XXIII. Phẩm Ðịa chủ
1.
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc bảo các quần thần
rằng:
- Các Ông hãy sai sửa soạn xe vũ bảo (xe
có lọng). Ta muốn đến chỗ Thế Tôn để lễ bái, thăm hỏi.
Bấy giờ tả hữu vâng lệnh vua sửa soạn xe
vũ bảo rồi thưa vua:
- Ðã sửa soạn xe xong, nay đã đến giờ.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc liền ngồi xe vũ bảo,
có vài ngàn người đi bộ và cỡi ngựa đi theo, vây quanh trước sau, ra khỏi
nước Xá-vệ, đến Tinh xá Kỳ Hoàn, tới chỗ Thế Tôn. Như các pháp của vua,
vua tháo bỏ năm món trang sức là: lọng, mũ, kiếm, giày, và phất trần vàng,
để qua một bên, đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi xuống một bên.
Bấy giờ Thế Tôn thuyết thâm pháp cho vua,
khuyến khích, làm cho hoan hỉ. Vua Ba-tư-nặc nghe thuyết pháp xong, bạch
Thế Tôn:
- Cúi mong Thế Tôn nhận lời con thỉnh
trong ba tháng, cùng Tỳ-kheo Tăng, chớ đi nơi khác.
Thế Tôn làm thinh nhận lời thỉnh của vua
Ba-tư-nặc. Vua Ba-tư-nặc thấy Thế Tôn yên lặng nhận lời mời, liền từ chỗ
ngồi đứng lên, cúi lạy rồi lui đi. Về đến thành Xá-vệ, vua ra lệnh cho các
quần thần:
- Ta muốn cúng dường thức ăn cho đức Phật
và Tỳ-kheo Tăng trong ba tháng, cung cấp các thức cần dùng như y phục,
thức ăn, giường nằm, thuốc men khi bịnh tật. Các Ông cũng nên phát tâm
hoan hỉ.
Quần thần đáp:
- Xin vâng.
Vua Ba-tư-nặc liền cất đại giảng đường
ngoài cửa cung cấp hết sức đẹp đẽ, treo giăng phướn, lọng, kỹ nhạc xướng
lên vô kể, bày các ao tắm, chưng các đèn dầu, dọn các thức ăn trăm vị.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
- Ðã đến giờ, cúi mong Thế Tôn đoái đến
chốn này.
Thế Tôn thấy đã đến giờ, đắp y, ôm bát,
cùng các Tỳ-kheo Tăng, vây quanh trước sau vào thành Xá-vệ, đến giảng
đường kia. Ðến rồi Ngài lại tòa ngồi, các Tỳ-kheo mỗi vị ngồi theo thứ tự.
Khi ấy, vua Ba-tư-nặc cùng các cung nhân tự tay đem thức ăn cung cấp chỗ
cần dùng; suốt ba tháng không chút thiếu sót, cung cấp y phục, thức ăn,
giường nằm, thuốc men khi bịnh tật. Thấy Thế Tôn ăn xong, vua đem các thứ
hoa rải lên Thế Tôn và các Tỳ-kheo Tăng rồi lấy một ghế nhỏ đến trước Như
Lai ngồi, bạch Thế Tôn:
- Con từng theo Phật nghe: do gốc nhân
duyên bố thí thức ăn cho súc sanh được phước trăm lần, cho người phạm giới
ăn được phước ngàn lần, cho người trì giới ăn được phước vạn lần, cho tiên
nhân đoạn dục ăn được phước ức lần, cho bậc hướng Tu-đà-hoàn ăn được phước
chẳng thể kể, huống lại Thánh quả Tu-đà-hoàn, huống là bậc hướng
Tư-đà-hàm, đắc đạo Tư-đà-hàm, huống bậc hướng A-na-hàm, đắc đạo A-na-hàm,
huống bậc hướng A-la-hán, đắc đạo A-la-hán, huống bậc hướng Bích-chi Phật,
đắc Bích-chi Phật, huống bậc hướng Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, huống
bậc thành Phật và Tỳ-kheo Tăng, phước đó công đức không thể tính kể. Hôm
nay con tạo công đức đã xong.
Thế Tôn bảo:
- Ðại vương! Chớ có nói thế! Làm phước
không nhàm chán, hôm nay cớ sao nói đã làm xong? Vì sao thế? Vì sanh tử
dài lâu không thể kể.
Thuở quá khứ lâu xa, có vua tên là Ðịa
Chủ, thống lãnh cõi Diêm-phù-đề này. Vua có đại thần tên Thiện Minh, chu
toàn cho vua từng chút một, chẳng sợ khó khăn.
Bấy giờ nhà vua chia cho đại thần một nửa
đất Diêm-phù-đề để cai trị. Tiểu vương Thiện Minh tự tạo thành quách,
Ðông, Tây mười hai do tuần, rộng bảy do tuần, đất đai thuần thục, màu mỡ,
dân chúng đông đúc. Thành ấy tên là Viễn Chiếu, vị phu nhân đệ nhất của
vua Thiện Minh tên là Nhật Nguyệt Quang, không cao, không thấp, không mập,
không ốm, chẳng trắng, chẳng đen, nhan mạo đoan chánh, hiếm có ở đời,
miệng thơm hương hoa ưu-bát, thân có mùi chiên-đàn. Chưa được mấy hôm, bà
có thai, phu nhân ấy liền đến tâu vua:
- 'Nay tôi có thai'.
Vua nghe xong vui mừng hớn hở, không thể
kềm được, liền sai tả hữu xếp đặt cụ khoái lạc vô kể. Phu nhân mang thai,
đến ngày sanh một bé trai. Khi đang sanh, thấy đất Diêm-phù sắc vàng rực
rỡ, nhan mạo của cậu bé đoan chánh, đủ ba mươi hai tướng, thân màu vàng.
Ðại vương Thiện Minh thấy thái tử này thì vui mừng hớn hở, hân hoan vô
lượng, liền mời các đạo sĩ Bà-la-môn, rồi bồng Thái tử đến để xem tướng:
- 'Nay ta sanh đứa bé này, các Khanh xem
tướng và đặt tên cho ta'.
Các thầy tướng vâng lệnh vua, mỗi người bế
thái tử lên ngắm nghía, quan sát tướng mạo, cùng tâu vua:
- 'Thái tử của Thánh vương đoan chánh vô
song, các căn không khiếm khuyết, có ba mươi hai tướng. Nay, thái tử sẽ có
hai đường: Nếu ở tại nhà sẽ làm Chuyển luân Thánh vương, bảy báu đầy đủ.
Bảy báu là: xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, cư sĩ báu,
điển binh báu. Ðó là bảy. Chuyển luân Thánh vương sẽ có ngàn đứa con mạnh
mẽ, cương cường, hay dẹp trừ quân địch, chẳng dùng đao trượng, tự nhiên
hàng phục được bốn bể. Nếu vương tử này xuất gia học đạo, sẽ thành Vô
thượng Chánh giác, danh đức vang xa khắp toàn thế giới. Hôm nay sanh thái
tử này, ánh sáng chiếu xa, nay xin đặt tên tự vương tử là Ðăng Quang'.
Các thầy tướng đặt tên xong liền lui đi.
Suốt ngày, vua bồng thái tử không rời mắt. Rồi vua lập ba giảng đường cho
thái tử: mùa thu, mùa đông, mùa hạ tùy đó mà thích nghi. Cung nhân, thể nữ
đầy cung cho thái tử vui chơi ở đó.
Lúc thái tử của vua hai mươi chín tuổi, do
lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo. Ngay đêm xuất gia ngài thành Phật.
Bấy giờ khắp đất Diêm-phù-đề đều hay biết
thái tử của vua xuất gia học đạo, ngay ngày ấy thành Phật. Sáng sớm, vua
cha nghe thái tử xuất gia học đạo, đêm đó thành Phật. Vua liền nghĩ rằng:
'Ðêm qua, ta nghe chư Thiên đều cùng khen lành trên hư không. Ðây chắc là
điềm lành, chẳng phải tiếng dữ. Nay ta hãy đến để gặp gỡ'.
Vua liền dẫn bốn mươi ức nam nữ vây quanh
đi đến chỗ Phật Ðăng Quang. Ðến rồi cúi lạy và ngồi một bên, bốn mươi ức
chúng cùng lễ lạy ngồi ở một bên. Bấy giờ, Như Lai thuyết diệu luận lần
lượt cho phụ vương và bốn mươi ức chúng. Luận nghĩa là: luận bố thí, luận
trì giới, luận sanh thiên, dục là ô uế, lậu là hạnh bất tịnh, xuất gia là
cần yếu để quả báo thanh tịnh.
Bấy giờ Như Lai xem ý của chúng sanh tâm
tánh nhu hòa. Những pháp Khổ, Tập, Diệt mà chư Như Lai thường thuyết, Ngài
đều rộng thuyết nghĩa này cho bốn mươi ức chúng kia cả. Họ liền ngay chỗ
ngồi sạch các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Bốn mươi ức chúng bạch
Ðăng quang Như Lai rằng:
- 'Chúng con có ý muốn cạo tóc xuất gia
học đạo'.
Ðại vương nên biết! Bấy giờ bốn mươi ức
chúng đều được xuất gia học đạo, ngày hôm đó thành A-la-hán.
Ðăng Quang Như Lai đem bốn mươi ức chúng
đều là những người không còn dính mắc, du hành trong cõi nước ấy. Nhân dân
trong nước cúng dường bốn món: y phục, thức ăn, đồ nằm, thuốc thang khi
bịnh tật, không thiếu thốn gì. Bấy giờ Ðại vương Ðịa Chủ nghe ngài Ðăng
Quang thành Vô Thượng Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, đem bốn mươi ức chúng đều
là bậc không dính mắc, du hành cõi nước kia, liền nghĩ: 'Nay ta nên nhắn
tin đến thỉnh Như Lai ở đây du hóa. Nếu khiến Ngài đến được thì bổn nguyện
của ta được đầy đủ. Nếu Ngài không đến, tự ta sẽ đến lễ bái, quỳ lạy thăm
hỏi'. Rồi vua liền sai một vi quan:
- Ông đến nơi đó thăm hỏi Như Lai, đem tên
tuổi ta cúi lạy thăm hỏi Như Lai sống có nhẹ nhàng, đi đứng có mạnh khỏe
không? Hãy nói: 'Vua Ðịa Chủ thăm hỏi Như Lai có được nhẹ nhàng, đi đứng
mạnh khỏe không? Cúi mong Thế Tôn chiếu cố đến chốn này'.
Người ấy nhận lệnh vua liền đến nước kia.
Ðến rồi cúi lạy Thế Tôn, đứng qua một bên rồi thưa:
- 'Ðại vương Ðịa Chủ cúi lạy Như Lai, thăm
hỏi Thế Tôn sinh hoạt có nhẹ nhàng, đi đứng mạnh khỏe không? Cúi mong Thế
Tôn chiếu cố đến nước kia'.
Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh ấy. Rồi
Ðăng Quang Như Lai cùng với bốn mươi ức đại chúng Tỳ-kheo dần dần du hành
trong nhân gian, khắp nơi đều được cung kính, mọi người đều đem cống hiến
y phục, thức ăn uống, đồ nằm, thuốc men khi bịnh tật. Chư vị dần đến cõi
nước của vua Ðịa Chủ. Ðại vương Ðịa Chủ nghe Ðăng Quang Như Lai đem bốn
mươi ức đại chúng Tỳ-kheo đến nước này, đang ở trong vườn Bắc-bà-la, liền
nghĩ: 'Nay ta nên tự đến nghinh đón'. Ðại vương Ðịa Chủ lại đem bốn mươi
ức chúng đến chỗ Ðăng Quang Như Lai; đến rồi cúi lạy, ngồi một bên và bốn
mươi ức chúng cúi lạy ngồi một bên. Bấy giờ Ðăng Quang Như Lai đối diện
lần lượt thuyết diệu luận cho vua kia và bốn mươi ức chúng. Luận nghĩa là:
luận bố thí, luận trì giới, luận sanh thiên, dục là ô uế, lậu là hạnh bất
tịnh, xuất gia là cần yếu để được quả báo thanh tịnh.
Bấy giờ Như Lai xem ý của chúng sanh, tâm
tánh nhu hòa, pháp Khổ, Tập, Diệt, Ðạo chư Phật Như Lai thường thuyết,
Ngài rộng thuyết hết nghĩa này cho bốn mươi ức chúng. Mọi người ở ngay
trên tòa sạch các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Bốn mươi ức chúng
bạch Ðăng Quang Như Lai:
- 'Chúng con ý muốn cạo râu tóc, xuất gia
học đạo'.
Ðại vương nên biết! Bấy giờ bốn mươi ức
chúng đều được xuất gia học đạo, ngay ngày hôm đó thành A-la-hán. Ðại
vương Ðịa Chủ liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy rồi lui đi.
Ðăng Quang Như Lai đem tám mươi ức chúng
đều là A-la-hán du hành trong nước đó. Nhân dân trong nước cúng dường bốn
món: y phục, thức ăn, đồ nằm, thuốc men khi bịnh tật; mọi việc cung cấp
không thiếu sót gì.
Bấy giờ, Ðại vương Ðịa Chủ lại vào lúc
khác đem quần thần đến chỗ Như Lai, cúi lạy rồi ngồi một bên. Ðăng Quang
Như Lai thuyết pháp vi diệu cho Quốc vương kia. Ðại vương Ðịa Chủ bạch Như
Lai rằng:
- 'Cúi mong Thế Tôn nhận sự cúng dường của
con suốt đời và các Tỳ-kheo Tăng, con sẽ cung cấp y phục, thức ăn uống, đồ
nằm, thuốc men khi bịnh tật, thảy đều cung cấp'.
Ðăng Quang Như Lai im lặng nhận lời thỉnh
của Ðại Vương. Vua thấy Phật im lặng nhận thỉnh, lại bạch Thế Tôn lần nữa:
- 'Nay con theo Thế Tôn cầu mong được chấp
nhận'.
Thế Tôn bảo:
- 'Pháp của Như Lai đã quá sự mong ước
này'.
Vua bạch Thế Tôn:
- 'Nay con cầu nguyện rất là tịnh diệu!'
Thế Tôn bảo:
- 'Chỗ cầu nguyện tịnh diệu thế nào?'
Vua bạch Thế Tôn:
- 'Như ý của con thì hôm nay chúng Tăng
dùng một bát ăn, ngày mai lại dùng bát khác ăn; hôm nay chúng Tăng mặc một
loại y phục, ngày mai lại đổi y phục khác; hôm nay chúng Tăng ngồi một
loại tòa, ngày mai lại ngồi tòa khác; hôm nay chúng Tăng sai khiến thị
giả, ngày mai lại đổi thị giả. Chỗ cầu mong của con chính là nghĩa này.
Ðăng Quang Như Lai bảo:
- 'Tùy chỗ Ông nguyện, nay chính đúng
lúc'.
Ðại vương Ðịa Chủ vui mừng hớn hở không
kềm được, liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy rồi lui về cung. Ðến rồi bảo
các quần thần:
- Nay ý ta muốn suốt đời cúng dường Ðăng
Quang Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác và chúng Tỳ-kheo y phục, thức ăn,
đồ nằm, thuốc men khi bịnh tật, khuyên các Ông cũng nên giúp đỡ ta sắp đặt
cúng dường.
Quần thần đáp:
- 'Như lời Ðại vương dạy'.
Cách thành không xa, non một do tuần, vua
tạo lập một tòa nhà, chạm trổ văn vẻ, năm màu khắp trời đất, treo tua
phướn bảo cái, xướng kỹ nhạc, rưới hương ướt đất, sửa sang ao tắm, đặt đủ
đèn sáng và các thức ăn uống ngon ngọt, xếp đặt chỗ ngồi. Rồi vua bạch
Phật giờ đến:
- 'Nay chính đúng giờ, mong Ngài chiếu
cố'.
Ðăng Quang Như Lai đã biết đến giờ, liền
đắp y, ôm bát cùng chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau, đi đến giảng đường,
mỗi người đến tòa mà ngồi. Ðại vương Ðịa Chủ thấy Phật và Tỳ-kheo Tăng
ngồi xong, đem cung nhân, thể nữ và các đại thần, tự tay châm chước, dọn
các món ăn uống trăm vị.
Ðại vương nên biết! Bấy giờ Ðại vương Ðịa
Chủ trong bảy vạn năm cúng dường Ðăng Quang Như Lai và tám mươi ức chúng
A-la-hán, chưa hề lười mỏi. Như Lai kia giáo hóa chu tất rồi liền ở Vô dư
Niết-bàn mà nhập Niết-bàn. Ðại vương Ðịa Chủ dùng trăm thứ hương hoa cúng
dường. Ở bốn ngã đường dựng lên bốn tháp mỗi cái bằng bảy báu vàng, bạc,
lưu ly, thủy tinh, treo tua, phướn, bảo cái, hương hoa phướn lọng và tám
mươi ức chúng lần lượt ở Vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn. Bấy giờ Ðại
vương thu thập Xá-lợi của tám mươi ức chúng, lập thần tự, đều treo tua,
phướn lọng, hương hoa cúng dường.
Ðại vương nên biết! Bấy giờ Ðại vương Ðịa
Chủ lại cúng dường tháp Ðăng Quang Như Lai và tháp tám mươi ức La-hán; lại
trải qua bảy vạn năm tùy thời cúng dường, thắp đèn rải hoa, treo tua,
phướn lọng.
Ðại vương nên biết! Giáo pháp của Ðăng
Quang Như Lai để lại diệt hết, vua kia mới chịu diệt độ. Ðại vương Ðịa Chủ
lúc đó nào phải là ai khác. Chớ có xem như thế. Vì cớ sao? Ðại vương Ðịa
Chủ tức là thân Ta vậy. Ta lúc đó trong bảy vạn năm đem y phục, thức ăn,
đồ nằm, thuốc men khi bịnh tật cúng dường Phật kia không để giảm thiếu.
Sau khi Phật nhập Niết-bàn, Ta lại ở trong bảy vạn năm cúng dường hình
tượng Xá-lợi, thắp hương, đốt đèn, treo tua, phướn lọng, không chỗ nào cạn
thiếu. Lúc đó Ta đem công đức này, cầu được phước ở trong sanh tử, chẳng
cầu giải thoát.
Ðại vương nên biết! Phước đức có được lúc
bấy giờ, nay có dư thừa không? Chớ xem thế! Như ta hôm nay, phước đức kia
chẳng còn một mảy may như lông tóc. Vì sao thế? Vì sanh tử lâu dài không
thể kể nhớ. Trong đó thảy hưởng hết phước, chẳng còn một hào ly. Thế nên,
Ðại vương, chớ có bảo rằng: 'Hôm nay, ta tạo phước đức đã xong'. Ðại
vương! Hãy nói rằng: 'Nay thân, miệng, ý của ta tạo các hạnh đều mong cầu
giải thoát, chẳng cầu ở trong sanh tử. Nghiệp phước liền được luôn luôn an
ổn vô lượng'.
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc liền ôm lòng sợ
hãi, lông áo dựng ngược, buồn khóc lẫn lộn, lấy tay gạt lệ, cúi lạy, tự
trình bày lỗi của mình, như ngu, như ngây, không hiểu biết gì.
- Cúi mong Thế Tôn nhận lời hối lỗi của
con. Nay năm vóc gieo xuống đất, sửa đổi lỗi đã qua, con chẳng nói năng
như thế nữa. Cúi mong Thế Tôn nhận con hối lỗi. Như thế đến ba lần. Thế
Tôn bảo:
- Lành thay, lành thay, Ðại vương! Nay ở
trước Như Lai sám hối sự phi pháp này, đổi lỗi cũ để tu sửa về sau. Nay Ta
chấp nhận sự hối lỗi của Ngài, chớ tạo lại nữa.
Bấy giờ ở trong đại chúng có một
Tỳ-kheo-ni tên Ca-chiên-diên, liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy rồi bạch
Thế Tôn:
- Nay Thế Tôn nói thật là vi diệu. Thế Tôn
bảo vua Ba-tư-nặc rằng: 'Ðại vương nên biết! Thân, miệng, ý tạo các hạnh
đều cầu giải thoát, chớ cầu ở trong sanh tử hưởng phước nghiệp này, lại
luôn luôn được an ổn vô lượng'. Vì sao như thế? Con tự nhớ ba mươi mốt
kiếp, Phạn Thức Cật Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân
Sư, Phật, Thế Tôn, du hóa tại thế giới Dã-mã.
Bấy giờ đức Phật đến giờ đắp y, ôm bát vào
thành Dã Mã khất thực. Lúc đó trong thành có một người làm thuê tên là
Thuần Hắc. Ông ta thấy Như Lai ôm bát vào thành khất thực, thấy rồi liền
nghĩ:
'Nay Như Lai vào thành ắt phải ăn uống'.
Ông liền vào nhà lấy thức ăn ra bố thí cho
Như Lai và phát lời thệ nguyện: 'Con trì công đức này, không bị đọa trong
ba đường ác; khiến con đời tương lai cũng sẽ gặp bậc Thánh Tôn như thế,
cũng sẽ khiến Thánh Tôn kia vì con thuyết pháp được giải thoát'. Thế Tôn
và vua Ba-tư-nặc đều cùng biết đó. Lúc ấy, người làm thuê Thuần Hắc há là
người khác ư? Chớ xem như thế. Vì cớ sao? Bấy giờ người làm thuê Thuần Hắc
chính là thân con. Con ở thời Phạn Thức Cật Như Lai ấy phát thệ nguyện
này: khiến đời tương lai gặp vị Thánh Tôn này thuyết pháp cho con được
giải thoát. Con ở ba mươi mốt kiếp chẳng đọa trong ba đường ác, sanh trong
Trời, Người, cuối cùng ngày nay thọ thân phận này, gặp gỡ Thánh Tôn được
xuất gia học đạo, dứt sạch các hữu lậu thành A-la-hán. Như lời Thế Tôn nói
rất là vi diệu, bảo với vua Ba-tư-nặc: 'Thân, miệng, ý tạo các hạnh đều
cầu giải thoát, chớ ở sanh tử hưởng phước nghiệp này'.
Con nếu thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tâm hoan hỉ, ý hướng về Như Lai, con liền nghĩ rằng:
'Các bậc Hiền sĩ này dụng ý vẫn không phải là lời Như Lai nói về sự ái
kính cúng dường'. Con thấy bốn bộ chúng liền đến bảo rằng:
- 'Chư Hiền có cần vật gì không? Y bát,
tọa cụ, ống kim, bồn tắm? Và các Sa-môn khác cần vật gì tôi đều sẽ cung
cấp'.
Con đã hứa, liền đi khắp nơi cầu xin; nếu
con được thì rất may, nếu khiến chẳng được thì liền đến Uất-đơn-việt,
Cù-na-di, Phất-vu-đệ để tìm hỏi xin cho họ. Vì sao thế? Con đều do bốn bộ
chúng này mà đắc đạo Niết-bàn.
Bấy giờ Thế Tôn quán sát tâm Tỳ-kheo-ni
Ca-chiên-diên, liền bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy có thấy người nào tín tâm giải
thoát như thế so với Tỳ-kheo-ni Ca-chiên-diên chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
- Không thấy, bạch Thế Tôn!
