XXXXVI. Phẩm Kết cấm
1. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có mười sự công đức, Như Lai vì
các Tỳ-kheo nói cấm giới. Thế nào là mười? Là thừa sự Thánh chúng; hòa hợp
thuận thảo với nhau; an ổn Thánh chúng; hàng phục người ác; khiến các
Tỳ-kheo biết tàm, quý, không bị não loạn; người không tin khiến lập lòng
tin; người đã tin khiến tăng
thêm bội phần; ở trong hiện pháp được
dứt sạch hữu lậu, cũng khiến cho các lậu đời sau thảy đều trừ sạch; khiến
Chánh pháp trụ đời lâu dài; thường suy nghĩ phải có cách gì
để Chánh pháp tồn tại lâu dài.
Này các Tỳ-kheo! Ðó là mười pháp công đức,
Như Lai vì các Tỳ-kheo nói cấm giới. Cho nên, Tỳ-kheo! Nên tìm
phương tiện thành tựu cấm giới đừng để cho
mất. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học
điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
2. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Chỗ ở của chư Hiền Thánh có mười việc, chư Thánh ba
đời đều ở trong ấy. Thế nào là mười? Ở
đây, Tỳ-kheo đã trừ bỏ năm
việc; thành tựu sáu pháp; thường giữ một việc; ủng hộ bốn chúng;
quan sát chỗ yếu kém; thân cận bình đẳng;
chánh hướng vô lậu; nương tựa thân hành; tâm khéo giải thoát; trí
tuệ giải thoát.
Thế nào là Tỳ-kheo đã trừ năm
việc? Ở đây, Tỳ-kheo đã đoạn dứt năm
kiết sử. Như thế là đã trừ năm
việc.
Thế nào là Tỳ-kheo thành tựu sáu pháp? Ở
đây, này các Tỷ kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc không có hân hoan,
không có thất vọng, trú xả, chánh niệm tỉnh giác; khi tai nghe tiếng...
khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc... khi ý biết
pháp, không có hân hoan, không có thất vọng, trú xả, chánh niệm tỉnh giác.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo thành tựu sáu pháp. (bổ sung từ
Kinh Thánh Cư, Tăng Chi X.20 -- Bình
Anson, 02-2004)
Thế nào là Tỳ-kheo thường hộ một việc? Ở
đây, Tỳ-kheo thường hộ trì tâm niệm hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi
đến cửa Niết-bàn. Như thế là Tỳ-kheo
thường hộ một việc.
Thế nào là Tỳ-kheo hộ trì bốn chúng? Ở
đây, Tỳ-kheo thành tựu Tứ thần túc. Như thế là Tỳ-kheo hộ trì bốn
chúng.
Thế nào là Tỳ-kheo quan sát chỗ yếu kém? Ở
đây, Tỳ-kheo các hành sanh tử đã
chấm dứt. Ðó gọi là Tỳ-kheo quan sát chỗ yếu kém.
Thế nào là Tỳ-kheo thân cận bình đẳng? Ở
đây, Tỳ-kheo đã chấm dứt ba kết. Ðó gọi là Tỳ-kheo thân cận bình
đẳng.
Thế nào là Tỳ-kheo chánh hướng vô lậu? Ở
đây, Tỳ-kheo trừ bỏ kiêu mạn. Như thế là Tỳ-kheo chánh hướng vô
lậu.
Thế nào là Tỳ-kheo nương tựa vào thân hành? Ở
đây, Tỳ-kheo đã trừ vô minh. Như thế
là Tỳ-kheo nương tựa thân hành.
Thế nào là Tỳ-kheo tâm khéo giải thoát? Ở
đây, Tỳ-kheo đã trừ sạch ái. Như thế là Tỳ-kheo tâm khéo giải
thoát.
Thế nào là Tỳ-kheo trí tuệ giải thoát? Ở
đây, Tỳ-kheo quán Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Ðạo
đế, biết một cách như thật. Ðó là
Tỳ-kheo trí tuệ giải thoát.
Này các Tỳ-kheo! Ðó là chỗ ở đủ mười sự
của Hiền Thánh. Ngày trước, các bậc hiền Thánh cũng ở trong ấy,
đã ở,
đang ở.
Cho nên, Tỳ-kheo! Nên nhớ nghĩ trừ bỏ năm
việc, thành tựu sáu pháp, giữ gìn một pháp, hộ trì bốn chúng, quan
sát chỗ yếu kém, thân cận bình đẳng, chánh
hướng về vô lậuu, nương tựa thân hành, tâm
được giải thoát, trí tuệ giải thoát. Như thế,
này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
3. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Như Lai thành tựu mười lực, tự biết không
đắm trước. Ở trong đại chúng rống tiếng sư
tử; chuyển vận bánh xe Chánh pháp vô thượng để độ chúng sanh; nghĩa là
đây là sắc,
đây là sắc tập,
đây là sắc tận,
đây là sắc xuất yếu; quán sát thọ,
tưởng, hành, thức, cũng như vậy; nhân cái này có thì cái kia có, cái này
sanh thì kia sanh; vô minh duyên lành, lành duyên thức, thức duyên danh
sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên
ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên tử, tử duyên
ưu bi khổ não không thể tính kể.
Nhân có thân ngũ ấm này có pháp tận này,
đây diệt thì kia diệt, đây không thì
kia không. Vô minh hết thì hành hết, hành hết thức hết, thức hết danh hết,
xúc hết thọ hết, thọ hết ái hết, ái hết thủ hết, thủ hết hữu hết, hữu hết
sanh hết, sanh hết tử hết, tử hết thì ưu bi khổ não thảy
đều trừ sạch.
Tỳ-kheo nên biết! Pháp của Ta rất rộng lớn không bờ mé, không
đáy, dứt các hồ nghi, an ổn ở nơi
Chánh Pháp. Thiện nam, tín nữ cần sinh năng
dụng tâm không để kém khuyết, dù thân thể khô hoại, trọn không bỏ
hạnh tinh tấn, buộc ý vững chắc không quên, tu hành pháp khổ không
đổi tâm, ưa ở chỗ vắng, yên lặng tư
duy, không bỏ hạnh đầu đà, như hiện
nay Như Lai khéo tu Phạm Hạnh.
Cho nên, này các Tỳ-kheo! Nếu khi tự quán sát, suy nghĩ về pháp vi diệu
thì cần phải quán sát hai nghĩa, không có hạnh phóng dật, khiến thành tựu
quả thật đến chỗ cam lồ, diệt tận. Nếu nhận
người khác cúng dường như y phục, mền, nệm, thức ăn uống, giường nằm, ngọa
cụ, thuốc men, cũng không phụ công khó của tín thí, cũng khiến cha mẹ được
quả báo, phụng sự chư Phật lễ kính cúng dường. Như thế, này các
Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
4. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Như Lai thành tựu mười lực, được bốn vô
sở úy. Ở trong chúng rống tiếng sư tử.
Thế nào là mười lực? Biết như thật về thị xứ; biết như thật về phi xứ;
biết như thật nhân duyên nơi chốn thọ báo của chúng sanh; biết như thật
bao nhiêu cõi, bao nhiêu loại trì, bao nhiêu loại nhập; biết như thật có
bao nhiêu loại giải thoát, vô lượng giải thoát, biết như thật các chúng
sanh có trí tuệ nhiều ít; biết như thật ý niệm trong tâm của các chúng
sanh: tâm có dục biết tâm có dục, tâm không dục biết tâm không dục, tâm có
sân nhuế biết tâm có sân nhuế, tâm không sân nhuế biết tâm không sân nhuế,
tâm có ngu si biết tâm có ngu si, tâm không ngu si biết tâm không ngu si,
tâm có ái biết tâm có ái, tâm không ái biết tâm không ái, tâm có thọ biết
tâm có thọ, tâm không thọ biết tâm không thọ, tâm loạn biết tâm loạn, tâm
không loạn biết tâm không loạn, tâm tán biết tâm tán, tâm không tán biết
tâm không tán, tâm hẹp biết tâm hẹp, tâm không hẹp biết tâm không hẹp, tâm
rộng lớn biết tâm rộng lớn, tâm không rộng lớn biết tâm không rộng lớn,
tâm vô lượng biết tâm vô lượng, tâm hữu lượng biết tâm hữu lượng, tâm
định biết tâm định, tâm không định biết tâm
không định, tâm giải thoát biết tâm giải thoát, tâm không giải thoát biết
tâm không giải thoát; biết như thật tất cả con
đường của tâm hướng đến, hoặc một đời, hai
đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, năm mươi đời, một trăm đời, ngàn
đời, ức trăm ngàn
đời, vô lượng đời, kiếp thành, kiếp
hoại, trong vố số kiếp thành, kiếp hoại, xưa kia ta sanh nơi
đó, tên
đó, họ đó, ăn những thức ăn như thế, chịu các khổ vui thọ mạng dài
ngắn, chết đây sanh kia, chết kia sanh đây,
tự nhớ các việc trong vô số đời đã qua như thế; biết như thật các
đường sanh tử của chúng sanh, dùng
Thiên nhãn quán sát các loài chúng sanh, sắc lành sắc dữ,
đường lành
đường dữ, tùy theo việc làm các loài
thảy đều biết rõ, hoặc có chúng sanh
thân miệng ý làm ác, phỉ báng Hiền Thánh, tạo nghiệp tà kiến, khi chết
sanh vào địa ngục, hoặc có chúng sanh thân
miệng ý làm lành, không phỉ báng Hiền Thánh, thường hành chánh
kiến, khi chết sanh lên cõi trời, đó gọi là
Thiên nhãn thanh tịnh quán sát các hành động
dẫn chúng sanh đi các nẻo; biết như thật sự chấm dứt hữu lậu, thành
tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, sanh tử
đã dứt, Phạm hạnh
đã lập, việc phải làm
đã làm xong, không thọ lại thân sau.
Ðó gọi là Như Lai có Mười lực, không đắm
trước, được Bốn vô sở úy, ở trong chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe
Phạm.
Thế nào gọi là Như Lai được Bốn vô
sở úy? Muốn nói Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác, nếu có chúng sanh muốn nói
biết việc này, ắt không được. Nếu có Sa-môn,
Bà-la-môn muốn đến chê bai Phật
không thành Ðẳng Chánh Giác, ắt không được.
Do chê bai không được, nên Ta
an ổn.
Lại nữa, nay Ta nói đã hết các hữu
lậu. Giả sử có Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, hoặc Ma trời muốn
đến nói Ta chưa dứt hữu lậu, ắt không được.
Do không được như thế, nên Ta an ổn.
Lại nữa, pháp Ta nói ra là pháp Hiền Thánh
được xuất yếu, chấm dứt mé khổ như thật. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn,
Trời, Ma trời muốn đến nói Ta chưa hết mé
khổ, ắt không được. Vì không được như
thế, nên Ta an ổn.
Lại nữa, Ta nói về nội pháp rơi trong
đường ác. Giả sử có Sa-môn, Bà-la-môn
đến, muốn nói không phải, ắt không được.
Này, Tỳ-kheo, đó là Như Lai có Bốn
vô sở úy. Giả sử hàng ngoại đạo dị học nói
rằng: 'Sa-môn Cù-đàm kia có
những thế lực gì? Có vô úy gì, mà tự xưng là bậc Vô trước, Tối tôn?'. Các
Thầy nên đem Mười lực này mà trả lời
họ.
Giả sử có ngoại đạo dị học lại nói như
vầy: 'Chúng ta cũng thành tựu Mười lực'. Tỳ-kheo các Thầy nên hỏi
họ rằng: 'Các Ông có Mười lực gì?'. Khi ấy hàng ngoại
đạo dị học chắc chắn không thể trả lời, họ bèn
tăng thêm lòng giận tức. Vì sao? Ta
chưa từng thấy Sa-môn, Bà-la-môn nào tự xưng rằng
được Bốn vô sở úy, trừ đức Như Lai.
Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy tìm phương tiện thành tựu Mười lực, Bốn
thứ vô úy!
Như thế, Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
5. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có Mười niệm, nên phân biệt rộng, tu hành Mười niệm ấy, sẽ dứt sạch
dục ái, sắc ái, vô sắc ái, kiêu mạn, vô minh. Thế nào là mười? Là niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ-kheo Tăng, niệm
Giới, niệm Thí, niệm Thiên, niệm Chỉ Quán, niệm An-ban, niệm Thân,
niệm Tử.
Này các Tỳ-kheo, có chúng sanh tu hành Mười niệm này, dứt sạch
được dục ái, sắc ái, vô sắc ái, tất cả vô
minh kiêu mạn, thảy đều trừ sạch. Như
thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
6. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Gần gũi bậc vua chúa vương gia có mười việc phi pháp. Thế nào là
mười? Khi nước ấy khởi tâm mưu hại muốn giết vua, do âm mưu ấy nên nhà vua
mạng chung. Dân chúng nước ấy bèn khởi nghĩ rằng: 'Các Sa-môn
đạo sĩ nầy thường lui tới, đây ắt là
do Sa-môn gây nên'. Ðây là điều phi pháp thứ
nhất của nạn gần gũi quốc vương.
Lại nữa khi quan đại thần phản nghịch bị
vua bắt và làm hại; khi ấy, nhân dân bèn khởi nghĩ rằng: 'Sa-môn
đạo sĩ nầy thường lui tới, đây chắc là
Sa-môn làm ra'. Ðây là điều phi pháp thứ hai
của nạn gần gũi quốc vương.
Lại nữa, khi tài bảo trong nước bị mất, người giữ kho liền khởi ý nghĩ
nầy: 'Các báu vật này ta thường giữ gìn, không ai khác vào
đây, chắc là Sa-môn lấy
đi'. Ðây là
điều phi pháp thứ ba của nạn gần gũi quốc
vương.
Lại nữa, khi con gái nhà vua đang lúc tuổi
trẻ, chưa chồng mà mang thai; khi ấy, nhân dân bèn khởi nghĩ rằng:
'Trong đây không ai lui tới, chắc là
do Sa-môn gây ra'. Ðây là điều phi pháp thứ
tư của nạn gần gũi quốc vương.
Lại nữa, khi vua bị bệnh nặng, trúng thuốc
độc của người khác; khi ấy, nhân dân bèn nghĩ rằng: 'Trong
đây không có ai khác, chắc là do
Sa-môn gây nên'. Ðây là điều phi pháp thứ năm
của nạn gần gũi quốc vương.
Lại nữa, vua chúa, đại thần cùng
tranh đấu nhau, giết hại nhau; khi ấy, nhân
dân bèn nghĩ rằng: 'Các đại thần này
vốn hòa hợp nhau, nay lại chống trái nhau,
điều này không do ai khác gây nên, chắc là do Sa-môn
đạo sĩ'. Ðây là
điều phi pháp thứ sáu của nạn gần gũi quốc
vương.
Lại nữa, hai quốc gia cùng đánh nhau tranh
phần thắng; khi ấy nhân dân bèn khởi nghĩ: 'Sa-môn
đạo sĩ này thường lui tới trong
đó, ắt là Sa-môn ấy gây chuyện'. Ðây
là điều phi pháp thứ bảy, của nạn gần gũi
quốc vương.
Lại nữa, quốc vương vốn ưa thích bố thí tài vật cho dân chúng, sau lại
bỏn sẻn không chịu ban phát; khi ấy, nhân dân
đều khởi nghĩ rằng: 'Vua của chúng ta vốn thích bố thí, nay lại bỏn sẻn
tham lam không có tâm bố thí, đây ắt là Sa-môn gây nên'. Ðây là
điều phi pháp thứ tám, của nạn gần gũi quốc
vương.
Lại nữa, vua thường dùng Chánh pháp để
thâu tài vật của dân chúng, sau lại phi pháp lấy tài bảo của dân;
khi ấy, nhân dân đều khởi nghĩ rằng: 'Vua của
chúng ta vốn dùng Chánh Pháp để lấy tài
vật nhân dân, nay lại dùng phi pháp để lấy tài
vật. Ðây chắc do Sa-môn gây nên'. Ðây là điều
phi pháp thứ chín, của nạn gần gũi quốc vương'.
Lại nữa, nhân dân khắp nước bị bệnh bởi do duyên
đời trước; khi ấy, nhân dân đều khởi nghĩ
rằng: 'Lúc trước chúng ta không có bệnh, nay mọi người đều bị bệnh, người
chết đầy đường, chắc là do chú thuật của Sa-môn gây nên'. Ðây là
điều phi pháp thứ mười, của nạn gần gũi quốc
vương.
Này Tỳ-kheo! Ðó là mười điều phi pháp, tai
nạn của sự gần gũi quốc vương. Cho nên các Tỳ-kheo chớ sanh tâm gần
gũi vua chúa. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học
điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
7. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu nhà vua thành tựu mười pháp thì không tồn tại lâu, trong nước
sinh nhiều đạo tặc. Thế nào là mười?
Khi nhà vua tham lam keo kiệt, chỉ do chút việc nhỏ, bèn sân giận, không
xem xét nghĩa lý. Ðây là pháp đầu tiên,
khiến không tồn tại lâu.
Lại nữa, nhà vua tham đắm tài vật,
không chịu kém. Ðây là pháp thứ hai, khiến không tồn tại lâu.
Lại nữa, nhà vua không nghe lời can gián, là người bạo ngược không có
lòng từ. Ðây là pháp thứ ba, khiến không tồn tại lâu.
Lại nữa, nhà vua bắt người oan uổng, trói buộc giam cầm trong ngục
không có ngày ra. Ðây là pháp thứ tư, khiến không tồn tại lâu.
Lại nữa, nhà vua dùng điều phi pháp trị
nước, không theo lệnh hạnh chánh. Ðây là pháp thứ năm
khiến không tồn tại lâu.
Lại nữa, nhà vua tham đắm sắc đẹp người
khác, xa lánh vợ mình. Ðây là pháp thứ sáu, khiến không tồn tại
lâu.
Lại nữa, nhà vua ưa uống rượu, không màng
đến việc triều đình. Ðây là pháp thứ bảy, khiến không tồn tại lâu.
Lại nữa, nhà vua ưa ca múa vui chơi, không tham dự triều chính. Ðây là
pháp thứ tám, khiến không tồn tại lâu.
Lại nữa, nhà vua thường đau ốm, không có
ngày khỏe mạnh. Ðây là pháp thứ chín, khiến không tồn tại lâu.
Lại nữa, nhà vua không tin đại thần trung
hiếu, người phụ tá hiếm hoi, không có bầy tôi mạnh. Ðây là pháp thứ
mười, khiến không tồn tại lâu.
Nay chúng Tỳ-kheo cũng vậy, nếu thành tựu mười pháp sau, sẽ không làm tăng
trưởng cột công đức lành, sau khi chết rơi vào
địa ngục. Thế nào là mười pháp?
Ở đây, Tỳ-kheo không giữ giới cấm, cũng
không có tâm cung kính đối với giới. Ðây là pháp thứ nhất khiến
không được bền lâu.
Lại nữa, Tỳ-kheo không kính vâng Phật, không tin lời chân thật. Ðây là
pháp thứ hai, khiến không được bền lâu.
Lại nữa, Tỳ-kheo không thừa sự pháp, sơ sót về giới luật. Ðây là pháp
thứ ba, khiến không được bền lâu.
Lại nữa, Tỳ-kheo không thừa sự Thánh chúng, thường có ý tự ty, không
tin lời dạy của chúng. Ðây là pháp thứ tư, khiến không
được bền lâu.
Lại nữa, Tỳ-kheo tham đắm lợi dưỡng, tâm
không buông bỏ. Ðây là pháp thứ năm,
khiến không được bền lâu.
Lại nữa, Tỳ-kheo không học hỏi nhiều, không siêng tụng
đọc, luyện tập. Ðây là pháp thứ sáu,
khiến không được bền lâu.
Lại nữa, Tỳ-kheo không vâng lời thiện tri thức, thường nghe theo ác tri
thức. Ðây là pháp thứ bảy, khiến không được
bền lâu.
Lại nữa, Tỳ-kheo ưa bày chuyện không nhớ tọa Thiền. Ðây là pháp thứ
tám, khiến không được bền lâu.
