt A-tu-la 
Tỳ-ma-chất-đa-la trói lại đem đến chỗ 
Thích-đề-hoàn-nhân, đặt ngoài 
trung môn, tự quán sát trói đủ năm vòng. 
Bấy giờ vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la liền 
nghĩ rằng: 'Chư Thiên này có pháp chính
đáng, còn A-tu-la hành phi pháp. Nay 
ta chẳng ưa làm A-tu-la'. Ngay đó vua liền ở 
trong cung các vị Trời. Khi đó, 
A-tu-la vương sanh niệm này: 'Pháp chư Thiên chánh
đáng, A-tu-la phi pháp. Tôi muốn trụ nơi 
đây'.
      
Nghĩ như vậy rồi, vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la 
liền biết thân mình chẳng còn bị trói, vui thú ngũ dục. Nếu vua 
A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la sanh niệm này: 
'Chư Thiên phi pháp, pháp A-tu-la chánh đáng. 
Ta không cần Trời Ba mươi ba này, muốn trở về cung A-tu-la', thì 
khi ấy thân vua A-tu-la liền bị trói năm vòng, 
ngũ dục vui thú tự nhiên tiêu diệt.
Tỳ-kheo nên biết, sự trói buộc mau chóng không gì hơn việc này. Bị ma 
trói buộc cũng mau hơn thế. Nếu khởi kiết sử, thì liền bị ma trói buộc;
động thì ma trói buộc, không
động thì không bị ma trói buộc. Thế 
nên, các Tỳ-kheo, nên cầu phương tiện khiến tâm chẳng bị trói. Hãy ưa chỗ 
nhàn vắng. Sở dĩ như thế là vì các kiết sử này là cảnh giới ma. Nếu các 
Tỳ-kheo ở trong cảnh giới ma, thì trọn không thể giải thoát khỏi sanh, 
già, bệnh, chết; chẳng thoát sầu, lo, khổ, não. Nay Ta nói về mé khổ này. 
Nếu lại có Tỳ-kheo tâm không di động, chẳng 
dính mắc các kiết sử, thì liền thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, 
sầu, lo, khổ, não. Nay Ta thuyết mé khổ này. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên học 
như vầy: không có kiết sử thì vượt ra khỏi cảnh giới ma. Như thế, các 
Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
9. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Tôn giả A-nan đến chỗ Thế Tôn, cúi 
lạy đứng một bên, rồi ngài A-nan bạch Thế Tôn rằng:
- Phàm nói là tận, gọi là pháp gì nói là tận?
Thế Tôn bảo:
- A-nan! Sắc vô vi nhơn nơi duyên mà có tên này. Vô dục, vô vi gọi là 
pháp diệt tận. Kia tận gọi là diệt tận. Thọ, tưởng, hành thức vô vi, vô 
tác đều là pháp môn diệt, vô dục vô ô 
nhiễm, kia diệt tận nên gọi là diệt tận.
A-nan nên biết! Năm thạnh ấm này vô 
dục, vô tác là pháp môn diệt, kia diệt tận gọi là diệt tận. Năm 
thạnh ấm này trọn đã diệt tận, 
lại không còn sanh nữa, nên gọi là diệt tận.
Bấy giờ Tôn giả A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
10. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà 
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Phạm chí Sanh Lậu đến chỗ Thế Tôn 
cúi lạy rồi ngồi một bên. Khi ấy, Phạm chí Sanh Lậu bạch Thế Tôn:
- Thế nào Cù-đàm? Có nhân duyên gì? 
Có hạnh xưa nào khiến cho nhân dân này có tận, có diệt, có giảm bớt? Xưa 
là thành quách, ngày nay đã tan hoại; 
xưa có nhân dân, ngày nay hoang vắng?
Thế Tôn bảo:
- Phạm chí nên biết! Do nhân dân này hành phi pháp, nên khiến xưa có 
thành quách, ngày nay tiêu diệt, xưa có nhân dân ngày nay hoang vắng,
đều do nhân dân xan tham, kiết phược, quen hành 
ái dục mà gây nên, khiến gió mưa không đúng
thời, mưa đã không
đúng thời, trồng trọt rễ không tăng trưởng. 
Trong đó, nhân dân chết đầy
đường.
      
Phạm chí nên biết, do nhân duyên này, khiến nước bị hủy hoại, dân không
đông đúc.
      
Lại nữa, Phạm chí, nhân dân hành phi pháp, khiến có sấm, chớp, sét giật 
tự nhiên ứng hiện; trời giáng mưa đá, hư hoại 
mầm sống. bấy giờ nhân dân chết chóc không đếm nổi.
      
