XXV. Phẩm Tứ đế
1.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp-cô-độc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nên tu hành pháp Bốn đế. Thế nào là bốn?
Khổ đế, nghĩa chẳng thể tận, nghĩa chẳng thể cùng, thuyết pháp vô tận. Khổ
tập đế, nghĩa chẳng thể tận, nghĩa chẳng thể cùng, thuyết pháp vô tận. Khổ
diệt đế, nghĩa chẳng thể tận, nghĩa chẳng thể cùng, thuyết pháp vô tận.
Khổ xuất yếu đế, nghĩa chẳng thể tận, nghĩa chẳng thể cùng, thuyết pháp vô
tận.
Thế nào gọi là Khổ đế? Khổ đế là sanh khổ,
già khổ, bệnh khổ, chết khổ, lo buồn khổ não, oán ghét gặp gỡ khổ, yêu
thương ly biệt khổ, chỗ muốn không được khổ, nói tóm là Ngũ thạnh ấm khổ.
Ðó gọi là Khổ đế.
Thế nào gọi là Khổ tập đế? Tập đế là ái và
dục tương ưng, tâm thường nhiễm trước. Ðó gọi là Khổ tập đế.
Thế nào gọi là Khổ diệt đế? Diệt đế là dục
ái diệt hẳn không còn, và không tạo lại nữa. Ðó là Khổ diệt đế.
Thế nào gọi là Khổ xuất yếu đế? Khổ xuất
yếu đế là Tám đạo phẩm Hiền Thánh. Nghĩa là chánh kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định. Ðó là Khổ xuất yếu đế.
Như thế, các Tỳ-kheo, đối Tứ đế này, thật
có, chẳng hư dối, là lời của Thế Tôn nên gọi là Ðế. Trong các chúng sanh
hai chân, ba chân, bốn chân, ở cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, hữu tưỏng, vô
tưởng, Như Lai là tối thượng, đã thành tựu Tứ đế này, nên gọi là Tứ đế.
Như vậy, này các Tỳ-kheo, có Tứ đế này mà không hay biết thì ở mãi trong
năm đường sanh tử luân hồi. Nay Ta đã được Tứ đế này, từ bờ này đến bờ
kia, thành tựu nghĩa này, cắt đứt cội gốc sanh tử, chẳng thọ thân sau nữa,
như thật mà biết.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Nay có pháp Tứ đế,
Như thật mà chẳng biết,
Luân chuyển trong sanh tử,
Trọn chẳng được giải thoát.
Ta nay có Tứ đế
Ðã giác, đã hiểu rõ,
Ðã đoạn gốc sanh tử,
Cũng lại chẳng thọ hữu.
Nếu có bốn bộ chúng, chẳng được Tứ đế này,
chẳng hay, chẳng biết, liền đọa năm đường. Thế nên các Tỳ-kheo, hãy dùng
phương tiện thành tựu Tứ đế này. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều
này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
2.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp-cô-độc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có bốn pháp này lợi ích rất nhiều cho
người. Thế nào là bốn? Pháp thứ nhất nên thân cận thiện tri thức. Thứ hai
nên nghe pháp. Thứ ba nên biết pháp. Thứ tư nên rõ sáng pháp và pháp
tướng.
Ðó là, này các Tỳ-kheo, có bốn pháp này
lợi ích rất nhiều cho người. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên tìm phương tiện
thành tựu bốn pháp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
3.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp-cô-độc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo A-nan:
- Lúc Như Lai xuất hiện ở đời, có bốn pháp
chưa từng có xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn? Chúng sanh ở đây có nhiều
dính mắc, nếu lúc Ta thuyết pháp không nhiễm trước, họ cũng lại vâng nhận,
nhớ tu hành, tâm không xa lìa. Lúc Như Lai xuất hiện ở đời, có bốn pháp
chưa từng có xuất hiện ở đời. Ðó là pháp đầu tiên chưa từng có xuất hiện ở
đời.
Lại nữa, này A-nan, chúng sanh hằng luân
chuyển chẳng dừng trong năm đường. Chính ngay lúc Ta muốn thuyết pháp, họ
cũng lại vâng nhận, tâm không xa lìa. Lúc Như Lai xuất hiện ở đời, pháp
thứ hai chưa từng có xuất hiện ở đời.
Lại nữa, này A-nan, chúng sanh này hằng ôm
lòng kiêu mạn không rời tâm. Nếu Ta khiến thuyết pháp cho họ, cũng lại
vâng nhận, tâm không xa lìa. Này A-nan, chúng sanh này hằng ôm kiêu mạn
không bỏ khoảnh khắc. Nếu lại lúc thuyết pháp cũng lại vâng nhận thời đó
là pháp chưa từng có thứ ba xuất hiện ở đời.
Lại nữa, này A-nan, chúng sanh này bị vô
minh che đậy. Nếu lại lúc Ta thuyết pháp minh, họ cũng lại vâng nhận chớ
không quên mất. Nếu lại, này A-nan, lúc thuyết pháp hữu minh, vô minh này,
tâm ý họ nhu hòa, hằng thích tu hành. Ðó là, A-nan, lúc Như Lai xuất hiện
ở đời, pháp thứ tư chưa từng có xuất hiện ở đời.
Nếu có Như Lai hiện tại, liền có bốn pháp
này xuất hiện ở đời. Thế nên A-nan, nên phát tâm hoan hỉ đối với Như Lai.
Như thế, A-nan, hãy học điều này!
Bấy giờ A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ
vâng làm.
*
4.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta sẽ thuyết về gánh, cũng sẽ thuyết
về người mang gánh, cũng sẽ thuyết nhân duyên gánh, cũng sẽ thuyết về
buông gánh. Tỳ-kheo các Thầy hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ,
nay Ta sẽ thuyết.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Thưa vâng, Thế Tôn.
Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn
bảo:
- Thế nào gọi là gánh? Nghĩa là năm ấm.
Thế nào là năm? Nghĩa là sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấm. Ðó gọi là gánh.
Thế nào gọi là người mang gánh? Người mang
gánh là thân người, tên gì, họ gì, sanh như thế, ăn thức ăn như thế, chịu
khổ vui, thọ mạng dài ngắn như thế. Ðó gọi là người mang gánh.
Thế nào gọi là nhân duyên gánh? Nhân duyên
gánh là nhân duyên ái trước, cùng chung với dục, tâm không xa lìa. Ðó gọi
là nhân duyên gánh.
Thế nào gọi là buông gánh? Nghĩa là hay
khiến cho ái kia dứt hẳn trọn vẹn, đã trừ, đã mửa ra. Ðó gọi là buông
gánh.
Như thế, Tỳ-kheo, nay Ta đã thuyết gánh,
đã thuyết về nhân duyên gánh, đã thuyết về người mang gánh, đã thuyết về
buông gánh. Chỗ đáng làm của Như Lai, nay Ta đã làm xong. Hãy ở dưới gốc
cây, chỗ vắng vẻ, ngồi ngoài trời, thường nhớ tọa thiền, chớ có buông
lung.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Nên nhớ bỏ gánh nặng,
Lại chớ tạo gánh mới,
Gánh là bịnh thế gian
Bỏ gánh vui đệ nhất.
Cũng nên trừ ái kiết
Và bỏ hạnh phi pháp,
Trọn nên xa lìa đây,
Lại chẳng thọ thân nữa.
Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy tạo phương tiện
xa lìa gánh nặng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
5.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có bốn thứ sanh. Thế nào là bốn? Ðó là
noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh.
Thế nào gọi là noãn sanh? Nghĩa là loài
sanh bằng trứng như những con thuộc loài gà, chim, quạ, bồ cầu, khổng
tước, rắn, cá, kiến v.v.... đều là noãn sanh. Ðó gọi là noãn sanh.
Thế nào gọi là thai sanh? Nghĩa là người
và súc sanh, đến loài vật hai chân. Ðó gọi là thai sanh.
Thế nào gọi là thấp sanh (nhân duyên
sanh)? Nghĩa là trùng trong thịt thúi, trùng trong cầu tiêu, trùng trong
thây chết. Ðó gọi là thấp sanh (nhân duyên sanh).
Thế nào gọi là hóa sanh? Nghĩa là chư
Thiên, đại địa ngục, ngạ quỷ, hoặc người hoặc súc sanh. Ðó gọi là hóa
sanh.
Ðó là, này Tỳ-kheo, có bốn thứ sanh này.
Các Tỳ-kheo (muốn) xa lìa bốn thứ sanh này, hãy tìm phương tiện thành tựu
pháp Tứ đế. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
6.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả
Mục-kiền-liên ở thành La-duyệt, trong vườn trúc Ca-lan-đà.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các
Tỳ-kheo:
- Thế gian có bốn hạng người này. Những gì
là bốn? Người cùng với kết theo nhau, bên trong có kết mà chẳng biết.
Người cùng với kết theo nhau, nhưng trong có kết, như thật mà biết. Người
không cùng với kết theo nhau, nhưng trong không kết, như thật mà chẳng
biết. Người không cùng với kết theo nhau, nhưng trong không kết, như thật
mà biết.
Chư Hiền nên biết, người thứ nhất cùng kết
theo nhau, nhưng trong có kết mà chẳng biết; trong hai người có kết này,
người này rất là hạ tiện. Người thứ hai cùng kết theo nhau, trong có kết,
như thật mà biết, người này hết sức hay khéo. Người thứ ba kia không cùng
kết theo nhau, trong không có kết, như thực chẳng biết; trong hai người
không có kết, người này rất là hạ tiện. Người thứ tư kia, chẳng cùng kết
theo nhau, trong không có kết, như thật mà biết; trong người không có kết,
người này thật là đệ nhất.
Chư Hiền nên biết, thế gian có bốn hạng
người này.
Bấy giờ Tôn giả Mục-kiền-liên hỏi Tôn giả
Xá-lợi-phất:
- Có lý do gì, người có kết theo nhau mà
một người thì hạ tiện, còn một người thì tối diệu? Lại có nhân duyên gì,
hai người không có kết theo nhau này, lại một người hạ tiện còn một người
tối diệu?
Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:
- Người kia cùng kết theo nhau, trong có
kết như thật chẳng biết. Người đó nghĩ: "Ta hãy tưởng tịnh". Người đó liền
tư duy tưởng tịnh. Lúc đang tưởng tịnh liền khởi tâm dục, đã khởi tâm dục
thời sẽ có tham dục, sân giận, ngu si mà chết. Lúc đó, họ chẳng tìm phương
tiện diệt tâm dục này, liền có tâm sân giận, ngu si mà chết. Mục-liên nên
biết, ví như có người đến chợ mua được bình đồng, bụi bặm cáu bẩn rất là
dơ dáy. Người đó chẳng tùy thời lau chùi, chẳng tùy thời rửa sạch, bởi thế
bình đồng kia càng thêm cáu bợn rất là bẩn thỉu. Người thứ nhất này cũng
lại như thế, họ cùng với cấu theo sau, trong có kết như thực chẳng biết.
Người ấy liền nghĩ: "Ta hãy tư duy tưởng tịnh". Ðã tư duy tưởng tịnh liền
sanh tâm dục, đã sanh tâm dục liền có tham dục, sân giận, ngu si mà chết,
chẳng tìm phương tiện diệt tâm dục này.
Người thứ hai cùng với kết theo nhau,
trong có kết, như thực mà biết. "Nay ta nên bỏ tưởng tịnh, tư duy tưởng
bất tịnh". Người ấy đã bỏ tưởng tịnh, tư duy tưởng bất tịnh. Người ấy đã
tư duy tưởng bất tịnh, liền chẳng sanh tâm dục, họ tìm phương tiện chưa
đắc khiến đắc, chưa được khiến được, chưa đến khiến đến. Người ấy liền
không có tham dục, sân giận, ngu si, cũng lại không có kết mà mạng chung.
Cũng như có người từ trong chợ mua được bình đồng dính bụi bặm. Người ấy
tùy thời tu sửa, rửa cho sạch sẽ. Người này cũng lại như thế, cùng với kết
theo nhau, bên trong có kết như thật mà biết. Người ấy liền bỏ tưởng tịnh,
tư duy tưởng bất tịnh. Người ấy tư duy tưởng bất tịnh, lại tìm phương tiện
không được khiến được, không đắc khiến đắc, không tác chứng khiến cho được
chứng. Người ấy đã không tâm dục, không sân giận, ngu si mà mạng chung. Ðó
là, này Mục-liên, có hai người cùng kết theo nhau nhưng một người hạ tiện,
còn một người tối diệu.
Tôn giả Mục-liên nói:
- Lại vì nhân duyên nào khiến hai người
không cùng kết theo nhau mà một người hạ tiện, một người tối diệu?
Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
- Người thứ ba kia không cùng kết theo
nhau, trong không kết, như thật chẳng biết. Người ấy liền tư duy: "Ta
chẳng tìm phương tiện tư duy, chẳng đắc khiến đắc, chẳng được khiến được,
chẳng tác chứng mà tác chứng". Người ấy có tâm dục,bị sân giận, ngu si
trói buộc mà chết. Ví như có người đến chợ mua bình đồng dính đầy bụi bặm
mà chẳng tùy thời rửa bụi, cũng chẳng tùy thời sửa sang. Người thứ ba này
cũng lại như vậy, chẳng cùng kết theo nhau, bên trong không kết, như thật
chẳng biết. Cũng chẳng học điều này: "Ta sẽ cầu phương tiện diệt các kết
này". Người ấy liền có tâm tham dục, sân giận, ngu si mà mạng chung.
Người thứ tư kia chẳng cùng chung với kết,
trong không kết, như thật mà biết. Người ấy liền tư duy: "Ta tìm phương
tiện không đắc khiến đắc, không được khiến được, không tác chứng khiến tác
chứng". Người đó do không có kết này mà mạng chung. Ví như có người đến
chợ được bình đồng tốt hết sức trong sạch, lại tùy thời sửa sang chùi rửa
bình ấy. Bấy giờ bình kia càng thêm sạch đẹp. Người thứ tư này cũng lại
như thế, chẳng cùng kết theo nhau, trong không kết, như thật mà biết.
Người ấy liền tư duy: "Ta tìm phương tiện chẳng được khiến được, chẳng đắc
khiến đắc, chẳng tác chứng khiến cho tác chứng". Người đó liền không có
kiết sử tham dục, sân giận, ngu si mà thân hoại mạng chung.
Ðó là, Mục-liên, có hai người này không
cùng kết theo nhau, trong không kết như thật mà biết nhưng một người thì
cao thượng, một người hạ tiện.
Bấy giờ Tôn giả Mục-liên hỏi Tôn giả
Xá-lợi-phất:
- Vì cớ sao gọi là kết?
Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:
- Mục-liên nên biết, pháp ác bất thiện
khởi lên các tà kiến, nên gọi là kết. Hoặc lại có người nghĩ: "Như Lai hỏi
ta nghĩa xong, sau đó thuyết pháp cho các Tỳ-kheo, chẳng hỏi nghĩa các
Tỳ-kheo khác". Như Lai thuyết pháp cho Tỳ-kheo hoặc lại có lúc Thế Tôn bảo
Tỳ-kheo khác thuyết pháp mà chẳng bảo Tỳ-kheo nọ: "Như Lai thuyết pháp,
Như Lai chẳng bảo ta thuyết pháp cho Tỳ-kheo", hoặc có bất thiện, hoặc có
tham dục. Ðã có bất thiện lại có tham dục, cả hai đều bất thiện.
Hoặc lại có lúc Tỳ-kheo nghĩ: "Ta hằng ở
trước các Tỳ-kheo khi vào thôn khất thực, chẳng để Tỳ-kheo khác ở trước mà
vào thôn khất thực". Hoặc có lúc Tỳ-kheo khác ở trước mà vào thôn khất
thực chẳng cho Tỳ-kheo nọ ở trước Tỳ-kheo mà vào thôn khất thực: "Ta chẳng
ở trước Tỳ-kheo mà vào thôn khất thực". Ðã có bất thiện, lại có tham dục,
cả hai đều bất thiện.
Mục-liên nên biết, hoặc lại có lúc Tỳ-kheo
nghĩ: "Ta sẽ ngồi trước Tỳ-kheo, nhận nước trước, được món ăn trước, chẳng
để Tỳ-kheo khác ngồi trước Tỳ-kheo, nhận nước trước, được món ăn trước".
Hoặc lại có lúc Tỳ-kheo khác ngồi trước Tỳ-kheo, nhận nước trước, được món
ăn trước, chẳng để Tỳ-kheo nọ ngồi trước Tỳ-kheo, nhận nước trước, được
món ăn trước. "Ta chẳng ngồi ở trước Tỳ-kheo, nhận nước trước, được món ăn
trước". Ðã có bất thiện lại có tham dục. Cả hai đều bất thiện.
Hoặc lại có lúc Tỳ-kheo nghĩ: "Ta ăn xong
sẽ thuyết pháp cho đàn việt, không để cho Tỳ-kheo khác ăn xong thuyết pháp
cho đàn việt". Hoặc lại có Tỳ-kheo khác ăn xong thuyết pháp cho đàn việt,
không để Tỳ-kheo nọ ăn xong thuyết pháp cho đàn việt: "Không cho ta ăn
xong thuyết pháp cho đàn việt". Ðã có bất thiện, lại có tham dục, cả hai
đều bất thiện.
Hoặc lại có lúc Tỳ-kheo nghĩ: "Ta sẽ đến
trong vườn thuyết pháp cho trưởng giả, Bà-la-môn, chẳng để Tỳ-kheo khác
vào vườn thuyết pháp cho trưởng giả, Bà-la-môn". Hoặc lại có lúc Tỳ-kheo
khác vào vườn thuyết pháp cho trưởng giả, Bà-la-môn, chẳng để Tỳ-kheo nọ
vào vườn thuyết pháp cho trưởng giả, Bà-la-môn: "Chẳng cho ta vào vườn
thuyết pháp cho trưởng giả, Bà-la-môn". Ðã có bất thiện, lại có tham dục,
cả hai đều bất thiện.
Hoặc lại có lúc Tỳ-kheo nghĩ: "Nay ta phạm
giới, mong các Tỳ-kheo khác không biết ta phạm giới". Hoặc lại có lúc
Tỳ-kheo kia phạm giới, các Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo phạm giới. Ðã có bất
thiện, lại có tham dục, cả hai đều bất thiện.
Hoặc lại có lúc Tỳ-kheo nghĩ: "Nay ta phạm
giới chẳng cho Tỳ-kheo khác bảo rằng ta phạm giới". Hoặc lại có lúc
Tỳ-kheo kia phạm giới. Tỳ-kheo khác bảo rằng "phạm giới". Ðã có bất thiện,
lại có tham dục, cả hai đều bất thiện.
Hoặc lại có lúc Tỳ-kheo nghĩ: "Nay ta phạm
giới, hãy để Tỳ-kheo thanh tịnh nói lỗi ta, không cho Tỳ-kheo chẳng thanh
tịnh nói lỗi ta". Hoặc lại có lúc Tỳ-kheo chẳng thanh tịnh bảo Tỳ-kheo nọ
rằng Tỳ-kheo ấy phạm giới. Ðã có bất thiện, lại có tham dục, cả hai đều
bất thiện.
Hoặc lại có lúc Tỳ-kheo nghĩ: "Nay ta phạm
giới, nếu có Tỳ-kheo nào bảo ta, hãy nói ở chỗ khuất, chớ nói giữa đám
đông". Hoặc lại có lúc Tỳ-kheo kia phạm giới, ở giữa đại chúng bị nêu ra
chứ không ở chỗ khuất. Tỳ-kheo đó lại nghĩ: "các Tỳ-kheo này ở giữa đại
chúng bảo ta, không ở chỗ khuất". Ðã có bất thiện, lại có tham dục, cả hai
đều bất thiện.
Mục-liên nên biết, gốc của các pháp này
làm dấy khởi hạnh này, gọi là kiết sử. Mục-liên lại nên biết, có bốn bộ
chúng đều nghe biết người vấp Phạm hạnh này, dù có nói: "Tôi hành hạnh
A-lan-nhã, ở chỗ vắng vẻ, mặc y năm mảnh, hằng đi khất thực không chọn
giàu nghèo, đi không thô tháo, đến đi dừng ở, ngồi đứng động tịnh, nói
năng hay im lặng". Tỳ-kheo ấy nghĩ rằng: "Sao cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, các vị Phạm hạnh hằng đến cúng dường tôi". Tỳ-kheo ấy
tuy có nghĩ thế, nhưng bốn độ chúng cũng chẳng tùy thời cúng dường. Sở dĩ
như thế, vì Tỳ-kheo kia hạnh ác bất thiện chưa trừ, đều bị thấy nghe, nhớ
biết. Ví như có người có một bình đồng hết sức trong sạch lại đựng đồ bất
tịnh đầy ở trong rồi lại lấy bình khác đậy lên trên, cầm đi đến cõi nước.
Mọi người trông thấy hỏi người ấy:
- "Anh cầm cái gì thế? Chúng tôi muốn được
nhìn thấy".
Lúc ấy mọi người đã đói, nói:
- "- Là thức ăn uống ngon đây".
Lúc ấy họ mở nắp bình, rồi cùng trông thấy
đồ bất tịnh. Tỳ-kheo này cũng lại như thế. Tuy có hạnh A-la-nhã, tùy thời
khất thực, đắp y năm mảnh, chính thân, chính ý, buộc niệm ở trước. Người
ấy tuy nghĩ rằng: "Muốn cho các người Phạm hạnh tùy thời đến cúng dường".
Nhưng các vị Phạm hạnh lại không tùy thời đến cúng dường. Sở dĩ như thế là
vì Tỳ-kheo kia có pháp ác bất thiện, kiết sử chưa hết.
Mục-liên nên biết, có các Tỳ-kheo không có
pháp ác bất thiện này, kiết sử đã dứt, được mọi người thấy nghe, nhớ biết,
tuy đi trong thành phố vẫn là người trì pháp, hoặc nhận được người thỉnh,
hoặc nhận trưởng giả cúng dường. Tỳ-kheo kia không có tưởng tham dục này.
Lúc ấy, bốn bộ chúng và các vị Phạm hạnh
đều đến cúng dường. Sở dĩ như thế là vì Tỳ-kheo kia hành thanh tịnh vậy,
đều được mọi người thấy nghe, nhớ biết. Ví như có người có bình đồng tốt,
đựng thức ăn uống ngon lành, mùi vị thơm phức. Người ấy lại dùng vật đậy
lên trên cầm đi đến các cõi nước. Mọi người trông thấy hỏi người ấy:
- "Ðây là vật gì? Chúng tôi muốn được nhìn
xem".
Lúc ấy họ mở ra nhìn, thấy là thức ăn
uống, cùng lấy ra ăn. Ðây cũng như thế, Tỳ-kheo được thấy nghe, nhớ biết;
tuy đi trong thành phố nhận trưởng giả cúng dường mà người ấy chẳng nghĩ
rằng: "Mong các vị Phạm hạnh đến cúng dường ta", mà các vị Phạm hạnh đều
đến cúng dường. Sở dĩ như thế là vì Tỳ-kheo ấy đã trừ hết hạnh ác bất
thiện. Thế nên, Mục-liên, vì các hạnh này mà gọi là kiết sử.
Bấy giờ Tôn giả Mục-kiền-liên khen:
- Lành thay, lành thay, Xá-lợi-phất! Vì
sao như thế? Xưa tôi đến vườn trúc Ca-lan-đà trong thành La-duyệt, đến giờ
đắp y ôm bát vào thành La-duyệt khất thực, đến nhà người thợ làm xe kia,
đứng lặng thinh ngoài cửa. Bấy giờ người thợ kia đang cầm búa đẽo gỗ; lại
có một người thợ già có chút việc đến nhà người thợ này, đang lúc người
thợ này sửa chữa miếng gỗ, người thợ già mới nghĩ: "Chú thợ nhỏ này đẽo bỏ
hết những chỗ không vừa ý". Người thợ già rất hoan hỉ, nghĩ: "Lành thay,
lành thay, Anh đẽo gỗ thật vừa ý ta". Ðây cũng như thế, có các Tỳ-kheo tâm
không nhu hòa, bỏ hạnh Sa-môn, ôm lòng gian ngụy, chẳng theo pháp Sa-môn,
tánh hạnh thô sơ, không biết hổ thẹn, trơ mặt chịu nhục, làm hạnh ti tiện,
không có dũng mãnh, hoặc ưa quên nhiều, không nhớ việc làm, tâm ý bấy
định, việc làm lầm lẫn, các căn chẳng định, thời nay được Tôn giả
Xá-lợi-phất quán sát tánh hạnh mà sửa trị.
Có các vị vọng tộc do lòng tin kiên cố,
xuất gia học đạo, rất cung kính giới, chẳng bỏ pháp Sa-môn Hiền Thánh,
không có huyễn ngụy, không hạnh thô bạo, tâm ý nhu hòa, nói thường cười
nụ, chẳng làm thương tổn ý người, tâm hằng nhất định, không có thị phi,
các căn chẳng loạn. Người ấy nghe Tôn giả Xá-lợi-phất nói rồi, liền tự
vâng nhận cũng không quên mất. Ví như hoặc nam hay nữ đoan chánh vô song,
tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới đẹp, lấy hương thoa mình. Nếu lại có người đem
thêm hoa sen dâng lên, người ấy được hoa, đem gắn lên đầu, vui mừng hớn hở
không kềm được. Ðây cũng như thế, nếu có người vọng tộc, do lòng tin kiên
cố xuất gia học đạo, cung kính giới, chẳng mất pháp Sa-môn, không có huyễn
ngụy, chẳng hạnh thô bạo, tâm ý nhu hòa, nói thường cười nụ, chẳng thương
tổn ý người, tâm hằng nhất định, không có thị phi, các căn chẳng loạn,
thời người ấy theo Tôn giả Xá-lợi-phất nghe lời này rồi, rất vui mừng,
không kềm được, mà nhận lời dạy. Như thế, các vị Vọng tộc, hãy nghe thuyết
giáo pháp này!