Lại nữa, Tỳ-kheo thích toán số, trái đạo
hợp thế tục, không tu tập Chánh pháp. Ðây là pháp thứ chín, khiến
không được bền lâu.
Lại nữa, Tỳ-kheo không ưa tu Phạm hạnh, tham
đắm bất tịnh. Ðây là pháp thứ mười,
khiến không được bền lâu.
Ðó gọi là Tỳ-kheo thành tựu mười pháp này, chắc chắn rơi trong ba
đường ác, không sanh chỗ lành.
Nếu nhà vua thành tựu mười pháp sau, bèn
được ở ngôi báu lâu đài. Thế nào là mười?
Ở đây, nhà vua không tham
đắm tài vật, không khởi sân hận, lại
không vì chuyện nhỏ mà khởi tâm oán hại. Ðây là pháp thứ nhất, khiến
được bền lâu.
Lại nữa, nhà vua nghe lời quần thần can ngăn,
không trái ngược các quan. Ðây là pháp thứ hai, khiến
được bền lâu.
Lại nữa, nhà vua thường thích bố thí, nhân dân
đồng ca ngợi. Ðây là pháp thứ ba,
khiến được bền lâu.
Lại nữa, nhà vua đúng pháp thâu tài
vật, không phi pháp. Ðây là pháp thứ tư, khiến
được bền lâu.
Lại nữa, nhà vua không đam mê sắc
đẹp người khác, thường bảo hộ vợ mình.
Ðây là pháp thứ năm, khiến được bền lâu.
Lại nữa, nhà vua không uống rượu, tâm không mê loạn. Ðây là pháp thứ
sáu, khiến được bền lâu.
Lại nữa, nhà vua không thích vui chơi hay hàng phục quân
địch. Ðây là pháp thứ bảy, khiến
được bền lâu.
Lại nữa, nhà vua trị dân đúng pháp, trọn
không cong vạy. Ðây là pháp thứ tám, khiến
được bền lâu.
Lại nữa, nhà vua hòa hợp với quần thần không chống
đối. Ðây là pháp thứ chín, khiến
được bền lâu.
Lại nữa, nhà vua không bệnh hoạn, khí lực cường thạnh. Ðây là pháp thứ
mười, khiến được bền lâu
Nếu nhà vua thành tựu mười pháp này, ngôi báu
được lâu dài không lo ngại.
Chúng Tỳ-kheo cũng lại như thế, nếu thành tựu mười pháp này, trong
khoảng duỗi cánh tay, liền được sanh lên
trời. Thế nào là mười?
Tỳ-kheo vâng giữ giới cấm, giới đức đầy
đủ, không phạm Chánh pháp. Ðây là pháp thứ nhất,
được sanh cõi lành.
Lại nữa, Tỳ-kheo đối với Như Lai có lòng
cung kính. Ðây là pháp thứ hai, được sanh cõi
lành.
Lại nữa, Tỳ-kheo thuận theo giáo pháp, không phạm một lỗi. Ðây là pháp
thứ ba, được sanh cõi lành.
Lại nữa, Tỳ-kheo phụng sự Thánh chúng, không có tâm lười biếng. Ðây là
pháp thứ tư, được sanh cõi trời.
Lại nữa, Tỳ-kheo thiểu dục tri túc, không
đắm trước lợi dưỡng. Ðây là pháp thứ năm,
được sanh cõi trời.
Lại nữa, Tỳ-kheo không tự làm theo ý mình, thường tùy theo giới pháp.
Ðây là pháp thứ sáu, được sanh cõi
lành.
Lại nữa, Tỳ-kheo không đam mê công
việc, thường ưa tọa Thiền. Ðây là pháp thứ bảy,
được sanh cõi trời.
Lại nữa, Tỳ-kheo ưa ở chỗ vắng, không ở trong nhân gian. Ðây là pháp
thứ tám, được sanh cõi lành.
Lại nữa, Tỳ-kheo không thuận theo ác tri thức, thường nghe theo thiện
tri thức. Ðây là pháp thứ chín, được sanh cõi
lành.
Lại nữa, Tỳ-kheo thường tu Phạm hạnh, xa lìa pháp ác, nghe nhiều, học
nghĩa lý không mất thứ lớp. Ðây là pháp thứ mười,
được sanh cõi lành.
Như thế, Tỳ-kheo thành tựu mười pháp được
sanh cõi lành, cõi trời, nhanh như trong khoảng duỗi cánh tay. Này
Tỳ-kheo, các hạnh phi pháp rơi vào địa ngục nên
nhớ xa lìa, mười hạnh Chánh pháp nên cùng vâng theo tu tập. Như thế, này
các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
8. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà,
cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.
Bấy giờ, phần đông Tỳ-kheo đến thời, đắp
y, mang bát vào thành La-duyệt khất thực. Khi ấy, các Tỳ-kheo khởi
nghĩ: Chúng ta vào thành khất thực, thời giờ còn sớm, chúng ta có thể
đến chỗ ngoại đạo dị học để cùng họ
luận nghị'. Lúc đó, các Tỳ-kheo đi đến chỗ
ngoại đạo dị học. Ngoại đạo dị học xa thấy các Sa-môn đến, mỗi người tự
bảo nhau:
- Chúng ta nên im lặng đừng nói lớn tiếng.
Nay có đệ tử của Sa-môn Cù-đàm
đến đây, pháp của Sa-môn thường khen ngợi
người yên lặng. Họ muốn biết chánh pháp của chúng ta có loạn, không
loạn.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo đến chỗ ngoại đạo dị
học, cùng chào hỏi và ngồi một bên. Ngoại
đạo hỏi các Tỳ-kheo:
- Sa-môn Cù-đàm vì hàng
đệ tử các Ông nói pháp vi diệu này:
'Các Tỳ-kheo có hiểu suốt tất cả các pháp mà tự vui thích chăng?'
Chúng tôi cũng nói pháp vi diệu này cho hàng
đệ tử để tự vui thích. Ðiều của chúng
tôi nói có khác gì các Ông? Có sai biệt gì? Nói pháp giáo giới một loại
không khác.
Khi ấy, các Tỳ-kheo nghe ngoại đạo dị học
nói, không khen hay, cũng không nói dở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cáo từ
mà đi. Các Tỳ-kheo tự nói với nhau:
'Chúng ta nên đem nghĩa này về
bạch lại Thế Tôn. Nếu Như Lai có chỉ dạy, chúng ta sẽ ghi nhớ vâng theo'.
Bấy giờ, chúng Tỳ-kheo vào thành La-duyệt khất thực, rồi trở về phòng
cất y bát, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ
chân Phật, lui ngồi một bên. Các Tỳ-kheo đem
đầu đuôi câu chuyện thưa hết với Phật.
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Các ngoại đạo dị học ấy hỏi nghĩa này
rồi, các Thầy nên đem lời này
đáp, là luận về một pháp, nghĩa một
quán, diễn nói một pháp, cho đến luận về mười
pháp, nghĩa mười pháp, diễn nói mười pháp. Nói lời này là có những
nghĩa gì? Nếu các Thầy đem lời này
đến hỏi, người ấy chắc không thể đáp. Ngoại
đạo dị học kia bèn tăng thêm
nghi lầm. Vì sao? Vì chẳng phải cảnh giới của họ.
Cho nên, này các Tỳ-kheo! Ta không thấy có Trời, Người, Ma, Thiên ma,
Ðế Thích, Phạm thiên vương có thể đáp lại lời
này. Trừ Như Lai và đệ tử Như Lai từng
theo Ta nghe dạy.
Luận về một pháp, nghĩa một pháp, diễn nói một pháp, tuy Ta nói nghĩa
này, do cớ gì mà nói thế? Tất cả chúng sanh do
ăn uống mới sống, không ăn thì chết.
Tỳ-kheo ấy bình đẳng chán ghét tai họa, bình
đẳng giải thoát, bình
đẳng quán sát, bình
đẳng phân biệt nghĩa kia, bình
đẳng chấm dứt mé khổ, đồng một nghĩa không
hai. Ðó là luận về một pháp, nghĩa một pháp, diễn nói một pháp.
Luận về hai pháp, nghĩa hai pháp, diễn nói hai pháp, tuy Ta nói nghĩa
này, do cớ gì mà nói nghĩa này? Nghĩa là danh và sắc. Thế nào gọi là danh?
Nghĩa là thọ, tưởng, niệm (hành), tư duy (thức),
đó là danh. Thế nào là sắc? Tứ
đại và tứ
đại tạo sắc, đó gọi là sắc, do duyên này nên gọi là sắc. Luận về
hai pháp, nghĩa hai pháp, diễn nói hai pháp, do nhân duyên này nên Ta nói
thế. Tỳ-kheo bình đẳng chán ghét tai họa, bình
đẳng giải thoát, bình
đẳng quán sát, bình
đẳng phân biệt nghĩa ấy, bình
đẳng chấm dứt mé khổ.
Luận về ba pháp, nghĩa ba pháp, diễn nói ba pháp. Do cớ gì mà nói nghĩa
này? Nghĩa là ba thọ. Thế nào là ba? Là thọ khổ, thọ vui, thọ không khổ
không vui. Thế nào gọi là thọ vui? Nghĩa là tâm tưởng vui không phân tán,
đó gọi là thọ vui. Thế nào là thọ khổ?
Nghĩa là tâm tán loạn không nhất định, suy
nghĩ bao nhiêu tưởng, đây gọi là
thọ khổ. Thế nào là thọ không khổ không vui? Nghĩa là tâm không có tưởng
khổ, không tưởng vui, cũng không tư duy về pháp và phi pháp, thường tự
lặng lẽ tâm không phạm, cho nên gọi là không khổ không vui. Ðó là ba thọ.
Tỳ-kheo bình đẳng chán ghét tai họa, bình
đẳng giải thoát, bình
đẳng quán sát, bình
đẳng phân biệt nghĩa này, bình
đẳng chấm dứt mé khổ. Ðó là luận ba
pháp, nghĩa ba pháp, diễn nói ba pháp, điều
Ta nói chính là đây vậy.
Luận về bốn pháp, nghĩa bốn pháp, diễn nói bốn pháp, do những cớ gì mà
nói nghĩa này? Nghĩa là Tứ đế. Thế nào
là Tứ đế? Là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo thánh
đế.
Thế nào là Khổ đế? Là sanh khổ, già
khổ, bệnh khổ, chết khổ, ưu bi não khổ, oán ghét gặp khổ, ân ái chia lìa
khổ, mong cầu không được khổ.
Thế nào gọi là Tập đế? Là gốc ái
tương ưng với dục. Ðó là Tập đế.
Thế nào gọi là Khổ tận đế (Diệt đế)? Nghĩa
là ái kia vĩnh viễn chấm dứt không sanh lại. Ðó là Khổ tận
đế.
Thế nào gọi là Khổ yếu đế (Ðạo
đế)? Nghĩa là Tám
đạo phẩm Hiền Thánh: Chánh kiến, chánh
tư duy, chánh ngữ, chánh mạng, chánh nghiệp, chánh phương tiện, chánh
niệm, chánh định. Ðó là Tám
đạo phẩm Hiền Thánh.
Tỳ-kheo bình đẳng chán ghét tai họa, bình
đẳng giải thoát, bình
đẳng phân biệt nghĩa ấy, bình
đẳng quán sát, bình
đẳng chấm dứt mé khổ. Ðó gọi là luận
về bốn pháp, nghĩa bốn pháp, diễn nói bốn pháp. Ðiều Ta nói chính là
đây vậy.
Luận về năm pháp, nghĩa năm pháp, diễn nói
năm pháp. Nay Ta nói, do những gì mà nói như vậy? Là Năm
căn. Thế nào là năm căn? Tín căn,
tấn căn, niệm căn, định căn,
tuệ căn.
Thế nào gọi là tín căn? Nghĩa là
đệ tử Hiền Thánh tin vào
đạo pháp của Như Lai, Như Lai là bậc
Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện ở
đời. Ðó là tín căn.
Thế nào gọi là tấn căn? Là thân và
tâm siêng năng không lười mỏi diệt pháp bất
thiện, khiến pháp lành tăng trưởng,
tâm thường gìn giữ. Ðó là tấn căn.
Thế nào gọi là niệm căn? Niệm căn là
không quên những điều đã tụng, thường
ghi nhớ trong tâm, gìn giữ không mất, pháp hữu vi vô lậu trọn không quên
mất. Ðó là niệm căn.
Thế nào gọi là định căn? Ðịnh căn
là tâm không tán loạn, không có bao nhiêu tưởng, thường chuyên ròng
một ý. Ðó là định căn.
Thế nào gọi là tuệ căn? Là biết
Khổ, biết Tập, biết Tận, biết Ðạo. Ðó là tuệ căn.
Ðây là Năm căn, Tỳ-kheo ở trong đây bình
đẳng giải thoát, bình
đẳng phân biệt nghĩa ấy, bình
đẳng chấm dứt mé khổ. Luận về năm pháp, nghĩa
năm pháp, diễn nói năm pháp, điều Ta nói chính là
đây vậy.
Luận về sáu pháp, nghĩa sáu pháp, diễn nói sáu pháp. Do cớ gì Ta nói
như thế? Là sáu pháp trọng. Thế nào là sáu? Ở
đây, Tỳ-kheo thân thường hành từ, hoặc ở thất vắng, hoặc thường
nhất tâm, thường cùng hòa hợp bậc đáng tôn
quý; đó là pháp trọng thứ nhất. Lại nữa, miệng hành từ,
đáng kính đáng quý; đó là pháp trọng
thứ hai. Lại nữa, ý hành từ không khởi tật đố
ghen ghét, đáng kính đáng quý; đó là
pháp trọng thứ ba. Lại nữa, nếu được lợi
dưỡng trong bát có dư, đều dùng tâm bình
đẳng chia cho những người đồng Phạm hạnh; đó
là pháp trọng thứ tư. Lại nữa vâng giữ giới cấm không
để rơi mất, là
điều quý trọng của Hiền Thánh; đó là
pháp trọng thứ năm. Lại nữa, pháp chánh kiến
Hiền Thánh được xuất yếu, được chấm dứt mé khổ, ý không tán loạn cùng
với những người đồng Phạm hạnh đồng tu hạnh này;
đó là pháp trọng thứ sáu. Tỳ-kheo bình
đẳng chán ghét họa hoạn, bình
đẳng giải thoát, bình
đẳng phân biệt nghĩa này, bình
đẳng chấm dứt mé khổ. Luận về sáu pháp, nghĩa
sáu pháp, diễn nói sáu pháp, điều Ta nói chính là
đây.
Luận về bảy pháp, nghĩa bảy pháp, diễn nói bảy pháp. Do những cớ gì mà
nói như thế? Ðó là chỗ dừng nghỉ của thần thức. Thế nào là bảy? Hoặc có
chúng sanh bao nhiêu tưởng bao nhiêu thân, đó
là Trời và Người. Hoặc có chúng sanh bao nhiêu thân một tưởng,
đó là Trời phạm Ca-di xuất hiện tối
sơ. Hoặc có chúng sanh một tưởng một thân, đó
là Trời Quang Âm. Hoặc có chúng sanh một thân bao nhiêu tưởng,
đó là Trời Biến Tịnh. Hoặc có chúng
sanh vô lượng Không xứ, đó là Trời
Không xứ. Hoặc có chúng sanh vô lượng Thức xứ,
đó là Trời Thức xứ. Hoặc có chúng sanh
vô lượng Vô sở hữu xứ, đó là Trời Bất
dụng xứ. Hoặc có chúng sanh vô lượng Hữu tưởng vô tưởng xứ,
đó là Trời Hữu tưởng vô tưởng. Này
Tỳ-kheo! Ðó là bảy nơi thần thức dừng nghỉ. Ở
đây, Tỳ-kheo bình đẳng giải thoát cho
đến bình đẳng chấm dứt mé khổ. Luận về
bảy pháp, nghĩa bảy pháp, diễn nói bảy pháp, điều Ta nói chính là
đây vậy.
Luận về tám pháp, nghĩa tám pháp, diễn nói tám pháp, do cớ gì mà nói
như thế? Nghĩa là tám việc ở thế gian, theo thế gian xoay chuyển. Thế nào
là tám? Ðó là lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc, là tám việc của thế
gian, theo thế gian xoay chuyển. Ở đây,
Tỳ-kheo bình đẳng giải thoát cho đến bình
đẳng chấm dứt mé khổ. Luận về tám pháp, nghĩa
tám pháp, diễn nói tám pháp, điều Ta nói chính là
đây vậy.
Luận về chín pháp, nghĩa chín pháp, diễn nói chín pháp, do cớ gì mà nói
như thế? Là chín nơi cư trú của chúng sanh. Thế nào là chín? Nếu có chúng
sanh có bao nhiêu thân, bao nhiêu tưởng, đó là
Trời và Người. Hoặc có chúng sanh bao nhiêu thân một tưởng, là Trời phạm
Ca-di tối sơ xuất hiện. Hoặc có chúng sanh một tưởng một thân,
đó là Trời Quang Âm. Hoặc có chúng
sanh một thân bao nhiêu tưởng, đó là
Trời Biến Tịnh. Hoặc có chúng sanh Không xứ vô lượng,
đó là Trời Không xứ. Hoặc có chúng
sanh Thức xứ vô lượng, đó là Trời Thức
xứ. Hoặc có chúng sanh Vô sở hữu xứ vô lượng,
đó là Trời Bất dụng xứ. Hoặc có chúng sanh Hữu tưởng vô tưởng xứ vô
lượng, đó là Trời Hữu tưởng vô tưởng.
Chúng sanh cõi vô tưởng và các loại chúng sanh là chín nơi thần thức dừng
nghỉ. Ở đây, Tỳ-kheo bình
đẳng giải thoát cho đến bình
đẳng chấm dứt mé khổ. Luận về chín pháp,
nghĩa chín pháp, diễn nói chín pháp, điều Ta nói chính là
đây vậy.
Luận về mười pháp, nghĩa mười pháp, diễn bày mười pháp. Do cớ gì mà nói
như thế? Ðó là mười niệm. Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ-kheo Tăng,
niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên, niệm Hưu tức (chỉ quán), niệm
An-ban (sổ tức), niệm Thân, niệm Tử. Ðó là mười niệm. Ở
đây, Tỳ-kheo bình
đẳng giải thoát cho đến bình
đẳng chấm dứt mé khổ. Luận về mười pháp,
nghĩa mười pháp, diễn nói mười pháp, điều Ta nói chính là
đây vậy.
Tỳ-kheo! Như thế là từ một pháp đến mười
pháp. Tỳ-kheo nên biết, nếu ngoại đạo
dị học nghe lời này còn không thể nhìn mặt, huống là
đáp lại. Nếu Tỳ-kheo hiểu nghĩa này
thì trong hiện pháp vị ấy là người tôn quý bậc nhất.
Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo suy nghĩ về nghĩa này cho
đến mười năm thì chắc chắn vị ấy chứng
được quả thứ hai, hoặc A-la-hán, hoặc A-na-hàm.
Này Tỳ-kheo, không cần mười năm, hoặc chỉ
trong một năm tư duy nghĩa này thì chắc chắn thành tựu quả thứ hai,
trọn không thối thất giữa chừng. Tỳ-kheo không cần một năm,
hàng bốn chúng chỉ trong mười tháng cho
đến một tháng, suy nghĩ nghĩa này,
chắc chắn thành tựu quả thứ hai, cũng không thối chuyển giữa chừng. Không
cần một tháng, hàng bốn chúng chỉ trong bảy ngày suy nghĩ nghĩa này, chắc
chắn thành tựu quả thứ hai, trọn không nghi ngờ.
Bấy giờ, A-nan đứng sau Phật, cầm quạt hầu
Phật, bạch rằng:
- Thưa Thế Tôn, Pháp này rất sâu xa, nếu nơi nào có pháp này, nên biết
là gặp được Như Lai. Thưa Thế tôn, Pháp này
tên là gì và làm thế nào để phụng hành?
Phật bảo A-nan:
- Kinh này tên là 'Ý nghĩa của Mười Pháp'. Nên ghi nhớ vâng làm.