Lại nữa, Phạm chí, nhân dân hành phi pháp, cạnh tranh lẫn nhau, hoặc 
lấy tay đấm, thêm gạch
đá ném nhau, mỗi người đều tán mạng.
      
Lại nữa, Phạm chí, nhân dân kia đã 
cạnh tranh nhau chẳng yên ở; quốc chủ không an, mỗi bên hưng binh công 
phạt lẫn nhau, đến nỗi đại chúng chết không 
kể, hoặc bị chết bởi do đao, hoặc chết bởi giáo, tên. Như thế, Phạm 
chí! Do nhân duyên này, khiến dân giảm thiểu, chẳng
đông đúc nữa.
      
Lại nữa, nhân dân hành phi pháp, nên khiến thần kỳ không giúp
đỡ cho được tiện lợi, hoặc gặp nguy khốn,
tật bệnh, liệt giường, người lành bệnh ít, người bệnh dịch chết 
nhiều. Ðó là, này Phạm chí! Do nhân duyên này khiến dân giảm thiếu không
được đông đúc.
      
Bấy giờ Phạm chí Sanh Lậu bạch Thế Tôn:
- Cù-đàm! Ngài nói thật thích thay! 
Nói nghĩa giảm thiếu của người xưa. Thật như lời Như Lai dạy, xưa có thành 
quách, hôm nay tiêu diệt; xưa có nhân dân, hôm nay hoang vắng. Sở dĩ như 
thế, và có phi pháp, liền sanh keo kiệt, tật 
đố; đã sanh keo kiệt, tật đố, liền 
sanh nghiệp tà; đã sanh nghiệp 
tà nên khiến trời mưa không đúng thời, ngũ 
cốc chẳng chín, nhân dân chẳng mạnh, nên khiến phi pháp lưu hành, 
trời giáng tai biến làm hư hoại mầm mống. Ðó là do nhân dân hành phi pháp, 
dính mắc tham lam, keo kiệt, tật đố. Khi đó, 
Quốc vương chẳng yên, mỗi bên hưng binh, công phạt lẫn nhau, người 
chết rất nhiều, nên khiến quốc độ hoang sơ, 
nhân dân ly tán. Hôm nay, Thế Tôn nói rất lành, thích thay! Do phi 
pháp đưa đến tai họa này; cho
đến bị người khác bắt,
đoạn đứt mạng sống. Do phi pháp nên 
liền sanh tâm trộm, đã sanh tâm trộm, 
sau bị vua giết; đã sanh tà niệm thì 
phi nhân được tiện lợi. Do nhân duyên 
này liền bị mạng chung, nhân dân giảm bớt, nên khiến không có thành quách
để ở.
      
Cù-đàm! Hôm nay Ngài nói
đã quá nhiều. Ví như người gù
được thẳng, người mù
được mắt, trong tối được sáng. Ngài 
làm mắt cho nguòi không có mắt. Nay Sa-môn Cù-đàm 
dùng vô số phương tiện thuyết pháp. Nay tôi lại xin quy y Phật, Pháp, Tăng, 
mong được làm Ưu-bà-tắc, suốt đời 
không dám sát sanh nữa. Sa-môn Cù-đàm, 
nếu thấy tôi cỡi voi, cỡi ngựa, cũng xin nhận sự cung kính của tôi. Sở dĩ 
như thế, bởi vì tôi vua Ba-tư-nặc, vua Tần-bà-sa-la, vua Ưu Ðiền, vua Ác 
Sanh, vua Ưu-đà-diện nhận phước của 
hạm (Bà-la-môn). Tôi sợ thất đức. Nếu tôi 
vạch bày vai phải, cúi mong Thế Tôn nhận tôi lễ bái. Nếu tôi
đang đi bộ, gặp Cù-đàm
đến, tôi sẽ bỏ giày, cúi mong Thế Tôn 
nhận tôi lễ bái.
Bấy giờ Thế Tôn nghiêm trang chấp nhận. Phạm chí Sanh Lậu hoan hỉ vui 
mừng, chẳng thể kềm được, tiến đến trước Phật
bạch:
- Nay con quy y Sa-môn Cù-đàm một 
lần nữa. Cúi mong Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc.
Bấy giờ Thế Tôn dần dần thuyết pháp cho ông, khiến phát tâm hoan hỉ. 
Phạm chí nghe pháp xong, liền từ chỗ ngồi 
đứng dậy lui đi.
      
Bấy giờ Phạm chí Sanh Lậu nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
-ooOoo-