Bấy giờ chư Hiền, mọi người nghe nói xong,
vui vẻ vâng làm.
*
7.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có bốn loại trái này. Thế nào là bốn?
Hoặc có trái sống mà tợ như chín, hoặc có trái chín mà tợ như sống, hoặc
có trái chín mà tợ như chín, hoặc có trái sống mà tợ như sống. Ðó là, này
Tỳ-kheo, thế gian có bốn loại trái này. Thế gian có bốn hạng người cũng
lại như thế. Thế nào là bốn? Hoặc có người chín mà tợ như sống, hoặc có
người sống mà tợ như chín, hoặc có người sống mà tợ như sống, hoặc có
người chín mà tợ như chín.
Thế nào gọi là người sống mà tợ như chín?
Có người qua, lại, bước đi không thô bạo, mắt nhìn ngó đúng pháp dạy, đắp
y ôm bát cũng theo pháp bước đi, nhìn xuống đất không liếc nhìn hai bên,
nhưng lại phạm giới không theo hạnh chánh. Ðó thực chẳng phải Sa-môn mà tợ
như Sa-môn, chẳng phải phạm hạnh mà tợ nói hành Phạm hạnh, làm bại hoại
hết gốc rễ Chánh pháp, hư hoại hạt giống. Ðó là người sống mà tợ như chín.
Thế nào gọi là người chín mà tợ như sống?
Hoặc có Tỳ-kheo tánh hạnh dường như thô sơ, ngó nhìn không ngay ngắn, cũng
chẳng theo pháp mà đi, thích liếc nhìn hai bên, nhưng lại tinh tấn đa văn,
tu hành pháp lành, hằng giữ giới luật không mất oai nghi, thấy phi pháp
một chút liền ôm lòng sợ hãi. Ðó là người chín mà tợ như sống.
Thế nào gọi là người sống mà tợ như sống?
Hoặc có Tỳ-kheo chẳng trì cấm giới, chẳng biết lễ tiết, đi, bước, cũng lại
chẳng biết ra, vào, đi, đến, cũng lại chẳng biết đắp y ôm bát, các căn rối
loạn, tâm dính sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Người ấy phạm cấm giới,
không hành Chánh pháp, chẳng phải Sa-môn mà tợ như Sa-môn, chẳng hành Phạm
hạnh mà tợ như Phạm hạnh. Người các căn hư hỏng, không thể sửa chữa. Ðó là
người này sống mà tợ như sống.
Thế nào là người chín mà tợ như chín? Hoặc
có Tỳ-kheo giữ gìn cấm giới, ra, vào, bước đi không mất thời tiết, nhìn
ngó chẳng mất oai nghi, hết sức tinh tấn tu hành pháp lành, oai nghi lễ
tiết đều thành tựu cả, thấy chút phi pháp liền ôm lòng lo sợ huống là to
lớn. Ðó là người này chín mà tợ như chín.
Ðó là, này Tỳ-kheo, thế gian có bốn hạng
người như trái cây này. Nên học làm trái chín. Như thế, này các Tỳ-kheo,
hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
8.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Hôm nay trong hư không có gió bão (tùy
lam). Nếu có chim bay đến đó, như ô thước, chim hồng hộc gặp gió thì đầu,
não, vây cánh mỗi thứ một nơi. Trong đây, một Tỳ-kheo cũng lại như thế, bỏ
cấm giới rồi, tạo hạnh cư sĩ lúc ấy ba y, bình bát, ống kim v.v.... thuộc
sáu vật, mỗi thứ một nơi, như trận giông bão thổi chết chim kia. Thế nên,
các Tỳ-kheo, hãy tu hành Phạm hạnh. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều
này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
9.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Tỳ-kheo nên biết, có bốn loại chim. Thế
nào là bốn? Hoặc có chim tiếng hót hay mà thân xấu. Hoặc có chim thân đẹp
mà tiếng dở. Hoặc có chim tiếng dở mà thân cũng xấu. Hoặc có chim thân đẹp
mà tiếng cũng hay.
Thế nào là chim tiếng hay mà thân xấu? Ðó
là chim câu-si-la. Chim này tiếng hay mà hình xấu.
Thế nào là chim hình đẹp mà tiếng dở? Là
chim chí. Chim này thân đẹp mà tiếng dở.
Thế nào là chim thân xấu mà tiếng cũng dở?
Ðó là chim thế cưu. Chim này tiếng dở mà hình cũng xấu.
Lại có chim gì tiếng hay mà thân cũng đẹp?
Ðó là chim khổng tước vậy. Chim này tiếng hay mà thân cũng đẹp.
Ðó là, này Tỳ-kheo, có bốn loại chim này,
nên cùng hiểu biết. Ðây cũng như thế, thế gian cũng có bốn hạng người như
chim.
Thế nào là bốn?
Ở đây, hoặc có Tỳ-kheo nhan mạo đoan
chánh, ra vào, đi đến, đắp y, ôm bát, co duỗi, cúi ngước, oai nghi thành
tựu, nhưng lại chẳng thể phúng tụng các bài kinh pháp của mình, ban đầu
lành, giữa lành, cuối lành; chẳng thể vâng lời pháp dạy, cũng lại chẳng
thể khéo phúng tụng, đọc. Ðó là người có thân đẹp mà tiếng chẳng hay.
Lại người nào tiếng hay mà thân xấu? Hoặc
có một Tỳ-kheo ra vào, đi đến, co duỗi, cúi ngước, đắp y, ôm bát, oai nghi
không thành tựu, hằng ưa nói rộng. Nhưng người ấy tinh tấn trì giới, nghe
pháp có thể biết bài học, nghe nhiều các pháp của mình, đầu lành, giữa
lành, cuối lành, nghĩa lý thâm sâu, tu Phạm hạnh đầy đủ, mà lại khéo giữ,
khéo tụng pháp kia. Ðó là người có tiếng hay mà thân xấu.
Lại có người nào tiếng dở, thân cũng xấu?
Hoặc có một người phạm giới, chẳng tinh tấn, chẳng nghe nhiều, nghe được
liền quên. Người ấy ở pháp này, đáng lẽ phải hành Phạm hạnh đầy đủ, nhưng
chẳng chịu vâng nhận. Ðó là người có tiếng dở, thân cũng xấu.
Lại có hạng người nào tiếng hay, thân cũng
đẹp? Hoặc có Tỳ-kheo dung mạo đoan chánh, ra vào, đi đến, đắp y, ôm bát,
chẳng liếc nhìn hai bên mà lại tinh tấn tu hành pháp lành, giới luật đầy
đủ. Thấy phi pháp một chút ôm lòng sợ hãi huống là việc lớn; cũng lại đa
văn, nghe nhận chẳng quên, các pháp có được: đầu lành, giữa lành, cuối
lành, tu hành điều lành này. Pháp như thế khéo phúng tụng, đọc. Ðó là
người có tiếng hay, thân cũng đẹp.
Ðó là thế gian có bốn hạng người này ở
đời, các Thầy nên cùng hay biết. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy học tiếng hay
mà thân cũng đẹp. Như thế, này các Tỳ-kheo nên học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
10.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có bốn loại mây. Thế nào là bốn? Hoặc có
mây, sấm mà không mưa. Hoặc có mây, mưa mà không sấm. Hoặc có mây, vừa mưa
vừa sấm. Hoặc có mây, không mưa cũng không sấm. Ðó là bốn loại mây.
Thế gian có bốn loại người cũng như mây.
Thế nào là bốn loại người? Hoặc có Tỳ-kheo sấm mà không mưa. Hoặc có
Tỳ-kheo mưa mà không sấm. Hoặc có Tỳ-kheo không mưa cũng không sấm. Hoặc
có Tỳ-kheo vừa mưa vừa sấm.
Thế nào là Tỳ-kheo sấm mà không mưa? Hoặc
có Tỳ-kheo lớn tiếng đọc tụng, nghĩa là Khế kinh, Kỳ-dạ, Thọ quyết, Kệ,
Bổn mạt nhân duyên, Ký thuyết, Sanh kinh, Tụng, Phương đẳng, Pháp vị tằng
hữu, Thí dụ. Các pháp như thế khéo đọc, tụng, chẳng mất nghĩa lý, mà chẳng
rộng thuyết pháp cho người. Ðó là Tỳ-kheo sấm mà không mưa.
Thế nào là mưa mà không sấm? Hoặc có
Tỳ-kheo nhan sắc đoan chánh, ra vào, đến đi, tiến dừng các cách thức đều
biết đủ, tu các pháp lành không sót mảy may, nhưng không đa văn, không lớn
tiếng tụng tập. Vị ấy lại chẳng tu hành Khế kinh, Bổn mạt, Thọ quyết, Kệ,
Nhân duyên, Thí dụ, Sanh kinh, Phương đẳng, Pháp vị tằng hữu, dẫu theo
người khác vâng nhận, cũng không quên mất, thích theo Thiện tri thức, cũng
ưa thuyết pháp cho người khác. Ðó là người này mưa mà không sấm.
Thế nào là người không mưa cũng không sấm?
Hoặc có một người, nhan sắc chẳng đoan chánh, các nghi thức ra vào, đi
đến, tiến dừng đều không đầy đủ, chẳng tu các pháp lành, mà cũng chẳng đa
văn, cũng chẳng lớn tiếng tụng, tập. Vị ấy lại chẳng tu hành Khế kinh....
Phương đẳng, cũng lại chẳng thuyết pháp cho người. Ðó là người không mưa
cũng không sấm.
Lại có người nào vừa mưa vừa sấm? Hoặc có
một người nhan sắc đoan chánh, nghi thức ra vào, đi đến, tiến dừng cũng
đều biết đủ, ưa thích học hỏi, chỗ nhận không mất, cũng ưa thuyết pháp cho
người, khuyến khích người khác khiến cho vâng nhận. Ðó là người vừa mưa,
vừa sấm.
Ðó là, này Tỳ-kheo, thế gian có bốn loại
người này. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy học người vừa mưa vừa sấm. Như thế,
các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
Ðế, nhiêu ích, A-nan,
Gánh nặng, tứ sanh, kết,
Tứ quả, gió bão giông,
Bốn chim, sấm sau cùng.
XXVI.1. Phẩm Tứ ý đoạn (1)
1.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ví như núi sông, đá gạch, trăm cỏ, ngũ
cốc đều nương nơi đất mà sanh trưởng, mà đất này lại tối tôn, tối thượng.
Ðây cũng như thế, các pháp đạo phẩm lành trụ trên đất không phóng dật,
khiến các pháp lành thêm lớn. Nếu Tỳ-kheo không phóng dật tu Tứ ý đoạn
phải tu nhiều về Tứ ý đoạn.
Thế nào là bốn? Ở đây, này Tỳ-kheo, pháp
tệ ác chưa sanh, tìm phương tiện khiến chẳng sanh, tâm không xa lìa, hằng
mong khiến diệt. Pháp tệ ác đã sanh, tìm phương tiện khiến chẳng sanh, tâm
không xa lìa, hằng muốn khiến diệt. Pháp lành chưa sanh, tìm phương tiện
khiến sanh. Pháp lành đã sanh, tìm phương tiện khiến tăng nhiều thêm,
chẳng quên mất, tu hành đầy đủ, tâm ý chẳng quên.
Như thế, Tỳ-kheo, là tu Tứ ý đoạn. Thế nên
các Tỳ-kheo nên tìm phương tiện tu Tứ ý đoạn. Như thế, này các Tỳ-kheo,
nên học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
2.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có các Túc tán quốc vương và các đại
vương đều đến phụ cận Chuyển luân Thánh vương. Chuyển luân vương đối với
họ là tối tôn, tối thượng. Ðây cũng như thế, trong các pháp thiện, Ba mươi
bảy đạo phẩm, pháp không phóng dật thật là đệ nhất. Nếu không phóng dật,
Tỳ-kheo phải tu Tứ ý đoạn. Ở đây, Tỳ-kheo, pháp tệ ác chưa sanh, tìm
phương tiện khiến chẳng sanh, tâm chẳng xa lìa, hằng muốn khiến diệt. Pháp
tệ ác đã sanh, tìm phương tiện khiến chẳng sanh, tâm chẳng xa lìa, hằng
muốn khiến diệt. Pháp thiện chưa sanh, tìm phương tiện khiến sanh. Pháp
thiện đã sanh, lại khiến tăng thêm nhiều nữa, trọn không quên mất, tu hành
đầy đủ, tâm ý chẳng quên. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy tu Tứ ý đoạn. Như vậy,
này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
3.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Trong ánh sáng của các tinh tú, ánh sáng
mặt trăng là hơn hết. Ðây cũng như thế, trong các công đức lành của pháp
Ba mươi bảy đạo phẩm, hạnh không phóng dật là đệ nhất, tối tôn, tối quý.