Bấy giờ, A-nan và các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
9. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có người tu hành mười tưởng, liền dứt sạch hữu lậu,
được thần thông, chứng quả dần đến Niết-bàn.
Thế nào là mười? Nghĩa là tưởng xương trắng, tưởng bầm xanh, tưởng sình
trương, tưởng ăn không tiêu, tưởng
máu, tưởng bị ăn nuốt, tưởng hữu thường vô
thường, tưởng tham thực, tưởng sự chết, tưởng tất cả điều không vui của
thế gian. Ðó gọi là Tỳ-kheo tu mười tưởng này,
được dứt sạch hữu lậu, đến cảnh giới Niết-bàn.
Lại nữa, Tỳ-kheo! Trong mười tưởng ấy, tưởng về tất cả
điều không vui của thế gian là bậc
nhất hơn hết. Vì sao? Nếu có người tu về tưởng những
điều không vui của thế gian và người
giữ lòng tin vâng theo Phật pháp thì hai người này chắc chắn vượt thứ lớp
mà chứng quả.
Thế nên, các Tỳ-kheo! Nếu khi ngồi dưới cội cây, nơi chỗ vắng, chỗ
trống, nên suy nghĩ về mười tưởng này.
Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
10. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo đến chỗ Thế Tôn,
cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên. Tỳ-kheo
đó bạch Phật:
- Hôm nay, Như Lai vì các Tỳ-kheo dạy pháp mười tưởng. Ai có thể tu tập
mười tưởng ấy thì sẽ dứt sạch các hữu lậu, thành tựu hạnh vô lậu. Nhưng
bạch Thế Tôn! Như con không thể kham tu hành mười tưởng ấy. Vì sao? Vì con
có nhiều tâm dục, thân ý lẫy lừng không thể dừng nghỉ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tỳ-kheo đó rằng:
- Nay Thầy nên bỏ tưởng tịnh mà suy nghĩ về tưởng bất tịnh, bỏ tưởng
hữu thường mà suy nghĩ về tưởng vô thường, bỏ tưởng hữu ngã mà suy nghĩ về
tưởng vô ngã, bỏ tưởng những điều vui thích mà
suy nghĩ về tưởng các điều không vui. Vì
sao? Nếu Tỳ-kheo suy nghĩ về tưởng tịnh thì tâm dục lừng lẫy, nếu suy nghĩ
về tưởng bất tịnh thì không còn tâm dục. Tỳ-kheo nên biết! Dục là bất tịnh
như đống phân kia, dục như con vẹt lắm
điều, dục hay phản bội như rắn độc, dục như
huyễn hóa, như mặt trời tan tuyết. Nên suy nghĩ lìa bỏ dục như
tránh xa gò mả, dục trở lại tự hại như rắn chứa nọc
độc; họa của dục không chán như uống nước
muối; dục khó đầy như biển nuốt dòng sông; dục có nhiều sự
đáng sợ như làng quỷ La-sát; dục như
oan gia thường phải xa lìa; dục như ít vị ngọt dính trên lưỡi dao; dục
không thể yêu mến như xương trắng bên đường;
dục hiện dáng bề ngoài như hoa mọc từ chuồng heo; dục không chân
thật như bình đựng đồ nhơ nhớp, bên
ngoài thấy lạ; dục không chắc chắn như đống
bọt.
Tỳ-kheo! Nay Thầy nên nghĩ xa lìa tưởng tham dục mà suy nghĩ về tưởng
bất tịnh. Tỳ-kheo! Nay Thầy hãy nhớ rằng, xưa kia Phật Ca-diếp
đã vâng theo và thực hành mười tưởng,
nay nên suy nghĩ thêm về mười tưởng ấy thì tâm hữu lậu liền giải thoát.
Bấy giờ, Tỳ-kheo đó buồn khóc rơi lệ không
thôi, liền đảnh lễ chân Phật, bạch Phật rằng:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Con ngu si mê muội
đã lâu, Như Lai
đích thân nói mười tưởng, con mới có thể xa lìa.
Nay tự sám hối sau không dám phạm. Cúi xin Như Lai nhận sự cải hối của
con, xin tha thứ cho.
Phật bảo Tỳ-kheo:
- Cho phép Thầy sửa đổi lỗi lầm, chớ phạm
trở lại. Như Lai đã dạy Thầy mười tưởng mà Thầy không chịu phụng
trì.
Khi ấy, Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, liền
đến chỗ vắng, tự chế phục mình, suy nghĩ rằng vốn là con nhà hào
tộc, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, tu Phạm hạnh vô thượng, là muốn
đạt kết quả sở nguyện; sanh tử đã dứt,
Phạm hạnh đã lập, việc phải làm
đã làm xong, không thọ lại thân sau,
biết như thật. Tỳ-kheo đó liền thành
A-la-hán.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Kết cấm, Thánh hiền cư,
Hai lực và mười niệm,
Thân vua, không sợ hãi,
Mười luận, tưởng, quán tưởng.
XXXXVII. Phẩm Thiện ác
1. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu chúng sanh thực hành mười pháp liền
được sanh lên trời, lại thực hành mười pháp liền sanh trong
đường ác, lại tu hành mười pháp liền
được vào cảnh giới Niết-bàn.
Thế nào là thực hành mười pháp sanh trong
đường ác? Ở đây, có người sát sanh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, nói thêu
dệt, nói lời ác, nói hai lưỡi đâm thọc gây
rối đôi bên, tật đố, sân hận, tà
kiến. Ðó là mười pháp, chúng sanh thực hành mười pháp này, sẽ
đọa trong đường ác.
Thế nào là thực hành mười pháp được sanh lên
trời? Khi người không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói
dối, không nói thêu dệt, không nói lời ác, không nói hai lưỡi
đâm thọc gây rối đôi bên, không tật
đố, không sân hận, không khởi tà kiến.
Ðó là mười pháp, chúng sinh thực hành mười pháp này liền
được sanh lên trời.
Thế nào là thực hành mười pháp được vào
Niết-bàn? Ðó là mười niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ-kheo Tăng,
niệm Thiên, niệm Giới, niệm Thí, niệm Hưu tức, niệm An-ban, niệm
Thân, niệm Tử. Ðó là mười pháp, chúng sinh thực hành mười pháp này liền
được vào Niết-bàn.
Các Tỳ-kheo nên biết! Nên rời bỏ những việc sanh lên trời và rơi trong
đường ác, nên khéo vâng giữ tu tập
theo mười pháp vào Niết-bàn. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học
điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
2. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Do gốc mười điều ác, ngoại vật còn
suy giảm huống gì nội pháp. Thế nào là mười? Là sát sanh, trộm cắp, dâm
dục, nói dối, nói thêu dệt, nói lời ác, nói hai lưỡi
đâm thọc gây rối đôi bên, tật
đố, sân hận, tà kiến.
Do quả báo của sát sanh nên thọ mạng của chúng sanh rất ngắn. Do quả
báo trộm cắp nên chúng sanh sanh ra liền bị nghèo
đói. Do quả báo của dâm dục nên gia
đình chúng sanh không trinh bạch. Do
quả báo nói thêu dệt, nên đất đai không bằng
phẳng. Do quả báo của nói hai lưỡi đâm thọc nên
đất đai sanh gai góc. Do quả báo nói lời ác nên
có nhiều ngôn ngữ. Do quả báo tật đố nên
lúa thóc không dồi dào. Do quả báo của sân hận nên có nhiều vật uế ác. Do
quả báo của tà kiến nên tự nhiên sanh trong tám
địa ngục lớn.
Do quả báo của mười điều ác này nên
khiến vật bên ngoài bị suy giảm, huống chi vật bên trong. Thế nên, các
Tỳ-kheo, nên nhớ nghĩ xả bỏ xa lìa mười pháp ác, tu hành mười pháp lành.
Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
3. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc đi đến chỗ Thế Tôn,
cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên. Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
- Chẳng biết Thế Tôn có nói lời nầy không, rằng: 'Bố thí cho Ta
được phước nhiều, bố thí cho người khác được
phước ít. Hãy bố thí đệ tử Ta, đừng bố
thí người khác'?. Nếu có người nói những lời như vậy, há chẳng phải đã
hủy báng pháp của Như Lai ư?
Ðức Phật bảo nhà vua:
- Ta không nói lời như thế, rằng chỉ nên bố thí cho Ta,
đừng bố thí cho người khác. Ðại vương
nên biết, Ta thường nói thế nầy: 'Nếu trong bát của Tỳ-kheo còn dư thức
ăn, đem để vào nước cho các loài trùng
nhỏ, cũng còn có phước, huống gì bố thí cho người mà không
được phước sao?'.
Nhưng này Ðại Vương, Ta có nói thế này: Bố thí cho người trì giới,
phước ấy càng tăng nhiều, hơn bố thí cho
người phạm giới.
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Bố thí cho người trì giới, phước báu tăng
nhiều hơn hẳn bố thí cho người phạm giới.
Nhà vua lại bạch Phật:
- Phạm chí Ni-kiền Tử đến nói với con
rằng: 'Sa-môn Cù-đàm biết huyễn
thuật có thể xoay chuyển người đời'. Bạch Thế
Tôn, lời này là đúng hay không đúng
chăng?
Phật bảo nhà vua:
- Ðúng thế, Ðại vương! Như lời đã
nói, Ta có pháp huyễn thuật có thể làm thay
đổi người thế gian.
Nhà vua bạch Phật:
- Thế nào gọi là pháp huyễn thuật xoay chuyển?
Phật bảo:
- Người sát sanh, tội ấy khó tính lường, người không sát sanh thọ phước
vô lượng. Người trộm cắp chịu tội vô lượng, người không trộm cắp
được phước vô lượng. Người dâm dục chịu tội
vô lượng, người không dâm dục được phước vô lượng. Người tà kiến
chịu tội vô lượng, người chánh kiến được
phước vô lượng. Ta giải thích về huyền pháp chính là như thế.
Khi ấy, vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
- Nếu Người, Ma, Thiên ma hoặc loài có hình sắc, hiểu sâu huyễn thuật
này, ắt sẽ được hạnh phúc lớn. Từ nay về sau,
con không cho phép các ngoại đạo dị học vào trong nước con. Con cho
phép hàng bốn chúng thường ở tại cung điện
của con, con sẽ thường cúng dường các vị tùy theo chỗ cần dùng.
Ðức Phật bảo:
- Ðại vương! Chớ nói như thế. Vì sao? Bố thí cho các loài súc sanh cũng
được phước báo, bố thí cho người phạm giới
cũng được phước báo, bố thí cho người trì giới thì phước báo khó
lường, bố thí cho hàng tiên nhơn ngoại đạo
được phước một ức lần, bố thí cho các vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm,
A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật và Phật, phước ấy không thể
đo lường.
Thế nên, Ðại vương, nên phát khởi ý niệm cúng dường
đệ tử Thanh văn của chư Phật thời quá khứ, vị
lai. Như thế, Ðại vương, hãy học điều
này!
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
4. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, phần đông các Tỳ-kheo, sau khi
thọ trai xong đều tụ tập tại giảng đường Phổ Hội, cùng nhau bàn
luận về nghĩa này: Bàn luận về chuyện y phục, trang sức,
ăn uống; bàn luận về những chuyện
chiến tranh, giặc cướp của nước lân bang; bàn luận về rượu chè, dâm dục,
ngũ dục; bàn luận về ca vũ, kỹ nhạc. Những chuyện vô ích như thế nhiều
không thể tính kể.
Bấy giờ, Thế Tôn dùng Thiên nhĩ nghe các Tỳ-kheo bàn luận những chuyện
ấy, liền đi đến giảng đường Phổ Hội, hỏi các
Tỳ-kheo:
- Các Thầy nhóm họp ở đây bàn luận
chuyện gì?
Khi ấy, các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Chúng con nhóm họp ở đây cùng bàn
luận những việc vô ích như thế.
Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Thôi, thôi! Các Tỳ-kheo, chớ bàn luận việc ấy. Vì sao? Những
điều luận bàn ấy không có ý nghĩa và
cũng không dẫn đến pháp lành. Không do
những điều luận bàn này mà
được tu Phạm hạnh; không đến được chỗ tịch
diệt, Niết-bàn; không được đạo Sa-môn
bình đẳng. Ðó là những
điều luận bàn của thế tục, không phải
luận của đường chánh. Các Thầy đã lìa
thế tục, xuất gia học đạo, không nên
suy nghĩ về những luận bại hoại.
Nếu các Thầy muốn bàn luận, nên bàn luận về mười việc công
đức. Thế nào là mười? Là siêng năng
tinh tấn; ít muốn biết đủ; có tâm dũng mãnh;
đa văn, có thể thuyết pháp cho người; không
sợ sệt kinh khủng; đầy đủ giới luật; thành tựu chánh
định; thành tựu trí tuệ; thành tựu
giải thoát; thành tựu giải thoát tri kiến. Nếu các Thầy muốn bàn luận thì
nên bàn luận về mười điều này.
Vì sao? Vì chúng thấm nhuần tất cả, ích lợi nhiều,
được tu Phạm hạnh, được đến chỗ tịch diệt,
Niết-bàn. Hôm nay các Thầy là con nhà hào tộc,
đã xuất gia học
đạo, nên suy nghĩ về mười
điều này. Luận này là luận của Chánh
pháp, xa lìa đường ác. Như thế, này
các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
5. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, đa số các Tỳ-kheo nhóm họp tại
giảng đường Phổ Hội, đều bàn luận thế này: 'Nay ở thành Xá-vệ, lúa
bắp quí hiếm và đắt đỏ, đi khất thực khó.
Ðức Thế Tôn lại nói nhờ ăn uống mà
thân người được tồn tại; thân tứ đại nương vào
pháp sở niệm của tâm, pháp là gốc của đường lành.
Ngày nay, chúng ta nên cử người thứ lớp khất thực, khiến người ấy
được hình sắc
đẹp, được nhận sự cực diệu, được y phục, thức
ăn uống, sàng tọa, ngọa cụ, thuốc men, cũng há chẳng là
điều tốt ư?'
Bấy giờ, Thế Tôn dùng Thiên nhĩ thanh tịnh xa nghe các Tỳ-kheo bàn luận
điều này, Ngài liền
đi đến giảng đường Phổ Hội, vào ngồi
tòa chính giữa, hỏi các Tỳ-kheo:
- Các Thầy nhóm họp ở đây bàn luận
điều gì?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Chúng con bàn luận về việc rằng nay ở thành Xá-vệ, khất thực khó
được, muốn cử người thứ lớp khất thực, để tùy
thời được hình sắc
đẹp, y phục tốt, mền nệm, thức ăn uống, sàng
tọa, thuốc men trị bệnh. Ðiều bàn luận của chúng con chính là
điều này.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu Tỳ-kheo đi xin để được cúng dường
bốn thứ cần dùng như y phục, thức ăn,
sàng tọa, thuốc men trị bệnh, lại dùng những thứ sắc, thinh, hương,
vị, xúc, pháp thượng đẳng sao?
Ta thường dạy các Thầy, khất thực có hai việc, nên gần gũi và không nên
gần gũi. Nếu như được y phục, thức ăn uống, sàng
tọa, thuốc men trị bịnh mà tăng thêm
pháp ác, không có pháp lành, thì không nên gần gũi. Nếu khất thực
được y phục, thức
ăn uống, sàng tọa, thuốc men trị bịnh
mà tăng trưởng pháp lành, không tăng
trưởng pháp ác, thì việc này nên gần gũi.
Tỳ-kheo các Thầy ở trong pháp này muốn bàn luận
điều gì, mà
điều luận bàn ấy, không phải là luận
Chánh pháp, thì nên bỏ pháp ấy, chớ suy nghĩ vì không do
điều này
đạt đến Niết-bàn, an trú, diệt tận.
Nếu muốn bàn luận, nên bàn luận mười điều
này. Thế nào là mười? Là siêng năng,
ít muốn biết đủ, có tâm dũng mãnh, đa
văn hay vì người thuyết pháp, không sợ sệt kinh khủng,
đầy đủ giới luật, thành tựu chánh
định, thành tựu trí tuệ, thành tựu
giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến. Nếu các Thầy muốn bàn luận, nên
bàn luận về mười điều này. Vì cớ sao?
Vì những điều này thấm nhuần tất cả,
lợi ích nhiều, được tu Phạm hạnh, đến cảnh
giới Niết-bàn, vô vi, diệt tận.
Luận này là nghĩa của Sa-môn, nên suy nghĩ ghi nhớ, chớ rời tâm. Như
thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
6. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, đa số các Tỳ-kheo nhóm họp tại
giảng đường Phổ Hội, bàn luận khác nhau thế này:
- Nay ở thành Xá-vệ khất thực khó được,
chẳng phải chỗ an ổn của Tỳ-kheo. Chúng ta nên cử người thứ lớp
khất thực, Tỳ-kheo khất thực này sẽ được y
phục, mền, nệm, thức ăn uống, sàng tọa, thuốc men trị bịnh không bị
thiếu.
Bấy giờ, trong chúng có một Tỳ-kheo nói với mọi người rằng:
- Chúng ta không thể ở tại đây khất thực,
nên cùng nhau đi sang nước Ma-kiệt-đà
khất thực. Nước ấy lúa thóc nhiều và rẻ, thức
ăn uống đầy đủ.
Lại có Tỳ-kheo nói:
- Chúng ta không nên sang nước đó khất
thực. Vì sao? Vua A-xà-thế cai trị nước ấy, làm nhiều việc phi
pháp, lại giết hại phụ vương, kết bạn với Ðề-bà-đạt-đa.
Do nhân duyên này, nên không thể sang
đó khất thực.
Lại có Tỳ-kheo nói:
- Nay tại nước Câu-lưu-xa, dân chúng đông
đúc, giàu có nhiều tài bảo, nên đến
nước đó khất thực.
Lại có Tỳ-kheo nói:
- Chúng ta không nên khất thực ở nước ấy. Vì sao? Vua Ác Sanh cai trị
nước ấy rất hung ác, không nhân từ, dân chúng hung bạo ưa gây gổ,
đánh nhau. Do nhân duyên này không nên
khất thực tại nước ấy.
Lại có Tỳ-kheo nói:
- Chúng ta nên đến thành Câu-diệm
Ba-la-nại, là nơi cai trị của vua Ưu Ðiền. Nhà vua một lòng tin Phật pháp,
không đổi ý. Chúng ta nên
đến nước đó khất thực, sở nguyện đều đầy đủ.
Bấy giờ, Thế tôn dùng Thiên nhĩ nghe các Tỳ-kheo bàn luận những
điều như thế, liền chỉnh đốn y phục, đến chỗ
các Tỳ-kheo, ngồi tòa chính giữa, hỏi các Tỳ-kheo rằng:
- Các Thầy nhóm họp ở đây bàn luận
việc gì? Nói những việc gì?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Chúng con nhóm họp tại đây, bàn
luận điều này: 'Nay trong thành Xá-vệ,
lúa thóc quý hiếm và đắt, khất thực khó được,
nên cùng đi sang nước Ma-kiệt-đà
khất thực, vì nước ấy giàu có phong phú, việc khất thực dễ dàng'.
Trong đây, lại có Tỳ-kheo nói: 'Chúng ta
không nên sang nước ấy khất thực. Vì sao? Vì vua A-xà-thế cai trị
nước ấy hành động phi pháp, giết cha, kết bạn
với Ðề-bà-đạt-đa. Do nhân duyên
này, không nên sang đó khất thực'.
Trong đây, lại có Tỳ-kheo nói: 'Nay tại
nước Câu-lưu-sa, dân chúng đông đúc giàu có nhiều tài bảo, nên sang
đó khất thực'. Lại có Tỳ-kheo nói rằng:
'Chúng ta không nên khất thực ở nước ấy. Vì sao? Vì Vua Ác Sanh cai
trị nước ấy là người hung bạo không nhân từ, ưa tranh tụng. Do nhân duyên
này không thể sang đó khất thực'.
