XXXV. Phẩm Tà tư
1. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu có người ở trong nhóm tà kiến thì có tướng trạng gì, có nhân
duyên gì?
Các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay
Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo. Chúng con nghe rồi sẽ vâng
làm.
Thế Tôn dạy:
- Các Thầy khéo suy nghĩ. Ta sẽ vì các Thầy phân biệt nghĩa này.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn dạy:
- Người ở nhóm tà sẽ do năm việc mà
biết. Ðã thấy năm việc thì biết người
này ở nhóm tà. Thế nào là năm? Ðáng
cười mà không cười, lúc đáng hoan hỉ mà
không hoan hỉ, đáng khởi tâm từ mà
không khởi tâm từ, làm ác mà không xấu hổ, nghe lời lành mà không
để ý. Nên biết người này ở nhóm tà.
Nếu có chúng sanh ở nhóm tà, nên dùng năm
việc mà biết.
Lại nữa, có chúng sanh ở trong nhóm chánh, có tướng mạo gì, có nhân
duyên gì?
Các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Như Lai là vua các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Cúi mong Thế
Tôn hãy thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo. Chúng con nghe xong sẽ vâng làm.
Thế Tôn dạy:
- Các Thầy khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các Thầy phân biệt nghĩa này.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:
- Người ở nhóm chánh, sẽ do năm việc mà
biết. Ðã thấy năm việc thì biết người
này trụ ở nhóm chánh. Thế nào là năm?
Ðáng cười thì cười, đáng hoan hỉ thì
hoan hỉ, đáng khởi tâm từ thì khởi tâm
từ, đáng xấu hổ thì xấu hổ, nghe lời
lành thì để ý. Nên biết người này
đã ở nhóm chánh, trụ ở nhóm chánh. Như
thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ có các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
2. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Như Lai xuất hiện ở đời tất sẽ vì
năm việc. Thế nào là năm?
Sẽ chuyển pháp luân, sẽ độ cha mẹ, khiến người không tin lập niềm tin,
khiến người chưa phát tâm Bồ-tát khiến phát tâm Bồ-tát, sẽ truyền yếu
quyết của Phật tương lai.
Nếu lúc Như Lai xuất hiện ở đời thì
sẽ vì năm việc này. Thế nên các
Tỳ-kheo, hãy khởi tâm từ đối với Như Lai. Như
thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ có các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
3. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có năm sự bố thí không được phước. Thế nào
là năm? Lấy dao thí cho người, lấy độc thí
cho người, lấy bò hoang thí cho người, lấy dâm nữ thí cho người,
tạo các miễu thần.
Ðó là, này Tỳ-kheo! Có năm việc bố thí
không được phước. Tỳ-kheo nên biết, lại có năm
việc bố thí khiến được phước lớn. Thế nào là năm?
Tạo vườn cảnh, tạo rừng cây, tạo cầu đò, tạo thuyền lớn, tạo phòng
xá trụ xứ cho người qua lại.
Ðó là, Tỳ-kheo! Có năm việc này
khiến được phước.
Thế Tôn liền nói kệ:
Vườn cảnh thí mát mẻ,
Và tạo cầu đò tốt,
Bến sông đưa mọi người,
Và làm phòng nhà tốt,
Người đó trong ngày
đêm,
Hằng sẽ nhận được phước,
Giới định đã thành tựu,
Người này ắt sanh thiên.
Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy nhớ tu hành năm
đức thí này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học
điều này.
Bấy giờ có các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
4. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ðàn bà có năm thế lực coi thường chồng.
Thế nào là năm? Sắc lực, thế lực của
thân tộc, sức mạnh của ruộng vườn gia nghiệp, sức mạnh của con cái,
sức mạnh của tự thủ mà coi thường người chồng.
Người chồng lại cũng dùng một thế lực để
che phủ người vợ kia. Thế nào là một thế lực? Nghĩa là sức phú quý.
Người chồng vì phú quý, sức mạnh của sắc chẳng bằng, thân tộc, ruộng vườn,
con cái, tự thủ đều chẳng bằng. Ðó là
do một thế lực mà thắng bấy nhiêu thế lực. Nay tệ ma Ba-tuần cũng có năm
thế lực. Thế nào là năm? Nghĩa là:
sắc lực, thanh lực, hương lực, vị lực, xúc lực. Phàm người ngu si
đắm trước các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc
chẳng thể qua được cảnh giới của ma Ba-tuần. Nếu đệ tử Thánh thành
tựu một thế lực thì thắng bao nhiêu sức đó.