Tỳ-kheo không phóng dật tu Tứ ý đoạn. Thế
nào là Tứ ý đoạn? Ở đây, Tỳ-kheo, pháp tệ ác chưa sanh, tìm phương tiện
khiến chẳng sanh. Nếu pháp tệ ác đã sanh, tìm phương tiện khiến diệt. Nếu
pháp lành chưa sanh, tìm phương tiện khiến sanh. Nếu pháp lành đã sanh,
tìm phương tiện khiến tăng nhiều thêm nữa, trọn không quên mất, tu hành
đầy đủ, tâm ý chẳng quên. Như thế, Tỳ-kheo, tu Tứ ý đoạn. Thế nên, các
Tỳ-kheo, hãy tìm phương tiện tu Tứ ý đoạn. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy
học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
4.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Trong các loại hoa, hoa chiêm-bặc, hoa
tu-ma-na, trên trời dưới đất, hoa bà-sư là bậc nhất. Ðây cũng như thế, các
công đức lành của pháp Ba mươi bảy đạo phẩm, hạnh không phóng dật là bậc
nhất. Nếu không phóng dật, Tỳ-kheo nên tu Tứ ý đoạn. Thế nào là Tứ ý đoạn?
Ở đây, Tỳ-kheo, nếu pháp tệ ác chưa sanh, tìm phương tiện khiến chẳng
sanh. Pháp tệ ác đã sanh, tìm phương tiện khiến diệt. Nếu pháp lành chưa
sanh, tìm phương tiện khiến sanh. Pháp lành đã sanh, tìm phương tiện khiến
sanh nhiều thêm, trọn chẳng quên mất, tu hành đầy đủ, tâm ý không quên.
Như thế, Tỳ-kheo, tu Tứ ý đoạn. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy tìm phương tiện
tu Tứ ý đoạn. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
5.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc ngồi xe vũ bảo, ra
khỏi thành Xá-vệ, đến Tinh xá Kỳ Hoàn, muốn thăm Thế Tôn. Vua cởi năm vật
trang sức uy nghiêm là pháp thường của các vua, đặt qua một bên, đến trước
Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên. Bấy giờ Thế Tôn bảo Ðại vương:
- Ðại vương nên biết, thế gian có bốn loại
người xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn? Hoặc có người trước tối, sau sáng.
Hoặc có người trước sáng, sau tối. Hoặc có người trước tối, sau tối. Hoặc
có người trước sáng, sau sáng.
Thế nào là người trước tối, sau sáng? Ở
đây, hoặc có một người sanh nhà ti tiện, hoặc dòng Chiên-đà-la, hoặc dòng
đồ tể, hoặc dòng thợ thuyền, hoặc sanh nhà dâm dật, hoặc không mắt, hoặc
không tay chân, hoặc bị trần truồng, hoặc các căn rối loạn, nhưng thân,
miệng lại hành pháp lành, ý nhớ pháp lành. Người ấy nếu thấy Sa-môn,
Bà-la-môn, các bậc tôn trưởng, hằng nhớ lễ bái, chẳng mất thời tiết đến
đón, đi đưa, trước cười, sau nói, tùy thời cung cấp. Nếu lại có lúc thấy
người ăn xin, Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc có người đi đường, hoặc người nghèo
khó, nếu có tiền tài thì người ấy liền đem thí cho. Nếu không có tiền của,
người ấy liền đến nhà trưởng giả cầu xin để đem cho. Nếu lại thấy người
khác bố thí, thì người ấy vui mừng hớn hở không kềm được. Nếu thân làm
pháp lành, miệng tu pháp lành, ý nhớ pháp lành, thân hoại mạng chung sanh
cõi lành, trên trời. Ví như có người từ đất lên giường, từ giường lên
ngựa, từ ngựa cỡi voi, từ voi vào giảng đường. Do đây mà nay Ta nói: Người
này trước tối, sau sáng. Như thế, Ðại vương, người này gọi là trước tối,
sau sáng.
Thế nào là người trước sáng, sau tối? Ở
đây hoặc có một người sanh trong nhà quyền quý (đại gia) như dòng Sát-lợi,
dòng trưởng giả, dòng Bà-la-môn, nhiều tài sản, báu vật, vàng bạc, trân
bảo, xa cừ, mã não, thủy tinh, lưu ly, nô tỳ, tôi tớ không thể tính kể;
voi, ngựa, heo, dê đều đầy đủ cả. Người này lại dung mạo đoan chánh như
màu hoa đào. Người ấy hằng ôm tà kiến, cùng tương ưng với biên kiến. Người
kia liền có kiến chấp thế này: "Không có thí, không có nhận, không ở trước
người bố thí vật gì, không có quả báo thiện ác, không có đời này, đời sau,
cũng không có người đắc đạo, đời không có A-la-hán đáng thờ kính, ở đời
này, đời sau có thể tác chứng". Người ấy nếu thấy Sa-môn, Bà-la-môn liền
khởi sân giận, không tâm cung kính. Nếu thấy người bố thí, người ấy tâm
không vui vẻ, thân, miệng, ý tạo tác không đồng đều, đã hành hạnh phi
pháp, thân hoại mạng chung sanh trong địa ngục. Ví như có người từ giảng
đường đến voi, từ voi xuống ngựa, từ ngựa xuống giường, từ giường xuống
đất. Do vậy nên Ta nói: Người này trước sáng, sau tối. Như thế, Ðại vương,
người này gọi là trước sáng, sau tối.
Thế nào là người đi từ tối đến tối? Nếu
lại có người sanh nhà ti tiện, hoặc nhà Chiên-đà-la, nhà đồ tể, hoặc nhà
hạ liệt cùng cực. Người này đã sanh trong đây, hoặc lại có lúc các căn
không đủ, nhan sắc thô ác, mà người ấy lại hằng ôm tà kiến. Người ấy liền
có kiến chấp này: "Không đời này, đời sau, không Sa-môn, Bà-la-môn, không
người đắc đạo, cũng không A-la-hán đáng kính thờ, cũng không đời này, đời
sau có thể tác chứng". Người ấy nếu thấy Sa-môn, Bà-la-môn liền nổi sân
giận, không tâm cung kính. Nếu thấy người đến bố thí, người ấy tâm không
vui vẻ, thân miệng ý tạo hạnh không bình đẳng, phỉ báng Thánh nhân, hủy
nhục Tam bảo (Tam tôn). Người ấy tự mình đã chẳng bố thí, lại thấy người
khác bố thí rất giận dữ, đã hành sân giận, thân hoại mạng chung sanh trong
địa ngục. Ví như có người từ tối đến tối, từ lửa hừng đến lửa hừng, bỏ trí
đến ngu. Do đây mà Ta nói: Người này có thể bảo trước tối, sau cũng tối.
Ðại vương nên biết, thế nên gọi người này là từ tối đến tối.
Thế nào gọi là người từ sáng đến sáng?
Hoặc có một người sanh trong nhà hào tộc, hoặc dòng Sát-lợi, hoặc nhà Quốc
vương, hoặc nhà đại thần, lắm tiền nhiều của không thể tính kể. Người ấy
lại nhan mạo đoan chánh như màu hoa đào. Người ấy hằng có chánh kiến, tâm
không nhầm lẫn. Người ấy có chánh kiến này: "Có thí, có phước, có người
nhận, có quả báo thiện ác, có đời này, đời sau, có Sa-môn, Bà-la-môn".
Người ấy nếu thấy Sa-môn, Bà-la-môn liền khởi tâm cung kính, nhan sắc vui
hòa. Chính mình hằng thích bố thí, cũng lại khuyên người hành bố thí. Nếu
người bố thí, tâm hân hoan không thể kềm được. Người ấy thân làm lành,
miệng nói lành, ý nghĩ lành, thân hoại mạng chung sanh cõi lành. Ví như có
người từ giảng đường đến giảng đường, từ cung điện đến cung điện. Do đây
mà Ta nói: Người này từ sáng đến sáng. Ðó là, này Ðại vương, thế gian có
bốn loại người này.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Vua nên biết người nghèo,
Có tin, ưa bố thí,
Thấy Sa-môn, Bà-la-môn,
Và các người đáng thí.
Lại hay khởi rước, đưa,
Mà dạy ở chánh kiến,
Lúc thí hết sức vui,
Sở cầu không trái người.
Người ấy là bạn tốt,
Trọn không làm hạnh ác,
Hằng vui hành chánh kiến,
Thường niệm cầu pháp lành.
Ðại vương biết người ấy,
Lúc chết được vừa ý,
Ắt sanh trời Ðâu-suất,
Trước tối mà sau sáng.
Như người hết sức giàu,
Chẳng tin, ưa thích giận,
Tham lẫn, tâm khiếp nhược,
Tà kiến mà không đổi,
Thấy Sa-môn, Phạm chí,
Và các người cầu xin,
Hằng ưa la mắng, chửi,
Tà kiến nói không có.
Thấy người thí liền giận,
Chẳng cho người bố thí,
Người ấy hành cực tệ,
Tạo các nguồn cội ác.
Người kia như thế đó,
Ðến lúc sắp sửa chết,
Sẽ sanh trong địa ngục,
Trước sáng mà sau tối.
Như có người bần tiện,
Không tin, thích sân giận,
Tạo các hạnh chẳng lành,
Tà kiến không tin chánh.
Nếu thấy bậc Sa-môn,
Và các người đáng thờ,
Mà lại khinh hủy báng,
Xan tham không có tin.
Lúc bố thí không vui,
Thấy người thí cũng vậy,
Các hạnh người ấy tạo,
Thích hợp chỗ không an.
Người ấy như thế đó,
Ắt sẽ chịu mạng chung,
Sẽ sanh trong địa ngục,
Trước tối, sau cũng tối.
Như người rất có của,
Có tin, ưa bố thí,
Chánh kiến không niệm khác,
Hằng vui cầu pháp lành.
Nếu thấy các đạo sĩ,
Và các người đáng cho,
Khởi cung kính tiếp đón,
Mà học ở chánh kiến.
Lúc cho rất vui hòa,
Thường niệm ở bình đẳng,
Bố thí không lẫn tiếc,
Không trái với lòng người.
Người ấy thọ mạng vui,
Không tạo các phi pháp,
Nên biết người thế đó,
Ðến lúc sắp sửa chết,
Ắt sanh chỗ tốt lành,
Trước sáng, sau cũng sáng.
Thế nên, Ðại vương, nên học trước sáng,
sau sáng; chớ học trước sáng, sau tối. Như thế, Ðại vương, nên học điều
này!
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
6.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Tôn giả A-nan đến chỗ Thế Tôn cúi
lạy rồi đứng một bên, chốc lát lấy hai tay rờ chân Như Lai, rồi hôn lên
chân Như Lai mà nói:
- Thân Thế Tôn vì sao thế này? Thân nhăn
nheo quá, nay thân Như Lai chẳng bằng lúc xưa.
Thế Tôn bảo:
- Ðúng vậy A-nan, như lời Thầy nói. Nay
thân Như Lai da thịt đã nhăn, thân chẳng như khi xưa. Sở dĩ như thế vì hễ
có thân thể thì sẽ có bị bịnh ép ngặt. Nếu đáng bịnh, chúng sanh sẽ bị
bịnh làm khốn; đáng chết, chúng sanh sẽ bị chết bức bách. Hôm nay thân Như
Lai đã suy vi, đã tám mươi tuổi rồi.
Tôn giả A-nan nghe xong, buồn khóc nghẹn
ngào không nén được, bèn nói:
- Than ôi! Sự già đã đến đây rồi!
Bấy giờ, Thế Tôn đến giờ đắp y ôm bát vào
thành Xá-vệ khất thực. Thế Tôn đi khất thực dần dần đến cung vua
Ba-tư-nặc. Lúc ấy, trước cửa cung vua Ba-tư-nặc có mấy mươi chiếc xe hư
cũ, bỏ ở một bên. Tôn giả A-nan thấy xe bị vất bỏ một bên, liền bạch Thế
Tôn:
- Xe này là xe của vua Ba-tư-nặc. Ngày
xưa, lúc mới làm nó, trông hết sức đẹp đẽ tinh vi, nhưng ngày nay thì cùng
màu với gạch đá.