Thế Tôn bảo:
- Trong hàng Thanh văn của Ta, đệ nhất
Tỳ-kheo-ni được tín giải thoát là Tỳ-kheo-ni Ca-chiên-diên.
Bấy giờ Tỳ-kheo-ni Ca-chiên-diên, cùng vua
Ba-tư-nặc với bốn bộ chúng nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
2.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở thành La-duyệt, trong núi
Kỳ-xà-quật, cùng với năm trăm đại chúng Tỳ-kheo.
Bấy giờ Tôn giả Bà-câu-lô ở tại một hóc
núi vá nạp y cũ. Khi ấy Thích-đề-hoàn-nhân từ xa trông thấy Tôn giả
Bà-câu-lô ở một hóc núi vá y cũ, thấy rồi liền nghĩ rằng:
- Tôn giả Bà-câu-lô này đã thành A-la-hán,
các trói buộc đã cởi, trường thọ vô lượng, hằng tự hàng phục, suy nghĩ vô
thường, khổ, không, vô ngã, chẳng dích mắc việc đời, cũng lại chẳng thuyết
pháp cho người khác, lặng lẽ tự tu như ngoại đạo dị học. Chẳng rõ vị Tôn
giả này có thể thuyết pháp cho người khác hay không làm nổi. Nay ta nên
thử xem.
Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân từ cõi trời Ba
mươi ba biến mất, đến núi Kỳ-xà-quật, đứng trước Tôn giả Bà-câu-lô, cúi
lạy rồi đứng một bên. Khi ấy Thích-đề-hoàn-nhân liền nói kệ này:
Người trí khen ngợi thuyết,
Cớ sao chẳng thuyết pháp?
Dẹp kiết, thành hạnh Thánh,
Sao lại lặng lẽ trụ?
Tôn giả Bà-câu-lô lại dùng kệ mà đáp
Thích-đề-hoàn-nhân:
- Có Phật, Xá-lợi-phất
A-nan, Quân-đầu, Bàn (Ðặc)
Cũng cùng các tôn trưởng
Khéo hay thuyết pháp mầu.
Thích-đề-hoàn-nhân bạch Tôn giả Bà-câu-lô:
- Căn tánh của chúng sanh có bao nhiêu
loại, nhưng Ngài nên biết: Thế Tôn cũng nói chúng sanh rất nhiều chủng
loại ở cõi đất. Cớ sao Tôn giả Bà-câu-lô không thuyết pháp cho người khác?
Ngài Bà-câu-lô đáp:
- Các loại chúng sanh rất khó hiểu biết.
Thế giới bao nhiêu quốc độ chẳng đồng, đều dính mắc ngã sở và không phải
ngã sở. Nay tôi quán sát nghĩa này rồi, nên không thuyết pháp cho người.
Thích-đề-hoàn-nhân nói:
- Xin Ngài thuyết cho tôi nghĩa ngã sở và
không phải ngã sở.
Tôn giả Bà-câu-lô nói:
- Ta, người, thọ mạng, hoặc nam, hoặc nữ,
hoặc sĩ phu (chúng sanh), đều nương mạng này mà tồn tại. Nhưng lại, này
Câu-dực, Thế Tôn cũng nói: 'Tỳ-kheo nên biết! Hãy tự hăng hái không khởi
pháp tà, cũng hay yên lặng như Hiền Thánh. Tôi xem nghĩa này rồi nên làm
thinh'.
Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân vọng về Thế
Tôn, chắp tay nói bài kệ này:
Quy mạng đấng Thập Lực,
Tròn sáng không bụi bặm,
Khắp vì tất cả người,
Ðây thật rất kỳ đặc.
Tôn giả Bà-câu-lô nói:
- Vì sao Ðế Thích nói: Ðây thật rất kỳ
đặc?
Thích-đề-hoàn-nhân đáp:
- Tôi tự nhớ lúc xưa đến chỗ Thế Tôn, đến
rồi cúi lạy Thế Tôn mà hỏi nghĩa này: loài Trời, Người có tưởng niệm nào?
Bấy giờ Thế Tôn bảo tôi rằng:
- 'Thế giới này bao nhiêu loại, mỗi mỗi
sai khác, nguồn gốc chẳng đồng'.
Tôi nghe lời này xong, đáp:
- 'Ðúng vậy, Thế Tôn! Như Thế Tôn nói thế
giới bao nhiêu loại, mỗi mỗi chẳng đồng. Nếu thuyết pháp cho chúng sanh
kia thì có người thành Thánh quả'.
Tôi do đây nên nói: đây rất là kỳ đặc. Mà
Tôn giả Bà-câu-lô cũng nói như thế: Thế giới bao nhiêu loại, mỗi mỗi chẳng
đồng.
Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân nghĩ: 'Tôn giả
này kham nhậm thuyết pháp cho người chứ không phải không thể'.
Thích-đề-hoàn-nhân từ chỗ ngồi đứng lên mà đi.
Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân nghe Tôn giả
Bà-câu-lô nói xong, vui vẻ vâng làm.
*
3.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Chiêm-bà bên bờ hồ
Lôi Thanh.
Bấy giờ Tôn giả Nhị Thập ức Nhĩ (Sona) ở
trong chỗ vắng, tự tu pháp bổn, chẳng bỏ hai mươi pháp hạnh đầu đà, ngày
đêm kinh hành chẳng lìa lời dạy về Ba mươi bảy đạo phẩm, hoặc ngồi, hoặc
đi thường tu Chánh pháp. Ðầu đêm, giữa đêm, cuối đêm hằng tự gắng gỏi,
chẳng bỏ trong chốc lát, nhưng lại không thể ở pháp dục lậu, tâm được giải
thoát.
Tôn giả Sô-na đi kinh hành bị đứt chân
chảy máu đầy khắp lề đường, giống như chỗ mổ trâu, quạ diều hâu đến hút
máu, mà lại chẳng thể đối với dục lậu mà tâm được giải thoát. Tôn giả
Sô-na liền nghĩ: 'Trong đệ tử tinh tấn khổ hạnh của Phật Thích-ca Văn, ta
là đệ nhất. Nhưng hôm nay, ta tâm lậu chẳng được giải thoát. Lại nữa, gia
nghiệp của ta nhiều tiền lắm của, đáng nên xả bỏ pháp phục trở về làm cư
sĩ, đem tài vật rộng bố thí. Nay làm Sa-môn rất khó, chẳng phải dễ dàng'.
Bấy giờ Thế Tôn từ xa biết tâm niệm của
Sô-na, liền bay lên hư không, đến chỗ ông ta kinh hành, trải tòa mà ngồi.
Khi ấy Tôn giả Sô-na đến chỗ Phật cúi lạy rồi ngồi một bên.
Thế Tôn hỏi Sô-na rằng:
- Vừa rồi cớ sao Thầy lại nghĩ: 'Trong số
đệ tử tinh tấn khổ hạnh của Phật Thích-ca Văn, ta là đệ nhất. Nhưng hôm
nay ta lậu tâm chẳng được giải thoát. Lại gia nghiệp ta lắm tiền nhiều
báu, nên xả bỏ pháp phục, trở về làm cư sĩ, lấy tài vật rộng bố thí, nay
làm Sa-môn thật khó, chẳng phải dễ dàng?'.
Sô-na đáp:
- Ðúng vậy, bạch Thế Tôn!
Thế Tôn bảo:
- Nay Ta lại hỏi Thầy, Thầy tùy đó mà đáp
lời Ta. Thế nào Sô-na? Xưa lúc Thầy ở nhà, đánh đàn có giỏi không?
Sô-na đáp:
- Ðúng vậy, Thế Tôn! Xưa lúc ở nhà, con
đành đàn rành.
Thế Tôn bảo:
- Thế nào Sô-na! Nếu dây đàn quá căng thì
tiếng chẳng đều. Lúc đó tiếng đàn nghe có hay không?
Sô-na đáp:
- Bạch Thế Tôn, không!
Thế Tôn bảo:
- Thế nào Sô-na? Nếu dây đàn lại chùng,
thì tiếng đàn nghe có hay chăng?
Sô-na đáp:
- Bạch Thế Tôn, không.
Thế Tôn bảo:
- Thế nào Sô-na? Nếu dây đàn không căng,
không chùng thì bấy giờ tiếng đàn nghe có hay không?
Sô-na đáp:
- Ðúng vậy, Thế Tôn! Nếu dây đàn không
chùng cũng không căng, bấy giờ tiếng đàn có thể nghe hay.
Thế Tôn bảo:
- Ðây cũng như thế. Người quá tinh tấn
giống như điều hý (trạo cử). Nếu người giải đãi, người này sẽ đọa vào tà
kiến. Nếu người có thể ở giữa hai điều này thì đây là thượng hạnh, như thế
chẳng bao lâu sẽ thành bậc Vô lậu.
Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho Tỳ-kheo
Sô-na xong, trở về bên bờ hồ Lôi Âm.
Khi ấy, Tôn giả Sô-na tư duy lời dạy của
Thế Tôn, ở chỗ vắng vẻ tu hành pháp này không hở một giây. Sở dĩ người
dòng dõi vọng tộc, xuất gia học đạo, cạo bỏ râu tóc, tu Phạm hạnh vô
thượng, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân
sau nữa, như thật mà biết. Tôn giả Sô-na liền thành A-la-hán.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Trong hàng Thanh văn của Ta, đệ tử tinh
cần, khổ hạnh đệ nhất là Tỳ-kheo Sô-na.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
4.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ trong thành Xá-vệ, có trưởng giả
Bà-đề mắc bịnh rồi chết, nhưng trưởng giả ấy chẳng có con cái, nên bao
nhiêu tài sản đều nhập vào cung hết. Bấy giờ vua Ba-tư-nặc thân dính bụi
đất đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên.
Khi ấy Thế Tôn hỏi vua:
- Ðại vương! Cớ sao bụi đất đầy người mà
đến chỗ Ta?
Vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:
- Trong thành Xá-vệ này có trưởng giả tên
là Bà-đề, hôm nay mạng chung, ông ta không có con, nên con đích thân đến
tịch thu tài sản sai nhập vào cung: tám vạn cân vàng ròng, huống là các
vật linh tinh khác. Nhưng trưởng giả đó ngày còn sống ăn những thức ăn hết
sức dở tệ như thế, không ăn món ngon lành, mặc y phục bẩn thỉu chẳng sạch,
cỡi xe ngựa hết sức ốm o.
Thế Tôn bảo:
- Ðúng vậy, Ðại vương! Như lời vua nói.
Phàm người tham lam keo kiệt, được tài sản này chẳng thể ăn uống, chẳng
cho cha mẹ, vợ con, đầy tớ, nô tỳ; cũng lại chẳng cho bạn bè, trí thức;
cũng lại chẳng cho Sa-môn, Bà-la-môn, các bậc Tôn trưởng. Nếu người có trí
được tài bảo này, liền có thể bố thí, cứu giúp rộng rãi tất cả không có
lẫn tiếc, cung cấp Sa-môn, Bà-la-môn, các bậc cao đức.
Vua Ba-tư-nặc nói:
- Trưởng giả Bà-đề này mạng chung sanh về
nơi nào?
Thế Tôn bảo:
- Trưởng giả Bà-đề này mạng chung sanh vào
đại địa ngục Thế Khốc (khóc lóc). Vì sao thế? Ðây là người đã đoạn gốc
lành, thân hoại mạng chung sanh trong địa ngục Thế Khốc.
Vua Ba-tư-nặc nói:
- Trưởng giả Bà-đề dứt gốc lành ư?
Thế Tôn bảo:
- Ðúng vậy, Ðại vương! Như lời vua nói,
trưởng giả đó dứt hẳn gốc lành. Mà trưởng giả đó phước cũ đã hết, lại
chẳng tạo phước mới.
Vua Ba-tư-nặc nói:
- Trưởng giả đó không còn sót lại chút
phước nào sao?
Thế Tôn bảo:
- Không, Ðại vương! Ông ta không còn lại
một mảy may nào, như người làm ruộng chỉ thu hoạch mà chẳng trồng sau bị
cùng khốn dần dần đến chết, Vì sao thế? Ông ta chỉ hưởng nghiệp cũ không
tạo cái mới. Trưởng giả này, cũng lại như thế, chỉ hưởng phước cũ không
tạo thêm phước mới. Trưởng giả này đêm nay sẽ ở trong địa ngục Thế Khốc.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc kinh sợ, gạt lệ mà
thưa:
- Trưởng giả này ngày xưa làm công đức
phước nghiệp gì mà sanh trong nhà giàu? Lại tạo căn bản bất thiện nào mà
chẳng được hưởng của cải cực phú này, chẳng ưa trong ngũ dục lạc?
Thế Tôn bảo vua Ba-tư-nặc rằng:
- Quá khứ lâu xa, vào thời Phật Ca-diếp,
vị trưởng giả này ở trong thành Xá-vệ là con nhà làm ruộng. Khi ấy, Phật
đã nhập diệt rồi, có Bích-chi Phật ra đời, đến nhà trưởng giả này. Bấy giờ
trưởng giả này thấy Phật Bích-chi ở ngoài cửa, thấy rồi liền nghĩ: 'Như
Tôn giả này ra đời rất khó. Nay ta nên đem thức ăn uống bố thí cho người
này'.
Bấy giờ trưởng giả liền bố thí cho Phật
Bích-chi kia thức ăn. Phật Bích-chi thọ thực xong liền bay lên hư không mà
đi. Vị trưởng giả kia thấy Phật Bích-chi vận thần túc, liền thệ nguyện
rằng: 'Nguyện đem gốc lành này, khiến đời đời, chỗ sanh không đọa trong ba
đường ác, thường có nhiều tài bảo'.
Sau đó ông ta lại hối hận: 'Thức ăn vừa
rồi đáng lẽ cho tôi tớ, chẳng nên cho đạo nhân trọc đầu này ăn'.
Bấy giờ trưởng giả nhà nông nọ há là người
nào khác, chớ có xem như thế. Vì cớ sao? Trưởng giả nhà nông bấy giờ nay
là trưởng giả Ba-đề này.
Khi ấy bố thí xong phát lời thệ nguyện
này: 'Trì công đức này, chỗ sanh sẽ không đọa ba đường ác, thường được lắm
tiền nhiều của, sanh trong nhà phú quý, không thiếu thốn gì cả'. Ðã bố thí
rồi, sau lại hối hận: 'Ta thà cho tôi tớ ăn, chẳng nên cho đạo nhân trọc
đầu này ăn'.
Do nhân duyên đầu đuôi như thế, chẳng được
hưởng của giàu có này, cũng chẳng được vui trong ngũ dục. Chẳng nuôi nấng
chính mình cũng chẳng cho cha mẹ, anh em, vợ con, đầy tớ, bạn bè, tri
thức; chẳng cho Sa-môn, Bà-la-môn, các bậc Tôn trưởng. Ông ta chỉ hưởng
nghiệp cũ, chẳng tạo cái mới. Thế nên Ðại vương, nếu có người trí, được
tài sản này, nên rộng bố thí, chớ có tiếc lẫn, lại sẽ được tài sản vô
cùng. Như thế, Ðại vương, nên học điều này.
Vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:
- Từ nay về sau con sẽ rộng bố thí cho
Sa-môn, Bà-la-môn, bốn bộ chúng. Còn các người ngoại đạo dị học tới xin,
con sẽ không chịu cho.
Thế Tôn bảo:
- Ðại vương! Chớ nghĩ thế. Vì cớ sao? Tất
cả chúng sanh đều do ăn mà sống còn, không có ăn liền chết.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Nhớ nên rộng bố thí,
Trọn chớ đoạn tâm thí,
Tất sẽ gặp Hiền Thánh,
Ðộ nguồn sanh tử này.
Vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:
- Nay con càng thêm hoan hỷ hướng về Như
Lai. Vì sao thế? Tất cả chúng sanh đều do ăn mà được tồn tại, không ăn thì
chẳng còn.
Vua Ba-tư-nặc nói:
- Từ nay về sau, con sẽ rộng bố thí không
có lẫn tiếc.
Khi ấy Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho
vua. Vua liền từ chỗ ngồi đứng lên cúi lạy rồi lui đi.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
5.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Tôn giả A-nan ở chỗ vắng vẻ, liền
nghĩ rằng: 'Ở thế gian, có loại hương nào vừa bay ngược gió, vừa bay thuận
gió, vừa bay cả thuận gió, ngược gió chăng?'.
Tôn giả A-nan liền từ chỗ ngồi đứng lên
đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên.
Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:
- Con ở chỗ vắng vẻ chợt nghĩ rằng: 'Thế
gian có mùi hương nào vừa bay ngược gió, vừa bay thuận gió, vừa bay cả
thuận gió, ngược gió chăng?'.
Thế Tôn bảo A-nan:
- Có loại diệu hương này mà mùi thơm cũng
bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay cả trong gió thuận và ngược.
A-nan bạch Thế Tôn:
- Ðấy là mùi hương nào mà hương cũng bay
ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay cả trong gió thuận và ngược?
Thế Tôn bảo:
- Có hương này mà sức của mùi thơm cũng
bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay cả trong gió thuận và ngược.
A-nan bạch Phật:
- Ðây là hương nào, cũng thơm ngược gió,
cũng thơm thuận gió, cũng thơm cả trong gió thuận và ngược?
Thế Tôn bảo:
- Ba loại hương này cũng bay ngược gió,
cũng bay thuận gió, cũng bay cả trong gió thuận và ngược.
A-nan bạch Thế Tôn:
- Ba loại nào?
Thế Tôn bảo:
- Giới hương, văn hương và thí hương. Ðó
là, này A-nan! Có loại hương này mà lại bay ngược gió, cũng bay thuận gió,
cũng bay ngược gió thuận gió. Các mùi hương có trên thế gian, thì ba loại
hương này tối thắng, tối thượng, không gì bằng, không gì bì kịp. Ví như do
bò có sữa, do sữa có lạc, do lạc có tô, do tô có đề hồ, mà đề hồ này tối
thắng, tối thượng, không gì bằng, không gì sánh kịp. Ðây cũng như thế, các
mùi hương có trong thế gian, ba loại này tối thắng, tối thượng không thể
bì kịp.
Thế Tôn liền nói kệ:
Mộc mật và chiên-đàn,
Ưu-bát và các hương,
Và các thứ mùi hương,
Giới hương là hơn hết.
Giới này làm thành tựu,
Vô dục, không chỗ nhiễm,
Ðẳng trí mà giải thoát,
Chỗ đi mà chẳng hay.
Hương này tuy là diệu,
Và các hương đàn, mật,
Hương giới là vi diệu,
Mười phương thảy đều nghe.
Chiên đàn tuy có hương,
Ưu Bát và hương khác,
Trong các thứ hương này,
Văn hương tối đệ nhất.
Chiên-đàn tuy có hương,
Ưu-bát và hương khác,
Trong các thứ hương này,
Thí hương tối đệ nhất.
Ðó là ba loại hương này cũng thơm ngược
gió, cũng thơm thuận gió, cũng thơm cả thuận gió ngược gió. Thế nên,
A-nan, nên cầu phương tiện thành tựu ba loại hương này. Như vậy, A-nan,
nên học điều này!
Bấy giờ A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ
vâng làm.
*
6.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở thành La-duyệt tại vườn
trúc Ca-lan-đà, cùng với năm trăm đại chúng Tỳ-kheo.
Bấy giờ Thế Tôn đến giờ, đắp y ôm bát vào
thành La-duyệt khất thực. Lúc đó, Ðề-bà-đạt-đa cũng vào thành khất thực.
Ðề-bà-đạt-đa đi vào trong ngõ xóm, Phật cũng đến chỗ đó. Nhưng Phật từ xa
trông thấy Ðề-bà-đạt-đa đến liền muốn thối lui mà đi.
Khi ấy A-nan bạch Phật:
- Cớ sao muốn xa lìa xóm này?
Thế Tôn bảo:
- Nay Ðề-bà-đạt-đa ở xóm này, nên Ta tránh
đi.
A-nan bạch Phật:
- Thế Tôn! Há sợ Ðề-bà-đạt-đa sao?
Thế Tôn bảo:
- Ta chẳng sợ Ðề-bà-đạt-đa, nhưng kẻ ác
này chẳng nên gặp gỡ.
A-nan thưa:
- Nhưng, bạch Thế Tôn! Có thể khiến cho
Ðề-bà-đạt-đa này tới phương khác.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:
Ta trọn không tâm này,
Khiến Ðề-bà ra đi,
Rồi sẽ tự tạo hạnh
Và tự ở chỗ khác.
A-nan bạch Phật:
- Nhưng Ðề-bà-đạt-đa có lỗi với Thế Tôn.
Thế Tôn bảo:
- Người ngu hoặc chẳng nên gặp gỡ.
Bấy giờ Thế Tôn nhìn A-nan mà nói kệ:
Chẳng nên thấy người ngu,
Chớ cùng ngu làm việc,
Cũng chớ nói năng cùng,
Nói những việc thị phi.
Khi ấy, A-nan lại dùng kệ đáp Thế Tôn:
Người ngu làm gì được?
Người ngu có lỗi gì?
Ngay cho cùng nói chuyện,
Lại có những lỗi nào?
Thế Tôn lại dùng kệ đáp A-nan:
Người ngu tự tạo hạnh,
Chỗ làm là phi pháp,
Chánh kiến trái luật thường,
Tà kiến ngày càng thêm.
Thế nên, A-nan, chớ cùng ác tri thức tùng
sự. Vì cớ sao? Cùng ác tri thức tùng sự thì không tín, không giới, không
văn, không trí. Cùng thiện tri thức tùng sự thì tăng thêm công đức, giới
thành tựu đầy đủ. Như vậy, A-nan, hãy học điều này!
Bấy giờ A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ
vâng làm.
*
7.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở thành La-duyệt, tại vườn
trúc Ca-lan-đà, cùng với năm trăm người.
Bấy giờ vua A-xà-thế thường đem năm trăm
nồi cơm cấp cho Ðề-bà-đạt-đa. Khi đó Ðề-bà-đạt-đa danh vang bốn phương,
giới đức đầy đủ, tiếng khen đầy đủ, có thể khiến cho vua hằng ngày đến
cúng dường.
Lúc đó, Ðề-bà-đạt-đa được lợi dưỡng này
rồi. Các Tỳ-kheo nghe được bạch với Thế Tôn:
- Nhân dân trong nước khen ngợi
Ðề-bà-đạt-đa, tiếng khen vang xa; khiến cho vua A-xà-thế hằng đến cúng
dường.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Tỳ-kheo các Thầy! Chớ ôm lòng ham lợi
dưỡng của Ðề-bà-đạt-đa. Vì sao thế? Người ngu Ðề-bà-đạt-đa tạo ba việc
này: thân, miệng, ý hành trọn không kinh sợ, hãi hùng. Như nay người ngu
Ðề-bà-đạt-đa sẽ lại hết các công đức lành này. Ví như đem chó dữ cắt mũi
nó, nó lại càng thêm hung ác. Người ngu Ðề-bà-đạt-đa cũng lại như thế;
nhận lợi dưỡng này rồi bèn khởi cống cao. Thế nên, các Tỳ-kheo, cũng chớ
khởi lòng đắm trước lợi dưỡng. Nếu có Tỳ-kheo mắc vào lợi dưỡng sẽ không
được ba pháp. Thế nào là ba? Ðó là Giới Hiền Thánh, Tam-muội Hiền thánh và
Trí tuệ Hiền Thánh không được thành tựu. Nếu có Tỳ-kheo không mắc lợi
dưỡng sẽ được ba pháp. Thế nào là ba? Ðó là Giới Hiền Thánh, Tam-muội Hiền
Thánh, và Trí tuệ Hiền Thánh. Nếu muốn thành tựu ba pháp này nên phát lòng
lành chớ mắc lợi dưỡng. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
8.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có ba bất thiện căn này. Thế nào là ba?