Lại có Tỳ-kheo nói: 'Chúng ta nên ở tại thành Câu diêm Ba-la-nại, xứ
của vua Ưu Ðiền cai trị. Vua ấy dốc lòng tin Phật pháp, ý không thay
đổi, nên khất thực ở nước
đó thì sở nguyện
đầy đủ'.
Chúng con bàn luận ở đây, chính là
điều này.
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy chớ khen chê việc cai trị của vua chúa, cũng chớ luận bàn sự
hơn kém của vua chúa.
Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:
Phàm người làm lành, dữ,
Hành động có căn nguyên,
Mỗi mỗi chịu quả báo,
Trọn không hủy, không mất.
Phàm người làm lành, dữ,
Hành động có căn nguyên,
Làm lành được báo lành,
Ác chịu quả báo ác.
Cho nên, các Tỳ-kheo! Chớ khởi ý bàn luận quốc sự, bởi không do bàn
luận điều này mà
được đến Niết-bàn diệt tận, cũng không
phải là pháp chơn chánh của hạnh Sa-môn. Nếu bàn luận việc ấy chẳng phải
là chánh nghiệp.
Các Thầy nên học bàn luận về mười việc? Thế nào là mười? Là tinh tấn
siêng năng, ít muốn biết đủ, có tâm dũng mãnh,
đa văn hay vì người thuyết pháp, không
sợ sệt không kinh khủng, đầy đủ giới luật, thành
tựu chánh định, thành tựu trí tuệ,
thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến. Nếu các Thầy muốn bàn
luận nên bàn luận về mười điều này. Vì
sao? Vì chúng thấm nhuần tất cả, được tu Phạm
hạnh, đạt đến Niết-bàn diệt tận. Các Thầy
đã xuất gia học
đạo, xa lìa thế tục, nên siêng năng
ghi nhớ mười điều này, chớ rời tâm. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy
học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
7. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, đa số các Tỳ-kheo nhóm họp tại
giảng đường Phổ Hội, cùng bàn luận
điều này:
- Nay vua Ba-tư-nặc hành động phi pháp,
phạm giáo luật Thánh, đoán biết Tỳ-kheo-ni đắc quả A-la-hán mà giữ
trong cung mười hai năm, rồi cùng tư
thông. Nhà vua lại không thừa sự Phật, Pháp, Tỳ-kheo Tăng,
không có tâm kính tín đối với A-la-hán, ắt là không có tâm tin
Phật, Pháp, Thánh chúng. Chúng ta nên xa lìa,
đừng ở lại nước này. Vì sao? Khi nhà vua hành
động phi pháp thì các quan
đại thần cũng hành
động phi pháp. Ðại thần
đã hành
động phi pháp thì kẻ tay chân tả hữu cũng hành
động phi pháp. Kẻ nha lại hành
động phi pháp thì thường dân cũng hành
động phi pháp. Nay chúng ta nên
đi nước khác khất thực, đừng ở lại nước này;
lại có thể xem xét cách trị nước, phong tục nước ấy, thấy phong tục rồi sẽ
thấy chỗ khác nhau.
Bấy giờ, Thế tôn dùng Thiên nhĩ thông nghe các Tỳ-kheo bàn luận
điều này, liền
đi đến chỗ các Tỳ-kheo, ngồi vào tòa
chính giữa. Thế tôn hỏi các Tỳ-kheo:
- Các Thầy nhóm họp ở đây bàn luận
điều gì?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Chúng con ở đây bàn luận việc vua
Ba-tư-nặc hành động phi pháp, phạm giáo luật
Thánh, đoán biết Tỳ-kheo-ni đắc quả A-la-hán mà giữ trong cung mười
hai năm, rồi dùng sắc tiếp
đãi. Lại nữa, các bậc
đắc đạo hành nghiệp vượt qua ba cõi
nhưng nhà vua cũng không thừa sự Phật, Pháp, và Chúng Tăng,
không có tâm kính tín đối với A-la-hán, đã không có tâm này ắt là
không kính tín Tam Bảo. Chúng ta nên đi xa
không nên ở đây. Vì sao? Khi
nhà vua hành động phi pháp thì quan
đại thần, kẻ tả hữu và nhân dân cũng
làm ác. Lại chúng con muốn quan sát phong hóa ở thế gian.
Bấy giờ, Thế Tôn dạy:
- Các Thầy không nên luận bàn việc quốc gia. Nên tự khắc phục mình, bên
trong suy nghĩ tỉnh giác, biết phân biệt lượng xét. Nói bàn những
điều này thì không hợp lý
đạo, cũng không khiến người được tu Phạm
hạnh, đến chỗ diệt tận, Niết-bàn vô vi. Nên tự tu phần mình, làm
cho pháp thạnh hành, tự quy bậc tối tôn.
Nếu Tỳ-kheo hay tự mình tu tập làm lớn mạnh niềm pháp lạc, hạng người
đó là do chính Ta sanh ra. Thế nào gọi
là Tỳ-kheo có thể tự làm lớn mạnh niềm pháp lạc, không hư vọng, tự quy bậc
Tối tôn? Ở đây, Tỳ-kheo bên trong tự
quán sát thân mình, thân ý dừng trụ, tự nhiếp phục tâm mình, trừ bỏ loạn
tưởng, không lo buồn. Lại bên ngoài Tỳ-kheo tự quán thân, thân ý dừng trụ,
tự nhiếp phục tâm mình, trừ bỏ loạn tưởng, không lo buồn. Tỳ-kheo lại quan
sát thân trong và ngoài, thân ý dừng trụ. Tỳ-kheo bên trong quán thọ, bên
ngoài quán thọ, trong và ngoài quán thọ; bên trong quán tâm, bên ngoài
quán tâm, trong và ngoài quán tâm; bên trong quán pháp; bên ngoài quán
pháp, trong và ngoài quán pháp; ý dừng trụ, tự nhiếp phục tâm mình, trừ bỏ
loạn tưởng, không lo buồn.
Tỳ-kheo như thế gọi là có thể tự làm lớn mạnh hạnh tu của mình, tăng
trưởng pháp lạc, tự quy bậc Tối tôn. Các Tỳ-kheo hiện tại và tương
lai có thể tự làm lớn mạnh không mất bốn hạnh, chính là do Ta sanh ra.
Thế nên, này các Tỳ-kheo! Nếu muốn bàn luận, nên bàn luận về mười việc.
Thế nào là mười? Là tinh tấn siêng năng, ít
muốn và biết đủ, có tâm dũng mãnh,
đa văn hay vì người thuyết pháp, không
sợ sệt khủng bố, đầy đủ giới luật, thành
tựu chánh định, thành tựu trí tuệ,
thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến. Các Thầy muốn bàn
luận thì nên bàn luận về mười việc này. Vì sao? Vì mười việc này thấm
nhuần tất cả, có nhiều lợi ích, được tu Phạm
hạnh, đến Niết-bàn vô vi, chỗ diệt tận. Những
điều luận bàn này là nghĩa của Sa-môn.
Nên suy nghĩ ghi nhớ, đừng rời tâm. Như thế,
này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
8. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ trong thành Xá-vệ, có một trưởng giả, dựng thiền thất cho
La-vân. Bấy giờ, Tôn giả La-vân thường ngày nghỉ ngơi trong thất ấy, nhưng
hôm nay Tôn giả đi du hóa nhơn gian. Khi ấy,
trưởng giả khởi nghĩ: 'Ta nên đến tham
Tôn giả La-vân'. Trưởng giả đến, thấy trong thất vắng vẻ, không có người,
thấy rồi hỏi các Tỳ-kheo:
- Tôn giả La-vân hiện nay ở đâu?
Các Tỳ-kheo bảo:
- Tôn giả đi du hóa nhơn gian.
Trưởng giả thưa:
- Cúi xin chư Hiền cử người đến ở thất của
tôi. Thế Tôn cũng dạy: 'Tạo lập vườn cây, bắt cầu,
đóng thuyền, cất nhà xí sạch sẽ gần
đường để cho mọi người sử dụng thì
được phước báo lâu dài,
được thành tựu giới pháp, khi chết
sanh cõi Trời'. Do đó, tôi có tạo thất cho
Tôn giả La-vân. Nay Tôn giả không thích thất của tôi, cúi xin chư Hiền cử
người đến ở đó.
Các Tỳ-kheo trả lời:
- Chúng tôi sẽ làm như lời Trưởng giả thỉnh cầu.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo liền cử một Tỳ-kheo
đến ở trong thất.
Khi ấy, Tôn giả La-vân khởi nghĩ: 'Ta xa cách Thế Tôn khá lâu, hiện nay
có thể đến thăm hỏi Ngài'. Tôn giả
La-vân bèn đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân
Phật, lui ngồi một bên. Trong giây lát, Tôn giả rời tòa
đứng dậy trở về thất và thấy có
Tỳ-kheo khác ở. Thấy thế, Tôn giả hỏi Tỳ-kheo ấy:
- Ai đưa thất tôi cho Thầy?
Tỳ-kheo ấy đáp:
- Chúng Tăng sai tôi, bảo ở thất
nầy.
Khi ấy, Tôn giả La-vân trở lại chỗ đức Thế
Tôn, đem câu chuyện thưa với Phật:
- Chẳng biết Thế Tôn có dạy chúng Tăng cử
người ở tại thất của con, nghỉ ngơi trong ấy chăng?
Ðức Phật bảo La-vân:
- Thầy đến nhà trưởng giả mà hỏi
trưởng giả rằng: 'Hành động của tôi, có lỗi
về thân, miệng, ý chăng? Và tôi có ba
điều lỗi của thân, bốn điều lỗi của miệng, và ba
điều lỗi của ý chăng? Trưởng giả trước đã
cúng thất cho tôi, sau lại đem cho Thánh
chúng?'
Khi ấy, Tôn giả La-vân vâng lời Phật dạy,
đến nhà trưởng giả, hỏi rằng:
- Tôi có ba điều lỗi của thân, bốn điều
lỗi của miệng và ba điều lỗi của ý
chăng?
Trưởng giả đáp:
- Tôi không thấy Tôn giả về thân, miệng, ý có lỗi.
La-vân bảo trưởng giả:
- Vì sao Ông lấy lại phòng nhà của tôi đem
cho chúng Tăng?
Trưởng giả đáp:
- Tôi thấy nhà trống nên đem cúng chúng
Tăng. Lúc đó tôi lại khởi nghĩ: 'Tôn giả La-vân chắc không thích ở trong
thất của ta', nên tôi đem cúng.
Tôn giả La-vân nghe trưởng giả nói xong, liền trở lại chỗ
đức Thế Tôn, thuật lại đầy đủ câu chuyện. Khi
ấy, Thế Tôn liền bảo Tôn giả A-nan mau đánh kiền chùy, các Tỳ-kheo
có mặt tại tịnh xá Kỳ Hoàn thảy đều đến nhóm
tại giảng đường Phổ Hội. A-nan vâng lời Phật dạy, triệu tập các Tỳ-kheo
tại giảng đường Phổ Hội.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Hôm nay Ta sẽ nói về sự bố thí thanh tịnh, các Thầy nên khéo suy
nghĩ, ghi nhớ:
Các Tỳ-kheo đáp:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Thế Tôn dạy:
- Thế nào gọi là bố thí thanh tịnh. Ở đây,
Tỳ-kheo! Nếu có người đem vật bố thí, sau lại lấy lui và
đem cho người khác. Ðây gọi là bố thí
không chơn chánh, bố thí không bình đẳng. Nếu
có người chiếm đoạt vật của người, đem bố thí cho Thánh chúng, hoặc có
người chiếm đoạt vật của Thánh chúng, đem bố thí cho người. Ðây
chẳng phải là bố thí bình đẳng, cũng không
phải là bố thí thanh tịnh.
Chuyển luân Thánh vương ở nơi cảnh giới của mình còn
được tự tại, Tỳ-kheo đối với y bát của chính
mình cũng được tự tại. Nếu lại có
người chưa được chính miệng người hứa cho mà lấy vật của người
đem cho người khác thì
đây chẳng phải là bố thí bình
đẳng.
Nay Ta bảo các Tỳ-kheo, nếu thí chủ cho mà người nhận chưa thấy
đưa thì
đây chẳng phải là bố thí bình đẳng.
Nếu Tỳ-kheo ấy mệnh chung thì nên đưa phòng
xá của người ấy ra giữa chúng để làm
pháp yết ma. Một người xướng rằng: 'Tỳ-kheo pháp danh ...... mệnh chung,
nay đem phòng xá này
để chúng Tăng phân chia'. Muốn cử người nào
ở phòng ấy, tùy theo lời chúng dạy: 'Chư Hiền! Nay sai Tỳ-kheo pháp danh
...... ở phòng ấy, mọi người cùng chấp nhận. Ai không
đồng ý thì nói ra'. Nên nói như thế ba
lần. Nếu trong chúng có một người không đồng
ý mà đem cho thì không phải là
bố thí bình đẳng, ắt là vật không
thanh tịnh. Nay nên đem phòng trả lại
cho Tỳ-kheo La-vân thanh tịnh thọ nhận.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
9. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà
cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.
Bấy giờ, Tôn giả Ðại Quân-đầu ở tại chỗ
vắng, khởi lên ý nghĩa như vầy: 'Làm sao biết
được các kiến chấp về trước, về sau, và
khoảng giữa?'
Lúc ấy, Ðại Quân-đầu đến thời đắp y mang
bát, đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên.
Tôn giả bạch Phật:
- Nay có các kiến chấp này thích hợp trước và sau, làm sao diệt
được chúng và khiến cho những kiến
chấp khác không khởi lên?
Thế Tôn bảo:
- Này Quân-đầu! Chỗ phát sanh và
chỗ tiêu diệt những kiến chấp ấy đều là
vô thường, khổ, không. Quân-đầu! Biết như thế
rồi nên khởi nghĩ thế này: Có sáu mươi hai kiến chấp, nên an trụ
trong mười điều lành
để trừ bỏ các kiến chấp ấy.
Thế nào là mười? Này Quân-đầu! Người kia
ưa sát sanh, ta không sát sanh. Người kia ưa trộm cắp, ta không trộm cắp.
Người kia phạm vào hạnh thanh tịnh, ta hành hạnh thanh tịnh. Người
kia nói dối, ta không nói dối. Người kia nói thêu dệt, ta không nói thêu
dệt. Người kia nói lời ác, ta không nói lời ác. Người kia nói hai lưỡi
đâm thọc gây rối hai bên, ta không nói
hai lưỡi đâm thọc gây rối hai bên.
Người kia tật đố, ta không tật đố. Người kia
sân nhuế, ta không sân nhuế. Người kia tà kiến, ta hành chánh kiến.
Quân-đầu nên biết, như từ
đường ác được gặp đường chánh, như từ tà
kiến được đến chánh kiến, bỏ tà về
chánh. Như có người tự mình chìm đắm mà
muốn cứu người, trọn không có lý. Mình chưa diệt
độ mà muốn khiến người khác diệt
độ, việc ấy không được. Như có người tự mình
không chìm đắm mới có thể cứu người, lý ấy có
thể được. Nay cũng lại như thế, tự mình
được Niết-bàn, khiến cho người khác
diệt độ, lý ấy có thể được.
Cho nên, này Quân-đầu! Nên nghĩ nhớ
lìa sát sanh, không sát sanh được diệt độ; lìa
trộm cắp, không trộm cắp được diệt độ; lìa
dâm dục, không dâm dục được diệt độ; lìa
nói dối, không nói dối được diệt độ; lìa
thêu dệt, không thêu dệt được diệt
độ; lìa nói lời ác, không nói lời ác
được diệt độ; lìa nói hai lưỡi
đâm thọc gây đấu tranh đôi bên, không
nói hai lưỡi đâm thọc gây đấu tranh đôi bên
được diệt độ; lìa tật
đố, không tật đố được diệt độ; lìa sân
nhuế, không sân nhuế được diệt độ; lìa
tà kiến, được chánh kiến diệt độ.
Quân-đầu nên biết! Người thường
sanh khởi ý niệm này: 'Là hữu ngã chăng? Là
vô ngã chăng? Là hữu ngã vô ngã chăng?
Cõi đời là thường ư? Cõi
đời là vô thường ư? Cõi
đời có giới hạn ư? Cõi
đời không giới hạn ư? Mạng là thân ư?
Mạng khác, thân khác ư? Như Lai có chết ư? Như Lai không chết ư? Là có
chết ư? Là không chết ư? Ai tạo thế gian này?', lại sanh các tà kiến như:
'Phạm thiên tạo thế giới này? Hay là địa chủ
dựng lập thế giới này? Phạm thiên tạo chúng sanh này? Hay là
địa chủ tạo thế gian này? Chúng sanh
vốn không nay có, đã có rồi lại diệt
mất?'
Hạng người phàm phu không nghe không thấy, bèn sanh khởi ý niệm này.
Bấy giờ, Thế Tôn mới nói kệ:
Tự nhiên có Phạm thiên,
Ðây là lời Phạm chí,
Kiến chấp không chơn chánh,
Như chỗ thấy của họ.
Chúa ta sanh hoa sen,
Phạm thiên hiện trong ấy,
Ðịa chủ sanh Phạm thiên,
Tự sanh, không liên hệ.
Ðịa chủ dòng Sát-lợi,
Cha mẹ của Phạm chí,
Thế nào dòng Sát-lợi,
Phạm Chí cùng sanh nhau.
Tìm ra chỗ sanh ấy,
Lời nói của chư Thiên,
Ðây là lời khen ngợi,
Trở lại tự ràng buộc.
Phạm thiên sanh nhân dân,
Ðịa chủ tạo thế gian,
Hoặc nói nơi khác tạo,
Lời này ai xem xét?
Bị sân, dục, mê hoặc,
Ba việc chung nhóm họp,
Tâm không được tự tại,
Tự xưng ta tối thắng.
Thiên thần tạo thế gian,
Và chẳng Phạm thiên sanh,
Giả sử Phạm thiên tạo,
Ðây chẳng hư vọng ư?
Tìm dấu vết rất nhiều,
Xét kỹ lời nói vọng,
Hành tung mỗi mỗi khác,
Hành động ấy không thật.
Quân-đầu nên biết! Các loài chúng
sanh có sự thấy không đồng nhau, ý nghĩ mỗi
mỗi khác nhau. Những kiến chấp nầy đều là vô thường, chấp lấy những
kiến chấp này cũng là pháp vô thường biến dị.
Nếu người khác sát sanh, ta nên lìa sát sanh. Nếu người khác trộm cắp,
ta nên lìa trộm cắp, không tập theo hạnh ấy, giữ gìn tâm ý chuyên nhất
không để làm loạn. Suy nghĩ xét nét
chỗ dấy khởi của tà kiến, cho đến mười điều
ác thảy nên trừ bỏ không tập theo hạnh ấy. Nếu người sân nhuế, ta
học pháp nhẫn nhục. Người ôm lòng tật đố ta nên
xả ly. Người kiêu mạn, ta cũng nhớ xả ly. Nếu người tự khen mình chê
người, ta cũng không tự khen mình chê người. Người không biết thiểu dục,
ta nên học thiểu dục. Người phạm giới, ta cần giữ giới. Người làm biếng,
ta nên siêng năng. Người không tu chánh định,
ta tu chánh định, nên học như thế. Người ngu si ta thực hành trí
tuệ. Ai có thể quán sát phân biệt pháp như thế thì tà kiến tiêu diệt, các
kiến chấp khác không sanh.
Khi ấy, Tôn giả Quân-đầu nghe Phật dạy
xong, ở chỗ vắng suy nghĩ quán xét điều khiến cho con nhà hào tộc
xuất gia học đạo, mặc ba pháp y, tu Phạm hạnh
vô thượng, sanh tử đã hết, Phạm hạnh đã
lập, việc phải làm đã làm xong, không
thọ thân sau, biết một cách như thật. Khi ấy, Tôn giả Quân-đầu
liền chứng quả A-la-hán.
Bấy giờ, Quân-đầu nghe Phật dạy xong, vui
vẻ vâng làm.