Thế Tôn bảo:
- Ðúng vậy, A-nan, như lời Thầy nói. Như
nay xem các xe hiện có, ngày xưa cực kỳ đẹp đẽ tinh xảo, làm bằng vàng
bạc, nhưng ngày nay hư hỏng, chẳng dùng được nữa, vật bên ngoài còn bại
hoạn như thế, huống là bên trong.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Ôi! Già, bệnh, chết này,
Hoại người sắc cực thịnh,
Lúc đầu rất thích ý,
Nay bị chết bức bách.
Tuy sẽ thọ trăm tuổi,
Rồi sẽ về với chết,
Chẳng khỏi hoạn khổ này,
Ðều sẽ về đường này.
Như trong thân hiện có,
Bị bức bách của chết,
Các tứ đại bên ngoài,
Ắt hướng đến gốc không.
Thế nên cầu chẳng chết,
Chỉ có cõi Niết-bàn,
Cõi không chết, không sanh
Ðều không các hành này.
Bấy giờ Thế Tôn liền đến ngồi bên vua
Ba-tư-nặc. Vua Ba-tư-nặc dọn các thức ăn uống cho Thế Tôn. Thấy Thế Tôn ăn
xong, vua lại lấy một ghế nhỏ đến trước Thế Tôn ngồi, bạch Thế Tôn:
- Thế nào, bạch Thế Tôn, thân hình chư
Phật đều là kim cương mà cũng sẽ bị già, bịnh, chết nữa sao?
Thế Tôn bảo:
- Ðúng vậy, Ðại vương, như lời Ðại vương
nói. Như Lai cũng sẽ có sanh, già, bệnh, chết. Nay Ta cũng là con người,
cha tên Chân Tịnh, mẹ tên Ma-gia, sanh ra từ dòng Chuyển luân Thánh vương.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Chư Phật hiện thân người,
Cha tên là Chân Tịnh,
Mẹ tên Cực Thanh Diệu,
Dòng hào tộc Sát-lợi.
Ðường chết rất khốn cùng,
Ðều chẳng xét tôn ti,
Chư Phật còn chẳng khỏi,
Huống là kẻ phàm tục.
Thế Tôn lại thuyết kệ này cho vua
Ba-tư-nặc:
Tế tự, lửa hơn hết,
Thi thơ, tụng là hơn,
Loài Người, vua là quý,
Các dòng, biển là đầu.
Các sao, trăng hơn hết,
Ánh sáng, mặt trời hơn,
Trong tám phương, trên dưới,
Chỗ thế giới chuyên chở.
Trời và Người ở đời,
Như Lai cao thượng nhất
Ai muốn cầu phước lộc,
Nên cúng dường Tam Phật.
Thế Tôn nói kệ này xong, liền từ tòa đứng
dậy trở về Tinh xá Kỳ Hoàn, đến tòa ngồi. Lúc ấy, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có bốn pháp ở thế gian được người yêu
kính. Thế nào là bốn? Tuổi thiếu tráng được người đời yêu kính; không đau
ốm được người yêu kính; sống lâu được người yêu kính; ân ái tụ hội được
người yêu kính. Ðó là, Tỳ-kheo, có bốn pháp này, người đời yêu kính.
Lại nữa, Tỳ-kheo, lại có bốn pháp, người
đời không yêu kính. Thế nào là bốn? Tỳ-kheo nên biết: Tuổi thiếu tráng,
nếu lúc già bịnh người đời không vui; như người không bịnh, sau lại bị
bịnh, người đời không vui; như được sống lâu, đến khi mạng hết, người đời
không vui; ân ái được sum họp đến sau ly biệt, người đời không vui.
Ðó là, này Tỳ-kheo! Có bốn pháp này cùng
đời xoay vần. Chư Thiên, Người đời cho đến Chuyển luân Thánh vương, chư
Phật, Thế Tôn đều có pháp này. Ðó là, Tỳ-kheo, thế gian có bốn pháp này
cùng đời xoay chuyển. Nếu không biết bốn pháp này, thì liền lưu chuyển
trong sanh tử, khắp trong năm đường. Thế nào là bốn? Là Giới Hiền thánh,
Tam-muội Hiền Thánh, Trí tuệ Hiền Thánh, Giải thoát Hiền Thánh. Ðó là, này
Tỳ-kheo, có bốn pháp này nếu người không hiểu biết, sẽ chịu bốn pháp trên.
Nay Ta và các Thầy vì giác tri bốn pháp Hiền Thánh này mà cắt đứt rễ sanh
tử, không thọ thân sau nữa. Như nay thân hình của Như Lai già suy, sẽ chịu
quả báo suy hao này. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên cầu Niết-bàn vĩnh tịch,
chẳng sanh, chẳng già, không bịnh, không chết; ân ái biệt ly thường nghĩ
sự biến đổi vô thường. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
7.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc ra lệnh quần thần
sửa soạn xe vũ bảo muốn ra khỏi thành Xá-vệ xem đất làm giảng đường. Ngay
lúc đó, mẹ vua Ba-tư-nặc tuổi quá già yếu, vừa đúng trăm tuổi, vua rất tôn
kính nhớ nghĩ chưa từng rời mắt (vừa mạng chung). Khi ấy, vị cận thần của
vua Ba-tư-nặc tên Bất-xà-mật tài cao cái thế, được người đời tôn trọng. Vị
đại thần này nghĩ: "Mẹ vua Ba-tư-nặc này đã vừa trăm tuổi, hôm nay mạng
chung, nếu mà nghe được, chắc vua rất sầu lo, không ăn uống nổi, rồi mắc
trọng bịnh. Nay ta nên bày phương tiện, khiến vua chẳng sầu lo, cũng không
mắc bịnh".
Bấy giờ, đại thần liền sửa soạn năm trăm
voi trắng, cũng sửa soạn năm trăm ngựa tốt, lại chỉnh đốn năm trăm bộ
binh, lại sửa soạn năm trăm kỹ nữ, năm trăm bà già, lại xếp đặt năm trăm
Bà-la-môn, lại có năm trăm Sa-môn, lại sửa soạn năm trăm y phục, và bày
năm trăm trân bảo, làm quan tài lớn đẹp cho người chết, tô vẽ cực đẹp,
treo phướn lọng, trỗi kỹ nhạc không thể tính kể, ra khỏi thành Xá-vệ. Lúc
ấy, vua Ba-tư-nặc trở vào thành vì có chút việc. Vua từ xa thấy người
chết, mới hỏi tả hữu:
- Ðây là người nào mà cúng dường đến thế?
Bất-xà-mật tâu:
- Trong thành Xá-vệ này, có mẹ của Trưởng
giả chết. Ðây là vật dụng của họ.
Vua lại hỏi:
- Những voi, ngựa, xe cộ này dùng làm gì?
Ðại thần đáp:
- Năm trăm bà già dùng dâng lên Diêm vương
để mua mạng (bà mẹ).
Vua bật cười nói:
- Ðây là lỗi của người ngu. Mạng cũng khó
bảo toàn, đâu có thể chế phục được. Như có người rơi vào miệng cá ma-kiệt,
muốn mong ra khỏi, thật là khó được. Ðây cũng như thế, đọa vào vua
Diêm-la, muốn cầu ra thực khó thể được.
- Năm trăm kỹ nữ này cũng dùng để mua mạng
bà.
- Ðây cũng khó được.
Nếu những kỹ nữ này chẳng thể được, thì sẽ
dùng cái khác mua bà.
- Ðây cũng khó được.
Nếu điều này không được, sẽ dùng năm trăm
trân bảo mua bà.
Ðây cũng khó được.
- Ðây không thể được thì dùng năm trăm y
phục mua bà.
- Ðây cũng khó được.
- Nếu áo quần này không được thì dùng năm
trăm Phạm chí này chú thuật, dùng chú thuật để giữ bà.
Ðây cũng khó được.
- Nếu năm trăm Phạm chí này không được thì
sẽ lại đem năm trăm Sa-môn cao tài thuyết pháp để mua bà.
- Ðây chẳng thể được.
- Nếu thuyết pháp không được, sẽ tụ tập
binh lính cùng chiến đấu lớn để giữ.
- Ðây là cách của người ngu, đã rơi vào
miệng cá ma-kiệt, trọn chẳng ra được. Ông nên biết, có ai sanh mà không
chết đâu?
- Ðây thực chẳng thể được.
- Thực chẳng thể được. Chư Phật cũng dạy
rằng: "Hễ có sanh thì có tử, mạng cũng khó được".
Khi ấy, Bất-xà-mật quỳ tâu vua:
- Thế nên Ðại vương, chớ quá sầu lo. Tất
cả chúng sanh đều trở về với cái chết.
Vua hỏi:
- Cớ sao ta lại sầu lo?
Ðại thần tâu:
- Vua nên biết, hôm nay mẹ của Ðại vương
đã chết.
Vua Ba-tư-nặc nghe xong, thở dài tám, chín
cái, rồi bảo Ðại thần:
- Lành thay! Như lời Ông nói, Ông hay biết
dùng phương tiện khéo léo.
Rồi vua Ba-tư-nặc trở vào thành bày các
thứ hương hoa cúng dường vong mẫu. Cúng xong nhà vua liền lên xe đến chỗ
Thế Tôn, đến nơi, cúi lạy rồi ngồi một bên. Bấy giờ, Thế Tôn hỏi:
- Ðại vương! Cớ sao người lấm bụi đất?
Vua bạch Thế Tôn:
- Mẹ con mạng chung, vừa đưa đến ngoài
thành. Nay con đến Thế Tôn để hỏi lý do. Mẹ con lúc còn sống, trì trai
tinh tấn, hằng tu pháp lành, vừa đúng trăm tuổi, hôm nay đã mạng chung,
nên con đến chỗ Thế Tôn. Nếu con có thể đem voi mua mạng mẹ được, con cũng
sẽ dùng voi để mua. Nếu đem ngựa mua mạng được, con sẽ dùng ngựa để mua.
Nếu dùng xe cộ mua được mạng, con sẽ dùng xe cộ để mua. Nếu lấy vàng bạc,
trân bảo mua được mạng, con sẽ dùng vàng bạc, trân bảo để mua. Nếu lấy nô
tỳ, tôi tới, thành quách, đất nước để mua mạng được, con sẽ đem thành
quách, đất nước để mua mạng. Nếu đem nhân dân nước Ca-thi mua mạng được,
con sẽ đem nhân dân Ca-thi để mua, chẳng để cho mẹ con mạng chung.
Thế Tôn bảo:
- Này Ðại vương, chớ sầu lo quá, tất cả
chúng sanh đều trở về cái chết. Tất cả pháp biến đổi, muốn cho không biến
đổi, trọn không có việc này. Ðại vương nên biết, thân người như tuyết
đọng, rồi sẽ trở về tan hoại. Cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ
lâu; cũng như sóng nắng huyễn hóa, hư ngụy không thật; cũng như nắm tay
không thể gạt con nít. Thế nên, Ðại vương chớ âu sầu, trông cậy thân này.
Ðại vương nên biết, có bốn điều rất sợ hãi sẽ đến với thân này, chẳng thể
che chở, cũng chẳng thể lấy ngôn ngữ, chú thuật, dược thảo, phù thư có thể
khử trừ. Bốn điều đó là: Già làm bại hoại tuổi trẻ khiến không nhan sắc;
bịnh làm bại hoại tất cả người không bệnh; chết làm bại hoại mạng căn; vật
hữu thường trở về vô thường.
Ðại vương, có bốn pháp này chẳng thể che
chở, không phải dùng sức hàng phục được. Ðại vương nên biết, ví như bốn
phương có bốn núi lớn, từ bốn phía đến ép chúng sanh, chẳng phải sức trừ
đi được. Thế nên, Ðại vương, đó chẳng phải là vật kiên cố, chẳng thể nương
cậy. Do vậy, Ðại vương, nên lấy pháp trị vì, chớ dùng phi pháp. Ðại vương
cũng chẳng bao lâu sẽ đến biển sanh tử. Ðại vương cũng nên biết, những
người lấy pháp cai trị, khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi trời, chỗ
lành. Nếu người dùng phi pháp cai trị, thân hoại mạng chung đọa trong địa
ngục. Thế nên, Ðại vương, hãy lấy pháp cai trị, chớ dùng phi pháp. Như
thế, Ðại vương, nên học điều này!
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
- Pháp này tên là gì? Sẽ vâng làm như thế
nào?
Thế Tôn dạy:
- Pháp này gọi là pháp trừ sầu lo.
Vua bạch Phật:
- Thực vậy, bạch Thế Tôn. Sở dĩ như vậy vì
con nghe pháp này rồi, bao nhiêu sầu lo hôm nay đã trừ. Bạch Thế Tôn, việc
nước bề bộn, nay con muốn trở về cung.