Tham bất thiện căn, sân bất thiện căn, si bất thiện căn. Nếu Tỳ-kheo có ba
bất thiện căn này sẽ đọa vào ba đường ác. Thế nào là ba? Nghĩa là địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Như thế, Tỳ-kheo, nếu có ba bất thiện căn này sẽ
có ba đường ác. Tỳ-kheo nên biết! Có ba thiện căn này. Thế nào là ba? Là
bất tham thiện căn, bất sân thiện căn, bất si thiện căn. Ðó là, Tỳ-kheo,
có ba thiện căn này nếu người có ba thiện căn này liền có hai đường thiện
và Niết-bàn là ba. Thế nào là hai đường? Nghĩa là Người, Trời vậy. Ðó là,
này các Tỳ-kheo, người có ba điều lành này sẽ sanh cõi lành này. Thế nên,
các Tỳ-kheo, hãy lìa ba bất thiện căn, tu ba thiện căn. Như thế, các
Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
9.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có ba nhóm này. Thế nào là ba? Nghĩa là
nhóm chánh (đẳng tụ), nhóm tà và nhóm bất định.
Thế nào là nhóm chánh? Nghĩa là chánh
kiến, chánh tư duy (chánh chí), chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh
tinh tấn (phương tiện), chánh niệm, chánh định. Ðó là nhóm chánh.
Thế nào gọi là nhóm tà? Nghĩa là tà kiến,
tà tư duy (tà chí), tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện (tinh tấn),
tà niệm, tà định. Ðó là nhóm tà.
Thế nào gọi là nhóm bất định? Nghĩa là
không biết Khổ, không biết Tập, không biết Tận (diệt), không biết Ðạo,
không biết nhóm chánh, chẳng biết nhóm tà. Ðó là nhóm bất định.
Các Tỳ-kheo nên biết, lại có ba nhóm. Thế
nào là ba? Nghĩa là nhóm thiện, nhóm chánh, nhóm định.
Thế nào gọi là nhóm thiện? Nghĩa là ba
thiện căn. Những thiện căn nào? Nghĩa là bất tham thiện căn, bất sân thiện
căn, bất si thiện căn. Ðó là nhóm thiện.
Thế nào gọi là nhóm chánh? Nghĩa là Tám
đạo phẩm của Hiền Thánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định (tam-muội). Ðó
là nhóm chánh.
Thế nào gọi là nhóm định? Ðó là biết Khổ,
biết Tập, biết Tận, biết Ðạo, biết nhóm lành, biết đường ác, biết nhóm
định. Ðó gọi là nhóm định.
Thế nên, các Tỳ-kheo, trong ba nhóm này,
nhóm tà và nhóm bất định phải nên tránh xa. Còn nhóm chánh này nên vâng
làm. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
10.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có ba quán tưởng này. Thế nào là ba?
Nghĩa là quán dục tưởng, quán sân tưởng và sát hại tưởng. Ðó là, Tỳ-kheo
có ba tưởng này Tỳ-kheo nên biết: Nếu có người quán dục tưởng, lúc chết sẽ
đọa trong địa ngục. Nếu quán sân tưởng, lúc chết sanh trong súc sanh; đó
là thuộc loại gà, chó, loài rắn rết mà sanh trong đó. Nếu quán hại tưởng
khi chết thì sẽ sanh trong ngạ quỷ, hình thể bị thiêu đốt, khổ sở không kể
được. Ðó là, này Tỳ-kheo có ba tưởng này sẽ sanh trong địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh.
Lại có ba tưởng. Thế nào là ba? Nghĩa là
xuất yếu tưởng, bất hại tưởng và bất sân tưởng. Nếu có người có tưởng xuất
yếu, lúc chết sẽ sanh trong loài Người. Nếu người có tưởng bất hại, lúc
chết sanh lên cõi Trời. Nếu có người có tâm bất sân, lúc chết đoạn được
năm kiết (sử) sẽ ở nơi đó mà nhập Niết-bàn. Ðó là, Tỳ-kheo, có ba tưởng
này thường nhớ tu hành; ba ác tưởng này nên xa lìa chúng. Như thế, các
Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
Ðịa Chủ, Bà-câu, Nhĩ (Sô-na),
Bà-đề, nghịch thuận hương,
Ngu, thế gian, ba bất thiện,
Ba nhóm quán ở sau.
XXIV.1. Phẩm Cao Tràng (1)
1.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ngày xưa, Trời Ðế Thích bảo Trời Ba mươi
ba: 'Các Khanh, nếu lúc vào cuộc chiến lớn, hễ có tâm sợ hãi, kinh hoàng,
các Khánh hãy quay nhìn lá tràng (cờ) của Ta thì sẽ không sợ hãi. Nếu
chẳng nhớ lá cờ của ta hãy nhớ lá cờ của Thiên vương Y-sa, vì nhớ cờ đó,
người sẽ tiêu hết sự sợ hãi. Nếu không nhớ cờ của Ta và cờ của Thiên vương
Y-sa, bấy giờ hãy nhớ lá cờ của Thiên vương Bà-lưu-na, vì nhớ là cờ kia,
liền tiêu diệt sự sợ hãi'.
Nay ta lại bảo các Thầy: Nếu có Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nếu có sợ hãi, lông áo dựng ngược, bấy
giờ hãy nhớ đến thân Ta, đây là Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân
Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời. Nếu ai có sợ hãi, lông áo dựng đứng thì
sợ hãi ấy liền tự tiêu diệt. Nếu lại chẳng nhớ Ta, bấy giờ nên nhớ Pháp,
Pháp của Như Lai rất là vi diệu, là chỗ người trí học. Do nhớ Pháp, liền
tiêu diệt sợ hãi. Nếu chẳng nhớ Ta, cũng chẳng nhớ Pháp, bấy giờ nên nhớ
Thánh chúng, Thánh chúng, của Như Lai rất là hòa thuận, pháp pháp thành
tựu, giới thành tựu, tam-muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát
thành tựu, giải thoát kiến tuệ thành tựu; nghĩa là bốn đôi, tám bậc; đây
là Thánh chúng của Như Lai, đáng kính, đáng thờ, là phước điền của thế
gian, đó là Thánh chúng của Như Lai, bấy giờ nếu nhớ Tăng rồi, sự sợ hãi
liền tiêu diệt.
Tỳ-kheo nên biết, Thích-đề-hoàn-nhân còn
có dâm nộ si, mà Trời Ba-mươi-ba nhớ đến chúa mình liền không sợ hãi,
huống lại Như Lai không có tâm dục nộ si, nên nhớ mà có sợ hãi sao? Nếu
Tỳ-kheo có sợ hãi thì sợ hãi ấy liền tự tiêu diệt. Thế nên các Tỳ-kheo,
nên nghĩ nhớ ba bậc Phật, Pháp, Thánh chúng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên
học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
2.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ nước Bạt-kỳ có quỷ tên là Tỳ-sa ở
tại nước đó rất hung bạo, giết người vô số; hằng ngày giết một người, hoặc
ngày giết hai người, ba người, bốn người, năm người, mười người, hai mươi
người, ba mươi người, bốn mươi người, năm mươi người.
Bấy giờ các quỷ thần, la-sát đầy dẫy khắp
trong nước. Lúc ấy nhân dân Bạt-kỳ tụ tập nhau lại mà nói rằng:
- Chúng ta phải tránh nước này, đi đến
nước khác, chẳng nên ở đây.
Bấy giờ ác quỷ Tỳ-sa biết tâm niệm của
nhân dân, liền bảo họ rằng:
- Các Ngươi chớ lìa xứ này đến xứ khác. Vì
sao thế? Vì trọn chẳng khỏi tay ta. Các Ngươi ngày ngày đem một người dâng
ta, ta sẽ không khuấy rối các Ngươi.
Từ đó, nhân dân mỗi ngày đem một người nạp
cho ác quỷ kia. Quỷ kia ăn người đó xong, đem hài cốt ném vào núi khác. Về
sau, xương đầy hang, suối.
Khi ấy, có Trưởng giả tên là Thiện Giác, ở
tại nước ấy, lắm tiền nhiều của, tài sản ngàn ức, lừa, ngựa, lạc đà không
đếm xiết; vàng bạc, trân bảo, xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách cũng
không thể đếm. Bấy giờ, Trưởng giả có con tên là Na-ưu-la, là đứa con duy
nhất ông ta rất yêu quý không rời mắt. Lúc ấy, có kỳ hạn này, đứa bé
Na-ưu-la đến phiên dâng cho quỷ. Cha mẹ Na-ưu-la tắm rửa cho đứa bé này,
mặc áo đẹp đem đến bãi tha ma nơi quỷ ở. Ðến rối, họ khóc lóc, kể lể không
thể tả, cùng nói rằng:
- Chư Thần, Ðịa thần đều cùng chứng minh.
Chúng tôi chĩ có một đứa con này, mong các thần minh hãy chứng minh cho,
và hai mươi tám Ðại quỷ thần vương, hãy gìn giữ đứa bé khỏi nguy ác; Và Tứ
thiên vương, đều xin cùng được gởi gắm tánh mạng, mong ủng hộ đứa bé này
khiến được tai qua nạn khỏi; cùng Thích-đề-hoàn-nhân, cũng xin hướng về
quy mạng Phạm thiên vương nguyện thoát được mạng này, tất cả Quỷ Thần hộ
thế, chúng tôi xin quy mạng, cho thoát được ác này; các đệ tử A-la-hán lậu
tận của Như Lai con cũng xin quy mạng, khiến thoát khỏi ách này, con cũng
lại quy y các Bích-chi Phật, không thầy tự giác, khiến thoát được ách này;
con cũng tự quy y đấng Như Lai, là bậc hàng phục những người không hàng
phục, độ những người chưa độ, thâu nhận những người chưa được thâu nhận,
giải thoát người chưa giải thoát, những người chẳng nhập Niết-bàn khiến
nhập Niết-bàn, người không được cứu liền cứu hộ cho, Ngài làm con mắt cho
người mù, làm đại y vương cho người bệnh. Nếu ở Trời, Rồng, Quỷ thần, tất
cả Nhân ma và Thiên ma, Ngài là bậc tối tôn, tối thượng phước tốt lành cho
người, không ai vượt trên Ngài. Vậy mong Như Lai hãy giám sát cho, xin Như
Lai hãy soi thấu lòng thành này.
Bấy giờ, cha mẹ Na-ưu-la liền đem đứa bé
này giao cho quỷ rồi lui đi. Khi ấy, Thế Tôn dùng thiên nhãn thanh tịnh,
lại dùng thiên nhĩ thấu suốt, nghe được lời này, (biết) cha mẹ Na-ưu-la
khóc lóc không thể kể xiết. Thế Tôn liền dùng sức thần túc đến chỗ ác quỷ
ở trong núi kia. Ác quỷ ở chỗ của quỷ thần tại phía Bắc Tuyết Sơn. Thế Tôn
vào trụ xứ của quỷ mà ngồi, chánh thân, chánh ý ngồi kiết-già. Bấy giờ,
đứa bé Na-ưu-la đi dần đến chỗ ác quỷ ở. Bé Na-ưu-la xa trông thấy Như Lai
tại trụ xứ của ác quỷ, hào quang rực rỡ, chánh thân, chánh ý, buộc niệm ở
trước, nhan sắc đoan chánh, kỳ lạ hơn đời, các căn tịch tĩnh, được các
công đức hàng phục các ma. Các đức như thế chẳng thể tính kể. Ngài có ba
mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, như núi Tu-di cao
vượt các đỉnh núi, mặt như mặt trời, mặt trăng, lại cũng như ánh sáng núi
vàng chiếu xa. Cậu bé thấy xong mừng rỡ, hướng đến Như Lai và nghĩ: 'Ðây
chắc chẳng phải ác quỷ Tỳ-sa. Vì sao thế? Nay ta thấy Ngài lòng vui mừng
hết sức. Nếu đúng là ác quỷ xin tùy ý để cho ăn'.
Bấy giờ Thế Tôn bảo rằng:
- Na-ưu-la, như lời con nói, nay Ta là Như
Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, đến để cứu con và hàng phục ác quỷ này.
Bé Na-ưu-la nghe xong, vui mừng hớn hở
không kềm được, liền đến chỗ Như Lai cúi lạy, rồi ngồi một bên. Thế Tôn
thuyết luận diệu nghĩa cho bé. Luận là luận về thí, luận về giới, luận
sanh thiên, dục là uế ác, lậu là bất tịnh, xuất gia là cần yếu, trừ các
loạn tưởng.
Thế Tôn thấy bé Na-ưu-la tâm ý hoan hỉ,
tánh nhu nhuyến. Chư Phật Thế Tôn thường thuyết Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, nay
Thế Tôn thuyết đủ cho chú bé. Chú bé ở ngay chỗ ngồi, sạch các trần cấu,
được pháp nhãn thanh tịnh. Bé đã thấy pháp, đắc pháp, thành tựu các pháp,
vâng nhận các pháp không có hồ nghi, hiểu rõ lời dạy của Như Lai. Bé quy y
Phật, Pháp và Thánh chúng mà thọ ngũ giới.
Lúc đó ác quỷ Tỳ-sa trở lại chỗ ở của
mình, từ xa ác quỷ trông thấy Thế Tôn ngồi ngay ngắn, tư duy, thân không
nghiêng động. Thấy rồi, ác quỷ giận dữ nổi mưa, sấm, chớp, sét rền hướng
vào Như Lai; hoặc mưa đao kiếm, nhưng lúc chưa rơi xuống đất liền hóa
thành hoa sen ưu-bát. Bấy giờ quỷ kia càng thêm sân hận, mưa các thứ núi,
sông, đá, gạch; lúc rơi xuống đất lại hóa thành thức ăn, thức uống. Quỷ
kia lại hóa thành voi lớn kêu rống phóng tới Như Lai. Bấy giờ Thế Tôn lại
hóa làm sư tử chúa. Quỷ kia lại hóa làm thân sư tử phóng đến Như Lai. Bấy
giờ Thế Tôn hóa làm chim cánh vàng lớn. Quỷ kia liền nghĩ: 'Ta có bao
nhiêu thần lực đã hiện hết rồi, nhưng Sa-môn này lông áo vẫn bất động. Nay
ta hãy đến hỏi thâm nghĩa'. Rồi quỷ kia hỏi Thế Tôn rằng:
- Nay ta là Tỳ-sa muốn hỏi thâm nghĩa. Nếu
không đáp được sẽ nắm hai chân Ngài ném vào biển Nam.
Thế Tôn bảo:
- Ác quỷ nên biết, Ta tự quán sát, không
có Trời, Người, Sa-môn, Bà-la-môn, như người hay phi nhân nào có thể nắm
hai chân Ta mà ném vào biển Nam được. Nhưng nay Ông muốn hỏi nghĩa thì cứ
hỏi đi.
Ác quỷ bèn hỏi:
- Sa-môn! Thế nào là hạnh cũ? Thế nào là
hạnh mới? Thế nào là hạnh diệt?
Thế Tôn bảo:
- Ác quỷ nên biết: Mắt là hạnh cũ, việc
làm ngày xưa duyên với thọ thành hạnh; tai, mũi, miệng, thân, ý, đây là
hạnh cũ, lúc trước tạo duyên với thọ thành hạnh. Này ác quỷ, đó là hạnh
cũ.
Quỷ Tỳ-sa nói;
- Sa-môn! Cái gì là hạnh mới?
Thế Tôn bảo:
- Thân ngày nay tạo: thân ba, miệng bốn, ý
ba. Này ác quỷ, đây là hạnh mới.
Ác quỷ hỏi:
- Thế nào là hạnh diệt?
Thế Tôn bảo:
- Ác quỷ nên biết: Hạnh cũ diệt hết không
khởi lên nữa, lại chẳng tạo hạnh, hay giữ hạnh này trọn chẳng sanh, dứt
hẳn không sót. Ðó là hạnh diệt.
Bấy giờ ác quỷ bạch Thế Tôn rằng:
- Nay ta quá đói, sao lại đoạt thức ăn của
ta? Ðứa bé này là món ăn của ta. Sa-môn, hãy trả cho ta đứa bé này.
Thế Tôn bảo:
- Khi xưa lúc Ta chưa thành đạo, từng làm
Bồ-tát, có bồ câu bay đến Ta, Ta còn chẳng tiếc thân mạng cứu bồ câu ấy
khỏi nạn, huống ngày nay Ta đã thành Như Lai, lại có thể bỏ đứa bé cho Ông
ăn thịt? Ác quỷ, nay dù Ông dùng hết thần lực, Ta trọn chẳng trao cho Ông
đứa bé này. Thế nào Ác quỷ? Dưới thời Phật Ca-Diếp, Ông từng làm Sa-môn,
tu trì Phạm hạnh, sau lại phạm giới mà sanh làm ác quỷ này.
Bấy giờ ác quỷ nương oai thần của Phật,
nhớ lại các hạnh đã tạo ngày xưa, liền đến chỗ Thế Tôn cúi lạy mà nói:
- Nay con ngu mê, không phân biệt chân
ngụy mà sanh tâm này đối với Như Lai. Cúi mong đức Thế Tôn cho con sám
hối.
Thưa như thế ba bốn lần. Thế Tôn bảo:
- Chấp nhận Ông hối lỗi, chớ có phạm nữa.
Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho ác
quỷ khiến được hoan hỉ. Ác quỷ dâng mấy ngàn lượng vàng lên Thế Tôn và
bạch Thế Tôn rằng:
- Nay con đem hang núi này cúng cho chiêu
đề tăng. Cúi mong Thế Tôn nhận cho con và mấy ngàn lượng vàng này.
Như thế hai ba lần. Lúc ấy, Thế Tôn liền
nhận hang núi rồi nói kệ:
Vườn quả thí thanh lương,
Và làm cầu đò sông,
Nếu hay tạo thuyền lớn,
Và các vật dưỡng sanh,
Ngày đêm không lười mỏi,
Ðược phước không thể lường.
Pháp nghĩa, giới thành tựu,
Chết rồi, sanh lên trời.
Quỷ kia bạch Thế Tôn:
- Chẳng rõ Thế Tôn còn dạy gì không?
Thế Tôn bảo:
- Nay Ông nên bỏ hình tướng cũ, đắp ba y
làm Sa-môn, vào thành Bạt-kỳ, đi khắp nơi nói lời dạy này: 'Chư Hiền nên
biết: Như Lai ra đời, người không chịu hàng phục liền được hàng phục; độ
người không độ được; người không giải thoát khiến biết giải thoát; cứu hộ
người không được cứu; làm con mắt cho người mù, là bậc tối tôn, tối
thượng, không ai bằng trong chư Thiên nhân, Thiên long, Quỷ thần, Ma hoặc
Thiên ma, Nhân và Phi nhân, đáng kính, đáng quý, làm phước điền tốt lành
cho người. Hôm nay Ngài đã độ đứa bé Na-ưu-la và hàng phục ác quỷ Tỳ-sa.
Các Ông nên đến nơi ấy nghe lời giáo hóa'.
Ác quỷ đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn.
Bấy giờ quỷ Tỳ-sa làm Sa-môn, đắp ba y vào
các làng xóm nói lời dạy này: 'Hôm nay Thế Tôn độ đứa bé Na-ưu-la và hàng
phục ác quỷ Tỳ-sa. Các Ông nên đến nhận lời dạy dỗ của Ngài'.
Ngay lúc đó, ở nước Bạt-kỳ, nhân dân tụ
tập đông đúc. Trưởng giả Thiện Giác nghe lời này xong, vui mừng hớn hở
không kềm được, liền đem tám vạn bốn ngàn người đến chỗ Thế Tôn. Ðến nơi,
cúi lạy xong ngồi một bên. Bấy giờ, nhân dân Bạt-kỳ, có người lạy chân
Phật, có người nâng tay. Khi tám vạn bốn ngàn chúng đã ngồi một bên xong,
Thế Tôn dần dần thuyết pháp vi diệu cho họ. Luận tức là luận về thí, luận
về giới, luận sanh thiên, dục là tưởng bất tịnh, lậu là họa lớn.
Bấy giờ Thế Tôn quan sát tám vạn bốn ngàn
chúng kia, tâm ý vui thích. Chư Phật Thế Tôn thuyết pháp Khổ, Tập, Diệt,
Ðạo, Ngài đem pháp này thuyết cho tám vạn bốn ngàn chúng kia. Tất cả ở
ngay trên tòa các trần cấu sạch hết, được pháp nhãn thanh tịnh giống như
áo trắng sạch dễ nhuộm màu. Tám vạn bốn ngàn chúng này cũng lại như thế.
Các trần cấu sạch, được pháp nhãn thanh tịnh, đắc pháp, thấy pháp, phân
biệt các pháp không có hồ nghi, được không chỗ sợ, họ tự quy y Tam bảo
Phật, Pháp, Thánh chúng mà thọ ngũ giới.
Trưởng giả cha của Na-ưu-la bạch Thế Tôn:
- Cúi mong Thế Tôn nhận lời thỉnh cầu của
con.
Lúc ấy Thế Tôn yên lặng nhận lời. Trưởng
giả thấy Thế Tôn yên lặng nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy rồi
lui về nhà, bày các thức ăn uống bao nhiêu vị. Sáng sớm hôm đó ông tự đến
bạch Phật rằng đã đến giờ.
Bấy giờ, Thế Tôn đúng giờ, đắp y ôm bát
vào thành bạt-kỳ, đến nhà Trưởng giả, lại tòa mà ngồi. Trưởng giả thấy Thế
Tôn đã ngồi yên, ông tự mình châm chước các thức ăn uống. Khi thấy Phật
ngọ trai xong, ông đem nước trong sạch đến, rồi lấy một chiếc ghế đến
trước Như Lai ngồi, bạch Thế Tôn:
- Lành thay, Thế Tôn! Nếu bốn bộ chúng cần
y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men trị bệnh, đều xin đến nhà con
lấy.
Thế Tôn bảo:
- Lành thay, Trưởng giả! Như lời Ông nói.
Thế Tôn liền thuyết pháp vi diệu cho
Trưởng giả, thuyết pháp xong liền từ chỗ ngồi đứng lên đi.
Bấy giờ, Thế Tôn như trong khoảng co duỗi
cánh tay, từ Bạt-kỳ biến mất, trở về Tinh xá Kỳ Hoàn ở Xá-vệ. Khi ấy, Thế
Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu bốn bộ chúng cần y phục, ẩm thực,
giường nằm, thuốc men trị bệnh, nên đến nhà cha của Na-ưu-la mà lấy.