*
10. Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Chúng sanh trong địa ngục thọ quả báo
tột cùng một kiếp, hoặc có khi giữa chừng mạng chung; chịu quả báo
súc sanh tột cùng một kiếp, trong khoảng ấy có khi nửa chừng mạng chung;
chịu quả báo ngạ quỷ tột cùng một kiếp, trong khoảng
đó có khi yểu mạng nửa chừng.
Tỳ-kheo nên biết! Người ở châu Uất-đơn-việt
tuổi thọ một ngàn năm, không chết yểu
nửa chừng. Vì sao? Người cõi đó không
bị ràng buộc, giả sử mệnh chung ở cõi này liền sanh cõi lành, lên
trời, không bị đọa lạc. Người ở châu
Phất-vu-đệ tuổi thọ năm trăm năm, cũng có chết nửa chừng. Người ở châu Cù-da-ni
thọ hai trăm năm chục năm, cũng có chết nửa
chừng. Người ở châu Diêm-phù-đề tuổi
thọ tột cùng một trăm năm, cũng có
nhiều người chết nửa chừng. Giả sử người thọ mạng tột cùng
đến một trăm năm thì mỗi thập niên là
biểu hiện cho một thời kỳ, hành động và
tánh tình trong mỗi thời kỳ ấy khác nhau. Trong mười năm
đầu, còn thơ ấu không hiểu biết. Trong mười năm
thứ hai, có ít nhiều tri thức nhưng chưa thông suốt. Trong mười năm thứ
ba, lòng ái dục mạnh mẽ, tham đắm sắc.
Trong mười năm thứ tư, nhiều kỹ thuật, việc làm không
đúng. Trong mười năm thứ năm, hiểu nghĩa rõ
ràng, việc học không quên. Trong mười năm thứ
sáu, tham tiếc tài sản, ý không quyết
định. Trong mười năm thứ bảy, lười biếng ưa ngủ, thể tánh chậm chạp. Trong
mười năm thứ tám không còn tâm ý mạnh mẽ, cũng không trang
điểm sửa soạn. Trong mười năm thứ chín nhiều
bệnh mệt mỏi, mặt nhăn. Trong mười năm thứ mười, các căn mờ kém, gân cốt
lỏng lẻo, quên nhiều, lẫn lộn.
Tỳ-kheo nên biết! Giả sử người sống đến
trăm tuổi, sẽ trải qua những hoạn nạn như vậy. Giả sử người thọ mạng trăm
năm, sẽ trải qua ba trăm mùa đông, hạ,
thu, so với thọ mạng kia không đủ nói. Nếu người thọ trăm tuổi sẽ ăn ba
vạn sáu ngàn bữa ăn, trong khoảng đó
hoặc có khi không ăn, như giận không ăn, không được cho không ăn, bệnh
không ăn. Tính kể lúc ăn và không ăn và
khi bú sữa mẹ, nói tóm lại thì có ba vạn sáu ngàn lần
ăn. Này Tỳ-kheo! Nếu người sống trăm
tuổi thì trạng thái ăn uống của người
ấy theo giới hạn của số năm là như thế.
Tỳ-kheo nên biết! Nhân dân ở cõi Diêm-phù-đề,
hoặc có khi thọ mạng rất dài, đồng như
thọ mạng vô lượng. Về đời quá khứ lâu xa, không thể tính kể, có nhà
vua tên Liệu Chúng Bệnh, thọ mạng rất dài, dung mạo
đoan chánh, được vui vô lượng. Thời đó không
có những tai họa về bệnh, già, chết. Bấy giờ có hai vợ chồng sanh
một đứa con, đứa bé chết, lúc đó cha mẹ nó
bồng dậy khiến ngồi và đưa thức ăn
cho, nhưng đứa bé không ăn không uống cũng không ngồi lên. Vì sao
thế? Vì nó đã chết. Khi ấy cha mẹ nó
liền nghĩ: 'Hôm nay con ta vì sao giận hờn không chịu
ăn uống, cũng chẳng nói năng?'. Vì
sao? Vì nhân dân lúc ấy không hề nghe đến
tiếng chết nên như vậy.
Bấy giờ, cha mẹ đứa bé bèn nghĩ:
'Con ta đã qua bảy ngày không
ăn uống, cũng không biết lý do gì mà
không nói năng. Nay chúng ta có thể đem việc
này tâu lên nhà vua Liệu Chúng Bệnh mới biết
được'. Họ bèn
đến chỗ nhà vua,
đem hết mọi chuyện tâu cho vua biết. Nhà
vua nghĩ: 'Ngày nay đã nghe
đến tiếng chết'. Vua bảo họ:
- 'Các Người có thể đem đứa bé đến chỗ
ta'.
Bấy giờ, họ bồng đứa bé đến chỗ nhà
vua, vua thấy rồi nói với họ:
- 'Ðứa bé này đã chết'.
Cha mẹ nó tâu nhà vua:
- 'Thế nào gọi là chết?'
Vua bảo:
- 'Ðứa bé này không đi đứng, nói năng, đối
đáp, ăn uống, vui chơi. Thân thể cứng đơ không cử
động, gọi là chết'.
Hai vợ chồng nọ tâu vua:
- 'Tình trạng này trải qua bao lâu?'
Vua bảo:
- 'Không bao lâu, thân thể nó sẽ thối rữa, sình trương, mùi hôi cùng
khắp không chịu nổi'.
Cha mẹ đứa bé không tin lời nhà
vua, lại bồng thây đứa bé về nhà,
không bao lâu thân thể nó thối rữa, rất hôi hám. Lúc
đó, họ mới tin lời nhà vua
đã nói rằng 'Ðứa bé này không lâu,
thân thể sẽ thối rữa, sình trương tan rã hết'. Họ lại ôm thi thể sình
trương của đứa bé đến chỗ nhà vua và
tâu rằng:
- 'Tâu Ðại vương, quả thật như vậy, nay
đem đứa bé này cống hiến cho Ðại vương'.
Họ không khóc than. Vì sao? Vì không nghe tiếng 'chết' bao giờ.
Bấy giờ, nhà vua lột da đứa bé để làm
trống lớn, rồi sai xây lầu bảy tầng, đem
trống ấy đặt trên lầu, và ra lệnh cho một người:
- 'Ngươi nên biết, ta sai ngươi giữ gìn trống này, một trăm
năm đánh một lần, đừng để sai thời.'
Người ấy vâng lời vua dạy, trăm năm đánh
trống một lần. Khi nhân dân trong nước nghe tiếng trống này, lấy
làm lạ chưa từng có, bảo nhau:
- 'Âm thanh gì thế? Ðó là tiếng gì? Phải tìm ra manh mối'.
Nhà vua bảo:
- 'Ðây là tiếng của da người chết'.
Mọi người nghe rồi, đều suy nghĩ: 'Thật lạ
quá, mới nghe âm thanh như thế này'.
Này Tỳ-kheo! Nhà vua thuở ấy đâu phải
người nào lạ. Chớ nghĩ thế ấy. Vì sao? Nhà vua thuở
đó chính là thân Ta vậy. Do
đây mà biết, ngày xưa thọ mạng của cõi
Diêm-phù-đề rất dài, còn ngày nay thọ
mạng của người Diêm-phù-đề rất ngắn. Sự giảm
sút khó giới hạn. Vì sao? Vì họ sát hại quá nhiều, cho
đến mạng sống ngắn ngủi tợ hoa rụng. Do nhân
duyên này nên xảy ra các sự biến đổi
quái lạ.
Tỳ-kheo nên biết! Năm mươi năm ở cõi
Diêm-phù-đề bằng một ngày một
đêm ở cõi trời Tứ thiên vương. Tính số
ngày đêm ấy, ba mươi ngày là một
tháng, mười hai tháng là một năm. Thọ mạng
của cõi trời Tứ thiên vương là năm
trăm năm, hoặc có khi chết nửa chừng, tính theo tuổi thọ của loài
Người là mười tám ức năm.
Ở địa ngục Hoàn Hoạt một ngày một
đêm, tính theo số ngày
đêm ấy, ba mươi ngày là một tháng,
mười hai tháng là một năm. Tuổi thọ cao nhất
của địa ngục Hoàn Hoạt là một ngàn năm,
cũng có khi chết nửa chừng, tính theo tuổi thọ loài Người là ba
mươi sáu ức năm.
Một trăm năm ở cõi Người bằng một
ngày một đêm ở cõi trời Ba mươi ba.
Tính theo số ngày, tháng, năm của cõi
ấy, Trời Ba mươi ba thọ một ngàn tuổi, trong khoảng
đó có khi chết nửa chừng, tính theo cõi
Người là thọ ba mươi sáu ức năm.
Một ngày một đêm ở
địa ngục A-tỳ tính theo số ngày tháng
cõi ấy, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm,
tính theo số ngày đêm ấy, tuổi
thọ nơi đó là hai mươi vạn năm,
còn tính theo tuổi thọ nhân gian là một trăm
vạn năm.
Như thế, Tỳ-kheo! Tính tuổi thọ như thế chuyển tăng
gấp bội, trừ cõi trời Vô tưởng, cõi trời Vô tưởng thọ tám vạn bốn
ngàn kiếp, trừ cõi trời Tịnh Cư không trở lại cõi
đời này. Cho nên, này các Tỳ-kheo, chớ
buông lung, ngay đời này
được dứt sạch hữu lậu. Như thế, này
các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
XXXXVIII.1 Phẩm Thập Bất Thiện (1)
1. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu có chúng sanh làm việc sát sanh, sát sanh cùng khắp, gieo trồng
tội báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì
nếu sanh trong loài Người chúng sanh ấy thọ mạng sẽ rất ngắn. Vì sao? Vì
đã hại mạng người khác.
Nếu có chúng sanh trộm cắp tài vật của người khác, gieo trồng tội báo
trong ba đường ác thì nếu chúng sanh
ấy sanh trong loài Người thường, sẽ bị nghèo khổ, thiếu thốn,
ăn không no, áo không kín thân, đều do tội
trộm cắp. Cưỡng đoạt tài vật tức là làm
đoạn dứt mạng sống người khác.
Nếu có chúng sanh thích dâm dục, gieo trồng tội báo trong ba
đường ác, thì nếu chúng sanh ấy sanh
trong loài Người, sẽ gặp gia đình
không trinh lương, lén lút làm việc dâm dục.
Nếu có chúng sanh nói dối, gieo trồng tội báo
địa ngục, thì nếu chúng sanh ấy sanh
trong loài Người, sẽ bị người khinh chê, nói ra không ai tin, bị người coi
rẻ. Vì sao? Ðều do đời trước nói dối mà
ra.
Nếu có chúng sanh nói hai lưỡi, gieo trồng tội báo trong ba
đường ác thì nếu chúng sanh ấy sanh
trong loài Người, tâm thường không định,
thường lo buồn. Vì sao? Vì người ấy đã
tung ra lời hư dối với đôi bên.
Nếu có chúng sanh nói lời thô ác, gieo trồng tội báo trong ba
đường ác thì nếu chúng sanh ấy sanh
trong loài Người, sẽ có dáng vẻ xấu xí, thường ưa chửi mắng. Vì sao? Vì
người ấy nói lời không chuyên chánh nên bị như thế.
Nếu có chúng sanh gây đấu loạn đôi bên,
gieo trồng tội báo trong ba đường ác thì
nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, sẽ có nhiều oán thù, người thân
bị ly tán. Vì sao? Ðều do đời trước gây đấu
loạn mà ra.
Nếu có chúng sanh tật đố, gieo trồng tội
báo trong ba đường ác thì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người,
sẽ bị thiếu y phục. Vì sao? Vì người ấy ưa tật
đố.
Nếu có chúng sanh khởi lòng hại người, gieo trồng tội báo trong ba
đường ác thì nếu chúng sanh ấy sanh
trong loài Người, thường sẽ gặp nhiều hư vọng, không hiểu lý chơn thật,
tâm rối loạn không định. Vì sao? Ðều
do đời trước sân giận, không có lòng
nhân.
Nếu có chúng sanh hành tà kiến, gieo trồng tội báo trong ba
đường ác thì nếu chúng sanh ấy sanh
trong loài Người sẽ phải ở chỗ man rợ, không sanh chốn thủ
đô, không gặp được Tam bảo, không nghe nghĩa
lý đạo pháp; hoặc là bị câm, điếc, mù,
ngọng, thân hình không đoan chánh, không biết
rõ nẻo thú hướng của pháp lành, pháp dữ. Vì sao? Do
đời trước không có lòng tin, cũng
không tin Sa-môn, Bà-la-môn, cha mẹ, anh em.
Các Tỳ-kheo nên biết! Do quả báo của mười
điều ác này, nên gặp những điều ương
lụy như thế. Cho nên, này các Tỳ-kheo, nên lìa mười
điều ác, tu hành chánh kiến. Như thế,
này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
2. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn vào ngày rằm thuyết giới, cùng các Tỳ-kheo vây quanh
trước sau, đến giảng đường Phổ Hội. Bấy giờ,
Thế Tôn lặng yên quan sát trong thánh chúng, rồi im lặng không nói.
Khi ấy A-nan bạch Phật:
- Hôm nay, đại chúng thảy đều vân tập tại
giảng đường, cúi xin Thế Tôn nên thuyết giới cấm cho chúng Tỳ-kheo.
Thế Tôn lại im lặng không nói. Khi ấy, A-nan phút chốc lại bạch Phật:
- Nay chính đúng thời, nên thuyết
giới cấm, đầu đêm gần hết.
Thế Tôn cũng im lặng không nói. Giây lát sau, A-nan lại bạch Phật:
- Giữa đêm gần hết, chúng Tăng
mệt mỏi. Cúi xin Thế Tôn đúng thời thuyết giới.
Thế Tôn cũng im lặng không nói. Giây lát sau, A-nan, lại bạch Phật:
- Cuối đêm gần hết, cúi xin Thế Tôn
đúng thời thuyết giới.
Phật bảo A-nan:
- Trong chúng có người không thanh tịnh, nên Ta không thuyết giới. Nay
cho phép Thượng tọa thuyết giới cấm, nếu Thượng tọa không kham thuyết
giới, cho phép người trì luật thuyết giới cấm, nếu không có người trì
luật, thì ai có thể tụng giới thông suốt, gọi
đến khiến thuyết giới. Từ nay về sau, Như Lai không thuyết giới, vì
trong chúng có người không thanh tịnh, nếu Như Lai thuyết giới trong
đây, đầu người ấy bị vỡ làm bảy phần,
như trái thù la không khác.
Khi ấy, A-nan buồn khóc, nói lên rằng:
- Hôm nay Thánh chúng côi cút. Chánh pháp Như Lai xa lìa mau chóng thế
sao! Người không thanh tịnh mau ra khỏi nơi
đây!
Khi ấy, Ðại Mục-kiền-liên bèn khởi nghĩ: 'Trong chúng này, có những
người nào hủy pháp khiến Như Lai không thuyết giới cho trong chúng?'. Khi
ấy, Tôn giả Mục-kiền-liên nhập định, quán
khắp lỗi lầm trong tâm chúng. Tôn giả thấy hai Tỳ-kheo Mã Sư và Mãn
Túc ở trong chúng, Tôn giả bèn rời chỗ ngồi
đến chỗ hai Tỳ-kheo ấy, rồi nói:
- Các Thầy mau rời khỏi chỗ này. Ðức Như Lai cơ hiềm các Thầy nên không
thuyết giới cấm.
Bấy giờ, hai Tỳ-kheo im lặng không trả lời. Tôn giả Mục-kiền-liên nói
ba lần:
- Các Thầy mau rời khỏi, không nên ở tại
đây.
Hai Tỳ-kheo ấy im lặng không đáp. Lúc đó
Mục-kiền-liên bèn nắm tay hai Thầy ấy lôi ra khỏi cửa,
đóng cửa lại rồi mới đến bạch Phật:
- Tỳ-kheo không thanh tịnh đã
đưa ra ngoài, cúi xin Thế Tôn
đúng thời thuyết giới.
Phật bảo Mục-kiền-liên:
- Thôi, thôi! Này Mục-kiền-liên! Như Lai không nói giới cho các Tỳ-kheo
nữa. Như Lai không nói hai lời. Tôn giả nên trở về chỗ ngồi.
Tôn giả Mục-kiền-liên lại bạch Phật:
- Nay trong chúng này đã sanh lỗi
lầm, con không kham làm phép Duy-na, cúi xin Thế Tôn sai người khác.
Bấy giờ, Thế Tôn im lặng chấp nhận. Tôn giả Mục-kiền-liên cúi
đầu lễ chân Phật, trở về chỗ ngồi của mình.
Lúc ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:
- Khi đức Phật Tỳ-bà-thi xuất hiện
ở đời, Thánh chúng nhiều ít? Trải qua bao lâu
mới sanh lỗi lầm? Cho đến thời Phật Ca-diếp, đệ tử nhiều ít? Vì sao
thuyết giới.
Phật dạy A-nan:
- Chín mươi mốt kiếp đã qua, có
đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ-bà-thi Như
Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở thế gian. Bấy giờ Thánh chúng có
ba hội. Hội thứ nhất có một trăm mười sáu vạn
tám ngàn Thánh chúng, hội thứ hai có mười sáu vạn Thánh chúng, hội
thứ ba có mười vạn Thánh chúng, đều là
bậc A-la-hán. Ðức Phật Ty-bà-thi thọ tám vạn bốn ngàn tuổi. Trong một trăm
năm đầu Thánh chúng thanh tịnh, đức Phật Ty-bà-thi thường dùng một
bài kệ làm giới cấm:
Nhẫn nhục là bậc nhất,
Phật nói vô vi hơn,
Không do cạo râu tóc,
Làm Sa-môn, hại người.
Bấy giờ, đức Phật Tỳ-bà-thi dùng
một bài kệ này, trong một trăm năm làm
cấm giới. Về sau, trong chúng sanh lỗi lầm,
đức Phật bèn lập ra giới cấm.
Lại, trong ba mươi mốt kiếp qua, có đức
Phật hiệu là Thi-khí Như Lai Chí Nhơn Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở
đời. Thời bấy giờ, có ba hội Thánh chúng. Hội
thứ nhất có mười sáu vạn chúng, hội thứ hai có mười bốn vạn Thánh chúng,
hội thứ ba có mười vạn Thánh chúng. Thời đức Phật Thi-khí, trong tám mươi
năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, đức Phật cũng nói một bài kệ:
Nếu mắt thấy tà vạy,
Người trí giữ không đắm,
Xả bỏ các điều ác,
Là trí tuệ ở đời.
Bấy giờ, đức Phật Thi-khí trong tám mươi
năm chỉ có một bài kệ này. Về sau, trong chúng có lỗi lầm, Phật bèn
lập cấm giới. Ðức Phật Thi-khí thọ bảy vạn tuổi.
Trong kiếp ấy cũng có Phật xuất hiện ở thế gian, hiệu là Tỳ-xá-la-bà,
cũng có ba hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có mười vạn chúng,
đều là bậc A-la-hán, hội thứ hai có
tám vạn A-la-hán, hội thứ ba có bảy vạn A-la-hán, các lậu
đã hết. Thời Phật Tỳ-xá-la-bà, trong
bảy mươi năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, đức
Phật dùng một bài kệ rưỡi làm giới cấm:
Không hại cũng không quấy,
Vâng giữ theo đại giới,
Ăn uống biết vừa đủ,
Giường, tòa cũng như vậy.
Chuyên tâm và chí thành,
Là lời chư Phật dạy.
Trong bảy mươi năm, đức Phật ấy dùng
kệ này làm giới cấm; về sau trong chúng có lỗi, mới lập giới cấm. Ðức Phật
Tỳ-xá-la-bà thọ bảy vạn tuổi.
Trong Hiền kiếp ấy, có Phật xuất hiện hiệu là Câu-lưu-tôn xuất hiện ở
thế gian. Thời ấy có hai hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có bảy vạn Thánh
chúng đều là A-la-hán, hội thứ hai có
sáu vạn A-la-hán. Thời đức Phật Câu-lưu-tôn,
sáu mươi năm đầu, trong chúng thanh tịnh không có lỗi. Bấy giờ, đức Phật
kia dùng hai bài kệ làm giới cấm:
Ví như ong hút hoa,
Sắc hoa rất sạch, thơm,
Lấy vị ngọt cho người,
Ðạo sĩ vào làng xóm.