Thế Tôn bảo:
- Nên biết đúng thời.
Vua Ba-tư-nặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ chân Phật và lui đi.
Bấy giờ các vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
*
8.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta không những là bậc Tối tôn ở
trong hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ mà cho đến trong mọi
người ở thế gian, Ta cũng là độc tôn. Nay có bốn pháp gốc ngọn chính Ta tự
biết, tác chứng đối với bốn bộ chúng, trong loài Người, trên Trời. Thế nào
là bốn? Tất cả các hành thảy đều vô thường. Nay Ta biết thế, ở trong bốn
độ chúng, Trời, Người mà tác chứng. Tất cả các hành là khổ. Tất cả các
hành vô ngã. Niết-bàn là thôi dứt. Nay Ta biết được, ở trong bốn bộ chúng
trong Trời, Người mà tác chứng.
Này Tỳ-kheo, đó là gốc của bốn pháp. Thế
nên ở trong Trời, Người mà riêng Ta được tôn quý.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
*
9.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn ở cùng năm trăm chúng đại
Tỳ-kheo.
Lúc ấy Thế Tôn muốn đến thành La-duyệt để
nhập hạ, Tôn giả Xá-lợi-phất cũng muốn đến thành La-duyệt để nhập hạ và
một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử đều muốn thành La-duyệt để nhập hạ. Nhưng
Tỳ-kheo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên nhập hạ xong sẽ nhập Niết-bàn.
Bấy giờ Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên v.v.... đi đến vườn trúc Ca-lan-đà ở thành
La-duyệt để nhập hạ. Khi ấy Thế Tôn bảo Xá-lợi-phất:
- Nay một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử vì
các Thầy mà nhập hạ ở đây. Nhưng Tỳ-kheo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên sắp
diệt độ. Thế nào, Xá-lợi-phất, Thầy có kham nhận thuyết diệu pháp cho các
Tỳ-kheo chăng? Nay Ta đau lưng muốn nghỉ một chút.
Xá-lợi-phất đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Bấy giờ Thế Tôn tự xếp y Tăng-già-lê
(Tăng-ca-lợi),nằm nghiêng bên phải, hai chân chồng lên nhau, chú tâm tỉnh
sáng.
Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo:
- Tôi lúc mới thọ giới, trải qua nửa tháng
được tứ biện tài mà tác chứng nghĩa lý đầy đủ. Nay tôi sẽ thuyết và phân
biệt nghĩa này để các Hiền giả biết, phân biệt rộng rãi rõ ràng. Hãy lắng
nghe, khéo suy nghĩ đó.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng.
Các Tỳ-kheo vâng lời dạy của Tôn giả
Xá-lợi-phất và Tôn giả hỏi:
- Những gì là bốn biện tài mà tôi chứng
được? Nghĩa là nghĩa biện, tôi do đây chứng được. Nghĩa là pháp biện, tôi
do đây chứng được; nghĩa là ứng biện, tôi do đây chứng được; nghĩa là tự
biện tôi do đây chứng được. Nay tôi sẽ phân biệt rộng rãi nghĩa này. Nếu
bốn bộ chúng có ai hồ nghi , nay có tôi đây, hãy hỏi nghĩa ấy. Nếu chư
Hiền lại có hồ nghi về Tứ thiền, có thể hỏi, nay tôi sẽ nói. Nếu chư Hiền
lại có hồ nghi về Tứ đẳng tâm, nên hỏi, nay tôi sẽ nói. Nếu chư Hiền lại
có hồ nghi về Tứ ý chỉ (đoạn), nên hỏi nghĩa, nay tôi sẽ nói hoặc có hồ
nghi về Tứ thần túc, Tứ ý chỉ, Tứ đế hãy đến hỏi tôi nghĩa, tôi sẽ nói
cho. Nay nếu không hỏi, sau hối hận vô ích. Nay nếu hỏi tôi nghĩa các việc
làm về pháp cao sâu của Thế Tôn, Vô Sở Trước, Chánh Ðẳng Giác, tôi sẽ nói
cho, sau chớ có hối hận.
Lúc nay Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên đến giờ
đắp y ôm bát muốn vào thành La-duyệt để khất thực. Những Phạm chí cầm gậy,
xa thấy Mục-kiền-liên đi đến, liền bảo nhau rằng: "Ðây là đệ tử của Sa-môn
Cù-đàm, không ai hơn người này, chúng ta hãy vây hắn mà đánh chết đi". Rồi
những Phạm chí kia vây bắt Tôn giả dùng ngói đá đánh chết ngất rồi bỏ đi;
thân thể Tôn giả nát nhừ, xương thịt không còn sót chỗ nào, đau đớn khổ
não không thể kể xiết. Ðại Mục-kiền-liên tự nghĩ: "Các Phạm chí này vây
ta, đánh xương thịt nát tan, bỏ ta mà đi. Nay thân thể ta chỗ nào cũng
đau, hết sức nhức nhối, không còn khí lực để trở về vườn trúc được. Nay ta
phải dùng thần túc để trở về tinh xá".
Mục-kiền-liên liền dùng thần túc trở về
tinh xá, đến chỗ Xá-lợi-phất, ngồi một bên. Tôn giả Mục-kiền-liên nói với
Xá-lợi-phất:
- Phạm chí cầm trượng vây tôi, đánh cho
thịt xương nát bét, thân thể đau đớn thực không chịu nổi. Nay tôi muốn
nhập Niết-bàn, nên đến từ giã Hiền giả.
Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
- Trong đệ tử của Thế Tôn, Hiền giả là
thần túc bậc nhất, có oai lực lớn, cớ sao không dùng thần túc mà tránh đi?
Tôn giả Mục-liên đáp:
- Xưa tôi tạo hạnh rất sâu nặng, nên dẫn
đi thọ báo trọn không tránh được; chẳng phải khi không mà thọ báo này. Hôm
nay thân tôi đau nhức quá nên đến từ giã Hiền giả để nhập Niết-bàn.
Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
- Có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tu Tứ thần
túc, phần đông quảng diễn nghĩa này, nếu họ có ý muốn trụ lại một kiếp hay
hơn một kiếp cho đến chẳng diệt độ (thì có thể trụ lại một kiếp, hay hơn
một kiếp cho đến chẳng diệt độ). Sao Hiền giả lại không trụ lại diệt độ?
Tôn giả Mục-liên đáp:
- Ðúng thế, Hiền giả Xá-lợi-phất! Như Lai
nói: "Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tu Tứ thần túc, muốn trụ thọ qua mấy kiếp
cũng có thể được". Nếu Như Lai trụ một kiếp thì tôi cũng trụ, nhưng hôm
nay, Thế Tôn chẳng bao lâu sẽ nhập Niết-bàn. Chúng sanh thọ mạng rất ngắn,
hơn nữa, tôi không chịu nổi việc thấy Thế Tôn nhập Niết-bàn, và thân thể
tôi rất đau đớn, muốn nhập Niết-bàn.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn
giả Mục-liên:
- Nay Hiền giả hãy khoan một chút, tôi sẽ
nhập Niết-bàn trước.
Tôn giả Mục-liên im lặng, không đáp. Tôn
giả Xá-lợi-phất đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên và bạch Phật:
- Nay con muốn diệt độ, cúi mong Thế Tôn
cho phép.
Thế Tôn im lặng, không đáp. Tôn giả
Xá-lợi-phất hai ba phen bạch Thế Tôn:
- Nay chính là lúc con nên nhập Niết-bàn.
Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
- Nay Thầy vì sao chẳng trụ một kiếp, hay
quá một kiếp?
Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Thế Tôn:
- Chính con nghe từ Phật và tự vâng nhận:
Chúng sanh thọ mạng rất ngắn, thọ nhất chẳng qua trăm tuổi. Vì mạng chúng
sanh ngắn nên Như Lai thọ cũng ngắn. Nếu Như Lai trụ thọ một kiếp, thì con
cũng sẽ trụ thọ một kiếp.
Thế Tôn bảo:
- Như lời Xá-lợi-phất, vì chúng sanh mạng
ngắn nên Như Lai thọ cũng ngắn. Nhưng việc này cũng chẳng thể bàn. Sở dĩ
như thế là vì quá khứ lâu xa vô số kiếp, có Phật tên Thiện Niệm Thệ Nguyện
Như Lai, Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Vào thời đó, người ta
thọ tám muôn tuổi, không có ai chết yểu. Ðức Thiện Niệm Thệ Nguyện Như Lai
ngay lúc thành Phật, ngay hôm đó liền hóa làm vô lượng Phật, lập cho vô
lượng chúng sanh ở hạnh Tam thừa, có người trụ ở địa vị bất thối chuyển;
lại lập vô lượng chúng sanh ở bốn dòng tộc; lại lập vô lượng chúng sanh ở
cung Tứ thiên vương, Diễm thiên, Ðâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa
tự tại thiên, Phạm Ca-di thiên, Dục thiên, Sắc thiên, Vô Sắc thiên, cũng ở
ngày này nhập Vô dư Niết-bàn. Nay Xá-lợi-phất nói: "Vì chúng sanh thọ mạng
ngắn nên Như Lai thọ mạng cũng ngắn".
Thế nào, Xá-lợi-phất, Thầy nói rằng: "Như
Lai nếu thọ đến một kiếp, tôi cũng sẽ trụ đến một kiếp". Nhưng chúng sanh
không thể biết thọ mạng của Như Lai dài ngắn. Xá-lợi-phất nên biết, Như
Lai có bốn việc không thể nghĩ bàn, chẳng phải chỗ tiểu thừa có thể biết.
Thế nào là bốn? Thế giới bất khả tư nghì; chúng sanh bất khả tư nghì; long
cung bất khả tư nghì; và Phật độ cảnh giới bất khả tư nghì. Như thế, này
Xá-lợi-phất, có bốn bất khả tư nghì này.
Tôn giả Xá-lợi-phất bạch:
- Ðúng vậy, Thế Tôn, có bốn bất khả tư
nghì: thế giới, chúng sanh, long cung, Phật độ, thực chẳng thể nghĩ bàn.
Nhưng đã lâu con hằng nghĩ rằng: "Phật Thích-ca Văn trọn chẳng trụ một
kiếp". Lại, chư Thiên đến bảo con rằng: "Phật Thích-ca văn tuổi đúng tám
mươi, chẳng ở đời bao lâu nữa". Nay Thế Tôn chẳng bao lâu sẽ nhập
Niết-bàn, con không cam thấy Thế Tôn nhập Niết-bàn. Lại nữa, chính con
nghe Như Lai nói rằng: "Các đệ tử thượng túc của chư Phật đời quá khứ,
tương lai, hiện tại đều nhập Niết-bàn trước. Và đệ tử cuối cùng cũng nhập
Niết-bàn trước, rồi sau chẳng bao lâu Thế Tôn sẽ diệt độ. Cúi mong Thế Tôn
cho phép con diệt độ.
Thế Tôn bảo:
- Nay đúng lúc rồi.
Tôn giả Xá-lợi-phất liền ngồi trước Như
Lai, chính thân, chính ý, buộc niệm ở trước mà nhập Sơ thiền; từ Sơ thiền
dậy, nhập Nhị thiền; từ Nhị thiền dậy lại nhập Tam thiền; từ Tam thiền dậy
lại nhập Tứ thiền; từ Tứ thiền dậy lại nhập Không xứ, Thức xứ, Bất dụng
xứ, Hữu tưởng vô tưởng xứ; từ Hữu tưởng vô tưởng xứ dậy nhập Diệt tận
định.
Từ Diệt tận định dậy, Tôn giả nhập Hữu
tưởng vô tưởng xứ; từ Hữu tưởng vô tưởng xứ dậy, nhập Bất dụng xứ, Thức
xứ, Không xứ; từ Không xứ dậy, nhập Tứ thiền; từ Tứ thiền dậy, nhập Tam
thiền; từ Tam thiền dậy, nhập Nhị thiền; từ Nhị thiền dậy, nhập Sơ thiền.
Từ Sơ thiền dậy, Tôn giả nhập Nhị Thiền;
từ Nhị thiền dậy, nhập Tam thiền; từ Tam thiền dậy, nhập Tứ thiền. Rồi Tôn
giả Xá-lợi-phất từ Tứ thiền dậy, bảo các Tỳ-kheo:
- Ðây tên là Sư tử Phấn tấn Tam-muội.
Các Tỳ-kheo khen ngợi:
- Chưa từng có, rất là kỳ đặc. Tôn giả
Xá-lợi-phất nhập chánh định mau chóng như thế!
Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, cúi lạy Thế Tôn rồi đi. Ngay khi ấy có nhiều Tỳ-kheo theo
sau Tôn giả Xá-lợi-phất. Tôn giả Xá-lợi-phất quay lại bảo:
- Chư Hiền muốn đi đâu?