Thế Tôn lại bảo Tỳ-kheo:
- Như Ta hôm nay, đệ tử Ưu-bà-tắc không
lẫn tiếc bậc nhất là cha của Na-ưu-la.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
3.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở trong vườn Thích-sĩ
Ni-câu-lưu cùng với năm trăm đại chúng Tỳ-kheo.
Bấy giờ mấy ngàn người vọng tộc họ Thích,
đến chỗ Thế Tôn cúi lạy và ngồi một bên:
Những người họ Thích bạch Thế Tôn:
- Ngày nay, Ngài nên làm vua cai trị nước
nhà để dòng họ chúng ta không bị hư mất, không làm cho ngôi Chuyển luân
Thánh vương bị đoạn diệt. Nếu Thế Tôn không xuất gia, đáng lẽ làm Chuyển
luân Thánh vương trong thiên hạ, thống lãnh bốn thiên hạ, đầy đủ ngàn con.
Dòng họ chúng ta tên tuổi vang xa là dòng họ Thích sanh ra Chuyển luân
Thánh vương. Vì thế, Thế Tôn, hãy làm vua, đừng để dòng vua đoạn dứt.
Thế Tôn bảo:
- Nay Ta chính là thân vua, gọi là Pháp
vương. Vì sao thế? Nay Ta hỏi các Ông: Thế nào các vị họ Thích? Bảo rằng
Chuyển luân Thánh vương bảy báu đầy đủ, có ngàn con dũng mãnh. Nay Ta ở
trong tam thiên đại thiên cõi nước là bậc Tối tôn, Tối thượng chẳng ai
bằng, thành tựu Thất giác ý bảo, có vô số hàng ngàn con Thanh văn vây
quanh.
Thế Tôn liền nói kệ:
Nay dùng địa vị này,
Ðược rồi sau lại mất,
Vị này là Tối thắng,
Không cuối, không có đầu.
Ðã thắng, không thể đoạt,
Thắng này là tối thắng,
Nhưng Phật vô lượng hạnh,
Không vết, ai noi dấu?
Thế nên, này các vị Thích tử (Cồ-đàm), hãy
tìm phương tiện làm vua Chánh pháp để cai trị. Như thế, các Thích tử, nên
học điều này!
Bấy giờ những vị họ Thích nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
*
4.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ có một Tỳ-kheo đến chỗ Thế Tôn,
cúi đầu lạy rồi ngồi một bên. Lúc ấy, vị Tỳ-kheo kia bạch Thế Tôn:
- Có sắc nào thường còn không biến đổi,
tồn tại mãi ở đời mà không di động chăng? Có thọ, tưởng, hành, thức nào
hằng còn không biến đổi, tồn tại mãi ở đời mà không di động chăng?
Thế Tôn bảo:
- Tỳ-kheo, không có sắc nào hằng còn tồn
tại mãi ở đời mà không biến đổi; lại cũng không có thọ, tưởng, hành, thức
hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi. Này Tỳ-kheo, nếu lại có sắc này hằng
còn mãi ở đời mà không biến đổi thì người tu Phạm hạnh chẳng thể phân
biệt; nếu thọ, tưởng, hành, thức tồn tại mãi ở đời mà không biến đổi thì
người tu Phạm hạnh chẳng thể phân biệt. Thế nên, này Tỳ-kheo, vì sắc chẳng
thể phân biệt, không tồn tại mãi ở đời, thế nên người Phạm hạnh có thể
phân biệt, dứt hết gốc khổ; thọ, tưởng, hành, thức cũng không tồn tại mãi
ở đời, thế nên người Phạm hạnh có thể phân biệt, dứt được gốc khổ.
Bấy giờ Thế Tôn vít một ít đất để trên
móng tay bảo Tỳ-kheo kia:
- Thế nào Tỳ-kheo, Thầy thấy đất trên móng
tay này chăng?
Tỳ-kheo đáp:
- Thưa vâng, Thế Tôn! Con đã thấy.
Phật bảo Tỳ-kheo:
- Nếu có một chút sắc như thế hằng còn ở
đời, thì người Phạm hạnh chẳng thể phân biệt được hết mé khổ. Vì thế,
Tỳ-kheo, vì không một chút sắc nào còn, liền hành được Phạm hạnh, dứt được
mé khổ. Vì sao như thế? Tỳ-kheo nên biết, ngày xưa Ta từng làm đại vương,
thống lãnh bốn thiên hạ, dùng pháp cai trị, thống lãnh nhân dân, bảy báu
đầy đủ. Bảy báu là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, cư sĩ
báu, điển binh báu. Tỳ-kheo nên biết, lúc đó Ta là Chuyển luân Thánh vương
thống lãnh bốn thiên hạ, có tám vạn bốn ngàn voi thần, voi tên Bồ-hô; lại
có bốn ngàn xa vũ bảo, hoặc dùng da sư tử phủ, hoặc dùng da beo phủ, treo
đầy tràng phan, lọng cao; lại có tám vạn bốn ngàn đài cao rộng, giống như
chỗ ở của Thiên đế; lại có tám vạn bốn ngàn giảng đường so bằng giảng
đường thuyết pháp; lại có tám vạn bốn ngàn y phục để phục sức, đều đẹp đẽ
mềm mại; lại có tám vạn bốn ngàn món ẩm thực, bao nhiêu thứ mùi vị.
Tỳ-kheo nên biết, lúc ấy, Ta cỡi một con voi lớn, màu cực trắng, miệng đẹp
có sáu ngà, vàng bạc kết đầy thân, có thể bay được, cũng có thể ẩn hình,
hoặc lớn hoặc nhỏ, voi ấy tên Bồ-hô; lúc ấy, ta cỡi một con thần mã, lông
đuôi màu đỏ, đi thân không động, vàng bạc kết trên thân, có thể bay đi,
cũng có thể ẩn hình, hoặc lớn hoặc nhỏ, ngựa ấy tên Mao Vương, lúc ấy, Ta
ở trong một đài giữa tám vạn bốn ngàn đài cao rộng, đài tên Tu-ni-ma, làm
bằng vàng ròng, lúc ấy Ta nghỉ ngơi trong một giảng đường, giảng đường tên
Pháp Thuyết, làm bằng vàng ròng; lúc ấy Ta cỡi một xe vũ bảo, xe tên Tối
Thắng, làm bằng vàng ròng, Ta cùng một ngọc nữ ở bên cạnh để sai khiến
cũng như chị em, lúc ấy Ta ngồi trên một tòa trong số tám vạn bốn ngàn tòa
cao rộng, vàng bạc, anh lạc chẳng thể tính kể, Ta mặc y phục đẹp như áo
trời, ăn những thức ăn mùi vị cam lồ, đương lúc đó, Ta làm Chuyển luân
Thánh vương, tám vạn bốn ngàn voi thần mỗi sáng đến, làm phía ngoài cửa bị
hư hại rất nhiều, chẳng thể tính kể. Ta liền nghĩ: 'Tám vạn bốn ngàn voi
thần này sáng sáng kéo đến, khiến ngoài cửa tổn hại rất nhiều không thể kể
xiết. Nay lòng Ta muốn chia chúng làm hai phần, mỗi sáng bốn vạn hai ngàn
con đến chầu'.
Bấy giờ, này Tỳ-kheo, Ta nghĩ: 'Xưa Ta tạo
phước gì, lại làm đức gì, mà nay có được oai lực này?' Rồi Ta lại nghĩ:
'Do ba việc nhân duyên khiến Ta gặt được phước đức này. Thế nào là ba?
Nghĩa là tuệ thí, nhân tử, và tự gìn giữ'.
Tỳ-kheo hãy xem, các hành bấy giờ đã diệt
hẳn không còn sót. Bấy giờ dạo ở dục ý không biết chán. Chán là đối với
giới luật Hiền Thánh sanh chán bỏ. Thế nào, Tỳ-kheo, sắc này là thường hay
vô thường?
Tỳ-kheo đáp:
- Bạch Thế Tôn, vô thường.
- Nếu là vô thường, là pháp biến đổi, Thầy
có nên sanh tâm này: 'Ðây là của ta, ta thuộc về nó' chăng?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô
thường?
Tỳ-kheo đáp:
- Bạch Thế Tôn, vô thường.
- Nếu là vô thường là pháp biến đổi, Thầy
có nên sanh tâm này: 'Ðây là ta, ta thuộc về nó' chăng?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Thế nên, Tỳ-kheo, các sắc đã có, từ quá
khứ, hiện tại, vị lai, hoặc lớn hay nhỏ, hoặc tốt hay xấu, hoặc xa hay
gần. Sắc này cũng chẳng phải của ta, ta cũng chẳng phải thuộc sắc. Ðây là
chỗ học của người trí. Các thọ đã có từ quá khứ, tương lai, hiện tại, hoặc
xa hay gần, thọ này cũng chẳng phải của ta, ta cũng chẳng phải thuộc nó.
Như thế người trí giác biết. Tỳ-kheo nên quán thế này. Nếu bậc Thanh văn
chán ghét tai họa của mắt, chán ghét hoạn ở sắc, chán ghét hoạn của nhãn
thức, nếu do mắt sanh khổ vui cũng lại chán ghét. Cũng lại chán ghét đối
với tai, chán tiếng, chán nhĩ thức, nếu nương nhĩ thức (tai) sanh khổ vui
cũng lại chán ghét; mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại chán ghét, nếu nương ý
pháp sanh khổ vui cũng lại chán ghét. Ðã chán ghét liền giải thoát, liền
được trí giải thoát: 'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã
làm xong, chẳng còn thọ thân nữa', như thực mà biết.
Khi ấy Tỳ-kheo kia được Thế Tôn dạy như
thế, ở chỗ vắng vẻ tư duy tự tu. Ðó là người vọng tộc, cạo bỏ râu tóc, đắp
ba pháp y, xuất gia, tu phạm hạnh vô thượng: 'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã
lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân nữa', như thật mà biết.
Tỳ-kheo kia liền thành A-la-hán.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
5.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Ma-kiệt, nơi cây
Bồ-đề Ðạo Tràng, lúc vừa thành Phật. Bấy giờ Thế Tôn liền nghĩ: 'Nay Ta
được pháp thâm sâu này, khó hiểu, khó rõ, khó tri, khó giác. Trí cực kỳ vi
diệu mới giác tri được. Nay Ta thuyết pháp cho ai đầu tiên? Người hiểu
được pháp Ta là ai?'
Bấy giờ Thế Tôn lại nghĩ: 'La-lặc-ca-lam,
các căn thuần thục đáng được độ trước, vì ông ta trông đợi pháp của Ta'.
Nghĩ thế xong, trên hư không có vị Trời
bạch Thế Tôn:
- La-lặc-ca-lam đã chết bảy ngày.
Bấy giờ Thế Tôn lại nghĩ: 'Thật khổ thay!
Ông ta chẳng nghe được pháp Ta mà đã mạng chung. Nếu nghe pháp Ta liền
được giải thoát'.
Thế Tôn lại nghĩ: 'Nay Ta nên thuyết pháp
cho ai đầu tiên để họ được giải thoát? Nay Uất-đầu-lam-phất đáng được độ
trước, Ta sẽ thuyết pháp cho ông ta. Nghe pháp Ta xong, ông sẽ được giải
thoát trước'.
Thế Tôn nghĩ vậy rồi, thì trong hư không
có vị Trời nói rằng:
- Nửa đêm hôm qua, ông ta đã mạng chung.
Thế Tôn lại nghĩ: 'Uất-đầu-lam-phất sao mà
khổ thế! Chẳng được nghe pháp của Ta thì ông mà đã chết rồi. Nếu được nghe
pháp của Ta thì ông liền được giải thoát'.
Thế Tôn lại nghĩ: 'Ai nghe pháp trước tiên
mà được giải thoát?'
Thế Tôn lại tự duy lần nữa: 'Năm Tỳ-kheo
có nhiều lợi ích, khi Ta mới sanh họ vẫn theo sau Ta'.
Thế Tôn lại nghĩ: 'Nay năm Tỳ-kheo đang ở
chỗ nào?'
Ngài liền dùng thiên nhãn quán năm Tỳ-kheo
đang ở trong vườn Nai của Tiên nhân tại nước Ba-la-nại, rồi nghĩ: 'Nay Ta
trước tiên đến thuyết pháp cho năm Tỳ-kheo, họ nghe pháp Ta rồi sẽ được
giải thoát'.
Bấy giờ Thế Tôn trong suốt bảy ngày nhìn
chăm chú cây Bồ-đề (đạo thọ) không hề chợp mắt.
Thế Tôn nói bài kệ này:
Nay ta ngồi chỗ này,
Trải qua khổ sanh tử,
Cầm vững búa trí tuệ,
Chặt đứt rễ trồng xưa,
Thiên vương đến nơi này,
Và các quyến thuộc ma,
Lại đem phương tiện hàng,
Khiến đội mũ giải thoát.
Nay dưới gốc cây này,
Ngồi trên tòa kim cương.
Ðã được nhất thiết trí,
Ðược tuệ không chỗ ngại.
Ta ngồi dưới cây này,
Thấy rõ khổ sanh tử,
Ðã bỏ nguồn gốc chết,
Già, bịnh, trọn không sót.
Thế Tôn nói kệ này xong, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, hướng về nước Ba-la-nại mà đi.
Lúc đó Phạm chí Ưu-ti-ca từ xa, trông thấy
Thế Tôn có hào quang rực rỡ che khuất ánh sáng mặt trời, mặt trăng.
Thấy rồi, ông bạch Thế Tôn:
- Này Sư chủ (Thầy) của Cồ-đàm ở đâu? Ngài
nương theo ai xuất gia học đạo? hằng ưa thuyết giáo pháp nào? Ngài từ đâu
đến và muốn đi đâu?
Thế Tôn hướng về Phạm chí kia mà nói kệ:
Ta thành A-la-hán,
Thế gian chẳng ai sánh,
Trời và Người thế gian,
Nay Ta là Tối thượng.
Ta cũng chẳng thầy dạy,
Lại cũng không ai bằng,
Ðộc tôn chẳng người hơn,
Lạnh mà chẳng ấm lại.
Nay sẽ chuyển Pháp luân,
Ðến tại nước Ca-thi
Nay đem thuốc cam lồ,
Mở mắt người mù lòa.
Cõi nước Ba-la-nại,
Vương thổ nước Ca-thi,
Chỗ năm Tỳ-kheo ở,
Muốn thuyết pháp vi diệu,
Khiến họ sớm thành đạo,
Và được lậu tận thông,
Ðể trừ nguồn pháp ác,
Thế nên là Tối thắng.
Khi ấy Phạm chí kia khen ngợi, cúi đầu,
chắp tay, khảy móng tay, mỉm cười theo đường mà đi.
Khi Thế Tôn đến Ba-la-nại, năm Tỳ-kheo từ
xa thấy Thế Tôn đến, bèn cùng bàn bạc với nhau:
- Ðây Sa-môn Cù-đàm từ xa đến, Ông ta tánh
tình lầm lẫn, tâm không chuyên nhất tinh cần. Chúng ta chớ có nói chuyện
với Ông ta, cũng đừng đứng dậy đón, cũng đừng mời ngồi.
Bấy giờ năm người liền nói kệ:
Người này chẳng đáng kính,
Cũng chớ cùng thân cận,
Lại đừng kêu chào mừng,
Cũng chẳng nên mời ngồi.
Năm người nói kệ này xong đều im lặng. Thế
Tôn tiến dần đến năm Tỳ-kheo. Khi đến gần, năm Tỳ-kheo từ từ đứng lên tiếp
đón, người thì trải tòa, người múc nước. Lúc ấy Thế Tôn liền đến trước
ngồi, suy nghĩ thế này: 'Ðây là người ngu si, trọn không thể giữ tròn lời
hứa của mình.'
Năm Tỳ-kheo gọi Thế Tôn là Ông. Thế Tôn
mới bảo năm Tỳ-kheo:
- Các Ông chớ gọi bậc Vô Thượng Chí Chân
Ðẳng Chánh Giác là Ông. Vì cớ sao? Nay Ta đã thành Vô Thượng Chí Chân Ðẳng
Chánh Giác, đã gặt được thiện cam lồ, các Ông hãy tự chuyên niệm nghe lời
nói pháp của Ta.
Năm Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Cù-đàm xưa lúc khổ hạnh còn chẳng thể
được pháp Thượng nhân, huống nữa là hôm nay ý tình thác loạn mà nói là đắc
đạo ư?
Thế Tôn bảo:
- Thế nào các Ông? Các Ông từng nghe Ta
nói dối chăng?
Năm Tỳ-kheo đáp:
- Không, Cù-đàm!
Thế Tôn bảo:
- Như Lai Vô Thượng Chí Chân Ðẳng Chánh
Giác đã được cam lồ. Các Ông phải cùng chuyên tâm nghe Ta thuyết pháp.
Lúc ấy, Thế Tôn lại nghĩ: 'Nay Ta đủ sức
hàng phục năm người này'.
Thế Tôn bảo năm Tỳ-kheo:
- Các Ông nên biết có Bốn đế này. Thế nào
là bốn? Khổ đế, Khổ tập đế, Khổ tận đế và Khổ xuất yếu đế.
Thế nào là Khổ đế? Ðó là sanh khổ, lão
khổ, bịnh khổ, tử khổ, ưu bi khổ não, sầu ưu thống khổ không thể kể xiết,
oán tắng hội khổ, ái biệt ly khổ, chỗ muốn chẳng được cũng lại là khổ, tóm
lại là Ngũ thạnh ấm khổ. Ðó là Khổ đế.
Thế nào là Khổ tập đế? Nghĩa là phần thọ
ái, tập quen chẳng mỏi mệt, ý thường tham luyến. Ðó là Khổ tập đế.
Thế nào là Khổ tận đế? Nghĩa là hay khiến
cho ái kia diệt hết không sót, cũng chẳng sanh lại. Ðó là Khổ tận đế.
Thế nào là Khổ xuất yếu đế? Nghĩa là Tám
đạo phẩm của Hiền Thánh. Ðó là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Ðó gọi là pháp Tứ đế. Nhưng lại, này năm
Tỳ-kheo, pháp Tứ đế này, Khổ đế là pháp vốn chưa được nghe, khiến nhãn
sanh, trí sanh, minh sanh, giác sanh, quang sanh, tuệ sanh. Lại nữa, Khổ
đế là chân thật, minh sanh, giác sanh, quang sanh, tuệ sanh. Lại nữa, Khổ
đế là chân thật, quyết định, không hư, không dối, trọn không có khác, là
lời Thế Tôn dạy nên gọi là Khổ đế.
Khổ tập đế là pháp vốn chưa nghe, khiến
nhãn sanh, trí sanh, minh sanh, giác sanh, quang sanh, tuệ sanh. Lại nữa
Khổ tập đế là chân thật, quyết định, không hư, không dối, trọn không có
khác, là lời Thế Tôn dạy nên gọi là Khổ tập đế.
Khổ tận đế là pháp vốn chưa nghe, khiến
nhãn sanh, trí sanh, minh sanh, giác sanh, quang sanh, tuệ sanh. Lại nữa
Khổ tận đế là chân thật, quyết định, không hư, không dối, trọn không có
khác, là lời Thế Tôn dạy nên gọi là Khổ tận đế.
Khổ xuất yếu đế là pháp vốn chưa nghe
khiến nhãn sanh, trí sanh, minh sanh, giác sanh, quang sanh, tuệ sanh. Lại
nữa, Khổ xuất yếu đế là chân thật, quyết định, không hư, không dối, trọn
không có khác, là lời Thế Tôn dạy nên gọi là Khổ xuất yếu đế.
Năm Tỳ-kheo nên biết, Tứ đế này ba phen
chuyển, mười hai hành. Người chẳng biết như thật thì chẳng thành Vô Thượng
Chí Chân Ðẳng Chánh Giác. Ta vì phân biệt Tứ đế này, ba chuyển, mười hai
hành, như thật mà biết. Thế nên Ta thành Vô Thượng Chí Chân Ðẳng Chánh
Giác.
Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp xong, A-nhã
Câu-lân (A-nhã Kiều-trần-như) hết các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.
Lúc ấy Thế Tôn bảo Câu-lân:
- Nay Thầy đã đến với pháp, đã đắc pháp.
Câu-lân đáp:
- Ðúng vậy, Thế Tôn. Con đã đắc pháp, đã
đến với pháp.
Bấy giờ địa thần nghe lời này xong, liền
xướng lên rằng:
- Nay Như Lai tại Ba-la-nại chuyển Pháp
luân, là chỗ chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Thiên ma, Nhân và Phi nhân
chẳng thể chuyển được. Hôm nay Như Lai chuyển Pháp luân này, A-nhã Câu-lân
đã được pháp cam lồ.
Lúc ấy, Tứ Thiên vương nghe địa thần
xướng, lại chuyển lời nói:
- A-nhã Câu-lân đã được pháp cam lồ.
Lúc ấy Trời Ba mươi nghe lời của Tứ thiên
vương, Trời Diệm-ma nghe Trời Ba mươi ba, cho đến Trời Ðâu-suất đều nghe
tiếng cho đến Phạm thiên cũng lại nghe tiếng:
- Như Lai tại Ba-la-nại chuyển Pháp luân
chỗ mà chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Thiên ma, Nhân và Phi nhân chẳng thể
chuyển được. Hôm nay Như Lai chuyển Pháp luân này. Bấy giờ gọi là A-nhã
Câu-lân.
Thế Tôn bảo năm Tỳ-kheo:
- Các Thầy, hai người ở lại nhận lời dạy
dỗ, còn ba người đi khất thực, thức ăn của ba người này, sáu người sẽ cùng
ăn. Rồi ba người ở lại nhận lời dạy dỗ, hai người đi khất thực; thức ăn có
được của hai người, sáu người sẽ cùng ăn.
Bấy giờ năm người được dạy dỗ, lúc này
thành pháp vô sanh Niết-bàn, cũng thành không sanh, không bệnh, không già,
không chết. Lúc ấy năm Tỳ-kheo đều thành A-la-hán. Lúc ấy tam thiên đại
thiên quốc độ có năm A-la-hán với Phật là sáu.
Thế Tôn bảo năm Tỳ-kheo:
- Các Thầy khất thực đều cùng nhân gian
(chung đụng), cẩn thận chớ đi một mình. Nhưng lại có chúng sanh các căn
thuần thục đáng được độ, vì thế Ta sẽ đến Thôn Ưu-lưu-tỳ thuyết pháp tại
đó.
Bấy giờ Thế Tôn liền đến thôn Ưu-lưu-tỳ.
Lúc ấy bên bờ sông Liên-nhã có Cù-đàm tại đó. Ông ta biết thiên văn, địa
lý, thông suốt tất cả, toán số, cây lá đều rõ biết, cùng với năm trăm đệ
tử hằng ngày giáo hóa. Cách Cù-đàm không xa có động đá, ở trong động đá có
rồng dữ ngụ. Bấy giờ Thế Tôn đến chỗ Cù-đàm, đến rồi, bảo Cù-đàm:
- Ta muốn ở trong động đá một hôm. Nếu Ông
bằng lòng, Ta sẽ đến ở đó.