Không chê bai việc người,
Cũng không nhìn, phải quấy,
Chỉ tự quán thân, hạnh,
Xem kỹ chánh, không chánh.
Ðức Phật Câu-lưu-tôn trong sáu mươi năm
đầu nói hai bài kệ này để làm
giới cấm. Từ đây về sau có người phạm giới,
mới lập giới cấm. Ðức Phật Câu-lưu-tôn thọ sáu vạn tuổi.
Trong Hiền kiếp ấy, có đức Phật xuất hiện,
hiệu là Câu-na-hàm-mâu-ni Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác. Thời ấy
có hai hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có mười sáu vạn Thánh chúng,
đều là bậc A-la-hán, hội thứ hai có
bốn mươi vạn Thánh chúng, đều là
A-la-hán. Thời đức Phật Câu-na-hàm-mâu-ni,
trong bốn mươi năm đầu trong chúng không tỳ
vết, đức Phật chỉ dùng một bài kệ làm giới cấm:
Giữ chí chớ khinh lờn,
Nên học đạo vắng lặng,
Bậc Hiền không lo buồn,
Nên giữ tâm tịch diệt.
Trong bốn mươi năm đầu, đức Phật ấy nói
một bài kệ này làm cấm giới, về sau trong chúng có người tỳ vết,
mới lập giới cấm. Ðức Phật Câu-na-hàm-mâu-ni thọ bốn vạn tuổi.
Trong Hiền kiếp ấy, có Phật hiệu Ca-diếp xuất hiện. Ðức Phật cũng có
hai hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có bốn mươi vạn chúng, hội thứ hai có ba
mươi vạn chúng, đều là A-la-hán. Trong
hai mươi năm đầu, trong chúng không có người
phạm giới, đức Phật thường dùng một bài kệ làm giới cấm:
Chớ làm tất cả ác,
Nên vâng làm điều lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Là lời chư Phật dạy.
Trong hai mươi năm đầu, đức Phật ấy nói
một bài kệ này làm cấm giới, về sau có người phạm giới mới lập giới
cấm. Phật Ca-diếp thọ hai vạn tuổi.
Nay Ta, Như Lai xuất hiện ở đời, có một
hội Thánh chúng là một ngàn hai trăm
năm mươi người. Trong mười hai năm đầu không có người phạm giới, Ta dùng
một bài kệ làm giới cấm:
Giữ miệng, ý thanh tịnh,
Thân hành cũng thanh tịnh,
Thanh tịnh ba hạnh này,
Tu hành đạo tiên nhơn.
Trong mười hai năm đầu, Ta nói một bài
kệ này làm giới cấm, sau có người phạm luật, dần dần có hai trăm
năm mươi giới. Từ nay về sau chúng Tăng nhóm họp, nên phải bạch
đúng theo luật: 'Chư Hiền cùng nghe,
nay là ngày mười lăm thuyết giới, nay tăng
bằng lòng cho chúng Tăng hòa
hợp thuyết giới'.
Thưa như thế xong, nếu có Tỳ-kheo nói gì thì không nên thuyết giới; nếu
tất cả cùng im lặng, không ai nói gì thì mới thuyết giới. Cho
đến sau khi nói bài tựa giới kinh rồi,
nên hỏi rằng: 'Thưa chưa Hiền, ai không thanh tịnh?'
Hỏi như thế ba lần: 'Ai không thanh tịnh'. Người thanh tịnh thì im lặng
giữ gìn.
Bởi vì tuổi thọ của người ngày nay rất ngắn, tuổi thọ cao nhất không
quá trăm năm. Thế nên, A-nan! Nên khéo
thọ trì điều Ta dạy.
Bấy giờ, A-nan bạch Phật:
- Các đức Phật ở thời quá khứ lâu xa, tuổi
thọ dài lâu, ít người phạm giới, không có tỳ vết. Còn ngày nay,
người thọ mạng đã ngắn ít, không quá
trăm năm. Sau khi các Phật đời quá khứ diệt
độ, pháp tồn tại ở đời bao lâu?
Phật bảo A-nan:
- Sau khi các đức Phật quá khứ diệt độ,
pháp không trụ lâu ở đời.
A-nan bạch Phật:
- Nếu như sau khi Như Lai diệt độ, Chánh
pháp trụ đời bao lâu?
Phật bảo A-nan:
- Sau khi Ta diệt độ, Chánh pháp sẽ trụ
đời lâu dài. Sau khi Phật Ca-diếp diệt
độ, Chánh pháp để lại trụ bảy ngày. Này A-nan! Nay Thầy nghĩ rằng
đệ tử của Như Lai ít, chớ nghĩ như thế. Hàng
đệ tử của Ta ở phương Ðông nhiều vô số
ức ngàn, đệ tử ở phương Nam vô số ức ngàn.
Cho nên, A-nan, hãy nghĩ như vầy: 'Phật Thích-ca của ta thọ mạng rất dài
lâu'. Vì sao? Nhục thân tụy diệt độ nhưng
pháp thân tồn tại. Ðây là nghĩa ấy, nên ghi nhớ
điều này.
Bấy giờ, A-nan và các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
3. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc cùng với chúng đại Tỳ-kheo
năm trăm người.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan trịch áo bày vai phải, quỳ gối phải chấm
đất, bạch Phật:
- Trí nhiệm mầu của đức Như Lai, không
việc gì không biết. Trong ba đời quá
khứ, hiện tại, vị lai Ngài thảy đều
biết rõ; chư Phật đời quá khứ tên
họ, danh hiệu, đệ tử Bồ-tát theo tùy
tùng bao nhiêu, thảy đều biết hết, trong một
kiếp, trăm kiếp hay vô số kiếp thảy
đều quán sát biết hết, Ngài cũng biết tên họ của vua chúa,
đại thần, nhân dân, thảy đều có thể phân
biệt; như hiện tại nay có bao nhiêu cõi nước cũng biết rõ ràng. Về
đời tương lai xa, khi Phật Di-lặc Chí Chơn
Ðẳng Chánh Giác xuất hiện, con muốn nghe sự biến hóa của
đức Phật ấy, số đệ tử tùy tùng, cảnh
giới Phật phồn thịnh, trải qua bao nhiêu năm?
Phật bảo A-nan:
- Thầy hãy về chỗ ngồi, lắng nghe Ta nói. Khi Phật Di-lặc ra
đời, cõi nước giàu có, bao nhiêu
đệ tử. Thầy hãy khéo suy nghĩ, ghi nhớ
trong tâm.
Khi ấy, A-nan vâng lời Phật dạy, liền trở về chỗ ngồi.
Bấy giờ, Phật bảo A-nan:
- Về đời tương lai rất xa, ở cõi
này sẽ có một đô thị tên Kê Ðầu, chiều
Ðông Tây rộng mười hai do-tuần, chiều Nam Bắc rộng bảy do-tuần,
đất đai phong phú, nhân dân đông đúc đầy
đường. Bấy giờ, trong thành ấy có một Long vương tên Thủy Quang,
đêm rưới mưa thơm, ngày thì quang
đãng. Khi ấy, trong thành Kê Ðầu cũng
có một La-sát tên Diệp Hoa, hành động đúng
pháp, không trái chánh giáo, chờ mọi người ngủ xong, mới dọn dẹp các vật
nhơ cấu, lại dùng nước thơm rưới trên
đất, rất là thơm sạch.
A-nan nên biết! Bấy giờ cõi Diêm-phù-đề
trong khoảng Ðông Tây Nam Bắc mười vạn do tuần, các thứ núi sông,
vách đá đều tự tiêu diệt, nước bốn
biển lớn đều đổ về một phía. Ðất
đai cõi Diêm-phù-đề
rất bằng phẳng ngay ngắn như gương sáng. Các thứ ngũ cốc trong cõi
nhiều và rẻ, nhân dân đông đúc, nhiều trân
bảo, làng xóm kề cận nhau, tiếng gà gáy nối tiếp. Thời ấy, những
loại cây trái dở đều khô chất, loại dơ xấu
cũng tự tiêu diệt, chỉ còn những cây trái ngon ngọt
đẹp đẽ, mùi hương
đặc biệt đều nảy sanh ở đất ấy. Thời tiết khí
hậu điều hòa, bốn mùa thuận tiết, thân người không có trăm
lẻ tám tai họa như tham dục, sân nhuế, ngu si, lười biếng... Lòng
người giống nhau, đều đồng một ý, gặp nhau
vui vẻ nói lời lành, ngôn ngữ một thứ không sai biệt, như người ở
cõi Uất-đơn-việt. Người cõi Diêm-phù-đề
bấy giờ lớn nhỏ đều đồng một âm thanh, không có nhiều sai biệt.
Thời ấy, người nam nữ, vừa muốn đại tiểu
tiện, đất liền tự nhiên nứt ra, xong rồi
đất lại khép vào. Bấy giờ, cõi
Diêm-phù-đề tự nhiên sanh ra lúa,
không vỏ trấu, rất thơm ngon, ăn vào
không bệnh khổ. Còn những thứ vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu,
hổ phách rải rắc trên mặt đất, không ai bảo
nhau rằng: 'Người thuở trước vì những của báu này mà giết hại nhau,
bị giam cầm lao ngục, khổ sở nhiều thứ. Bây giờ nó chỉ như ngói gạch,
không ai lấy'.
Bấy giờ, pháp vương xuất hiện tên Nhượng-khư, dùng Chánh pháp trị dân,
có đủ bảy báu. Bảy báu là: xa báu, voi
báu, ngựa báu, ngọc báu, ngọc nữ báu, điển
binh báu, đại thần thủ tạng báu. Ðó là bảy báu. Nhà vua thống lãnh
Diêm-phù-đề, không dùng dao gậy mà
người tự nhiên hàng phục. A-nan! Lúc ấy có bốn kho châu báu lớn, kho báu
thứ nhất tên Càn-đà-việt-quốc-thi-la-sát,
có nhiều vật châu báu lạ thường không thể tính kể. Kho lớn thứ hai tên
Di-thê-la-quốc-ban-trừu cũng có nhiều trân bảo. Kho thứ ba tên
Tu-lại-thác-đại-quốc, cũng nhiều trân bảo.
Kho báu thứ tư tên Ba-la-nại-nhượng-khư có nhiều trân bảo không thể
tính kể. Bốn kho báu lớn này tự nhiên xuất hiện, khi ấy các người giữ kho
đều đến tâu vua:
- Cúi xin Ðại vương đem các vật trong kho
báu bố thí cho người nghèo cùng.
Khi ấy, vua Nhượng-khư được các kho báu này,
cũng không quan tâm đến, ý không tưởng tài
vật. Bấy giờ, cõi Diêm-phù-đề trên cây
tự nhiên sanh y phục, mềm mại nhu nhuyễn, người
đến lấy mặc, như người cõi Uất-đơn-việt
hiện nay, trên cây tự nhiên có y phục.
Nhà vua có một đại thần tên
Tu-phạm-ma, là bạn từ thuở bé của nhà vua, nhà vua rất thương kính. Dung
mạo của đại thần đoan chánh, không cao không
thấp, không mập không ốm, không trắng không đen, không già không
trẻ. Ðại thần Tu-phạm-na có phu nhân tên Phạm-ma-việt,
đặc biệt hơn hẳn các ngọc nữ, như cung phi
trời Ðế Thích, miệng phát ra mùi thơm hoa ưu-bát, thân có mùi thơm
chiên-đàn, hoàn toàn không có tám mươi
bốn trạng thái của người nữ, cũng không bệnh, ý không tán loạn. Bấy giờ,
Bồ-tát Di-lặc ở cung trời Ðâu-suất quan sát cha mẹ không trẻ không già,
liền giáng thần hạ sanh từ hông bên phải, như Ta hiện nay sanh từ hông bên
phải, Bồ-tát Di-lặc cũng thế. Chư thiên cõi trời Ðâu-suất
đều xướng rằng: 'Bồ-tát Di-lặc đã hạ
sanh'. Khi đó, đại thần Tu-phạm-ma bèn
đặt tên con là Di-lặc. Công tử có ba
mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang
nghiêm thân hình, thân màu hoàng kim.
Thời bấy giờ nhân dân thọ mạng dài lâu, không bệnh,
đều thọ tám vạn bốn ngàn tuổi. Con gái
đến năm trăm tuổi mới lấy chồng. bồ-tát
Di-lặc ở nhà không bao lâu, bèn xuất gia học
đạo, lúc đó cách thành Kê Ðầu không
xa, có một cội đạo thọ tên Long Hoa,
cao một do-tuần, rộng năm trăm bộ. Bồ-tát
Di-lặc ngồi dưới cội cây ấy thành đạo
quả Vô thượng. Vào nửa đêm ấy,
Di-lặc xuất gia, ngay đêm
đó thành
đạo Vô thượng. Khi ấy, ba ngàn đại thiên
cõi nước rung động sáu cách, Ðịa thần
mỗi bảo nhau rằng: 'Nay Bồ-tát Di-lặc đã
thành Phật', truyền đến cung trời Tứ thiên
vương nghe: 'Di-lặc đã thành Phật
đạo', truyền dần đến trời Ba mươi ba, trời Diêm-ma,
trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại, tiếng vang lần lượt
đến Phạm thiên: 'Di lặc
đã thành Phật'.
Bấy giờ, Ma vương tên Ðại Tướng dùng pháp trị hóa nghe danh Như Lai, âm
thanh giáo hóa, vui mừng phấn khởi không thể tự dừng, bảy ngày bảy
đêm không ngủ nghỉ. Khi ấy, Ma vương
đem vô số chư thiên cõi dục,
đến chỗ Phật Di-lặc cung kính lễ bái.
Ðức Phật Di-lặc vì chư Thiên dần dần nói pháp vi diệu, những luận như luận
bố thí, luận trì giới, luận sanh Thiên, dục tưởng bất tịnh, xuất yếu là
nhiệm mầu.
Phật Di-lặc thấy mọi người đã phát
tâm hoan hỷ, Ngài liền đem những pháp mà
chư Phật thường nói như: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo vì hàng Trời, Người rộng phân
biệt nghĩa ấy. Bấy giờ có tám vạn bốn ngàn Thiên tử, ngay chỗ ngồi dứt
sạch trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Ma
Vương Ðại Tướng bảo mọi người trong cõi nước ấy rằng:
- Các Người mau xuất gia. Vì sao? Nay đức
Phật Di-lặc đã qua bờ kia, cũng sẽ đưa
các Người sang bờ kia.
Bấy giờ trong thành Kê Ðầu có trưởng giả tên Thiện Tài, nghe giáo lệnh
của Ma vương, và nghe âm thanh Phật, bèn đem
tám vạn bốn ngàn người đến chỗ Phật
Di-lặc, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên. Phật Di-lặc dần dần
vì nói pháp vi diệu. Ðó là luận về bố thí, luận trì giới, luận sanh thiên,
dụng tưởng bất tịnh, xuất yếu là nhiệm mầu. Bấy giờ, Phật Di-lặc thấy mọi
người đã khai mở tâm ý, bèn
đem các pháp chư Phật thường nói như: Khổ,
Tập, Diệt, Ðạo vì mọi người giảng rộng nghĩa ấy. Tám vạn bốn ngàn
người đến chỗ ngồi sạch hết trần cấu được
pháp nhãn tịnh. Khi ấy, Thiện Tài cùng tám vạn bốn ngàn người liền
đến trước bạch Phật, cầu xin xuất gia, khéo
tu Phạm hạnh, đều thành A-la-hán. Bấy giờ, hội thứ nhất của Phật
Di-lặc có tám vạn bốn ngàn A-la-hán.
Khi ấy, vua Nhượng-khư nghe Bồ-tát Di-lặc
đã thành Phật, bèn đến chỗ Phật muốn
được nghe pháp. Thời Phật Di-lặc vì vua nói pháp, phần
đầu lành, phần giữa lành, phần sau
đều lành, nghĩa lý sâu xa. Lại thời
khác, vua lập thái tử, tặng châu báu cho người thợ cạo, lại
đem tạp bảo cho các Phạm chí, dẫn tám vạn bốn
nghìn người đến chỗ Phật, xin làm
Sa-môn, đều thành
đạo quả, chứng A-la-hán.
Khi ấy, trưởng giả Tu-phạm-ma nghe Di-lặc
đã thành Phật, đem tám vạn bốn nghìn
chúng Phạm chí, đến chỗ Phật xin làm
Sa-môn, đều đắc quả A-la-hán, chỉ trừ một mình
Tu-phạm-ma, đoạn ba kết sử, chấm dứt mé khổ.
Khi ấy, Phật mẫu Phạm-ma-việt, lại đem tám vạn bốn ngàn thể nữ
đến chỗ Phật, xin làm Sa-môn. Khi ấy,
các người nữ đều đắc quả A-la-hán, chỉ một mình
Phạm-ma-việt, đoạn ba kiết sử thành
Tu-đà-hoàn. Bấy giờ, các phu nhân dòng
Sát-lợi, nghe Phật Di-lặc xuất hiện thế gian, thành Ðẳng Chánh Giác, vài
ngàn vạn chúng đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân
Phật, lui ngồi một bên, mỗi mỗi phát tâm cầu làm Sa-môn, xuất gia
học đạo, hoặc có người vượt thứ lớp mà
chứng đạo, hoặc có người không chứng. A-nan!
Bấy giờ những người không vượt thứ lớp chứng đạo đều là người vâng
theo pháp, chán ghét tất cả tưởng không vui ở thế gian, khi ấy Phật Di-lặc
sẽ nói giáo lý Tam thừa. Như nay, trong hàng
đệ tử Ta, Ðại Ca-diếp thực hành mười hai hạnh
đầu đà, ở nơi chư Phật quá khứ khéo tu
Phạm hạnh, và sẽ thường phụ tá Phật Di-lặc giáo hóa nhân dân.
Bấy giờ, Tôn giả Ca-diếp cách chỗ Phật không xa, ngồi kiết-già chánh
thân, chánh ý buộc niệm ở trước. Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:
- Nay Ta tuổi đã già suy, hơn tám
mươi. Song Như Lai có bốn đệ tử Thanh văn lớn
có khả năng du hóa, trí tuệ vô tận, đầy đủ các đức. Những ai là
bốn? Ðó là Tỳ-kheo Ðại Ca-diếp, Tỳ-kheo Quân-đồ-bát-hán,
Tỳ-kheo Tân đầu-lư, Tỳ-kheo La-vân. Bốn Thanh
văn lớn các Thầy! Không nên nhập Niết-bàn,
đợi pháp Ta mất hẳn, sau mới vào
Niết-bàn. Ðại Ca-diếp cũng không nên vào Niết-bàn, nên
đợi đến Di-lặc ra đời. Vì sao? Ðệ tử
do Phật Di-lặc hóa độ đều là
đệ tử của Phật Thích-ca Văn, do Ta hóa độ để
lại, được sạch hữu lậu. Tại nước Ma-kiệt, thôn Tỳ-đề, Ðại Ca-diếp
sẽ trụ trong núi xứ ấy đến lúc Phật Di-lặc
đem vô số ngàn chúng vây quanh trước sau
đến trong núi này. Nương ân
đức Phật, các Quỷ thần vì Phật mở cửa,
khiến thấy được Ca-diếp tọa Thiền trong động.
Khi ấy, Phật Di-lặc đưa tay mặt chỉ vào
Ca-diếp, bảo với mọi người:
- 'Ðây là đệ tử của Phật Thích-ca từ quá
khứ lâu xa, tên là Ca-diếp. Hiện tại, tu hạnh
đầu đà đệ
nhất'.
Mọi người thấy rồi khen 'chưa từng có', vô số trăm
ngàn chúng sanh chấm dứt các trần cấu,
được pháp nhãn tịnh. Hoặc lại có chúng sanh
đã thấy thân Ca-diếp rồi. Ðây gọi là
hội ban đầu, chín mươi sáu ức người đều đắc
quả A-la-hán, những người ấy đều là đệ
tử của Ta. Vì sao? Vì thảy đều do nhận
lãnh sự giáo hóa của Ta mà nên. Cũng do nhân duyên bốn món cúng
dường, bố thí, nhân ái, lợi người, lợi đồng
nhau.