Những Tỳ-kheo ấy đáp:
- Chúng tôi muốn đến cúng dường Xá-lợi của
Tôn giả.
Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
- Thôi, thôi, chư Hiền, thế này là đã cúng
dường rồi! Tôi có Sa-di săn sóc đủ rồi, các Hiền giả trở về chỗ mình tư
duy hóa đạo, khéo tu Phạm hạnh dứt hết khổ. Như Lai ra đời rất khó gặp
được, đúng thời mới xuất hiện, giống như hoa Ưu-đàm-bát, đúng thời mới có.
Như Lai cũng lại như thế, ức kiếp mới ra đời. Thân người cũng lại khó
được. Có lòng tin thành tựu cũng lại khó được. Muốn cầu xuất gia học pháp
Như Lai cũng lại khó được. Tất cả các hành muốn khiến không diệt tận, đây
cũng khó được. Hãy diệt hết ái dục, dứt hẳn không sót, diệt tận Niết-bàn.
Nay có bốn pháp gốc ngọn mà Như Lai đã nói. Thế nào là bốn? Tất cả các
hành vô thường, đó là pháp gốc ngọn đầu tiên mà Như Lai thuyết. Tất cả các
hành đều khổ, đó là pháp gốc ngọn thứ hai Như Lai đã thuyết. Tất cả các
hành vô ngã, đó là pháp gốc ngọn thứ ba Như Lai đã thuyết. Niết-bàn là
vĩnh tịch, đó là pháp gốc ngọn thứ tư Như Lai đã thuyết.
Ðó là, này chư Hiền, bốn pháp gốc ngọn Như
Lai đã nói.
Bấy giờ các Tỳ-kheo đều cùng rơi lệ:
- Nay Tôn giả Xá-lợi-phất sao mau diệt độ
vậy!
Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo:
- Thôi, thôi, chư Hiền! Chớ nên buồn lo.
Pháp biến đổi muốn khiến không biến đổi, việc này chẳng đúng. Tu-di sơn
vương còn có biến đổi vô thường, huống là cái thân hột cải. Tỳ-kheo
Xá-lợi-phất mà tránh khỏi được hoạn này sao? Thân kim cang của Như Lai
chẳng lâu cũng sẽ nhập Niết-bàn, hà huống thân tôi. Nhưng các Hiền giả hãy
tu hành pháp này, sẽ được hết khổ.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất đến tinh xá,
đến rồi thu xếp y bát, ra khỏi vườn trúc đi về quê cũ. Tôn giả Xá-lợi-phất
khất thực từ từ đến nước Ma-sấu. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất dạo ở Ma-sấu,
xứ mình sanh, thân mắc bịnh rất đau đớn, chỉ có Sa-di Quân-đầu săn sóc,
dọn dẹp dơ bẩn, làm sạch sẽ. Thích-đề-hoàn-nhân biết tâm niệm Tôn giả
Xá-lợi-phất, ví như trong khoảng lực sĩ co duỗi cánh tay, từ trời Ba mươi
ma biến mất, đến nhà của Tôn giả Xá-lợi-phất. Ðến rồi, vị ấy cúi lạy, lấy
hai tay sờ chân Tôn giả Xá-lợi-phất, tự xưng tên họ mà nói rằng.
- Tôi là Thiên vương Ðế-thích.
Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
- Thích thay! Thiên Ðế, thọ mạng vô cùng.
Thích-đề-hoàn-nhân đáp:
- Nay tôi muốn cúng dường Tôn giả
Xá-lợi-phất.
Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:
- Thôi, thôi, Thiên Ðế! Thế này là đã cúng
dường. Chư Thiên thì thanh tịnh, A-tu-la, Rồng, Quỷ và chúng chư Thiên
(cũng thế). Nay tôi đã có Sa-di để sai khiến là đủ rồi.
Thích-đề-hoàn-nhân hai ba phen bạch
Xá-lợi-phất:
- Nay tôi muốn tạo phước nghiệp, xin đừng
trái nguyện. Nay tôi muốn cúng dường Xá-lợi của Tôn giả.
Tôn giả Xá-lợi-phất im lặng chẳng đáp.
Thích-đề-hoàn-nhân tự mình đổ phân chẳng từ hiềm khổ. Tôn giả Xá-lợi-phất
nhập Niết-bàn ngay đêm ấy. Bấy giờ mặt đất sáu phen chấn động, có tiếng
vang lớn, mưa các hoa trời, kỹ nhạc trổi lên. Chư Thiên đầy nghẹt hư
không; chư Thiên Thần Diệu cũng rải hoa câu-mâu-đầu hoặc dùng hương bột
chiên-đàn mà trải lên trên. Tôn giả Xá-lợi-phất đã nhập Niết-bàn, chư
Thiên trên không kêu thương khóc lóc không nén được. Ở trong hư không, Dục
thiên, Sắc thiên, Vô sắc thiên đều cùng rơi lệ như mưa phùn tháng xuân hòa
xướng; lúc ấy cũng như thế: "Nay Tôn giả Xá-lợi-phất nhập Niết-bàn sao mau
thay!".
Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân tụ tập tất cả
các loại hương thơm để thiêu thân Tôn giả Xá-lợi-phất; cúng dường các thứ
xong, thu thập Xá-lợi và y bát giao cho Sa-di Quân-đầu và bảo:
- Ðây là Xá-lợi và y bát của thầy Ông. Hãy
đến dâng lên Thế Tôn. Ðến rồi hãy đem nhân duyên này bạch cho Thế Tôn đầy
đủ. Nếu Thế Tôn dạy gì, hãy vâng làm.
Quân-đầu đáp:
- Ðúng vậy, Câu-dực.
Sa-di Quân-đầu đem y, ôm bát và Xá-lợi đến
chỗ Tôn giả A-nan và bạch:
- Thầy con đã diệt độ. Nay con đem Xá-lợi,
y bát đến dâng Thế Tôn. Tôn giả A-nan thấy xong, rơi lệ và nói:
- Ông hãy cùng ta đến chỗ Thế Tôn, đem
việc này cùng bạch Thế Tôn. Nếu Thế Tôn nói gì, chúng ta sẽ vâng làm.
Quân-đầu đáp:
- Xin vâng, thưa Tôn giả.
Tôn giả A-nan dẫn Sa-di Quân-đầu đến chỗ
Thế Tôn, cúi lạy Thế Tôn, rồi bạch:
- Sa-di Quân-đầu này đến chỗ con và bạch
rằng: "Thầy con đã diệt độ. Nay đem y bát dâng lên Như Lai". Hôm nay con
tâm ý phiền não, khí tính mê hoặc, chẳng biết gì nữa. Nghe Tôn giả
Xá-lợi-phất nhập Niết-bàn, con buồn bã thương tâm.
Thế Tôn bảo:
- Thế nào A-nan, Tỳ-kheo Xá-lợi-phất dùng
giới thân để nhập Niết-bàn sao?
Tôn giả A-nan thưa:
- Không phải vậy, bạch Thế Tôn.
Thế Tôn bảo:
- Thế nào A-nan, Thầy ấy dùng giới thân
định thân, tuệ thân, giải thoát thân, giải thoát tri kiến thân mà diệt độ
chăng?
Tôn giả A-nan bạch Phật:
- Tỳ-kheo Xá-lợi-phất không dùng giới
thân, định thân, tuệ thân, giải thoát thân, giải thoát tri kiến thân mà
diệt độ. Nhưng Tỳ-kheo Xá-lợi-phất hằng ưa giáo hóa, thuyết pháp không
chán, giáo giới cho các Tỳ-kheo cũng không chán. Nay con nhớ ơn sâu của
Tôn giả Xá-lợi-phất quá nhiều, thế nên buồn bã.
Thế Tôn bảo:
- Thôi, thôi, A-nan, chớ ôm sầu lo! Vật
chẳng thường, muốn cho còn mãi, việc này chẳng đúng, hễ có sanh thì có
chết. Thế nào A-nan, chư Phật thời quá khứ đều chẳng diệt độ sao? Ví như
cây đèn, dầu hết thì tắt. Như từ Phật Bảo Tạng Ðịnh Quang đến nay, bảy
Phật và chúng đệ tử đều chẳng Niết-bàn sao? Như là Bích-chi Phật, xét kỹ
(các Ngài) tiếng đồn cao xa, Ni-sa-ưu-ni-bát-sa-già-la, Ưu-bát-già-la, các
Bích-chi Phật như thế chẳng diệt độ sao? Ðại Quốc Thánh vương của Hiền
kiếp tên Thiện Duyệt Ma-ha-đề-bà, Chuyển luân Thánh vương như thế nay ở
đâu, há không phải đều chẳng nhập Niết-bàn sao?
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Tất cả hành vô thường,
Có sanh sẽ có chết,
Chẳng sanh lại không diệt
Diệt này tối đệ nhất.
XXVI.2. Phẩm Tứ ý đoạn (2)
Thế Tôn bảo A-nan:
- Nay Thầy hãy đưa Xá-lợi của Xá-lợi-phất
đến đây.
Tôn giả A-nan đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn.
Tôn giả A-nan liền trao Xá-lợi vào tay Thế
Tôn. Thế Tôn cầm Xá-lợi rồi bảo các Tỳ-kheo:
- Ðây là Xá-lợi của Tỳ-kheo Xá-lợi-phất,
là bậc trí tuệ, thông minh, tài cao, bao nhiêu loại trí: trí không cùng,
trí không bờ đáy, có trí mau chóng, có trí khinh tiện, có trí lợi cơ, có
trí rất sâu, có trí xét kỹ, ít muốn, biết đủ, ưa ở chỗ vắng vẻ, có lòng
dũng mãnh, việc làm không rối loạn, tâm không khiếp nhược, hay nhẫn nhục,
trừ bỏ pháp ác, thể tánh nhu hòa, không ưa tranh tụng, hằng tu tinh tấn,
hành chánh định, tập trí tuệ, niệm giải thoát, tu hành thân giải thoát tri
kiến.
Tỳ-kheo nên biết, ví như đại thọ không có
cành nhánh; nay trong Tỳ-kheo Tăng, Như Lai là đại thọ, Xá-lợi-phất diệt
độ rồi, Ta như cây không cành. Nếu Xá-lợi-phất đi đến phương nào, phương
đó liền gặp may mắn lớn lao, mong Xá-lợi-phất dừng lại ở phương đó. Sở dĩ
như thế, vì Tỳ-kheo Xá-lợi-phất hay cùng ngoại đạo dị học luận nghị, ai
cũng bị hàng phục.
Bấy giờ Ðại Mục-kiền-liên nghe Tôn giả
Xá-lợi-phất diệt độ, liền dùng thần thông đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy Phật
rồi đứng một bên. Tôn giả Mục-kiền-liên bạch Thế Tôn:
- Nay Tỳ-kheo Xá-lợi-phất đã diệt độ. Nay
con từ biệt Thế Tôn, con cũng muốn diệt độ.
Thế Tôn im lặng chẳng đáp. Như thế hai ba
phen bạch Thế Tôn:
- Con muốn diệt độ.
Bấy giờ Thế Tôn vẫn im lặng chẳng đáp. Tôn
giả Mục-kiền-liên thấy Thế Tôn im lặng chẳng đáp, liền cúi lạy Phật rồi
lui đi. Tôn giả trở về Tinh xá, thu xếp y bát, ra khỏi thành La-duyệt, tự
đến quê mình. Bấy giờ có đông chúng Tỳ-kheo theo sau Tôn giả Mục-liên.
Chúng Tỳ-kheo cùng Tôn giả Mục-liên đến thôn Ma-sấu, du hóa tại đó và mắc
bịnh nặng.
Lúc ấy, Tôn giả Mục-liên ở giữa đất trống
trải, tòa mà ngồi, nhập Sơ thiền; từ Sơ thiền dậy, nhập Nhị thiền; từ Nhị
thiền dậy, nhập Tam thiền; từ Tam thiền dậy, nhập Tứ thiền; từ Tứ thiền
dậy, nhập Không xứ, từ Không xứ dậy, nhập Thức xứ, từ Thức xứ dậy, nhập
Bất dụng xứ; từ Bất dụng xứ dậy, nhập Hữu tưởng vô tưởng xứ; từ Hữu tưởng
vô tưởng xứ dậy, nhập Hỏa quang tam-muội; từ Hỏa quang tam-muội dậy, nhập
Thủy quang tam-muội; từ Thủy quang tam-muội dậy, nhập Diệt tận định.
Từ Diệt tận định dậy, nhập Thủy quang
tam-muội; từ Thủy quang tam-muội dậy, nhập Hỏa quang tam-muội; từ Hỏa
quang tam-muội dậy, nhập Hữu tưởng vô tưởng định; từ Hữu tưởng vô tưởng
định dậy, nhập Bất dụng xứ; từ Bất dụng xứ dậy, nhập Thức xứ, Không xứ, Tứ
thiền, Tam thiền, Nhị thiền, Sơ thiền.