Cù-đàm đáp:
- Tôi không tiếc gì, nhưng ở đó có rồng
dữ, sợ nó sẽ hại Ngài.
Thế Tôn bảo:
- Cù-đàm, không sao, rồng dữ chẳng hại Ta.
Nếu Ông bằng lòng thì Ta ở một đêm.
Cù-đàm đáp:
- Nếu Ngài muốn ở thì tùy ý đến ở.
Bấy giờ Thế Tôn liền đến động đá, trải tòa
mà ở. Ngài ngồi kiết-già, chánh thân, chánh ý buộc niệm ở trước. Lúc ấy
rồng dữ thấy Thế Tôn ngồi liền phun lửa độc. Thế Tôn liền nhập Từ
tam-muội. Từ tam-muội dậy, Ngài nhập Diễm quang tam-muội.
Khi ấy, lửa rồng và Phật quang bừng lên
một lượt. Bấy giờ Cù-đàm ban đêm dậy xem tinh tú, thấy trong động đá có
ánh lửa lớn. Thấy rồi, ông liền bảo đệ tử:
- Sa-môn Cù-đàm này dung mạo đoan chánh,
nay bị rồng hại thật đáng thương xót. Trước ta đã nói ở đó có rồng dữ
không thể ở được.
Lúc ấy Cù-đàm bảo năm trăm đệ tử:
- Các Ông đem bình nước và đem thang cao
đến đó cứu lửa, khiến Sa-môn kia thoát nạn này.
Cù-đàm đem năm trăm đệ tử đến động đá cứu
lửa. Người thì cầm nước tưới, người thì bắc thang mà chẳng thể dập tắt
lửa. Ðó đều do oai thần của Như Lai.
Bấy giờ Thế Tôn nhập Từ tam-muội, dần dần
làm cho rồng kia chẳng còn sân giận. Lúc đó, rồng dữ kia trong lòng sợ
hãi, vùng chạy khắp nơi muốn ra khỏi động đá, nhưng không thể thoát ra
được Rồng bèn chui vào bình bát của Như Lai. Thế Tôn lấy tay phải rờ thân
rồng dữ mà nói kệ:
Rồng ra được thật khó,
Rồng cùng rồng tụ tập,
Rồng chớ dấy tâm hại,
Rồng ra thật rất khó.
Quá khứ hằng sa số.
Chư Phật nhập Niết-bàn,
Người trọn chẳng gặp gỡ,
Ðều do lửa sân giận,
Lòng lành hướng Như Lai
Mau bỏ độc dữ này.
Ðã trừ độc sân giận,
Liền được sanh lên Trời.
XXIV.2. Phẩm Cao Tràng (2)
Bấy giờ rồng dữ kia thè lưỡi liếm tay Như
Lai, trìu mến nhìn mặt Như Lai.
Sáng sớm hôm sau, Thế Tôn tay cầm rồng dữ
này đến Cù-đàm và bảo Cù-đàm:
- Ðây là rồng dữ hết sức hung bạo, nay đã
bị hàng phục.
Lúc ấy Cù-đàm trông thấy rồng dữ liền
khiếp sợ, bạch Thế Tôn:
- Thôi, thôi, Sa-môn! Chớ có đến trước,
rồng sẽ làm hại.
Thế Tôn bảo:
- Cù-đàm chớ sợ! Nay Ta đã hàng phục nó
rồi, trọn chẳng làm hại. Vì sao thế? Rồng này đã được Ta giáo hóa.
Bấy giờ Cù-đàm và năm trăm đệ tử đều khen
là chưa từng có, hết sức kỳ lạ:
- Sa-môn Cù-đàm này oai thần rất lớn, có
thể hàng phục rồng dữ này khiến nó không làm ác. Tuy vậy, Ông cũng không
bằng ta, đã được đạo chân thật.
Cù-đàm bạch Thế Tôn:
- Ðại Sa-môn, hãy nhận lời tôi thỉnh trong
chín mươi ngày. Chỗ cần y phục, thức ăn uống, giường chõng, thuốc men trị
bịnh, tôi đều sẽ cung cấp.
Thế Tôn im lặng nhận lời Cù-đàm và đem
rồng dữ thả vào biển lớn. Rồng thần kia theo thọ mạng ngắn, dài, lúc mạng
chung sanh lên Trời Tứ thiên vương. Như Lai trở lại ở động đá. Cù-đàm bày
các thức ăn uống cúng, rồi đến bạch Thế Tôn:
- Thức ăn đã dọn, xin mời Ngài đến dùng.
Cù-đàm đi rồi. Thế Tôn đến trên cõi
Diêm-phù-đề, dưới cây diêm-phù hái trái diêm-phù rồi trở về ngồi trong
động đá trước Cù-đàm.
Lúc đó, Cù-đàm thấy Thế Tôn trong động đá,
bạch Thế Tôn:
- Sa-môn! Ngài theo đường nào mà đến động
đá?
- Ông đi rồi, Ta đến trên cõi Diêm-phù-đề,
hái trái diêm-phù rồi trở về đây. Cù-đàm nên biết, trái này rất thơm ngon,
hãy lấy ăn đi.
- Tôi không cần, Sa-môn hãy lấy ăn.
Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn này thật có thần
túc, có oai lực có thể lên cõi Diêm-phù hái trái ngon, tuy vậy chẳng bằng
đạo chân thật của ta'.
Thế Tôn ăn xong, trở về chỗ kia nghỉ.
Sáng sớm, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn, đến rồi
bạch Thế Tôn;
- Giờ ăn đã đến, Ngài có thể đến ăn.
- Ông về trước, Ta sẽ đến sau.
Cù-đàm đi rồi, Phật bèn đến cõi Diêm-phù
lấy trái xoài rồi trở về đến trước Cù-đàm, ngồi trong động đá. Cù-đàm bạch
Thế Tôn:
- Sa-môn, Ngài theo đường nào mà đến đây?
- Ông đi rồi, Ta lên cõi Diêm-phù lấy quả
này đến, hết sức ngon lành, nếu Ông cần thì lấy ăn.
- Tôi không cần, Sa-môn cứ lấy ăn.
Bấy giờ Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn này thật
có thần lực, có oai thần lớn, sau khi ta đi, Ông lại hái trái này đem đến,
tuy vậy mà chẳng bằng ta, ta đã đắc đạo'.
Thế Tôn ăn xong, trở về chỗ kia nghỉ.
Sáng hôm sau, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn nói:
- Giờ ăn đã đến, Ngài có thể đến ăn.
- Ông đến trước, Ta sẽ đến sau.
Cù-đàm đi rồi, Thế Tôn đến Châu Bắc
Uất-đan-việt lấy cơm gạo tự nhiên, trở về động đá của Cù-đàm. Cù-đàm hỏi
Phật:
- Sa-môn, Ngài theo đường nào đến đây
ngồi?
- Cù-đàm nên biết, Ông đi rồi, Ta đến
Uất-đan-việt lấy cơm gạo tự nhiên rất là thơm ngon. Cù-đàm, Ông cần thì
lấy ăn.
- Tôi không cần. Sa-môn cứ tự lấy ăn.
Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn này rất có thần
túc, có đại thần lực, tuy vậy mà chẳng bằng ta đã được đạo chân thật'.
Thế Tôn ăn xong trở về kia nghỉ.
Sáng hôm sau, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn nói:
- Giờ ăn đã đến, Ngài có thể đến ăn.
Ông về trước, Ta sẽ đến sau.
Cù-đàm đi rồi, Thế Tôn đến Cù-da-ni lấy
trái ha-lê-lặc, rồi đến Cù-đàm, ngồi trong động đá.
- Sa-môn, Ngài theo đường nào đến đây
ngồi?
- Ông đi rồi, Ta đến Cù-da-ni lấy trái này
về, hết sức thơm ngon. Cù-đàm, Ông cần thì có thể lấy ăn.
- Tôi không cần. Sa-môn cứ tự lấy ăn.
Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn này rất có thần
lực, có đại oai thần, tuy vậy chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.
Thế Tôn ăn xong, trở về kia nghỉ.
Ngày mai, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn bạch:
- Tới giờ rồi, Ngài có thể đến ăn.
- Ông về trước, Ta sẽ đến sau.
Ông đi rồi, Thế Tôn đến Phất-vu-đệ, lấy
trái tỳ-ê-lặc, đến trước Cù-đàm, ngồi trong động đá. Cù-đàm hỏi rằng:
- Sa-môn! Ngài theo đường nào đến đây
ngồi?
- Ông đi rồi, Ta đến Phất-vu-đệ lấy trái
này, rất là thơm ngon. Cù-đàm, Ông cần thì có thể lấy ăn.
- Tôi không cần, Sa-môn cứ tự lấy ăn.
Cù-đàm lại tự nghĩ: 'Sa-môn này rất có
thần lực, có đại thần lực, tuy vậy chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.
Thế Tôn ăn rồi lại về kia nghỉ.
Khi ấy, Cù-đàm muốn cúng tế lớn. Năm trăm
đệ tử cầm búa chặt củi, tay cầm búa mà búa chẳng hạ xuống. Cù-đàm liền
nghĩ: 'Ðây chắc là do Sa-môn Cù-đàm làm'.
- Nay tôi muốn chặt củi mà tại sao không
hạ búa xuống được?
- Muốn hạ được búa à?
- Muốn cho hạ xuống.
Búa liền hạ xuống. Bấy giờ búa kia đã hạ
lại nhấc lên chẳng được. Cù-đàm lại bạch Phật:
- Cớ sao không nhấc được búa?
- Muốn nhấc búa lên à?
- Muốn cho nhấc lên.
Búa liền nhấc được. Bấy giờ đệ tử Cù-đàm
có ý muốn đốt lửa, mà lửa chẳng chịu cháy. Cù-đàm liền nghĩ: 'Ðây chắc do
Sa-môn Cù-đàm làm'. Cù-đàm bạch Phật:
- Cớ sao lửa không cháy?
- Muốn cho lửa cháy à?
- Muốn cho cháy.
Tức thời lửa cháy lên. Bấy giờ họ có ý
muốn dập lửa mà lửa chẳng tắt. Cù-đàm bạch Phật:
- Cớ sao lửa không tắt.
- Muốn cho lửa tắt à?
- Muốn cho tắt.
Lửa liền tắt. Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn
Cù-đàm này mặt mày đoan chánh, hiếm có ở đời. Ngày mai ta muốn cúng tế
lớn. Quốc vương, nhân dân đều sẽ đến tụ tập. Nếu họ thấy Sa-môn này thì ta
chẳng được cúng dường nữa. Ngày mai Sa-môn này không đến thì thật là may
mắn lớn.
Lúc ấy Thế Tôn biết tâm niệm của Cù-đàm.
Sáng sớm ngày mai, Ngài đến uất-đan-việt lấy cơm gạo tự nhiên, đến
Cù-da-ni lấy sữa tươi rồi đến suối A-nậu-đạt mà ăn, ở đó suốt ngày, đến
chiều lại trở về động đá nghỉ.
Hôm sau Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn hỏi:
- Sa-môn! Hôm nay vì sao không đến?
- Hôm qua Ông nghĩ rằng: 'Cù-đàm này rất
là đoan chính, hiếm có ở đời. Sáng mai ta tế lớn. Nếu Quốc vương, đại thần
thấy được liền chấm dứt sự cúng dường ta. Nếu ông ta không đến thì may
lắm.' Ta biết tâm Ông nghĩ thế, nên Ta đến Uất-đan-việt lấy cơm gạo tự
nhiên, đến Cù-da-ni lấy sữa tươi, lên đến suối A-nậu-đạt-ăn, ở đó trọn
ngày, đến chiều trở về động đá nghỉ.
Bấy giờ Cù-đàm lại nghĩ: 'Vị đại Sa-môn
này rất có thần túc, thật có oai thần, tuy vậy chẳng bằng ta đắc đạo chân
thật'.
Thế Tôn ăn xong trở về động đá nghỉ. Ðêm
ấy Tứ thiên vương đến chỗ Thế Tôn để nghe kinh pháp. Tứ thiên vương cũng
có hào quang sáng chói, Phật cũng phóng hào quang lớn chiếu núi rừng đó
rỗng suốt một màu. Ðêm đó Cù-đàm thấy ánh sáng, sáng sớm hôm sau đến chỗ
Thế Tôn, đến rồi bạch Thế Tôn:
- Ðêm qua có ánh sáng gì chiếu núi rừng
này?
- Ðêm qua Tứ thiên vương đến chỗ Ta nghe
pháp. Ðó là ánh sáng của Tứ thiên vương ấy.
Khi đó, Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn rất có
thần lực, có thể khiến Tứ thiên vương đến nghe pháp, tuy có thần lực này
vẫn chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.
Thế Tôn ăn xong lại về nghỉ. Nửa đêm
Thích-đế-hoàn-nhân đến chỗ Thế Tôn nghe pháp. Ánh sáng của Thiên Ðế Thích
lại chiếu núi kia. Ban đêm Cù-đàm thức dậy nhìn sao, thấy ánh sáng này.
Sáng sớm hôm sau, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn hỏi:
- Cù-đàm! Ðêm qua ánh sáng rất lạ lùng. Có
nhân duyên gì mà có ánh sáng này?
- Ðêm qua Thiên Ðế Thích đến đây nghe pháp
nên có ánh sáng này.
Cù-đàm liền nghĩ: 'Sa-môn Cù-đàm này rất
có thần lực, có đại oai thần, có thể khiến Thiên Ðế Thích đến nghe pháp,
tuy vậy chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.
Thế Tôn ăn xong trở về kia nghỉ. Nửa đêm
Phạm thiên vương phóng đại quang minh chiếu vào núi kia rồi đến chỗ Thế
Tôn mà nghe pháp. Bấy giờ Cù-đàm ban đêm thức dậy thấy ánh sáng. Hôm sau
đến chỗ Thế Tôn hỏi:
- Ðêm qua ánh sáng chiếu hơn ánh sáng
trơi, tăng gấp bội. Có nhân duyên gì mà có ánh sáng này?
- Cù-đàm nên biết, đêm qua Phạm thiên
vương đến chỗ Ta nghe pháp.
Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn Cù-đàm này rất có
thần lực, có thể khiến tổ phụ ta đến chỗ Sa-môn này nghe pháp, tuy vậy
chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.
Bấy giờ Thế Tôn được y năm mảnh tệ nát, có
ý muốn giặt giữ, liền nghĩ: 'Nay ta nên giặt y này ở đâu?'
Thích-đế-hoàn-nhân biết ý Thế Tôn, liền
hóa ra ao tắm, rồi bạch Thế Tôn;
- Ngài có thể giặt y ở đây.
Khi ấy Thế Tôn nghĩ rằng: 'Ta sẽ vò giặt y
này ở đâu?'
Tứ Thiên vương biết tâm niệm Thế Tôn, liền
nhấc một tảng đá vuông lớn đặt ở mé nước, bạch Thế Tôn:
- Ngài nên vò giặt ở đây.
Thế Tôn lại nghĩ: 'Ta phơi y này ở đâu?'
Thọ thần biết tâm niệm Thế Tôn liền rũ
cành cây xuống, bạch Thế Tôn:
- Xin Thế Tôn phơi y ở đây.
Sáng sớm hôm sau, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn
hỏi Thế Tôn:
- Vốn không có ao này, nay có ao, vốn
không có cây, nay có cây này, vốn không có đá, nay có đá này. Có nhân
duyên gì mà có sự biến hóa này?
- Ở đây đêm qua, Thiên Ðế Thích biết Ta
muốn giặt y nên làm ao tắm này. Ta lại nghĩ: 'Nên vò giặt y này ở đâu?',
thời Tứ thiên vương biết tâm niệm của Ta liền đem đá này đến. Ta lại nghĩ:
'Nên phơi y ở đâu?' Thọ thần biết tâm niệm Ta liền thòng cành cây này.
Lúc ấy, Cù-đàm nghĩ: 'Sa-môn Cù-đàm này
tuy có thần lực mà chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.
Thế Tôn ăn xong trở về kia nghỉ. Nửa đêm
hôm đó có đám mây đen lớn nổi lên làm mưa to, sông lớn Ni-liên chảy cuồn
cuộn. Khi ấy Cù-đàm lại nghĩ: 'Sông này chảy xiết, Sa-môn chắc sẽ bị nước
cuốn, nay ta đến xem'.
Bấy giờ Cù-đàm và năm trăm đệ tử đến bờ
sông. Lúc ấy Thế Tôn đang đi trên nước, chân chẳng thấm nước. Cù-đàm từ xa
trông thấy Thế Tôn đi trên nước, liền nghĩ: 'Thật kỳ! Thật lạ! Sa-môn
Cù-đàm có thể đi trên nước, ta cũng có thể đi trên nước, nhưng chẳng thể
khiến chân không thấm. Sa-môn này tuy có oai thần nhưng chẳng bằng ta đắc
đạo chân thật'.
Lúc ấy, Thế Tôn bảo Cù-đàm:
- Ông cũng chẳng phải A-la-hán, lại chẳng
biết đạo A-la-hán, Ông còn chẳng biết tên A-la-hán huống là đắc đạo ư? Ông
là người mù, mắt chẳng thấy gì. Như Lai hiện biến hóa như thế, Ông còn
nói: 'Chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'. Ông vừa nói: 'Ta có thể đi trên
nước'. Nay chính đúng lúc, Ông có thể cùng Ta đi trên nước chăng? Nay Ông
nên bỏ tâm tà kiến, chẳng để chịu khổ não này mãi mãi.
Bấy giờ Cù-đàm nghe Thế Tôn nói xong, liền
đến trước cúi lạy chân Phật:
- Nay con hối lỗi, thầm biết phi pháp mà
xúc phạm Như Lai, cúi mong nhận lời con hối lỗi.
Như thế lập lại ba phen. Thế Tôn bảo:
- Nhận cho Ông sửa lỗi, đã tự biết xúc não
Như Lai.
Bấy giờ Cù-đàm bảo năm trăm đệ tử:
- Các Ông mỗi người tùy ý, nay ta tự quy y
Sa-môn Cù-đàm.
Năm trăm đệ tử bạch Cù-đàm:
- Chúng con trước cũng có lòng đối với
Sa-môn Cù-đàm, ngay lúc Cù-đàm hàng phục rồng, chúng con đã muốn quy mạng.
Nếu Thầy tự quy Cù-đàm, năm trăm đệ tử chúng con đều tự quy với Cù-đàm cả.
Cù-đàm đáp:
- Nay chính đúng lúc. Vì tâm ta lại chấp
điều ngu si này, thấy bao nhiêu biến hóa mà ý còn chưa hiểu, nên tự xưng
là đạo ta chân chánh.
Cù-đàm đem năm trăm đệ tử, trước sau vây
quanh đến chỗ Thế Tôn cúi lạy dưới chân rồi đứng một bên, bạch Thế Tôn:
- Cúi mong Thế Tôn cho chúng con được làm
Sa-môn, tu hạnh thanh tịnh.
Pháp thường của chư Phật nếu gọi: 'Khéo
đến, Tỳ-kheo!' thì người kia liền thành Sa-môn. Bấy giờ Thế Tôn bảo
Cù-đàm:
- Khéo đến, Tỳ-kheo! Pháp này vi diệu,
khéo tu Phạm hạnh.
Cù-đàm y áo đang mặc đều biến thành cà-sa,
đầu tóc tự nhiên rụng như được cạo đã bảy ngày. Lúc đó Cù-đàm đem dụng cụ
học thuật và chú thuật ném xuống nước. Rồi năm trăm đệ tử bạch Thế Tôn:
- Cúi mong Thế Tôn cho chúng con được làm
Sa-môn.
- Khéo đến, Tỳ-kheo!
Lúc ấy năm trăm đệ tử liền thành Sa-môn,
cà-sa đắp thân, tóc trên đầu tự rụng.
Bấy giờ thuận dòng về phía hạ lưu có Phạm
chí tên Giang Cù-đàm ở bên bờ sông. Lúc ấy Giang Cù-đàm thấy đồ chú thuật
bị nước cuốn trôi hết, liền nghĩ rằng: 'Chao ôi, sư huynh của ta bị nước
dìm chết rồi!'.
Bấy giờ Giang Cù-đàm đem ba trăm đệ tử
theo dòng lên phía thượng lưu tìm thây của anh, xa thấy Thế Tôn ngồi dưới
gốc cây cùng Ðại Cù-đàm và năm trăm đệ tử đang vây quanh trước sau thuyết
pháp. Thấy rồi, ông liền đến trước Cù-đàm, nói:
- Việc này hay nhỉ! Vốn là thầy người, nay
làm đệ tử, đại huynh cớ sao lại làm đệ tử của Sa-môn?
Cù-đàm đáp:
- Ðiều này tốt nhất, không gì hơn điều
này.
Bấy giờ Ưu-tỳ Cù-đàm hướng về Giang Cù-đàm
mà đọc kệ này:
Thầy này Người Trời quý,
Nay ta thờ kính thầy.
Chư Phật hiện ra đời,
Rất là khó được gặp.
Giang Cù-đàm nghe danh hiệu Phật hết sức
vui mừng hớn hở, không kềm được, đến trước bạch Thế Tôn:
- Xin cho con hành đạo.
- Khéo đến, Tỳ-kheo! Khéo tu Phạm hạnh,
dứt hết mé khổ.
Bấy giờ Giang Cù-đàm và ba trăm đệ tử liền
thành Sa-môn, cà-sa đắp thân, tóc trên đầu tự rụng. Lúc ấy, Giang Cù-đàm
và ba trăm đệ tử đem đồ chú thuật liệng hết xuống nước.
Khi ấy cuối dòng sông có Phạm chí tên
Già-di Cù-đàm ở bên bờ sông, xa thấy đồ chú thuật trôi trên nước, liền
nghĩ: 'Ta có hai anh ở sông phía trên học đạo, nay đồ chú thuật đều bị
nước trôi, hai anh Cù-đàm chắc bị nước hại'.
Ông liền đem hai trăm đệ tử theo dòng lên
thượng lưu, đến chỗ học thuật, xa thấy hai anh làm Sa-môn, liền nói:
- Việc này hay nhỉ! Vốn được người tôn
kính, nay làm đệ tử Sa-môn!
Cù-đàm đáp:
- Chỗ này tốt nhất, không đâu hơn đây.
Bấy giờ Già-di Cù-đàm liền nghĩ: 'Nay hai
anh ta học rộng biết nhiều. Nơi đây ắt là chỗ tốt, khiến hai anh ta ở đó
học đạo. Nay ta cũng nên ở đó học đạo'. Khi ấy Già-di Cù-đàm đến trước Thế
Tôn bạch:
- Cúi mong Thế Tôn cho con làm Sa-môn.
Thế Tôn bảo:
- Khéo đến, Tỳ-kheo! Khéo tu Phạm hạnh,
dứt hết mé khổ.
Bấy giờ Già-di Cù-đàm liền thành Sa-môn,
cà-sa đắp thân, tóc trên đầu tự rụng, như cạo đầu đã bảy ngày. Lúc ấy, Thế
Tôn ở bên bờ sông ấy, dưới gốc cây Ni-câu-luật thành Phật chưa bao lâu, có
một ngàn đệ tử đều là bậc tôn túc kỳ cựu.