A-nan! Bấy giờ Phật Di-lặc sẽ đắp y
Tăng-già-lê của Ca-diếp, khi đó thân
thể của Ca-diếp nghiễm nhiên tan rã, Di-lặc lại
đem các thứ hương hoa cúng dường Ca-diếp. Vì
sao? Vì chư Phật Thế Tôn đều có tâm cung kính
đối với Chánh Pháp, Di-lặc cũng do Chánh pháp hóa mà Ta nhận
được, được thành
đạo Vô Thượng Chánh Chơn.
A-nan nên biết! Hội thứ hai của Phật Di-lặc có chín mươi bốn ức người,
đều là bậc A-la-hán, cũng là
đệ tử của Ta để lại, cúng dường bốn thứ cần dùng
mà được như thế.
Hội thứ ba của Di-lặc có chín mươi hai ức người, là bậc A-la-hán, cũng
là đệ tử thọ pháp Ta
để lại. Bấy giờ danh xưng của Tỳ-kheo đều gọi
là đệ tử Từ Thị, như Ta ngày
nay, hàng Thanh văn đều xưng là
đệ tử Thích-ca.
Bấy giờ, Phật Di-lặc vì các đệ tử thuyết
pháp: 'Tỳ-kheo các Thầy nên suy nghĩ về tưởng vô thường, tưởng vui
có khổ, tưởng chấp có ngã và vô ngã, tưởng thật có, rổng không, tưởng sắc
biến đổi, tưởng bầm xanh, tưởng sình
trương, tưởng ăn không tiêu, tưởng ứ
máu, tưởng tất cả đều không vui của thế gian.
Vì sao? Tỳ-kheo nên biết, mười tưởng nầy
đều là do Phật Thích-ca Văn
từ quá khứ đã nói cho các Thầy, khiến dứt sạch hữu lậu tâm
được giải thoát. Hoặc trong chúng này
có đệ tử của Phật Thích-ca thời quá khứ từng
tu Phạm hạnh, mà đến chỗ Ta; hoặc ở
nơi Phật Thích-ca vâng giữ pháp ấy, mà
đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca cúng dường Tam Bảo mà
đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca tu căn lành
trong khoảng khảy móng tay mà đến chỗ Ta;
hoặc ở nơi Phật Thích-ca tu Tứ vô lượng tâm, mà
đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca thọ giữ
năm giới, tam tự quy y mà đến chỗ Ta;
hoặc ở nơi Phật Thích-ca tạo dựng tháp miếu, chùa viện mà
đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca sửa sang
chùa cũ mà đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật
Thích-ca thọ giới bát quan trai mà đến
chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca dùng hương hoa cúng
đường mà
đến đây; hoặc ở nơi Phật kia, nghe Phật pháp buồn khóc rơi lệ mà
đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca một lòng
nghe pháp mà đến chỗ Ta; hoặc suốt đời khéo
tu Phạm hạnh mà đến chỗ Ta; hoặc đã
viết kinh, đọc tụng mà
đến chỗ Ta. Hoặc đã thừa sự cúng dường
mà đến chỗ Ta'.
Khi ấy, Phật Di-lặc bèn nói kệ này:
Tăng trưởng giới, văn, đức.
Thiền và nghiệp tư duy,
Khéo tu về Phạm hạnh,
Mà đến chỗ của Ta.
Siêng, thí tâm hoan hỷ,
Tu hành, cội nguồn tâm,
Ý không tưởng nhiều việc,
Ðều đến chỗ của Ta.
Hoặc đến chỗ của Ta.
Hoặc phát tâm bình đẳng,
Thừa sự nơi chư Phật,
Cúng thức ăn Thánh chúng,
Ðều đến chỗ của Ta.
Hoặc tụng giới, khế kinh,
Khéo tập, nói cho người,
Mạnh mẽ nơi gốc pháp,
Nay đến chỗ của Ta.
Dòng Thích khéo giáo hóa,
Cúng dường các Xá-lợi,
Thừa sự pháp cúng dường,
Nay đến chỗ của Ta.
Nếu có biên chép kinh,
Tuyên đọc trên án thư,
Có người cúng dường kinh,
Ðều đến chỗ của Ta.
Lụa, vải và các thứ,
Cúng dường nơi chùa tháp,
Tự xưng: Nam-mô Phật,
Ðều đến chỗ của Ta.
Cúng dường Phật hiện tại,
Và chư Phật quá khứ,
Thiền định rất chơn chánh,
Cũng không có tăng giảm.
Cho nên nơi Phật pháp,
Thừa sự nơi Thánh chúng,
Một lòng thờ Tam Bảo,
Ðều đến chỗ vô vi.
A-nan, nên biết! Di-lặc Như Lai nói kệ này trong chúng kia. Bấy giờ
trong chúng, hàng Trời, Người suy nghĩ mười tưởng này, mười một vạn vạn
người sạch hết các trần cấu, được pháp nhãn
tịnh. Thời đức Phật Di-lặc, trong một ngàn
năm, chúng Tăng không có lỗi. Bấy giờ Phật ấy
thường dùng một bài kệ làm giới cấm:
Miệng, ý không làm ác,
Thân cũng chẳng phạm ác,
Nên trừ ba hạnh này,
Chóng thoát vực sanh tử.
Sau một ngàn năm, có người phạm giới Phật
ấy bèn lập giới cấm. Phật Di-lặc sẽ thọ tám vạn bốn ngàn tuổi, sau
khi Phật nhập Niết-bàn, Pháp để lại tồn tại
tám vạn bốn nghìn năm. Vì sao?
Vì chúng sanh thời bấy giờ đều là lợi
căn.
Có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn
được gặp Phật Di-lặc và ba hội chúng Thanh-văn,
cùng thành Kê Ðầu, vua Nhượng-khư, và bốn kho châu báu lớn, muốn
ăn lúa thóc tự nhiên và mặc y phục tự
nhiên, sau khi chết sanh cõi trời thì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy nên
gắng sức tinh tấn, đừng sanh giải đãi,
cũng nên cúng dường thừa sự các pháp sư, cúng dường các thứ danh hoa,
hương thơm đừng để thiếu thốn. Như thế,
A-nan, nên học điều này!
Bấy giờ, A-nan và đại chúng nghe
Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
XXXXVIII.2. Phẩm Thập bất thiện (2)
4. Tôi nghe như vầy,
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, phần đông các Tỳ-kheo nhóm họp
tại giảng đường Phổ Hội, mỗi người khởi luận nghị thế này: 'Nay Như
Lai rất kỳ lạ, rất đặc biệt đối với các đức
Phật quá khứ đã nhập Niết-bàn, cũng lại biết tên họ, chủng tộc kia,
trì giới, tùy tùng, thảy đều biết rõ,
tam-muội, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, thọ mạng dài ngắn,
thảy đều biết. Thế nào chư Hiền? Ðó là
Như Lai phân biệt pháp xứ rất thanh tịnh, mà biết tên họ, chỗ phát xuất
của chư Phật kia chăng? Hay là chư
Thiên đến chỗ Phật mách bảo?'
Bấy giờ, Thế Tôn dùng Thiên nhĩ nghe thấu
điều bàn luận của đa số các Tỳ-kheo, bèn
đến chỗ các Tỳ-kheo, ngồi vào tòa
chính giữa. Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy nhóm ở đây bàn luận việc
gì? Muốn nói pháp gì?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Chúng con nhóm ở đây bàn về yếu
chỉ Chánh pháp. Mọi người dấy khởi luận nghị này: 'Như Lai rất kỳ lạ, rất
đặc biệt, mới có thể biết tên họ, danh
hiệu của các đức Phật Thế Tôn quá khứ, trí
tuệ nhiều ít thảy đều biết rõ. Rất lạ thay! Thế nào, chư Hiền, là
Như Lai phân biệt pháp giới rất thanh tịnh, biết tên họ nơi phát xuất của
chư Phật kia chăng? Hay là chư thiên
đến chỗ Phật mách bảo chăng?
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy muốn nghe sức trí thần của chư Phật quá khứ chăng?
Muốn biết tên họ, danh hiệu, thọ mạng dài ngắn chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Nay chính đúng thời, cúi xin Thế Tôn
diễn bày nghĩa ấy.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Các thầy khéo nghĩ nhớ, Ta sẽ vì các thầy nói rộng nghĩa này.
Bấy giờ đại chúng Tỳ-kheo vâng lời Phật
dạy, Phật bảo:
- Tỳ-kheo nên biết! Quá khứ chín mươi mốt kiếp về trước, có Phật xuất
thế, hiệu Tỳ-bà-thi Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, ba mươi mốt
kiếp về trước có Phật xuất thế hiệu Thi-khí Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh
Giác. Lại, trong kiếp ba mươi mốt ấy có Phật hiệu là Tỳ-xá-la-bà Như Lai
xuất thế. Trong Hiền kiếp này có Phật xuất thế hiệu Câu-lâu-tôn Như Lai.
Lại trong Hiền kiếp ấy có Phật xuất thế hiệu Câu-na-hàm-mâu-ni Như Lai Chí
chơn Ðẳng Chánh Giác. Lại trong Hiền kiếp có Phật xuất thế hiệu Ca-diếp.
Lại trong Hiền kiếp, Ta xuất thế là Thích-ca Văn
Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, Phật bèn nói kệ:
Trong chín mươi mốt kiếp,
Có Phật Tỳ-bà-thi,
Trong kiếp ba mươi mốt,
Phật thi-khí xuất hiện.
Cũng trong Hiền kiếp ấy,
Phật Tỳ-xá xuất hiện,
Ngày nay trong Hiền kiếp,
Bốn Phật lại xuất thế.
Câu-tôn, Na, Ca-diếp
Như trời chiếu thế gian,
Muốn biết tên họ ấy,
Danh hiệu kia như thế.
Phật Tỳ-bà-thi phát xuất từ dòng Sát-lợi. Phật Thi-khí cũng phát xuất
từ dòng Sát-lợi. Phật Tỳ-xá-la-bà cũng phát xuất từ dòng Bà-la-môn. Phật
Câu-lưu-tôn xuất phát từ dòng Bà-la-môn. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni phát xuất
từ Bà-la-môn, Phật Ca-diếp phát xuất từ dòng Bà-la-môn. Như nay Ta phát
xuất dòng Sát-lợi.
Phật bèn nói kệ:
Các Phật trước, xuất hiện,
Ðều từ dòng Sát-lợi,
Câu-tôn đến Ca-diếp,
Xuất từ Bà-la-môn.
Trên hết không ai sánh,
Nay Ta, thầy Trời Người,
Các căn đều vắng lặng,
Xuất từ dòng Sát-lợi.
Phật Tỳ-bà-thi họ Cù-đàm, Phật
thi-khí cũng họ Cù-đàm, Phật
Tỳ-xá-la-bà cũng họ Cù-đàm. Phật
Ca-diếp họ Ca-diếp. Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm-mâu-ni cũng từ họ
Ca-diếp như trên không khác. Nay Ta, họ Cù-đàm.
Thế Tôn bèn nói kệ:
Ba đức Phật ban đầu,
Ðều từ họ Cù-đàm,
Ba Phật sau, Ca-diếp,
Ðều từ họ Ca-diếp.
Như Ta ở hiện tại,
Trời, Người đều kính vâng,
Các căn rất vắng lặng,
Xuất từ họ Cù-đàm.
Tỳ-kheo nên biết! Phật Tỳ-bà-thi họ Câu-lân-nhã. Phật Thi-khí cũng từ
Câu-lân-nhã. Phật tỳ-xá-la-bà cũng từ Câu-lân-nhã. Phật Câu-lưu-tôn từ
Bà-la-đọa. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni cũng
từ Bà-la-đọa. Phật Ca-diếp cũng từ
Bà-la-đọa. Như Ta ngày nay, Như Lai
Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác phát xuất từ Câu-lân-nhã.
Thế Tôn bèn nói kệ:
Ba đức Phật ban đầu,
Xuất từ Câu-lân-nhã,
Ba Phật sau, Ca-diếp,
Xuất từ Bà-la-đọa.
Như Ta ở hiện tại
Trời, Người đều kính vâng,
Các căn rất vắng lặng
Xuất từ Câu-lân-nhã.
Phật Tỳ-bà-thi ngồi dưới cội cây hoa Ba-la-lợi thành Phật
đạo. Phật Thi-khí ngồi dưới cội cây
Phân-đà-lợi thành Phật
đạo. Phật Tỳ-xá-la-bà ngồi dưới cội
cây Ba-la thành Phật đạo. Phật Câu-lưu-tôn
ngồi dưới cội cây Thi-lợi-sa thành Phật
đạo. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni ngồi dưới
cột cây Ưu-đầu-bạt-la thành Phật
đạo. Phật Ca-diếp ngồi dưới cội cây
Ni-câu-lưu thành Phật đạo. Như Ta ngày
nay ngồi dưới cội cây Cát tường thành Phật
đạo.
Thế Tôn bèn nói kệ:
Phật ban đầu hành
đạo,
Dưới cây Ba-la-lợi,
Thi-khí, Phân-đà-lợi,
Tỳ-xá, cây Ba-la,
Câu-tôn, cây Thi-lợi,
Câu-na, cây Bạt-la,
Ca-diếp, cây Câu-lưu,
Ta thành đạo, Cát tường.
Bảy Phật, trời trong trời,
Chiếu sáng nơi thế gian,
Nhân duyên ngồi dưới cây,
Ðều thành đạo quả Phật.
Phật Tỳ-bà-thi có mười sáu vạn tám nghìn
đệ tử. Phật Thi-khí có mười sáu vạn đệ tử. Phật Tỳ-xá-la-bà có mười
vạn đệ tử. Phật Câu-lưu-tôn có tám vạn đệ tử.
Phật Câu-na-hàm-mâu-ni có bảy vạn đệ
tử. Phật Ca-diếp có sáu vạn đệ tử. Như Ta ngày nay có một ngàn hai
trăm năm mươi đệ tử đều là bậc
A-la-hán, các lậu vĩnh viễn chấm dứt, không còn các trói buộc.
Thế Tôn bèn nói kệ:
Trăm ngàn sáu vạn tám,
Ðệ tử Tỳ-bà-thi,
Trăm ngàn và sáu vạn,
Ðệ tử Phật Thi-khí,
Trăm ngàn chúng Tỳ-kheo,
Ðệ tử Ty-xá-bà,
Câu-tôn, tám vạn chúng,
Câu-na-hàm, bảy vạn,
Ca-diếp, sáu vạn chúng,
Ðều là A-la-hán.
Nay Ta là Thích-ca,
Nghìn hai trăm năm mươi,
Ðều là hạnh Chơn nhơn,
Giáo hóa ở hiện tại,
Pháp để lại, đệ tử.
Số ấy không thể tính.
Phật Tỳ-bà-thi có thị giả tên Ðại Ðạo Sư, Phật-Thi-khí có thị giả tên
Thiện Giác. Phật Tỳ-xá-la-bà có thị giả tên Thắng Chúng. Phật Câu-lưu-tôn
có thị giả tên Cát Tường. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni có thị giả tên
Tỳ-la-tiên. Phật Ca-diếp có thị giả tên Ðạo Sư. Thị giả hiện nay của Ta
tên A-nan.
Thế Tôn bèn nói kệ:
Ðại Ðạo và Thiện Giác,
Thắng Chúng và Cát Tường,
Tỳ-la-tiên, Ðạo Sư,
A-nan, hàng thứ bảy,
Người này cúng dường Thánh,
Không câu nệ thời giờ,
Ðọc tụng và thọ trì,
Không mất nghĩa lý kia.
Phật Tỳ-bà-thi thọ tám vạn bốn nghìn tuổi. Phật Thi-khí thọ bảy vạn
tuổi. Phật Tỳ-xá-la-bà thọ sáu vạn tuổi. Phật Câu-lưu-tôn thọ năm
vạn tuổi. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni thọ bốn vạn tuổi. Phật Ca-diếp thọ
hai vạn tuổi. Như Ta ngày nay tuổi thọ giảm xuống rất nhiều, thọ mạng
nhiều nhất không quá trăm tuổi.
Thế Tôn bàn nói kệ:
Phật đầu, tám vạn tư,
Phật kế, bảy vạn tuổi
Tỳ-xá-bà, sáu vạn,
Câu-lưu-thọ năm vạn,
Hai vạn cộng hai vạn,
Tuổi thọ Câu-na-hàm,
Ca-diếp thọ hai vạn
Chỉ Ta thọ trăm năm.
Như thế, này các Tỳ-kheo! Như Lai quán sát biết tên họ, danh hiệu của
chư Phật, thảy đều rành rẽ, dòng họ,
xuất xứ đều thấu triệt, trì giới, trí
tuệ, thiền định, giải thoát, thảy đều biết rõ.
Bấy giờ, tôn giả A-nan bạch Phật:
- Như Lai cũng nói: Hằng sa chư Phật đã
diệt độ ở quá khứ, Như Lai cũng biết. Hằng sa
chư Phật tương lai sẽ xuất hiện, Như Lai cũng biết. Vì sao Phật
không dự ký việc làm của bao nhiêu Phật, mà nay chỉ nói về sự việc của bảy
đức Phật?
Phật bảo A-nan:
- Ðều có gốc ngọn nhân duyên nên Ta nói sự việc của bảy
đức Phật. Hằng sa chư Phật thời quá khứ cũng
chỉ nói về sự việc của bảy đức Phật. Tương lai, khi Phật Di-lặc
xuất hiện, cũng sẽ chỉ dự ký về sự việc của bảy
đức Phật. Nếu khi Phật Sư Tử Ứng ra đời, cũng
sẽ chỉ nói về sự việc của bảy đức Phật. Nếu khi Phật Thừa Nhu Thuận ra
đời, cũng sẽ chỉ nói về sự việc của bảy đức Phật. Nếu khi Phật Quang Diệm
ra đời, cũng sẽ chỉ nói về sự việc bảy đức Phật. Nếu khi Phật Vô Cầu xuất
hiện, cũng sẽ chỉ nói về sự việc của Phật Ca-diếp. Nếu khi Phật Bảo Quang
ra đời, cũng sẽ nói về sự việc của Phật Thích-ca Văn.
Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:
Sư tử, Thừa Nhu, Quang,
Vô Cấu và Bảo Quang,
Thứ lớp sau Di-lặc,
Ðều sẽ thành Phật đạo.
Di-lặc ghi Thi-khí
Sư Tử ghi Tỳ-xá
Nhu Thuận ghi Câu-tôn
Quang Diệm ghi Mâu-ni
Vô Cấu ghi Ca-diếp,
Ðều nói duyên đời trước,
Bảo Quang thành Phật sau,
Cũng sẽ ghi hiệu Ta.
Chư Phật đời quá khứ,
Và chư Phật tương lai,
Ðều dự ghi bảy Phật
Gốc ngọn việc xa xưa.
Do nhân duyên này, nên Như Lai ghi danh hiệu bảy
đức Phật.
A-nan bạch Phật:
- Kinh này tên gì? Nên phụng trì thế nào?
Phật bảo A-nan:
- Kinh này tên 'Ghi danh hiệu Phật', nên ghi nhớ vâng làm.
Bấy giờ, A-nan và các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
5. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại nước La-duyệt, vườn trúc Ca-la-đà.
Bấy giờ, trưởng giả Sư Tử đã
đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, cúi đầu lễ chân
Tôn giả, lui ngồi một bên. Trưởng giả Sư Tử bạch Tôn giả
Xá-lợi-phất:
- Cúi xin Tôn giả nhận lời thỉnh của con.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất im lặng nhận lời. Trưởng giả thấy Tôn im
lặng nhận lời,liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ
chân Tôn giả rồi lui. Trưởng giả lại đến chỗ các vị Mục-kiền-liên,
Ly-việt, Ðại Ca-diếp, A-na-luật, Ca-chiên-diên, Mãn-từ Tử, Ưu-ba-ly,
Tu-bồ-đề, La-vân và Sa-di Quân-đầu
... thỉnh các thượng thủ như thế, gồm năm trăm người.