Từ Sơ thiền dậy, bay lên hư không, ngồi,
nằm, kinh hành. Thân trên ra lửa, thân dưới ra nước. Hoặc thân dưới ra
lửa, thân trên ra nước, làm mười tám cách biến hóa thần túc.
Bấy giờ Tôn giả Mục-kiền-liên bay xuống
tòa, ngồi kiết-già, chính thân, chính ý, buộc niệm ở trước và nhập Sơ
thiền; từ Sơ thiền dậy, nhập Nhị thiền; từ Nhị thiền đậy, nhập Tam thiền;
từ Tam thiền dậy, nhập Tứ thiền; từ Tứ thiền dậy, nhập Không xứ; từ Không
xứ dậy, nhập Thức xứ; từ Thức xứ dậy, nhập Bất dụng xứ; từ Bất dụng xứ
dậy, nhập Hữu tưởng vô tưởng xứ; từ Hữu tưởng vô tưởng xứ dậy, nhập Hỏa
quang tam-muội; từ Hoa quang tam-muội dậy, nhập Thủy quang tam-muội; Từ
Thủy quang tam-muội dậy, nhập Diệt tận định.
Từ Diệt tận định dậy, Tôn giả trở lại nhập
Thủy quang tam-muội, Hỏa quang, Hữu tưởng vô tưởng xứ, Bất dụng xứ, Thức
xứ, Không xứ, Tứ thiền, Tam thiền, Nhị thiền, Sơ thiền.
Lại từ Sơ thiền dậy, Tôn giả nhập nhị
thiền; từ Nhị thiền dậy, nhập Tam thiền; từ Tam thiền dậy, nhập Tứ thiền,
từ Tứ thiền dậy, ngay đó mà diệt độ.
Bấy giờ Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên đã diệt
độ rồi, mặt đất chấn động rất lớn. Chư Thiên bảo nhau hiện đến, hầu hạ Tôn
giả Ðại Mục-kiền-liên, cúng dường tôn đức, hoặc đem các thứ hương hoa đến
cúng dường; chư Thiên ở không trung xướng kỹ nhạc, gẩy đàn, ca múa dâng
cúng lên Tôn giả Mục-kiền-liên.
Lúc ấy Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên đã diệt
độ, trong thôn Nan-la-đà trong vòng một do-tuần, chư Thiên đầy dẫy. Bấy
giờ lại có nhiều chúng Tỳ-kheo cầm các thứ hương hoa rải trên xác Tôn giả
Mục-kiền-liên.
Ðức Thế Tôn từ thành La-duyệt tuần tự khất
thực cùng năm trăm Tỳ-kheo du hóa trong nhân gian, đến thôn Na-la-đà cùng
với năm trăm Tỳ-kheo. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên diệt độ
chưa bao lâu. Ðức Thế Tôn ngồi giữa đất trống, im lặng quan sát các
Tỳ-kheo. Im lặng quan sát các Tỳ-kheo xong, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta quan sát các Thầy trong chúng này
bị tổn giảm to lớn. Vì sao thế? Nay trong chúng này không có Tỳ-kheo
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Nếu phương nào có Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên
đi đến phương ấy liền chẳng trống rỗng mà được nghe nay Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên ở tại phương này. Sở dĩ như thế vì Tỳ-kheo Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên kham nhận hàng phục ngoại đạo ở đây.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Việc làm của chư Phật rất kỳ đặc. Có hai
đệ tử trí tuệ và thần túc nhập Niết-bàn. Nhưng Như Lai không sầu lo. Ngay
cả hằng sa Như Lai đời quá khứ cũng lại có đệ tử trí tuệ, thần túc này và
ngay đến chư Phật ra đời ở tương lai cũng sẽ có đệ tử trí tuệ, thần túc
này.
Tỳ-kheo nên biết, thế gian có hai nghiệp
thí. Thế nào là hai? Nghĩa là tài thí và pháp thí. Tỳ-kheo nên biết, nếu
luận về tài thí, thì nên theo Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên mà cầu.
Nếu muốn cầu pháp thí, nên theo cầu Ta. Sở dĩ như thế, vì nay Ta, Như Lai
không có tài thí. Hôm nay các Thầy có thể cúng dường Xá-lợi của Tỳ-kheo
Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật:
- Làm sao cúng dường được Xá-lợi của
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên.
Thế Tôn bảo:
- Nên gồm các thứ hương hoa, ở ngã tư
đường lập bốn tháp. Vì sao thế? Nếu có dựng tháp thì có bốn loại người này
nên dựng tháp. Thế nào là bốn? Chuyển luân Thánh vương nên dựng tháp;
A-la-hán lậu tận nên dựng tháp; Bích-chi Phật nên dựng tháp; Như Lai nên
dựng tháp.
Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:
- Có nhân duyên gì mà Như Lai nên dựng
tháp? Lại có nhân duyên gì nên dựng tháp cho Bích-chi Phật, A-la-hán lậu
tận và Chuyển luân Thánh vương?
Thế Tôn bảo:
- Nay Thầy nên biết, Chuyển luân Thánh
vương thi hành thập thiện, tu mười công đức, cũng lại dạy người hành thập
thiện công đức. Thế nào là mười? Tự mình không sát sanh, lại dạy người
khác khiến không sát sanh. Tự mình không trộm, lại dạy người khác khiến
không trộm. Tự mình không dâm, lại dạy người khác khiến không dâm. Tự mình
không ỷ ngữ, lại dạy người khác khiến không ỷ ngữ. Tự mình không tật đố,
lại dạy người khác khiến không tật đố. Tự mình không tranh tụng, lại dạy
người khác khiến không tranh tụng. Tự mình chính ý, lại dạy người khác
khiến không loạn ý, Thân tự chính kiến, lại dạy người khác khiến hành
chính kiến.
Tỳ-kheo nên biết, Chuyển luân Thánh vương
có mười công đức này, nên xứng đáng dựng tháp.
Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:
- Lại do nhân duyên nào, nên dựng tháp cho
đệ tử Như Lai?
Thế Tôn bảo:
- A-nan nên biết, A-la-hán lậu tận không
còn thọ thân sau nữa; trong sạch như thiên kim; ba độc, năm kiết sử không
còn xuất hiện. Lại nữa, do nhân duyên này dựng tháp cho đệ tử Như Lai.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
- Do nhân duyên nào, Bích-chi Phật đáng
được dựng tháp?
Thế Tôn bảo:
- Có Bích-chi Phật không thầy tự ngộ, trừ
các kiết sử, không thọ thân sau nữa. Thế nên đáng dựng tháp.
Bấy giờ A-nan bạch Thế Tôn:
- Lại do nhân duyên nào xứng đáng dựng
tháp cho Như Lai?
Thế Tôn bảo:
- Ở đây, này A-nan, Như Lai có Thập lực,
Tứ vô sở úy, kẻ không hàng phục bị hàng phục; kẻ không độ được độ; kẻ
không đắc đạo khiến cho đắc đạo; người không nhập Niết-bàn khiến nhập
Niết-bàn. Mọi người thấy rồi hết sức hoan hỉ.
Ðó là, này A-nan, Như Lai đáng được dựng
tháp. Như thế Như Lai đáng được dựng tháp. Bấy giờ A-nan nghe Thế Tôn dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
*
10.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Tôn giả Bà-ca-lê thân mắc bịnh
nặng, đại tiểu tiện tại chỗ, ý muốn dùng dao tự sát mà không ngồi dậy. Tôn
giả Bà-ca-lê bảo thị giả:
- Nay Con hãy đem dao đến! Ta muốn tự sát.
Sở dĩ như thế là vì trong số đệ tử của Phật Thích-ca Văn, hôm nay, người
có tín giải thoát không ai hơn ta. Nhưng nay ta tâm hữu lậu chẳng giải
thoát. Sở dĩ như thế là vì đệ tử của Như Lai lúc gặp khổ não cũng lại tìm
dao tự sát. Nay ta dùng mạng này vì chẳng thể từ bờ này đến bờ kia.
Bấy giờ, đệ tử của Bà-ca-lê xuất gia chưa
bao lâu, chưa biết đời này, đời sau, chẳng biết từ bờ này đến bờ kia, cũng
lại chẳng biết chết đây rồi sanh nơi khác, liền đưa dao cho Tôn giả. Tôn
giả Bà-ca-lê cầm dao rồi, đem lòng tin kiên cố cầm dao tự đâm mình. Ngài
Bà-ca-lê lấy dao tự đâm mình và nghĩ: 'Trong đệ tử Phật Thích-ca Văn có
việc làm phi pháp, bị lợi ác, chẳng được lợi lành, ở trong pháp Như Lai
chẳng được thọ chứng mà mạng chung'.
Bấy giờ Tôn giả Bà-ca-lê liền tư duy Ngũ
thạnh ấm. Ðó là sắc này, đó là sắc tập, đó là sắc diệt tận. Ðó là thọ,
tưởng, hành, thức; đó là thọ, tưởng, hành, thực tập; đó là thọ, tưởng,
hành thức diệt tận. Ngài tư duy Ngũ thạnh ấm này thuần thục. Các pháp có
sanh đều là pháp tử. Biết thế rồi, tâm hữu lậu liền được giải thoát.
Bấy giờ Tôn giả Bà-ca-lê ở Vô dư Niết-bàn
mà nhập Niết-bàn. Thế Tôn dùng thiên nhĩ, nghe Tôn giả Bà-ca-lê đòi dùng
dao tự sát, Thế Tôn bảo A-nan:
- Các Tỳ-kheo tại thành Xá-vệ hãy tập
trung về một chỗ. Ta muốn dạy bảo.
Tôn giả A-nan vâng lời Thế Tôn, liền triệu
tập các Tỳ-kheo tại giảng đường Phổ Tập, rồi trở về bạch Thế Tôn:
- Hôm nay Tỳ-kheo đã tụ tập một chỗ.
Thế Tôn liền đem Tỳ-kheo Tăng vây quanh
trước sau, đến tinh xá của Tỳ-kheo Bà-ca-lê. Ngay lúc ấy, tệ ma Ba-tuần
muốn biết thần thức của Tôn giả Bà-ca-lê đang ở chỗ nào: 'Ở cõi Người hay
Phi nhân, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-câu-la,
Ma-hầu-la-già, Dạ-xoa? Nay thần thức này trọn sanh chỗ nào?' Xem khắp
Ðông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới mà chẳng biết chỗ của thần thức,
Ma Ba-tuần thân thể hết sức mỏi mệt mà chẳng biết ở đâu.
Bấy giờ Thế Tôn cùng Tỳ-kheo Tăng vây
quanh trước sau, đến tinh xá kia. Thế Tôn thấy Ma Ba-tuần muốn biết thần
thức ở đâu. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy có nghe trong tinh xá này có
tiếng lớn chăng? Lại còn ánh sáng yêu quái nữa?
Các Tỳ-kheo đáp:
- Vâng, Thế Tôn, chúng con đã thấy.
Thế Tôn bảo:
- Ðây là tệ ma Ba-tuần muốn biết thần thức
Bà-ca-lê ở đâu.
Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:
- Cúi mong Thế Tôn nói thần thức của
Tỳ-kheo Bà-ca-lê ở chỗ nào?
Thế Tôn bảo:
- Thần thức của Tỳ-kheo Bà-ca-lê trọn
không chỗ dính mắc. Vị vọng tộc đó đã nhập Niết-bàn, nên nhận biết như
thế.
Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:
- Tỳ-kheo Bà-ca-lê này đắc Tứ đế khi nào?
Thế Tôn bảo:
- Trong ngày hôm nay đắc Tứ đế này.
A-nan bạch Phật:
- Tỳ-kheo này mắc bệnh đã lâu, vốn là
người phàm.
Thế Tôn bảo:
- Ðúng vậy, A-nan! Như lời Thầy nói,
Tỳ-kheo ấy bịnh khổ rất lâu. Trong các đệ tử của Phật Thích-ca Văn có tín
giải thoát, người này hơn hết. Nhưng tâm hữu lậu chưa được giải thoát.
Thầy ấy tự nghĩ: 'Nay ta nên dùng dao để tự đâm mình'. Tỳ-kheo ấy lúc sắp
đâm mình, liền tư duy công đức của Như Lai. Ngày xả bỏ thân mạng, vị ấy tư
duy Ngũ thạnh ấm: đó là sắc tập này, sắc diệt tận này. Bấy giờ Tỳ-kheo ấy
tư duy như thế rồi, các pháp hữu lậu đều được diệt tận. Tỳ-kheo này đã
nhập Niết-bàn.
A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Pháp của Tứ ý đoạn,
Tứ ám, pháp già suy,
A-di, pháp gốc ngọn,
Xá-lợi, Bà-ca-lê.