Thế Tôn dùng ba việc giáo hóa. Thế nào là
ba? Ðó là thần túc giáo hóa, ngôn giáo giáo hóa và huấn hối giáo hóa.
Thế nào gọi là thần túc giáo hóa? Nghĩa là
Thế Tôn hoặc biến bao nhiêu thân hình hợp lại làm một, hoặc biến mất, hoặc
hiện đi qua vách đá không chướng ngại, hoặc từ đất chui lên, hoặc chui vào
đất, giống như nước chảy không chạm ngại, hoặc ngồi kiết-già đầy khắp hư
không, như chim trong không, chẳng bị chướng ngại; cũng như núi lửa lớn
phun khói vô lượng, như mặt trời mặt trăng có thần lực lớn không thể hạn
lượng, dùng tay với đến cõi Phạm thiên. Thế Tôn hiện thần túc như thế.
Thế nào gọi là ngôn giáo giáo hóa? Nghĩa
là Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo nên bỏ điều này, nên giữ điều này, nên gần điều
này, nên xa điều này, nên nhớ điều này, nên trừ điều này, nên quán điều
này, không nên quán điều này.
Thế nào là nên tu hay không nên tu? Nghĩa
là nên tu Thất giác chi, nên diệt ba kiết (sử).
Thế nào là nên quán, không nên quán? Nên
quán nghĩa là nên khéo quán ba pháp kiết của Sa-môn, đó là vui xuất yếu,
vui không sân, vui không nộ. Thế nào là không nên quán? Nghĩa là ba điều
khổ của Sa-môn. Thế nào là ba? Ðó là quán dục, quán sân, quán nộ.
Thế nào là niệm? Thế nào là không nên
niệm? Nghĩa là nên niệm Khổ đế, nên niệm Tập đế, nên niệm Tận đế, nên niệm
Ðạo đế; chớ niệm tà đế, chấp kiến thường, kiến chấp vô thường, kiến chấp
hữu biên, kiến chấp vô biên; kia là mạng, kia là thân, không phải mạng,
không phải thân, Như Lai mạng chung, Như Lai chẳng mạng chung, có chấm
dứt, có không chấm dứt, cũng chẳng có chấm dứt cũng chẳng không chấm dứt.
Chớ có nghĩ thế.
Thế nào gọi là huấn hối giáo hóa? Lại nữa,
nên đi thế này, không nên đi thế này, đến thế này, không nên đến thế này,
nên làm thinh, nên nói năng thế này, nên giữ y thế này, chẳng nên giữ y
như thế, nên vào làng như thế, không nên vào làng như thế. Ðó gọi là huấn
hối giáo hóa.
Bấy giờ Thế Tôn dùng ba việc này giáo hóa
ngàn Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo kia nhận lời Phật dạy rồi, ngàn Tỳ-kheo đều
thành A-la-hán. Khi ấy, Thế Tôn đã thấy ngàn Tỳ-kheo đắc A-la-hán. Bấy giờ
trong cõi Diêm-phù có ngàn La-hán và năm Tỳ-kheo với Phật là sáu. Khi ấy
Ưu-tỳ Cù-đàm liền nghĩ: 'Thế Tôn vì sao ngồi hướng về Ca-tỳ-la-vệ?'
Ưu-tỳ Cù-đàm liền quỳ trước Thế Tôn bạch:
- Chẳng rõ Như Lai vì sao ngồi hướng về
Ca-ty-la-vệ?
Thế Tôn bảo:
- Như Lai ở đời nên làm năm việc. Thế nào
là năm? Nên chuyển Pháp luân, nên thuyết pháp cho cha, nên thuyết pháp cho
mẹ, nên dắt dẫn phàm phu lập hạnh Bồ-tát, nên thọ ký Bồ-tát. Ðó là, này
Cù-đàm, Như Lai ra đời nên hành năm pháp này.
Ưu-tỳ Cù-đàm lại nghĩ rằng: 'Như Lai nhớ
thân tộc và nước của mình nên ngồi hướng về đó'.
Năm Tỳ-kheo dần đến sông Ni-liên, đến chỗ
Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên. Lúc ấy Tôn giả Ưu-đà-da-xa thấy Thế Tôn
ngồi hướng về Ca-tỳ-la-vệ, thấy rồi bên nghĩ: 'Thế Tôn chắc đang muốn đến
Ca-tỳ-la-vệ để gặp thân thích'. Ưu-đà-la đến quỳ trước Thế Tôn bạch:
- Nay con kham nhậm có chỗ muốn hỏi, cúi
mong Ngài diễn bày.
Thế Tôn bảo:
- Thầy muốn hỏi gì cứ hỏi.
Ưu-đà-la bạch Thế Tôn:
- Con xem ý Như Lai muốn hướng đến
Ca-tỳ-la-vệ.
Thế Tôn bảo:
- Ðúng vậy, như lời Thấy nói. Ưu-đà-la nên
biết: Hãy đến chỗ vua Chân Tịnh (Bạch Tịnh) trước, Ta sẽ đến sau. Vì sao
thế? Dòng Sát-đế-lợi trước sai sứ báo cho biết, sau đó Như Lai sẽ đến.
Thầy đến bảo với vua: Sau bảy ngày, Như Lai sẽ đến gặp vua.
Ưu-đà-da đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn.
Ưu-đà-da liền từ chỗ ngồi đứng lên, sửa
sang y phục, cúi lạy Thế Tôn, ở trước Thế Tôn biến mất, đến chỗ vua Chân
Tịnh, nơi Ca-tỳ-la-vệ, đến rồi, đứng trước vua. Bấy giờ vua Chân Tịnh đang
ngồi trên đại điện với các thể nữ. Khi ấy, Ưu-đà-da bay trên không trung,
vua Chân Tịnh thấy Ưu-đà-da tay ôm bát, cầm gậy đứng trước. Thấy rồi sợ
hãi nói:
- Ðây là ai? Người, Phi nhân, Trời, Quỷ,
Dạ xoa, La sát, Trời, Rồng, Quỷ thần chăng?
Vua Chân Tịnh hỏi Ưu-đà-da:
- Ông là ai?
Rồi vua dùng kệ này nói với Ưu-đà-da:
Là Trời hay là quỷ?
Là Càn-thát-bà chăng?
Nay Ông tên là gì?
Nay ta muốn biết vậy.
Ưu-đà-da lại dùng kệ đáp vua:
Tôi cũng chẳng phải Trời,
Chẳng phải Càn-thát-bà
Ở đây nước Ca-tỳ,
Người đất nước Ðại vương,
Xưa diệt mười tám ức
Chúng Tệ ma Ba-tuần,
Thầy tôi Thích-ca văn,
Tôi thật đệ tử Ngài.
Vua Chân Tịnh lại dùng kệ này bảo
Ưu-đà-da:
Ai hoại mười tám ức
Chứng Tệ ma Ba-tuần,
Ai tên Thích-ca văn,
Mà nay Ông tán thán?
Ưu-đà-da nói kệ:
Như Lai lúc mới sanh,
Trời đất đều chấn động,
Thệ nguyện tất hoàn thành,
Hôm nay hiệu Tất-đạt.
Ngài hàng mười tám ức
Chúng Tệ ma Ba-tuần,
Ngài tên Thích-ca văn,
Hôm thành Phật đạo.
Người nay cho Thích Sư,
Ðệ tử của Cù-đàm,
Hôm nay làm Sa-môn,
Vốn tên Ưu-đà-da.
Vua Chân Tịnh nghe lời này rồi, vui mừng
không kềm được, bảo Ưu-đà-da:
- Thế nào Ưu-đà-da, thái tử Tất-đạt nay có
ở đây sao?
Ưu-đà-da đáp:
- Hôm nay Phật Thích-ca Văn hiện có mặt.
Vua hỏi:
- Nay đã thành Phật sao?
- Nay đã thành Phật.
Hôm nay Như Lai lại ở nơi nào?
- Nay Như Lai ở nơi cây Ni-câu-loại nước
Ma-kiệt.
- Ðệ tử học theo Ngài là những ai?
- Hàng ức chư Thiên, ngàn Tỳ-kheo và Tứ
thiên vương hằng ở bên cạnh.
- Mặc y phục như loại nào?
- Như Lai mặc y phục gọi là ca-sa.
- Ăn thức ăn gì?
- Thân Như Lai lấy Pháp làm thức ăn.
Vua lại hỏi:
- Thế nào Ưu-đà-da, ta có thể gặp được Như
Lai chăng?
Ưu-đà-da đáp:
- Vua chớ buồn rầu, bảy ngày sau Như Lai
sẽ vào thành.
Vua hết sức vui mừng, không kềm đưọc, tự
tay san sớt thức ăn cúng dường Ưu-đà-da. Bấy giờ vua Chân Tịnh đánh trống
vang lừng ra lịnh nhân dân trong nước san bằng đường sá, dọn dẹp rác rến,
lấy nước thơm rảy trên đất, treo cờ phướn, lọng, xướng kỹ nhạc chẳng thể
kể xiết, lại ra lệnh trong nước: 'Những người điếc, đui, câm, ngọng đều
không được xuất hiện. Sau bảy ngày Tất-đạt sẽ vào thành'.
Vua Chân Tịnh nghe Phật sẽ vào thành,
trong bảy ngày cũng không ngủ nghỉ. Lúc ấy, Thế Tôn đến ngày thứ bảy, liền
nghĩ: 'Nay Ta nên dùng sức thần túc để đến nước Ca-tỳ-la-vệ'.
Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo, trước sau vây
quanh đến nước Ca-tỳ-la-vệ, đến rồi, liền vào trong vườn Tát-lô ở phía Bắc
thành. Bấy giờ vua Chân Tịnh nghe Thế Tôn đã đến Ca-tỳ-la-vệ ở trong vườn
Tát-lô phía Bắc thành. Lúc ấy vua Chân Tịnh đem dòng họ Thích đến Thế Tôn.
Khi ấy, Thế Tôn lại nghĩ: 'Nếu đích thân vua Chân Tịnh đến, đây là điều
chẳng nên. Nay Ta nên đến cùng vua gặp gỡ. Vì sao? Phụ mẫu ân nặng, dưỡng
dục tình thâm'.
Bấy giờ Thế Tôn đem chúng Tỳ-kheo đến cửa
thành, bay trên hư không cách đất bảy nhẫn. Khi ấy, vua Chân Tịnh thấy Thế
Tôn đoan chánh vô cùng, thế gian hiếm có, các căn lặng lẽ, không có nhiều
niệm. Thân có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tự trang nghiêm
thân, liền phát tâm hoan hỉ, cúi lạy rồi nói:
- Tôi là vua dòng Sát-lợi tên Chân Tịnh.
Thế Tôn bảo:
- Chúc Ðại vương hưởng thọ vô cùng. Thế
nên, Ðại vương, hãy dùng Chánh pháp cai trị, chớ dùng tà pháp. Ðại vương
nên biết, những người dùng Chánh pháp cai trị, thân hoại mạng chung sanh
vào cõi lành, lên Trời.
Lúc ấy Thế Tôn đi trong không trung đến
cung vua Chân Tịnh, đến rồi lại tòa ngồi. Vua thấy Thế Tôn ngồi yên, tự
tay mình san sớt các thức ăn uống. Thấy Thế Tôn ăn xong thì đem nước sạch
đến, rồi vua lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi nghe pháp. Bấy giờ Thế Tôn dần dần
thuyết diệu nghĩa cho vua Chân Tịnh. Chỗ nói luận là thí luận, giới luận,
luận sanh cõi trời, dục là hạnh bất tịnh, xuất yếu là vui.
Bấy giờ Thế Tôn thấy vua tâm ý khai mở.
Chư Phật Thế Tôn thuyết pháp Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Ngài đều nói hết cho
vua. Lúc ấy vua Chân Tịnh ở trên tòa ngồi, dứt các trần cấu, được pháp
nhãn thanh tịnh. Thế Tôn thuyết pháp cho vua xong, liền từ chỗ ngồi đứng
lên đi. Vua Chân Tịnh mới tập họp hết chúng họ Thích mà nói:
- Các Ông Sa-môn mặt mày rất xấu. Dòng
Sát-lợi mà cùng chúng Phạm chí, đây thật là chẳng nên. Dòng Thích Sát-lợi
lại được chúng Sát-lợi, đây mới là hay.
Các người họ Thích đáp: - Ðúng vậy, Ðại
vương! Như Ðại vương bảo, Sát-lợi lại được chúng Sát-lợi, đây thật là hay.
Bấy giờ vua bảo trong nước, những người có
hai anh em, hãy để một người hành đạo. Ai không tuân theo sẽ bị phạt nặng.
Lúc ấy, dòng họ Thích nghe lịnh vua ban: 'Những người có hai anh em, nên
cho một người hành đạo, ai không tuân lời sẽ phạt nặng'. Bấy giờ
Ðề-bà-đạt-đa họ Thích bảo Thích A-nan rằng:
- Hôm nay vua Chân Tịnh có dạy rằng mấy
người có hai anh em, nên chia một người hành đạo. Nay em xuất gia học đạo,
anh sẽ ở nhà sửa sang gia nghiệp.
Bấy giờ A-nan vui mừng hớn hở đáp:
- Em sẽ y theo lời anh bảo.
Khi ấy Nan-đà họ Thích bảo A-na-luật:
- Vua Chân Tịnh có bảo, ai có hai anh em
hãy chia một người hành đạo, nếu không nghe sẽ phạt tội nặng. Nay em xuất
gia, tôi sẽ ở nhà.
A-na-luật nghe xong, vui mừng hớn hở,
không kềm được đáp:
- Vâng, như lời anh bảo.
Bấy giờ vua Chân Tịnh cùng Thích Hộc Tịnh,
Thích Thúc Tịnh, Thích Cam Lồ đến chỗ Thế Tôn.
Khi ấy các vua cỡi xe tứ mã, xe trắng lọng
trắng, ngựa trắng đóng vào xe. Họ Thích thứ nhì đi xe xanh, lọng xanh,
đóng ngựa xanh. Họ Thích thứ ba đi xe vàng, lọng vàng, đóng ngựa vàng. Họ
Thích thứ tư đi xe đỏ, lọng đỏ, đóng ngựa đỏ. Lúc ấy, họ Thích có người
cỡi voi, có người cỡi ngựa, đều đến tụ tập.
Thế Tôn xa trông thấy vua Chân Tịnh đem
các Thích chúng đến, liền bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy hãy xem các Thích chúng này và
xem chúng vua Chân Tịnh. Tỳ-kheo nên biết, Trời ba mươi ba lúc dạo vườn
xem cũng như lối này không khác.
Bấy giờ A-nan cỡi voi trắng lớn, áo trắng,
lọng trắng. Phật thấy rồi bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy có thấy A-nan cỡi voi trắng mặc
áo trắng không?
Các Tỳ-kheo đáp:
- Thưa vâng, Thế Tôn, chúng con có thấy.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Người này sẽ xuất gia học đạo, là người
đa văn đệ nhất, kham hầu cận bên Ta. Các Thầy thấy A-na-luật này chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
- Thưa vâng, đã thấy.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Người này sẽ xuất gia học đạo, là thiên
nhãn đệ nhất.
Bấy giờ vua Chân Tịnh và bốn anh em cùng
với Nan-đà, A-nan đều bước đến trước, trừ bỏ năm món trang sức, đến chỗ
Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Lúc ấy, vua Chân Tịnh bạch Phật:
- Ðêm qua tôi nghĩ: 'Chúng Sát-lợi chẳng
nên cùng chúng Phạm chí, mà nên cùng chúng Sát-lợi. Ðây mới thích nghi'.
Tôi liền ra lệnh trong nước, ai có hai anh em, liền chọn một người cho
xuất gia học đạo. Cúi mong Thế Tôn cho họ xuất gia học đạo.
Thế Tôn bảo:
- Lành thay, Ðại vương! Việc này có nhiều
lợi ích, Trời, Người được an. Vì sao như thế? Thiện tri thức này là ruộng
phước tốt lành. Tôi cũng nhờ Thiện tri thức mà thoát được sanh, già, bệnh,
chết này.
Bấy giờ các chúng họ Thích liền được hành
đạo. Vua Chân Tịnh bạch Thế Tôn:
- Cúi mong Thế Tôn, dạy dỗ các tân Tỳ-kheo
này sẽ như dạy dỗ Ưu-đà-da. Vì sao thế? Tỳ-kheo Ưu-đà-da này rất có thần
lực, xin cho Tỳ-kheo Ưu-đà-da hằng ở trong cung giáo hóa, khiến chúng sanh
được an ổn lâu dài. Vì sao thế? Tỳ-kheo này rất có thần lực, tôi vừa thấy
Tỳ-kheo Ưu-đà-da liền phát tâm hoan hỉ, tôi liền nghĩ: 'Ðệ tử còn có thần
lực, huống Như Lai kia lại không có thần lực này sao?'
Thế Tôn bảo:
- Ðúng thế, Ðại vương! Như Ðại vương nói,
Tỳ-kheo Ưu-đà-da này rất có thần lực, có oai đức lớn.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ðệ tử bậc nhất về biết rộng hiểu nhiều,
được quốc vương nhớ đến là Tỳ-kheo A-nhã Câu-lân, khuyến hóa nhân dân là
Tỳ-kheo Ưu-đà-da. Có trí mau lẹ là Tỳ-kheo Ma-ha-nam. Hằng ưa phi hành là
Tỳ-kheo Tu-bà-hưu. Qua lại trên không là Tỳ-kheo Bà-phá. Có nhiều đệ tử là
Tỳ-kheo Ưu-tỳ Cù-đàm. Ý được quán không là Tỳ-kheo Giang Cù-đàm. Ý được
chỉ quán là Tỳ-kheo Tượng Cù-đàm.
Lúc ấy Thế Tôn rộng thuyết pháp vi diệu
cho vua Chân Tịnh. Vua nghe pháp xong liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi lạy
rồi lui đi.
Bấy giờ các Tỳ-kheo và vua Chân Tịnh nghe
Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
XXIV.3. Phẩm Cao Tràng (3)
6.
Tôi nghe như vầy.
Một thời Phật ở nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Trong mười lăm ngày có ba pháp chay. Thế
nào là ba? Ngày mồng tám, ngày mười bốn, và ngày mười lăm. Tỳ-kheo nên
biết, hoặc có giờ này, mồng tám ngày chay, Tứ thiên vương sai phụ thần
quán sát thế gian xem ai làm lành, làm ác, những chúng sanh nào hiếu thuận
với cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và bậc tôn trưởng. Nếu có chúng sanh ưa
thích bố thí, tu giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tam-muội thời phục thần sẽ
diễn rộng kinh nghĩa, trì bát quan trai, phân biệt đầy đủ.
Nếu không có chúng sanh hiếu thuận cha mẹ,
Sa-môn, Bà-la-môn và tôn trưởng thời phụ thần bạch Tứ thiên vương:
- Này thế gian này không có chúng sanh
hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, đạo sĩ, hành tứ đẳng tâm, từ mẫn chúng sanh.
Tứ thiên vương nghe xong, sầu lo buồn thảm
chẳng vui. Lúc ấy Tứ thiên vương liền lên trời Ðao Lợi đến giảng đường
Thiện Pháp, đem nhân duyên này bạch đầy đủ cho Ðế Thích:
- Thiên đế nên biết, nay thế gian này
không có chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và tôn trưởng.
Bấy giờ Ðế Thích cõi trời Ba mươi ba nghe
lời đó xong, đều sầu lo buồn thảm chẳng vui vì chúng chư Thiên giảm, chúng
A-tu-la tăng.
Lại có lúc, nến chúng sanh ở thế gian có
người hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và tôn trưởng, trì Bát quan
trai, tư đức thanh tịnh, không phạm cấm giới lớn bằng sợi tóc. Bấy giờ sứ
giả vui mừng hớn hở không kềm được, liền bạch Tứ thiên vương:
- Này thế gian này có nhiều chúng sanh
hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn trưởng.
Thiên vương nghe rồi rất vui mừng liền đến
chỗ Thích-đề-hoàn-nhân, đem nhân duyên này bạch đủ cho Ðế Thích:
- Thiên đế nên biết, nay thế gian này có
nhiều chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn trưởng.
Ðế Thích, cõi trời Ba mươi ba đều hoan hỉ
không kềm được vì chúng chư Thiên tăng thêm và chúng A-tu-la bị giảm bớt.
Ðịa ngục đánh khảo tự nhiên thôi dứt độc ác, đau đớn.
Nếu ngày mười bốn, vào ngày trai giới, Tứ
thiên vương sai Thái tử xuống quan sát thiên hạ, xem xét nhân dân thi hành
thiện ác, xem có chúng sanh tin Phật, tin Pháp, tin Tỳ-kheo Tăng, hiếu
thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và tôn trưởng, ưa thích bố thí, trì Bát
quan trai, đóng bít lục tình, ngăn chận ngũ dục hay không.
Nếu không có chúng sanh tu Chánh pháp,
hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn. Bấy giờ Thái tử bạch Tứ thiên vương
thời Tứ thiên vương nghe rồi liền sầu lo buồn thảm, không vui, đến chỗ
Thích-đề-hoàn nhân đem nhân duyên này bạch đủ cho Thiên đế:
- Ðại vương nên biết, nay thế gian này
không có chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và tôn trưởng.
Bấy giờ Thiên đế trời Ba mươi ba đều sầu
lo buồn thảm, không vui vì chúng chư Thiên giảm, chúng A-tu-la tăng.
Nếu chúng sanh lại có người hiếu thuận cha
mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và tôn trưởng, trì Bát quan trai thời Thái tử vui
mừng hớn hở, không kềm được, liền đến bạch Tứ thiên vương:
- Ðại Vương nên biết, nay thế gian này có
nhiều chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn trưởng.
Khi ấy, Tứ thiên vương nghe lời này xong,
rất vui mừng liền đến Thích-đề-hoàn-nhân, đem nhân duyên này bạch đầy đủ
với Thiên đế:
- Thánh vương nên biết: Nay thế gian này
có nhiều chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn
trưởng, thọ tam quy, có tâm từ, can gián, thành tín không khi dối.
Bấy giờ Thiên đế, Tứ thiên vương và trời
Ba mươi ba đều hoan hỉ không kềm được vì chúng chư Thiên tăng, chúng
A-tu-la giảm bớt.
Tỳ-kheo nên biết, ngày mười lăm, lúc
thuyết giới, Tứ thiên vương đích thân xuống đi khảo sát thiên hạ, xem xét
nhân dân, tìm xem những chúng sanh nào hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn,
Bà-la-môn và các tôn trưởng, ưa thích bố thí, trì Bát quan trai, pháp trai
giới của Như Lai. Nếu không có chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn,
Bà-la-môn và các tôn trưởng thì Tứ thiên vương liền buồn bã, thảm sầu
chẳng vui, đến chỗ Ðế Thích, đem nhân duyên này bạch đủ với Thiên đế:
- Ðại vương nên biết, nay thế gian này
không có chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn
trưởng.
Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân, trời Ba mươi
ba đều sầu lo buồn thảm không vui vì chúng chư Thiên giảm, chúng A-tu-la
tăng thêm.