Trưởng giả Sư Tử liền trở về, sắm sửa đủ
các thức ăn uống rất ngon, trải tòa ngồi
đẹp, rồi đến thưa rằng:
- Ðến giờ, các vị A-la-hán chân nhân đã
không từ chối. Nay thức ăn đã dọn, cúi
xin quang lâm đến nhà.
Bấy giờ các đại Thanh văn đều đắp ba y,
mang bát, vào thành đến nhà
trưởng giả. Trưởng giả thấy chư tôn đều vào
chỗ đã
định, bèn tự tay mình sớt các thức ăn
uống. Thấy Thánh chúng ăn xong, đem nước sạch rửa tay, cúng dường mỗi vị
một tấm lụa trắng, trước từng người, nhận lời chú nguyện.
Tôn giả Xá-lợi-phất vì trưởng giả nói pháp vi diệu, rồi rời tòa
đi ra, trở về tịnh thất. Bấy giờ, Tôn giả
La-vân đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên.
Phật hỏi:
- Hôm nay Thầy từ nơi nào đến?
La-vân thưa:
- Hôm nay có trưởng giả Sư Tử thỉnh.
Phật hỏi:
- Thế nào, La-vân! Thức ăn ngon hay không
ngon, là tế hay là thô?
La-vân thưa:
- Thức ăn rất ngon và nhiều. Tấm
lụa trắng này là do trưởng giả ấy cúng.
Phật bảo La-vân:
- Chúng Tăng có bao nhiêu người? Ai
là Thượng tọa?
La-vân bạch Phật:
- Tôn giả Xá-lợi-phất là Thượng thủ, và chư
đệ tử Thần đức năm trăm người.
Phật bảo La Vân:
- Thế nào, La Vân! Trưởng giả ấy được
phước nhiều chăng?
La Vân bạch Phật:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Trưởng giả ấy
được phước báu không thể tính kể. Cúng một A-la-hán, phước ấy khó hạn
lượng, huống gì là bậc thần diệu lớn, Người, Trời
đều cung kính. Nay năm trăm người đều là
Chân nhân, phước ấy làm sao có thể lường.
Phật bảo La-vân:
- Nay công đức cúng dường năm trăm La-hán,
nếu thứ lớp thỉnh một Sa-môn trong chúng, thỉnh rồi cúng dường thì
so sánh phước cúng dường do chúng cử, và phước cúng cho năm
trăm La-hán, phước trên hơn gấp trăm
ngàn lần, ức vạn lần, không thể dùng thí dụ so sánh. Vì sao? Người
do chúng cử, phước khó hạn lượng, đến chỗ cam
lồ, diệt tận. La-vân nên biết! Như có người tự thệ rằng: 'Tôi sẽ
uống nước của các sông ngòi'. Người ấy có kham chăng?
La-vân bạch Phật:
- Thưa không, bạch Thế Tôn! Vì sao? Ðất Diêm-phù này rất rộng lớn, cõi
này có bốn con sông lớn. Một là sông Hằng, hai là sông Tân-đầu,
ba là sông Tư-đà, bốn là sông
Bác-xoa, mỗi con sông có năm trăm sông nhỏ,
song người ấy không thể uống hết nước, chỉ nhọc sức mà việc không
thành.
Phật bảo:
- Người ấy lại nói thế này: 'Ta tự có phương tiện nhân duyên, có thể
uống hết nước'. Thế nào là nhân duyên uống hết nước'. Thế nào là nhân
duyên uống hết nước? Người ấy nghĩ thế này: 'Ta sẽ uống nước biển. Vì sao?
Tất cả các dòng sông đều đổ vào biển'.
Thế nào, La-vân! Người ấy có thể uống hết nước chăng?
La-vân bạch Phật:
- Phương tiện như thế, có thể uống hết nước khiến cạn. Vì sao? Tất cả
các dòng sông đều đổ vào biển. Do nhân
duyên này, người ấy uống hết nước.
Phật bảo La-vân:
- Ðúng thế, La-vân! Tất cả sự cúng dường riêng như dòng sông, hoặc
được phước hoặc không được phước. Chúng Tăng
như biển lớn. Vì sao? Vì nước sông, suối
đều chảy về biển và mất tên riêng của
nó, chỉ có tên biển lớn. La-vân! Ðây cũng như thế. Nay mười hạng người này
đều xuất phát từ trong chúng, không có chúng
không thành. Thế nào là mười? Ðó là Hướng Tu-đà-hoàn,
Ðắc Tu-đà-hoàn; Hướng Tư-đà-hàm,
Ðắc Tư-đà-hàm; Hướng A-na-hàm, Ðắc
A-na-hàm, Hướng A-la-hán, Ðắc A-la-hán, Bích-chi Phật và Phật. Ðó là mười
bậc đều do trong chúng, không tự đứng riêng
rẽ.
La-vân! Do phương tiện này nên biết, người do chứng cử, phước ấy không
thể hạn lượng. Cho nên, La-vân! Thiện nam tử, thiện nữ chơn muốn cầu phước
vô lượng, nên cúng dường Thánh chúng. La-vân nên biết! Cũng như có người
đem bơ bỏ vào nước, bơ không tan,
không lan rộng. Nếu đem dầu chế vào
nước, dầu lan đầy trên mặt, cho nên,
này La-vân! Nên nghĩ cúng dường Thánh chúng Tỳ-kheo Tăng.
Như thế, La-vân, nên học điều này!
Bấy giờ trưởng giả Sư Tử nghe Phật khen ngợi, nói về phước cúng dường
chúng, không khen nói phước khác. Vào dịp khác, trưởng giả
đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi
một bên. Trưởng giả Sư Tử bạch Phật:
- Vừa nghe Như Lai khen ngợi phước bố thí cho chúng, không khen ngợi
phước thỉnh riêng người. Từ nay về sau, con sẽ thường cúng dường Thánh
chúng.
Phật bảo:
- Ta không nói thế này: 'Nên cúng dường Thánh chúng,
đừng cúng đường người khác'. Nay bố
thí cho súc sanh còn được phước, huống gì
người khác. Ta chỉ nói phước có nhiều, ít. Vì sao? Thánh chúng của Như Lai
đáng kính, đáng quý, là phước
điền trên hết của thế gian. Nay trong
chúng này có hàng hướng về bốn quả, đắc bốn
quả và Thanh văn thừa, Bích-chi Phật
thừa, Phật thừa. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn được đạo quả Tam
thừa, nên từ trong chúng tìm cầu. Vì sao? Ðạo quả Tam thừa
đều phát xuất từ chúng Tăng. Trưởng giả! Ta
quan sát nghĩa lý nhân duyên này nên nói lời này. Ta cũng không dạy
người nên bố thí cho Thánh chúng mà không nên bố thí cho người khác.
Trưởng giả bạch Phật:
- Ðúng thế, như lời Phật dạy. Từ nay về sau, nếu làm phước nghiệp, con
sẽ cúng dường hết Thánh chúng, không chọn người
để bố thí.
Bấy giờ Thế Tôn vì trưởng giả nói pháp vi diệu, khiến sanh tâm vui
mừng. Trưởng giả nghe pháp xong liền đứng
dậy, cúi đầu lễ chân Phật, lui ra.
Trưởng giả Sư tử có ý muốn bố thí, tạo phước nghiệp. Bấy giờ chư Thiên
đến nói:
- Ðây là người Hướng Tu-đà-hoàn,
đây là người Ðắc Tu-đà-hoàn.
Bố thí người này phước nhiều, bố thí này được
phước ít.
Chư Thiên liền nói kệ:
Như Lai khen chọn thí,
Cho các Ðại đức này,
Cúng đây, được phước nhiều,
Như ruộng tốt mọc lúa.
Trưởng giả Sư Tử im lặng không trả lời.
Chư Thiên lại nói với trưởng giả:
- Ðây là người trì giới, đây là
người phạm giới, đây là người Hướng
Tu-đà-hoàn,
đây là người Ðắc Tu-đà-hoàn.
Ðây là người Hướng Tư-đà-hàm,
đây là người Ðắc Tư-đà-hàm.
Ðây là người Hướng A-na-hàm, Ðây là người đắc
A-na-hàm. Ðây là người Hướng A-la-hán,
đây là người Ðắc A-la-hán. Ðây là Thanh văn
thừa, đây là Bích-chi thừa, đây là
Phật thừa. Cho đây được phước ít, cho đây
được phước nhiều.
Trưởng giả Sư Tử im lặng không đáp. Vì
sao? Vì ông chỉ nhớ lời dạy bảo của Phật, không lựa chọn mà bố thí.
Lại vào thời gian khác, trưởng giả đi đến
chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên, thưa rằng:
- Con tự nhớ, khi con thỉnh Thánh chúng thọ trai, có chư Thiên
đến với con rằng: 'Ðây là người trì
giới, đây là người phạm giới. Người
này Hướng Tu-đà-hoàn, người này Ðắc
Tu-đà-hoàn, cho
đến hàng Tam thừa, thảy
đều phân biệt, Chư Thiên lại nói kệ
này:
Như Lai khen chọn thí,
Cho các Ðại đức này,
Cúng đây được phước nhiều,
Như ruộng tốt mọc lúa.
Khi ấy, con lại nghĩ thế này: 'Lời dạy của Như Lai không nên trái, ta
há lại sanh tâm chọn lựa để bố thí ư?' Trọn
không có tâm phải quấy và ý niệm cao thấp. Khi ấy con lại nghĩ
rằng: 'Ta sẽ bố thí cho hết thảy tất cả chúng sanh. Nếu người trì giới thì
được phước vô cùng, nếu người phạm
giới thì tự chịu tai họa'. Chỉ thương chúng sanh nếu phạm giới thì tự chịu
tai họa'. Chỉ thương chúng sanh nếu không
được ăn, thì không được cứu giúp mạng
sống.
Phật bảo trưởng giả:
- Lành thay! Lành thay! Thệ nguyện rộng lớn bồ tát khi bố thí thì tâm
thường bình đẳng. Trưởng giả nên biết,
vào ngày Bồ-tát bố thí, chư Thiên đến bảo
rằng: 'Nhà hào quý nên biết, đây là
người trì giới, đây là người phạm
giới. Bố thí người này được phước nhiều, bố
thí người này được phước ít'. Bấy giờ
Bồ-tát trọn không sanh tâm này: 'Nên bố thí người này, không nên bố
thí người này'. Tâm Bồ-tát thuần thục không có thị phi, cũng chẳng nói
đây là trì giới,
đây là phạm giới. Cho nên, Trưởng giả
nên nghĩ bố thí bình đẳng, được phước vô
lượng lâu dài.
Khi ấy, trưởng giả Sư-tử nhớ lời Như Lai dạy, thành kính nhìn Thế Tôn,
ý không lay động liền tại chỗ ngồi được pháp
nhãn tịnh. Trưởng giả Sư-Tử liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, lui đi ra.
Trưởng giả đi chưa bao lâu, Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Trưởng giả Su-tử này do nhờ bố thí bình
đẳng, lại chiêm ngưỡng Như Lai từ đầu
đến chân, liền tại chỗ ngồi được pháp nhãn tịnh.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Trong số đệ tử Ưu-bà-tắc của Ta,
người bố thí bình đẳng nhất là trưởng
giả Sư-tử.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
6. Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật ở tại thành
La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà, cùng
với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất ở tại núi Kỳ-xá-quật, nơi chỗ vắng, vá y
cũ. Khi ấy có mười ngàn chư Thiên cõi Phạm-ca-di từ nơi ấy ẩn,
đến chỗ Xá-lợi-phất, cúi đầu lễ chân Tôn giả,
đi quanh hầu Tôn giả, lại dùng kệ này khen ngợi:
Quy mạng bậc thượng nhơn,
Quy mạng bậc Tôn quý,
Nay chúng tôi chẳng biết
Y cứ những Thiền nào.
Khi ấy, mười ngàn chư Thiên cõi Phạm-ca-di nói kệ xong, Xá-lợi-phất im
lặng chấp nhận. Chư thiên thấy Xá-lợi-phất im lặng chấp nhận rồi, liền làm
lễ dưới chân rồi đi. Chư Thiên
đi chưa xa, Xá-lợi-phất liền nhập Kim cang
tam-muội.
Khi ấy, có hai con quỷ, một tên Già-la, một tên Ưu-ba-già-la, do
Tỳ-sa-môn Thiên vương sai đi đến chỗ Thiên
vương Tỳ-lưu-lặc (Thiên vương Tăng Trưởng),
muốn bàn luận việc Trời, Người. Lúc
đó, hai quỷ ấy bay qua hư không, xa thấy Xá-lợi-phất ngồi kiết-già,
buộc niệm ở trước, tâm ý vắng lặng định tĩnh.
Quỷ Già-la bảo quỷ kia rằng:
- Nay ta có thể dùng chưởng đánh ngay đầu
Sa-môn kia.
Quỷ Ưu-ba-già-la nói:
- Ngươi chớ khởi ý niệm đánh vào
đầu Sa-môn. Vì sao? Sa-môn ấy rất có
thần đức, có oai lực lớn. Tôn danh vị ấy là
Xá-lợi-phất, trong hàng đệ tử Thế Tôn không
ai thông minh, tài cao hơn người này, là bậc trí tuệ
đệ nhất trong hàng
đệ tử Phật. Ngươi làm việc ấy chịu khổ
vô lượng lâu dài.
Quỷ Già-la cứ hai ba lần bảo:
- Ta có thể đánh vào
đầu Sa-môn ấy.
Quỷ Ưu-ba-già-la lại bảo:
- Nay Ngươi không nghe theo lời ta, Ngươi cứ ở
đây, ta sẽ bỏ Ngươi đi.
Ác quỷ ấy hỏi:
- Ngươi sợ Sa-môn ấy sao?
Quỷ Ưu-ba-già-la bảo:
- Thật ta sợ. Nếu Ngươi lấy tay đánh vào
đầu Sa-môn này,
đất sẽ nứt đôi. Rồi sẽ có gió bão, mưa
dữ, đất đai rúng động, chư Thiên kinh
động. Ðất
đã rúng động, Tứ Thiên vương
cũng sẽ kinh sợ. Tứ Thiên vương đã
biết, chúng ta không yên đâu.
Khi ấy, ác quỷ cứ nói:
- Nay ta có thể làm nhục Sa-môn này.
Thiện quỷ nghe rồi liền bỏ đi. Ác quỷ kia
liền lấy tay đánh vào đầu Xá-lợi-phất.
Ngay khi ấy, trời đất chấn động mạnh, bốn phía cuồng phong, mưa dữ tức
thời thổi lên, đất liền nứt làm
hai. Toàn thân ác quỷ đều rơi vào
địa ngục.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất từ chánh định
dậy, chỉnh đốn y phục, xuống núi Kỳ-xà-quật,
đi đến vườn trúc, đến chỗ đức Thế Tô, cúi đầu
lễ chân Phật, lui ngồi một bên.
Phật bảo Xá-lợi-phất:
- Nay thân thể Thầy, không bệnh tật chăng?
Xá-lợi-phất thưa:
- Thân con không bệnh, chỉ có đầu hơi đau.
Phật bảo:
Quỷ Già-la lấy tay đánh vào
đầu thầy. Nếu quỷ ấy dùng tay
đấm núi Tu-di, núi Tu-di liền bể đôi. Vì
sao? Vì quỷ ấy có sức mạnh. Nay quỷ ấy chịu tội báo, toàn thân rơi vào
địa ngục A-tỳ.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Thật kỳ lạ! Thật đặc biệt! Sức của Kim
cang tam-muội đến như thế! Do sức của tam-muội này mà không bị tổn
hại. Giả sử núi Tu-di đánh vào
đầu trọn không thể làm
động đến mảy lông. Vì sao như thế?
Tỳ-kheo nghe đây:
Trong Hiền kiếp này có đức Phật hiệu
Câu-lưu-tôn, Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác. Ðức Phật ấy có hai
đại Thanh văn, một tên Ðẳng Thọ, một
tên Ðại Trí. Tỳ-kheo Ðẳng Thọ có sức thần túc bậc nhất, Tỳ-kheo Ðại Trí có
trí tuệ bậc nhất. Như ngày nay, đệ tử Ta
Xá-lợi-phất trí tuệ bậc nhất, Mục-kiền-liên thần túc bậc nhất.
Bấy giờ, hai Tỳ-kheo Ðẳng Thọ và Ðại Trí
đều được Kim cang tam-muội. Vào một lúc nọ, Tỳ-kheo Ðẳng Thọ ở chỗ
vắng nhập Kim cang tam-muội. Khi ấy có các người chăn
bò, chăn dê, người
đốn cúi, cắt cỏ, thấy Tỳ-kheo nầy tọa
Thiền họ bảo nhau rằng:
- ' Hôm nay Sa-môn này đã chết'.
Các người chăn bò và
đốn củi, bèn gom các cỏ khô, cây khô,
chất lên mình thầy Tỳ-kheo, châm lửa đốt rồi
bỏ đi. Khi Tỳ-kheo Ðẳng Thọ từ chánh
định xuất, chỉnh đốn y phục, rời chỗ ngồi mà
đi. Tỳ-kheo cũng vào ngày
đó, đắp y mang bát vào làng khất thực.
Các người đốn củi thấy thầy Tỳ-kheo khất thực
trong làng, đều bảo nhau:
- 'Thầy Tỳ-kheo ngày hôm qua đã
chết, chúng ta lấy lửa hỏa thiêu, ngày nay sống lại, nay nên
đặt tên là Hoàn Hoạt (sống lại)'.
Nếu có Tỳ-kheo được Kim cang tam-muội, lửa
không đốt được, dao không chặt được, vào nước không chìm, không bị
người khác làm tổn thương. Như thế, này Tỳ-kheo! Kim cang tam-muội oai
đức như thế. Nay Xá-lợi-phất được tam-muội này.
Tỳ-kheo Xá-lợi-phất thường dạo chơi hai chỗ, Không tam-muội và Kim cang
tam-muội.
Cho nên, Tỳ-kheo nên tìm phương tiện thực hành Kim cang tam-muội. Như
thế, này các Tỳ-kheo nên học điều này!
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ta sẽ dạy các Thầy như Tỳ-kheo Xá-lợi-phất ấy có trí tuệ, có sức trí
lớn, trí phân biệt rộng, trí vô biên, trí nhanh nhẹn, trí biết khắp, trí
nhạy bén, trí thâm sâu, trí đoạn dứt; ít muốn
biết đủ, vắng lặng dũng mãnh, ý niệm không tán loạn, thành tựu
giới, thành tựu định, thành tựu tuệ,
thành tựu giải thoát và giải thoát tri kiến; nhu hòa không tranh cãi, bỏ
việc ác rốt ráo, nhẫn các lời nói, khen ngợi việc lìa ác, thường nhớ nghĩ
xa lìa, thương xót các người ngu, làm Chánh pháp hưng thạnh, vì người nói
pháp không biết chán.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Mười nghìn chư Thiên nhơn,
Ðều là trời Tịnh Thân,
Tự quy Xá-lợi-phất,
Nơi đảnh núi Linh Thứu
Quy mạng bậc Thượng nhơn,
Quy mạng bậc Tôn quý,
Nay chúng tôi không biết,
Y cử những Thiền nào?
Như thế, Hoa đệ tử,
Trang nghiêm cội cây Phật,
Như vườn cây cõi trời,
Vui thích không thể sánh.
Ðệ tử Như Hoa tức là Tỳ-kheo Xá-lợi-phất. Vì sao? Người này ắt hay
trang nghiêm cội cây Phật, cội đạo thọ tức là
Như Lai vậy, Như Lai hay che trùm tất cả chúng sanh.
Cho nên, Tỳ-kheo nên nghĩ nhớ siêng năng,
gắng dõng mãnh tinh tấn như Tỳ-kheo Xá-lợi-phất. Như thế, này các
Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-ooOoo-