Lúc đó, nếu lại có chúng sanh hiếu thuận
cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn trưởng, trì Bát quan giới, thời Tứ
thiên vương liền vui mừng hớn hở không kềm được, liền đến Ðế Thích đem
nhân duyên này bạch đầy đủ cho Thiên đế:
- Ðại vương nên biết, nay thế gian này có
nhiều chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn trưởng.
Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân, trời Ba mươi
ba và Tứ thiên đế vương đều vui mừng không thể tự kềm, vì chúng chư Thiên
tăng, chúng A-tu-la giảm bớt.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Thế nào là ngày mười lăm trì pháp Bát
quan trai?
Các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Như Lai là vua các pháp, là dấu ấn của
các pháp, cúi mong Thế Tôn hãy vì các Tỳ-kheo mà diễn rộng nghĩa này, các
Tỳ-kheo nghe xong sẽ vâng làm.
Thế Tôn bảo:
- Lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ!
Ta sẽ vì các Thầy phân biệt nói đủ. Ở đây, này các Tỳ-kheo, nếu có Thiện
nam tử, Thiện nữ nhân, ngày mười bốn, ngày mười lăm trong tháng, khi
thuyết giới trì trai, đến trong bốn bộ chúng nên nói:
- 'Nay tôi ngày chay, muốn trì pháp Bát
quan trai. Cúi mong Tôn giả, hãy thuyết cho tôi.'
Bấy giờ, bốn bộ chúng nên dạy thuyết pháp
Bát quan trai cho họ. Trước hết dạy:
- 'Thiện nam tử, hãy tự xưng tên họ.'
Họ đã xưng tên rồi, bèn sẽ thuyết pháp Bát
quan trai. Khi ấy, bậc giáo thọ dạy trước người rằng:
- 'Nay tôi vâng giữ pháp chay của Như Lai
đến sáng sớm ngày mai, tu giới thanh tịnh, trừ bỏ pháp ác. Nếu thân làm
ác, miệng thốt lời ác, ý sanh niệm ác, thân ba, miệng bốn, ý ba, các điều
ác hạnh đã tạo, đang tạo hoặc hay vì tham dục sẽ tạo, hoặc hay vì sân hận
sẽ tạo, hoặc hay do ngu si sẽ tạo, hoặc hay vì hào tộc mà tạo, hoặc hay
nhân ác tri thức mà tạo, hoặc có thể do thân này, thân sau, vô số thân,
hoặc hay chẳng biết Phật, chẳng biết Pháp, hoặc hay tranh đấu với Tỳ-kheo
Tăng, hoặc hay sát hại cha mẹ và các bậc tôn trưởng. Nay tôi tự sám hối,
chẳng tự che giấu, nương theo giới, nương theo pháp để thành tựu các giới
hạnh, thọ Bát quan trai của Như Lai.
Thế nào là pháp Bát quan trai? Giữ tâm như
chân nhân, trọn đời không giết, không có tâm hại. Ðối với chúng sanh có
niệm từ tâm. Nay con tên ...., trì trai đến sáng sớm ngày mai, chẳng giết,
chẳng có tâm hại, có tâm từ đối với tất cả chúng sanh.
Như A-la-hán không có tà niệm, suốt đời
không trộm cắp, vui thích bố thí. Nay con tên ... suốt đời không trộm cắp,
từ nay đến ngày mai.
Giữ gìn tâm như chân thật, nay con suốt
đời không dâm dật, không có tà niệm, hằng tu Phạm hạnh, thân thể thơm
sạch. Hôm nay trì giới chẳng dâm, cũng chẳng nhớ vợ mình, cũng chẳng nghĩ
đến đàn bà khác, đến sáng sớm ngày mai không có xúc phạm.
Như A-la-hán suốt đời không vọng ngữ, hằng
biết chân thành chẳng dối gạt người; từ nay đến ngày mai con không vọng
ngữ. Con từ nay về sau không nói dối nữa.
Như A-la-hán suốt đời không uống rượu, tâm
ý chẳng loạn, giữ gìn cấm giới của Phật, không chỗ xúc phạm; nay con cũng
sẽ như vậy, từ hôm nay đến ngày mai không uống rượu nữa; giữ gìn cấm giới
Phật không chỗ xúc phạm.
Như A-la-hán suốt đời không hoại trai
pháp, hằng ăn đúng giờ, ăn ít, biết đủ, không đắm mùi vị, nay con cũng lại
như thế, suốt đời không hoại trai pháp, hằng ăn đúng giờ, ăn ít biết đủ,
không đắm mùi vị. Từ hôm nay đến sáng mai không có xúc phạm.
Như A-la-hán suốt đời không ngồi trên
giường cao rộng, giường cao rộng là giường vàng, bạc, ngà voi, hoặc giường
(sừng) tòa của Phật, tòa Bích-chi Phật, tòa A-la-hán, tòa các Tôn sư, vậy
A-la-hán, không ngồi trên tám loại tòa này, con cũng không chạm đến chỗ
ngồi này.
Như A-la-hán suốt đời không đeo hương hoa,
trang điểm phấn sáp; nay con cũng sẽ như thế, suốt đời không đeo hương hoa
phấn sáp tốt đẹp.
Nay con tên ... lìa tám việc này, vâng giữ
pháp Bát quan trai chẳng đọa ba đường ác. Giữ công đức này không vào địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh và trong tám nạn, hằng được thiện tri thức, chẳng
theo hầu ác tri thức, hằng được sanh vào nhà cha mẹ lành, chẳng sanh chỗ
biên địa không Phật pháp, chẳng sanh cõi trời Trường Thọ, chẳng làm nô tỳ
cho người, chẳng làm Phạm thiên, chẳng làm trời Ðế Thích, cũng chẳng làm
Chuyển luân Thánh vương, hằng sanh ở trước Phật, tự mình thấy Phật, tự
nghe Pháp, khiến các căn chẳng loạn. Con chỉ thệ nguyện hướng Tam thừa tu
hành mau thành đạo quả.
Tỳ-kheo nên biết, nếu có Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di, trì pháp Bát quan trai này, thiện nam tử, thiện nữ nhân đó sẽ
hướng đến ba đường, hoặc sanh trong loài Người, hoặc sanh lên Trời, hoặc
nhập Niết-bàn.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Không giết cũng chẳng trộm,
Chẳng dâm, không nói dối,
Tránh rượu, xa hương hoa,
Người đắm vị, phạm trai (giới).
Ca múa và hát xướng,
Học bỏ như La-hán,
Nay giữ Bát quan trai,
Ngày đêm không quên mất.
Không có khổ sanh tử,
Không có hẹn xoay vần,
Chớ cùng ân ái nhóm,
Cũng chớ oán ghét hội.
Nguyện diệt Năm ấm khổ,
Các bịnh sanh tử não,
Niết-bàn không các hoạn,
Nay ta tự quay về.
Thế nên các Tỳ-kheo, nếu có thiện nam tử,
thiện nữ nhân, muốn trì Bát quan trai xa lìa các khổ, được chỗ lành, muốn
được hết các lậu, nhập vào thành Niết-bàn, nên cầu phương tiện thành tựu
pháp Bát quan trai này. Vì sao thế? Danh vị trong loài Người chẳng đủ là
quý, khoái lạc trên trời chẳng đáng khen ngợi. Nếu thiện nam tử, thiện nữ
nhân muốn cầu phước vô thượng, nên tìm phương tiện thành tựu trai pháp
này. Nay Ta răn dạy các Thầy một lần nữa: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ
nhân thành tựu Bát quan trai, muốn cầu sanh lên cõi trời Tứ thiên vương,
cũng đạt được nguyện này, người trì giới sẽ được toại nguyện. Ta vì thế mà
nói nghĩa này. Ðịa vị vinh dự của loài Người chẳng đủ quý, nếu thiện nam
tử, thiện nữ nhân giữ Bát quan trai, thân hoại mạng chung được sanh cõi
lành, lên trời, cũng sanh Diễm thiên, Ðâu-suất, Hóa tự tại thiên, Tha hóa
Tự tại thiên, trọn không hư dối. Vì cớ sao? Vì người trì giới này sẽ đạt
được sở nguyện.
Các Tỳ-kheo, nay Ta lập cho các Thầy hay:
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân trì Bát quan trai, sẽ sanh cõi Dục
thiên, sanh Sắc thiên cũng thành tựu nguyện của mình. Vì sao thế? Vì người
trì giới này sẽ đạt được sở nguyện.
Lại nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân trì
Bát quan trai, muốn được sanh Vô sắc thiên thì cũng có kết quả như nguyện.
Tỳ-kheo nên biết, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân, trì Bát quan trai, muốn
sanh trong nhà vốn dòng họ cũng lại được sanh. Lại nữa, thiện nam tử,
thiện nữ nhân trì Bát quan trai muốn làm thiên tử một phương, hai phương,
ba phương, bốn phương cũng đạt được nguyện. Muốn cầu làm Chuyển luân Thánh
vương cũng toại nguyện. Vì sao thế? Vì người trì giới này sở nguyện sẽ
được. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn cầu làm Thanh văn, Duyên giác,
Phật thừa ắt thành như nguyện. Nay Ta thành Phật do trì giới này. Ngũ
giới, Thập thiện không nguyện nào chẳng được.
Các Tỳ-kheo, nếu muốn thành đạo, nên học
điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
7.
Tôi nghe như vầy.
Một thời Phật ở nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có ba việc hiện ở trước mắt, thời thiện
nam tử, thiện nữ nhân được phước vô lượng. Thế nào là ba? Nếu tín hiện ở
trước, thời thiện nam tử, thiện nữ nhân được phước vô lượng. Nếu tài hiện
ở trước, thời thiện nam tử, thiện nữ nhân được phước vô lượng. Nếu trì
Phạm hạnh hiện ở trước, thời thiện nam tử, thiện nữ nhân được phước vô
lượng.
Ðó là, này Tỳ-kheo, có ba việc này hiện ở
trước sẽ được phước vô lượng.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Tín, tài, Phạm khó được,
Người thọ, người trì giới,
Biết ba việc này rồi,
Người trí tùy thời thí.
Lâu dài được an ổn,
Chư Thiên hằng nâng đỡ,
Tại đó tự vui thú,
Ngũ dục không biết chán.
Do đó, này các Tỳ-kheo, thiện nam tử,
thiện nữ nhân, hãy tìm phương tiện thành tựu ba pháp này. Như thế, này các
Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
8.
Tôi nghe như vầy.
Một thời Phật ở thành Câu-thâm trong vườn
Cù-sư-la.
Bấy giờ Tỳ-kheo ở Câu-thâm hằng ưa tranh
tụng, phạm các hạnh ác, đối mặt cãi cọ, hoặc có lúc dùng dao gậy đập nhau.
Bấy giờ Thế Tôn sáng sớm đến chỗ các Tỳ-kheo ấy. Ðến rồi, Thế Tôn bảo các
Tỳ-kheo:
- Tỳ-kheo các Thầy, cẩn thận chớ gây gổ,
chớ tranh phải trái với nhau. Này các Tỳ-kheo, nên cùng hòa hợp, là bạn bè
cùng một thầy, đồng nhất như nước với sữa, sao lại gây gổ?
Khi ấy Tỳ-kheo ở câu-thâm bạch Thế Tôn:
- Cúi mong Thế Tôn chớ lo việc này, chúng
con tự lo liệu lẽ này. Lỗi lầm như thế, chúng con tự biết tội này.
Thế Tôn bảo:
- Thế nào, các Thầy, vì vua mà hành đạo,
hay vì sợ hãi mà hành đạo, hay vì đời sống thiếu thốn mà hành đạo?
Các Tỳ-kheo đáp:
- Không phải thế, bạch Thế Tôn.
Thế Tôn bảo:
- Thế nào các Tỳ-kheo, các Thầy há chẳng
phải muống xa lìa sanh tử, cầu đạo vô vi mà hành đạo sao? Nhưng thân ngũ
ấm thật chẳng thể bảo toàn.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Ðúng vậy, Thế Tôn, như lời Thế Tôn dạy.
Chúng con là con nhà vọng tộc, sở dĩ xuất gia học đạo vì cầu đạo vô vi,
diệt thân ngũ ấm, thế nên học đạo.
Thế Tôn bảo:
- Các Tỳ-kheo không chịu học đạo mà lại
tranh đấu đấm, đánh nhau, đối mặt gây phải trái, nói ác với nhau. Các Thầy
phải nên thành tựu hạnh này. Cùng đồng một pháp, một thầy dạy, cũng nên
hành pháp lục hòa này, cũng nên hành thân, khẩu, ý hành này, cũng nên hành
việc cúng dường những vị Phạm hạnh.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Ðây là việc của chúng con. Thế Tôn chớ
lo việc này.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo ở
Câu-thâm:
- Thế nào, các Người ngu, các Thầy chẳng
tin lời của Như Lai sao mà nói Như Lai chớ lo việc này? Các Thầy sẽ tự
chịu quả báo tà kiếp này.
Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo ấy lần nữa:
- Quá khứ lâu xa, trong thành Xá-Vệ này có
vua tên Trường Thọ thông minh trí tuệ, không việc gì chẳng biết. Nhưng tuy
sành sỏi pháp đao kiếm, nhà vua lại thiếu báu vật, các kho chẳng đầy, tài
sản giảm thiếu, bốn bộ binh cũng chẳng nhiều, quần thần phò tá cũng ít ỏi.
Ngay lúc đó, nước Ba-la-nại có vua tên
Phạm-ma-đạt, dũng mãnh cương cường, không đâu không hàng phục. Tiền tài
bảy báu thảy đều đầy kho, bốn bộ binh cũng chẳng thiếu, quần thần phò tá
đầy đủ.
Bấy giờ vua Phạm-ma-đạt liền nghĩ: 'Vua
Trường Thọ này không có quần thần phò tá, lại thiếu tài sản, không có trân
bảo, thời nay ta nên đến công phạt nước ấy'.
Vua Phạm-ma-đạt liền dấy binh đến chinh
phạt nước kia. Vua Trường Thọ nghe vua Phạm-ma-đạt đem binh công phạt nước
mình liền thiết bày phương kế: 'Nay ta tuy không có gia tài bảy báu, quần
thần phò ta và bốn bộ binh. Vua kia tuy có nhiều binh lính, như ngày nay
một mình ta cũng đủ sức tiêu diệt tám trăm ngàn người kia, sát hại chúng
sanh vô kể. Nhưng ta chẳng thể lấy sự vinh quang một đời để tạo tội muôn
đời. Nay ta nên ra khỏi thành này, đến ở nước khác để không xảy ra đấu
tranh'.
Bấy giờ vua Trường Thọ chẳng nói cho quần
thần hay, đem đệ nhất phu nhân và một người ra khỏi thành Xá-Vệ vào trong
núi sâu. Quần thần và nhân dân trong thành Xá-Vệ vì không thấy vua Trường
Thọ nên sai sứ đưa tin, đến chỗ vua Phạm-ma-đạt nói:
- Cúi mong Ðại vương hãy đến nước này. Nay
vua Trường Thọ chẳng biết ở đâu.
Phạm-ma-đạt đến nước Ca-thi cai trị. Vua
Trường Thọ có hai phu nhân đều có thai, sắp đến ngày sanh. Lúc ấy phu nhân
nằm mộng thấy mình sanh ở giữa đô thị, lúc mặt trời vừa mọc, bốn bộ binh
cầm đao dài năm thước đi vòng quanh, chỉ sanh một mình không người hầu hạ.
Thấy rồi liền giật mình tỉnh giấc, đem nhân duyên này kể cho vua Trường
Thọ. Vua bảo phu nhân:
- 'Nay ta ở trong núi sâu này, do đâu mà
sanh được ở giữa đô thị trong thành Xá-Vệ? Nay phu nhân muốn sanh, hãy như
nai sanh.'
Lúc ấy, phu nhân nói:
- 'Nếu tôi không được sanh như thế, lúc ấy
tôi sẽ chết.'
Vua Trường Thọ nghe lời này rồi, ngay đêm
đó đổi y phục không đem theo ai, đi vào thành Xá-Vệ. Vua Trường Thọ có một
vị đại thần tên Thiện Hoa, rất thân thiết. Vị này có chút việc cần ra khỏi
thành và gặp vua Trường Thọ đang vào thành. Ðại thần Thiện Hoa nhìn sửng
vua rồi bỏ đi, rơi lệ thở than theo đường mà đi. Vua Trường Thọ liền đuổi
theo vị đại thần đến một chỗ khuất mà bảo:
- 'Xin Ông cẩn thận, đừng nói ra.'
Ðại thần đáp:
- 'Tôi sẽ như lời Ðại vương dạy, Chẳng rõ
minh vương có dạy bảo gì chăng?'
Vua Trường Thọ nói:
- 'Nếu nhớ ân xưa của ta thì Ông nên đền
đáp.'
Vị đại thần đáp:
- 'Ðại vương có ra lệnh, thần sẽ làm
xong.'
Vua Trường Thọ nói:
- 'Ðêm qua, phu nhân của ta mộng sanh con
giữa đô thị, lại có bốn bộ binh vây quanh, sanh một đứa con trai hết sức
đoan chính. Nếu chẳng được sanh như mộng, trong bảy ngày phu nhân sẽ
chết.'
Ðại thần đáp:
- 'Nay thần có thể lọ việc này như lời vua
dạy.'
Nói lời này xong, mỗi người bỏ đi. Ðại
thần liền đến chỗ Phạm-ma-đạt, đến rồi nói:
- 'Trong bảy ngày, ý tôi muốn xem quân
lính, tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh của Ðại vương, rốt cuộc là bao
nhiêu.'
Bấy giờ vua Phạm-ma-đạt ra lệnh cho tả
hữu:
- 'Hãy đốc thúc quân lính như lời Thiện
Hoa'.
Ðại thần Thiện Hoa trong vòng bảy ngày, tụ
tập quân binh tại giữa đô thị Xá-Vệ. Vị phu nhân kia trong bảy ngày đến
giữa đô thị. Ðại thần Thiện Hoa từ xa trông thấy phu nhân đến liền nói:
- 'Kính chào Hiền nữ. Nay chính đúng lúc.'
Lúc phu nhân thấy bốn bộ binh rồi, lòng
rất hoan hỉ, sai người hầu cận, giăng bức màn lớn, lúc mặt trời vừa lên,
phu nhân ấy liền sanh một bé trai, đoan chánh vô song, hiếm có trên đời.
Rồi phu nhân ôm đứa bé về núi. Vua Trường Thọ xa thấy phu nhân ôm con đến
liền nói:
- 'Chúc Con sống lâu, thọ mạng vô cùng.'
Phu nhân tâu vua:
- 'Xin vua đặt tên là Trường Sanh.'
Lúc thái tử Trường Sanh vừa tám tuổi, vua
cha Trường Thọ có chút việc vào thành Xá-Vệ, bấy giờ người hớt tóc, Kiếp
Tỷ ngày xưa của vua Trường Thọ thấy vua vào thành, liền đứng ngắm mãi từ
đầu đến chân; thấy rồi, liền đến chỗ vua Phạm-ma-đạt mà nói:
- 'Ðại vương hết sức hơ hỏng, hiện nay vua
Trường Thọ đang ở tại thành này.'
Vua nổi giận sai tả hữu lùng bắt vua
Trường Thọ, tả hữu đại thần cùng tên Kiếp Tỷ đi lùng bắt khắp nơi. Lúc ấy,
Kiếp Tỷ xa trông thấy vua Trường Thọ bèn chỉ và nói với các đại thần:
- 'Ðây là vua Trường Thọ'.
Rồi tiến tới bắt ông dẫn đến chỗ vua
Phạm-ma-đạt, tâu:
- 'Ðại vương, vua Trường Thọ là người
này.'
Nhân dân trong nước đều nghe biết vua
Trường Thọ đã bị bắt. Phu nhân cũng nghe vua Trường thọ bị Phạm-ma-đạt bắt
được, liền nghĩ: 'Nay ta còn sống làm gì, thà cùng chết một lần với Ðại
vương'. Phu nhân liền dẫn thái tử vào thành Xá-Vệ. Phu nhân bảo thái tử:
- 'Nay con nên tìm chỗ sống.'
Thái tử Trường Sanh nghe xong im lặng
không đáp. Phu nhân đi thẳng đến chỗ vua Phạm-ma-đạt. Vua xa trông thấy
vui mừng hớn hở không kềm được, liền sai đại thần đem phu nhân này và vua
Trường Thọ đến ngã tư đường chặt làm bốn khúc. Các đại thần vâng lệnh vua,
đem vua Trường Thọ và phu nhân trói ngược lại, dẫn vòng quanh thành Xá-Vệ
cho muôn dân xem. Bấy giờ nhân dân ai cũng đau lòng. Thái tử Trường Sanh ở
trong đám đông thấy cha mẹ bị đem đến chợ giết, nhan sắc không biến đổi.
Vua Trường Thọ quay lại bảo Trường Sanh:
- 'Con chớ thấy hay, cũng chớ thấy dở.'
Rồi nói bài kệ:
Oán oán chẳng dừng nghỉ,
Từ xưa có pháp này,
Không oán hay thắng oán,
Pháp này trọn bất hủ.
Bấy giờ các quan bảo nhau:
- 'Vua Trường Thọ hết sức ngu hoặc, thái
tử Trường Sanh là người nào mà ông ta lại ở trước chúng ta nói kệ này.'
Vua Trường Thọ bảo các quan:
- 'Ta chẳng ngu hoặc, chỉ có người trí
trong đây rõ được lời ta. Chư Hiền nên biết, dùng sức một người như ta đủ
để làm tan hoại tám trăm vạn người này. Nhưng ta lại nghĩ rằng: 'Chúng
sanh này, người chết khó đến. Chẳng thể vì một thân ta mà chịu tội nhiều
đời.'
Oán oán chẳng dừng nghỉ,
Từ xưa có pháp này,
Không oán hay thắng oán,
Pháp này trọn bất hủ.
Rồi các quan ấy đem vua Trường Thọ và phu
nhân đến ngã tư đường chặt làm bốn phần, rồi bỏ về nhà.
Thái tử Trường Sanh đến chiều thu thập cây
cỏ hỏa táng cha mẹ, rồi đi. Bấy giờ vua Phạm-ma-đạt ở trên lầu cao, xa
thấy có đứa nhỏ thiêu vua Trường Thọ và phu nhân, liền ra lệnh cho tả hữu:
- 'Ðây hẳn là thân thuộc của vua Trường
Thọ, các Ông mau bắt đến đây.'
Các thần dân liền đến chỗ đó, chưa kịp đến
thì đứa bé đã chạy mất rồi. Khi ấy, thái tử Trường Sanh liền nghĩ: ' Vua
Phạm-ma-đạt này giết cha mẹ ta lại ở trong nước của ta, nay ta sẽ báo oán
cho cha mẹ'. Thái tử Trường Sanh liền đến chỗ thầy dạy đàn mà nói rằng:
- 'Nay tôi muốn học đàn'.
Thầy dạy đàn hỏi:
- 'Nay con họ gì? Cha mẹ ở đâu?'
Ðứa bé đáp:
- 'Tôi không có cha mẹ, Tôi vốn ở trong
thành Xá-Vệ này, cha mẹ mất sớm'.
Thầy dạy đàn nói:
- 'Con muốn học thì học.'
Tỳ-kheo nên biết, bấy giờ thái tử Trường
Sanh học đàn những ca khúc. Thái tử Trường Sanh vốn thông minh, nên chưa
qua mấy ngày đã có thể đàn các ca khúc, không bài nào chẳng biết.
Bấy giờ, thái tử Trường Sanh ôm đàn đến
chỗ vua Phạm-ma-đạt, lúc không người vào trong chuồng voi, ngồi đàn và hát
một mình. Lúc ấy, vua Phạm-ma-đạt ở trên lầu cao, nghe tiếng đàn ca, liền
hỏi tả hữu:
- 'Người nào ở trong chuồng voi, đàn ca
chơi một mình vậy?'
Quần thần đáp:
- 'Trong thành Xá-Vệ này có một đứa bé đàn
hát chơi một mình.'
Vua bảo người hầu:
- 'Ông nên ra lệnh cho đứa bé này đến đây
chơi, ta muốn gặp nó.'
Người hầu gọi đứa bé đến chỗ vua. Vua
Phạm-ma-đạt hỏi đứa bé:
- 'Ðêm qua, cháu đàn trong chuồng voi phải
không?'
- 'Ðúng vậy, Ðại vương.'
Phạm-ma-đạt nói:
- 'Nay Ngươi hãy ở bên ta, đánh đàn ca
múa, ta sẽ cung cấp áo quần, thức ăn.'
Tỳ-kheo nên biết, bấy giờ thái tử Trường
Sanh ở trước Phạm-ma-đạt đánh đàn, ca múa hết sức tuyệt vời. Vua
Phạm-ma-đạt nghe tiếng đàn này trong lòng hoan hỉ, bèn bảo thái tử Trường
Sanh:
- 'Người hãy giữ kho châu báo cho ta.'
Thái tử Trường Sanh nhận lời vua sai, chưa
hề thất thố, thường tùy ý vua, cười trước nói sau, thường nhường ý vua.
Bấy giờ vua Phạm-ma-đạt lại ra lệnh:
- 'Lành thay, Lành thay! Nay Ngươi là
người rất thông minh, nay ta cho Ngươi vào nội cung. Ngươi hãy biết vậy.'
Thái tử Trường Sanh ở trong nội cung lấy
tiếng đàn dạy các kỹ nữ, cũng lại dạy cỡi voi, ngựa, kỹ thuật, đều biết
tất cả.
Bấy giờ Phạm-ma-đạt muốn xuất du đạo vườn
rừng và cùng nhau vui chơi, liền sai Trường Sanh hối thúc soạn sửa xe vũ
bảo. Thái tử Trường Sanh vâng lệnh vua lo xe vũ bảo, bành voi, vàng bạc,
yên cương, rồi trở lại tâu vua:
- 'Xe đã sửa sọn xong, xin Vua biết đã đến
giờ'.
Vua Phạm-ma-đạt đi xe vũ bảo, sai Trường
Sanh đánh xe, cùng dẫn theo bốn bộ binh. Thái tử Trường Sanh đánh xe dẫn
đường, thường tách xa đám đông. Vua Phạm-ma-đạt hỏi thái tử Trường Sanh:
- 'Bây giờ quân lính đâu rồi?'
Trường Sanh đáp:
- 'Thần cũng chẳng biết quân lính ở đâu?'
Vua bảo:
- 'Hãy dừng lại một chút, thân ta mỏi mệt
quá chừng, muốn dừng nghỉ một chút!'
Thái tử Trường Sanh liền ngừng xe để vua
nghỉ ngơi, đợi quân lính đến.
Tỳ-kheo nên biết, bấy giờ vua Phạm-ma-đạt
kê đầu trên đầu gối của thái tử Trường Sanh mà ngủ vùi. Thái tử Trường
Sanh thấy vua ngủ liền nghĩ: 'Vị vua này là đại oán cừu của ta, đã giết
cha mẹ ta còn ở trên đất nước ta, nay ta không báo oán thì lúc nào mới
báo, bây giờ ta phải giết hắn'. Thái tử Trường Sanh tay phải rút kiếm, tay
trái tóm tóc vua, nhưng nghĩ lại: 'Cha ta sắp chết đã bảo ta rằng: 'Trường
Sanh nên biết! Chớ thấy hay, cũng chớ thấy dở'. Cha ta còn nói thêm bài
kệ:
'Oán oán chẳng dừng nghỉ,
Từ xưa có pháp này,
Không oán hay thắng oán,
Pháp này trọn bất hủ.
'Nay ta phải bỏ oán này'. Rồi thái tử tra
kiếm vào vỏ. Như thế hai ba phen, sau thái tử lại nghĩ: 'Vua này thật là
đại oán cừu của ta, đã giết cha mẹ ta, còn ở trên đất nước ta, nay ta
không báo oán thì ngày nào mới báo? Nay ta phải chấm dứt mạng của ông ta
mới gọi là báo oán'. Lúc ấy Thái tử lại nhớ: 'Trường Sanh con, chớ thấy
hay, cũng chớ cho là dở'. Vua cha có lời dạy:
'Oán oán chẳng dừng nghỉ,
Từ xưa có pháp này,
Không oán hay thắng oán,
Pháp này trọn bất hủ.
'Nay ta phải bỏ oán này'. Rồi thái tử lại
tra kiếm vào vỏ. Bấy giờ vua Phạm-ma-đạt mộng thấy con vua Trường Thọ là
thái tử Trường Sanh muốn giết mình, khiếp sợ giật mình tỉnh giấc. Thái tử
Trường Sanh nói:
- 'Ðại vương! Cớ sao kinh sợ vùng dậy đến
thế?'
Phạm-ma-đạt nói:
- 'Vừa rồi ta ngủ mê, mộng thấy thái tử
Trường Sanh con vua Trường Thọ rút kiếm muốn giết ta. Vì thế nên ta kinh
sợ.'
Thaí tử Trường Sanh liền nghĩ: 'Nay vua
này đã biết ta là thái tử Trường Sanh'. Rồi rút kiếm ra, tay trái nắm tóc
vua mà nói:
- 'Nay chính ta là thái tử Trường Sanh,
con vua Trường Thọ. Ông là kẻ thù của ta, đã giết cha mẹ ta và còn ở trên
đất nước ta, nay ta không báo oán, còn đợi ngày nào nữa?'
Vua Phạm-ma-đạt liền hướng về Trường Sanh
nói:
- 'Nay mạng ta ở trong tay Ông, mong rũ
lòng tha ta toàn mạng'.
Trường Sanh đáp:
- 'Ta có thể để vua sống, nhưng vua chẳng
để ta toàn mạng.'
Vua đáp Trường Sanh:
- 'Cúi mong rũ lòng giúp đỡ, ta trọn chẳng
giết Ông.'
bấy giờ thái tử Trường Sanh cùng vua đồng
thề sẽ cùng tha mạng cho nhau, không hại nhau nữa.
Tỳ-kheo nên biết, lúc ấy thái tử Trường
Sanh tha mạng vua. Vua Phạm-ma-đạt bảo thái tử Trường Sanh:
- 'Xin thái tử hãy cùng ta sửa soạn xe
kiệu để trở về nước.'
Thái tử liền sửa soạn xe, hai người cùng
cỡi xe đi thẳng về Xá-Vệ. Vua Phạm-ma-đạt liền tụ tập quần thần và nói:
- 'Nếu các Khanh gặp con vua Trường Thọ,
muốn bắt hắn làm gì?'
Trong đó, hoặc có đại thần nói:
- 'Sẽ chặt tay chân hắn.'
Hoặc có người nói:
- 'Sẽ phân thây hắn làm ba đoạn'.
Hoặc có người nói:
- 'Sẽ giết hắn.'
Thái tử Trường sanh ngồi bên cạnh vua,
nghiêm chỉnh, chính ý suy nghĩ những lời này. Vua Phạm-ma-đạt liền tự mình
cầm tay Thái tử Trường Sanh, bảo mọi người:
- Ðây là thái tử Trường Sanh, con vua
Trường Thọ chính là người này, các Khánh không được nói những lời như thế.
Vì sao? Thái tử Trường Sanh đã tha mạng cho ta, ta cũng tha mạng cho người
này.
Các quần thần nghe xong, khen là việc chưa
từng có. Vị vương thái tử này thật là đặc biệt. Có thể đối với oán cừu mà
chẳng báo oán. Vua Phạm-ma-đạt hỏi Trường Sanh:
- 'Ông đáng lẽ giết ta, do đâu lại tha
chẳng giết? Có duyên cớ nào? Nay xin được cho nghe.'
Trường Sanh đáp:
- 'Ðại vương khéo nghe: Phụ vương tôi lúc
sắp chết, bảo tôi rằng: 'Nay con cũng chớ thấy hay, cũng chớ thấy dở', rồi
lại nói:
'Oán oán chẳng dừng nghỉ,
Từ xưa có pháp này,
Không oán hay thắng oán,
Pháp này trọn bất hủ.
Bấy giờ quần thần nghe lời Phụ vương tôi
nói đều bảo nhau rằng: 'Người này điên khùng mới có nhiều lời! Trường Sanh
trọn là ai?' Vua Trường Thọ đáp: 'Các Khanh nên biết, người có trí trong
đây sẽ rõ điều này'. Tôi nhớ lại lời này của Phụ vương nên tha vua toàn
mạng.'
Vua Phạm-ma-đạt nghe xong, rất lạ lùng,
khen:
- 'Chưa từng có, Ông hay giữ lời dạy dỗ
của người cha đã mất, không bỏ.'
Vua Phạm-ma-đạt bảo thái tử:
- 'Nay Ông giải nghĩa mà tôi vẫn chưa
hiểu, hãy nói nghĩa này cho tôi hết thắc mắc.'
Thái tử Trường Sanh đáp:
- 'Ðại vương hãy khéo nghe, tôi sẽ nói.
Vua Phạm-ma-đạt giết vua Trường Thọ. Nếu lại có quần thần hết sức thân tín
của vua Trường Thọ cũng bắt vua giết đi, thì lại có quần thần phò tá vua
Phạm-ma-đạt sẽ bắt quần thần của vua Trường Thọ mà giết. Ðó là oán oán
trọn không có dứt tuyệt. Muốn cho oán bị cắt đứt chỉ có người không báo
oán. Nay tôi xét nghĩa này xong, thế nên không hại vua.'
Vua Phạm-ma-đạt nghe lời này xong, rất vui
mừng hớn hở không kềm được. Vị vương thái tử này rất thông minh, mới có
thể giảng rộng nghĩa này. Vua Phạm-ma-đạt liền hường thái tử hối lỗi:
- 'Tôi tội lỗi về việc đã bắt vua Trường
Thọ giết đi.'
Rồi vua cỡi mão đưa cho Trường Sanh đội
vào lại gả con gái mình và giao lại nước Xá-Vệ và dân chúng cho Trường
Sanh thống lãnh. Vua trở về cai trị Ba-la-nại. Tỳ-kheo nên biết, ngày xưa
các vua có pháp thường này; tuy có pháp 'tranh nước' này, họ vẫn còn kham
nhẫn nhau mà chẳng làm tổn hại lẫn nhau. Huống gì, Tỳ-kheo các Thầy, do
lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, bỏ tâm tham dục, sân hận, si mê mà nay
lại đua tranh không hòa thuận nhau, mỗi người chẳng chịu nhau, không hối
cãi. Này các Tỳ-kheo, hãy lấy nhân duyên này để biết đấu tranh chẳng phải
điều nên làm, lại đồng thầy bạn, đồng nhất như nước với sữa, chớ cãi cọ
nhau.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Không đấu, không có tranh,
Tâm từ thương tất cả,
Không hoạn với tất cả,
Chư Phật đều ngợi khen.
Thế nên, các Tỳ-kheo, phải tu hành nhẫn
nhục. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Các Tỳ-kheo ở Câu-thâm bạch Thế Tôn:
- Cúi mong Thế Tôn, chớ lo việc này. Chúng
con tự sẽ làm phân minh pháp này. Tuy Thế Tôn nói thế, nhưng việc này
không đúng.
Khi ấy, Thế Tôn liền bỏ đi đến nước
Bạt-kỳ. Bấy giờ trong nước Bạt-kỳ có ba vị vọng tộc là A-na-luật, Nan-đề
và Kim-tỳ-la. Những vị ấy cùng hạn định: Nếu có người ra đi khất thực,
người ở lại sau phải quét dọn cho sạch, việc việc không thiếu sót. Người
khất thực về chia thức ăn cho đủ, đủ thì tốt, không đủ thì tùy ý. Người có
dư thì để trong bình rồi bỏ đi. Nếu người khất thực sau cùng về, đủ thì
tốt, không đủ thì lấy trong bình ra ăn, tự để vào bát, rồi xách bình nước,
lại đặt một nơi. Một ngày nên quét dọn phòng nhà, rồi ở chỗ vắng vẻ, chánh
thân, chánh ý buộc niệm ở trước, tư duy diệu pháp. Các vị ấy không nói
chuyện với nhau, mỗi người đều tịch lặng.
Bấy giờ Tôn giả A-na-luật tư duy về tưởng
dục bất tịnh, niệm được an vui mà trụ Sơ thiền. Tôn giả Nan-đề và Tôn giả
Kim-tỳ-la biết tâm niệm Tôn giả A-na-luật cũng lại tư duy tưởng dục bất
tịnh, niệm được an vui mà trụ Sơ thiền. Nếu Tôn giả A-na-luật tư duy Nhị
thiền, Tam thiền, Tứ thiền, bấy giờ Tôn giả Nan-đề, Tôn giả Kim-tỳ-la cũng
lại tư duy Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Nếu Tôn giả A-na-luật lại tự
duy Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vô tưởng xứ, thì Tôn giả
Nan-đề cũng tư duy Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vô tưởng xứ.
Nếu Tôn giả A-na-luật lại tư duy Diệt tận định, thì Tôn giả Nan-đề cũng tư
duy Diệt tận định. Như thế các pháp, chư Hiền tư duy pháp này.
Bấy giờ Thế Tôn đến nước Sư Tử. Khi ấy
người giữ vườn từ xa trông thấy Thế Tôn đến, liền nói:
- Sa-môn, chớ có vào vườn. Vì sao thế? Vì
trong vườn này có ba vị vọng tộc tên A-na-luật, Nan-đề, Kim-tỳ-la, nên cẩn
thận chớ làm phiền rộn họ.
Khi ấy Tôn giả A-na-luật dùng Thiên nhãn
thanh tịnh và Thiên nhĩ thông, nghe người giữ vườn nói với Thế Tôn như
thế, không cho Thế Tôn vào vườn. Tôn giả A-na-luật liền ra bảo người giữ
cửa:
- Chớ ngăn, nay Thế Tôn muốn đến đây thăm
nom.
Tôn giả A-na-luật liền vào báo Tôn giả
Kim-tỳ-la:
- Ðến mau, Thế Tôn đang ở ngoài cửa.
Ba Tôn giả liền xuất định, đến chỗ Thế
Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên. Mỗi người tự thưa:
- Kính chào đức Thế Tôn.
Tôn giả A-na-luật đỡ bình bát của Thế Tôn,
Tôn giả Nan-đề trải tòa ngồi, Tôn giả Kim-tỳ-la lấy nước cho Thế Tôn rửa
chân.
Bấy giờ Thế Tôn bảo A-na-luật:
- Ba Thầy ở đây hòa hợp với nhau, không có
nghĩ khác? Khất thực có vừa ý không?
Tôn giả A-na-luật thưa:
- Đúng vậy Thế Tôn, khất thực không mệt
gì. Vì sao thế? Vì nếu lúc con tư duy Sơ thiền, thì Tôn giả Nan-đề, Tôn
giả Kim-tỳ-la cũng tư duy Sơ thiền. Nếu con tư duy Nhị thiền, Tam thiền,
Tứ thiền, Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vô tưởng xứ, Diệt tận
tam-muội, thì khi ấy Tôn giả Nan-đề, Tôn giả Kim-tỳ-la cũng tư duy Nhị
thiện, Tam thiền, Tứ thiền, Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vô
tưởng xứ, Diệt tận định. Như vậy Thế Tôn, chúng con tư duy pháp này.
Thế Tôn bảo:
- Lành thay, lành thay, A-na-luật! Lúc ấy
các Thầy có được pháp thượng nhân chăng?
Tôn giả A-na-luật thưa:
- Thưa vâng, Thế Tôn, chúng con lại được
pháp thượng nhân nữa.
Thế Tôn bảo:
- Cái gì pháp thượng nhân?
Tôn giả A-na-luật thưa:
- Có diệu pháp này vượt trên pháp thượng
nhân. Nếu như chúng con lại đem tâm từ rải khắp một phương, hai phương, ba
phương, bốn phương, cũng thế, bốn phía, trên dưới cũng vậy, mỗi mỗi trong
tất cả đều lấy tâm từ bủa đầy trong đó, vô số, vô hạn không thể tính kể mà
tự du hí. Lại đem tâm bi, tâm hỉ, tâm xả (hộ) bủa đầy khắp một phương, hai
phương, ba phương, bốn phương cũng như thế, bốn phía trên dưới cũng vậy mà
tự du hí. Ðó là, bạch Thế Tôn, chúng con lại được pháp thượng nhân này.
Bấy giờ Nan-đề, Tôn giả Kim-tỳ-la bảo Tôn
giả A-na-luật:
- Có hôm nào chúng tôi đến Tôn giả hỏi
nghĩa này đâu mà nay ở trước Thế Tôn, Tôn giả tự nói ra vậy?
Tôn giả A-na-luật nói:
- Các Thầy chưa từng đến tôi để hỏi nghĩa
này, nhưng chư Thiên đến chỗ tôi nói, cho nên tôi ở trước Thế Tôn nói như
vậy. Và lâu nay, tôi biết tâm ý chư Hiền, chư Hiền đã đắc tam-muội này
rồi, nên trước Thế Tôn, tôi mới nói lời này.
Lúc đang nói pháp này thì đại tướng Trường
Thọ đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Ðại tướng Trường Thọ bạch
Thế Tôn:
- Hôm nay Thế Tôn thuyết pháp cho những vị
này sao?
Thế Tôn đem việc này kể cho đại tướng
Trường Thọ nghe. Ðại tướng bạch Phật:
- Ðại quốc Bạt-kỳ chóng được lợi lớn: Có
ba vị vọng tộc này du hóa, đó là A-na-luật, Nan-đề và Kim-tỳ-la.
Thế Tôn bảo:
- Ðúng thế, Ðại tướng, như lời Ông nói.
Ðại quốc Bạt kỳ chóng được lợi lành, không kể nước Bạt-kỳ mà nước Ma-kiệt
cũng chóng được lợi lành vì có ba vị vọng tộc này, nếu nhân dân trong nước
Ma-kiệt nhớ đến ba vị vọng tộc này liền được an ổn lâu dài. Ðại tướng nên
biết, nếu huyện, ấp, thành quách nào có ba vị vọng tộc này, nhân dân trong
thành quách ấy sẽ được an ổn lâu dài. Nhà nào sanh ra ba vị vọng tộc này
cũng được lợi lớn vì đã sanh ra những bậc thượng tôn này. Năm dòng họ thân
tộc cha mẹ kia nếu nhớ đến ba vị vọng tộc này cũng được lợi lớn. Nếu Trời,
Rồng, Quỷ, Thần nhớ ba vị vọng tộc này cũng được lợi lớn. Nếu có người
khen ngợi bậc A-la-hán thời cũng nên khen ngợi ba vị này. Nếu có người
khen ngợi bậc không tham dục, không ngu si, không sân giận thời cũng nên
khen ngợi va vị này. Như Ta ở trong ba a-tăng-kỳ kiếp, hành cần khổ thành
đạo vô thượng, khiến ba vị này thành tựu pháp nghĩa này. Thế nên Ðại
tướng, hãy học điều này!
Bấy giờ Ðại tướng nghe Phật dạy xong, vui
vẻ vâng làm.
*
9.
Tôi nghe như vầy.
Một thời Phật ở nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có ba kiết sử trói buộc khiến chúng sanh
không thể từ bờ này đến bờ kia được. Thế nào là ba? Ðó là thân tà (kiến),
nghi, giới đạo.
Thế nào gọi là thân tà? Nghĩa là chấp thân
có ngã, sanh tưởng ngô ngã, có tưởng chúng sanh, có mạng, có thọ, có
người, có sĩ phu, có duyên, có dính mắc. Ðó gọi là kiết (trói buộc) của
thân tà.
Thế nào gọi là nghi kiết? Nghĩa là nghi có
ngã không? Không ngã chăng? Có sanh chăng? Vô sanh chăng? Có ngã, nhân,
thọ mạng chăng? Không ngã, nhân, thọ mạng chăng? Có cha mẹ chăng? Không
cha mẹ chăng? Có đời này, đời sau chăng? Không đời này, đời sau chăng? Có
Sa-môn, Bà-la-môn chăng? Không Sa-môn, Bà-la-môn chăng? Ðời có A-la-hán
chăng? Ðời không A-la-hán chăng? Có người chứng đắc chăng? Không chứng đắc
chăng? Ðó gọi là nghi kiết.
Thế nào gọi là giới đạo kiết? Nghĩa là
giới cấm thủ. Ta sẽ do giới này được sanh vào nhà danh tiếng, sanh nhà
trưởng giả, sanh nhà Bà-la-môn, hoặc sanh lên Trời hay trong chư Thần. Ðó
gọi là giới đạo kiết.
Như thế, này Tỳ-kheo, có ba kiết này trói
buộc chúng sanh, khiến không thể từ bỏ bên này đến được bờ bên kia. Như
hai con trâu chung một ách trọn chẳng thể rời nhau. Chúng sanh này cũng
lại như thế, bị ba kiết trói không thể từ bờ bên này đến bờ kia.
Thế nào là bờ này? Thế nào là bờ kia? Bờ
bên này tức là thân tà vậy. Bờ bên kia là thân tà diệt. Ðó là, này
Tỳ-kheo, ba kiết trói buộc chúng sanh không thể từ bỏ bờ này đến bờ kia.
Thế nên, các Tỳ-kheo, nên tìm phương tiện diệt ba kiết này. Như thế, này
các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
10.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có ba tam-muội này. Thế nào là ba? Ðó là
không tam-muội, vô nguyện tam-muội, vô tưởng tam-muội.
Thế nào gọi là không tam-muội? Không là
quán tất cả các pháp đều tất sẽ rỗng không. Ðó là không tam-muội.
Thế nào gọi là vô tưởng tam-muội? Vô tưởng
là đối với tất cả các pháp đều không tưởng niệm cũng không đáng thấy. Ðó
gọi là vô tưởng tam-muội.
Thế nào gọi là vô nguyện tam-muội? Vô
nguyện là đối với tất cả các pháp cũng không mong cầu. Ðó gọi là vô nguyện
tam-muội.
Như thế, này Tỳ-kheo, nếu không được ba
tam-muội này thì ở mãi trong sanh tử, không thể tự giác ngộ. Thế nên, các
Tỳ-kheo, nên tìm phương tiện được ba tam-muội này. Như vậy, này các
Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
Tràng, Tỳ-sa, Pháp vương,
Cù-mặc, thần túc hóa,
Trai giới, hiện tại tiền,
Trường Thọ, kiết, tam-muội.
-ooOoo-