Thế nào là một thế lực? Nghĩa là sức không phóng dật. Nếu các
đệ tử bậc Hiền Thánh thành tựu không
phóng dật, thì chẳng bị sắc, thanh, hương, vị, xúc trói buộc. Vì không bị
ngũ dục trói buộc, nên có thể phân biệt pháp sanh, già, bệnh, chết, thắng
năm thế lực của ma, không rơi vào cảnh
giới ma, qua được các nạn đáng sợ, đến chỗ vô
vi.
Thế Tôn liền nói kệ này:
Giới là đạo cam lồ,
Phóng dật là đường chết,
Không tham thì không chết,
Mất đạo là mất mình.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Nên nhớ tự hành, chớ phóng dật. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học
điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
5. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ðàn bà có năm dục tưởng. Thế nào
là năm? Sanh nhà hào quý,
được gả cho nhà phú quý, chồng sẽ làm
theo lời, có nhiều con cái, ở nhà tất cả do một mình mình.
Ðó là, này các Tỳ-kheo! Ðàn bà có tư tưởng về năm
việc đáng muốn này. Như thế, này Tỳ-kheo! Tỳ-kheo của Ta cũng nghĩ
đến năm việc đáng muốn. Thế nào là năm?
Nghĩa là: cấm giới, đa văn, thành
tựu tam-muội, trí tuệ, trí tuệ giải thoát. Ðó là Tỳ-kheo có năm
việc đáng mong muốn này.
Thế Tôn liền nói kệ:
Ta sanh dòng hào tộc,
Cũng về nhà phú quý,
Hay sai khiến ông chồng,
Chẳng phước, không đạt được,
Khiến ta nhiều con cái,
Hương hoa tự trang sức,
Tuy có tưởng niệm này,
Không phước khó thu được,
Tín, giới mà thành tựu,
Tam-muội không di động,
Trí tuệ cũng thành tựu,
Giải đãi, thì chẳng
được,
Muốn được thành
đạo quả,
Chẳng dạo vực sanh tử,
Mong muốn đến Niết-bàn,
Giải đãi thì chẳng
được.
Như thế, các Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện thực hành pháp lành, trừ bỏ
pháp bất thiện, dần dần tiến tới, không có tâm hối hận giữa chừng. Như
thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
6.Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có năm lúc không nên lễ người.
Thế nào là năm? Nếu ở trong tháp (thâu-bà)
không nên làm lễ, ở trong đại chúng không nên
làm lễ, lại ở đường đi không nên làm
lễ, đau bệnh nằm trên giường không nên
làm lễ, nếu lúc ăn uống không nên làm
lễ. Ðó là, này các Tỳ-kheo, có năm việc không
nên làm lễ với người.
Lại có năm việc biết thời làm lễ.
Thế nào là năm? Không ở trong tháp, không ở
trong đại chúng, không ở trên đường
đi, không bị đau bệnh, lại không phải lúc ăn uống. Ðây nên làm lễ.
Thế nên, các Tỳ-kheo, nên tạo phương tiện biết lúc mà hành.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
7.Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở trong thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà
cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.
Bấy giờ Thế Tôn bảo Tôn giả Ưu-đầu-bàn:
- Nay Thầy vào thành La-duyệt xin một ít nước nóng. Vì sao thế? Hôm nay
Ta bị đau lưng.
Ưu-đầu-bàn bạch Phật:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Ưu-đầu-bàn vâng lời Phật dạy,
đến giờ đắp y ôm bát vào thành
La-duyệt xin nước nóng. Tôn giả Ưu-đầu-bàn
liền nghĩ: 'Thế Tôn có nhân duyên gì khiến ta xin nước nóng? Như Lai các
kiết sử đã tận, mọi
điều lành chứa nhóm, mà Như Lai lại
bảo rằng: 'Nay Ta bị đau lưng' mà Thế
Tôn lại chẳng cho biết tên họ, đến nhà
ai'.
Bấy giờ Tôn giả Ưu-đầu-bàn dùng
thiên nhãn quán sát nam nữ trong thành La-duyệt xem người nào
đáng độ. Khi ấy trong thành La-duyệt
có Trưởng giả tên Tỳ-xá-la-tiên, chẳng trồng căn
lành, không giới, không niềm tin, tà kiến
đối với Phật, Pháp, Tăng, cùng biên
kiến tương ưng. Ông ta có tà kiến này: 'Không thí, không cho, không người
nhận, cũng lại không có quả báo thiện ác, không có
đời này,
đời sau, không cha, không mẹ. Ðời không có Sa-môn, Bà-la-môn v.v...
được thành tựu; ở
đời này,
đời sau tự thân tác chứng, mà tự du hóa'.
Ông ta thọ mạng rất ngắn, sau năm ngày
sẽ chết. Ông lại thờ ngũ đạo đại thần. Bấy
giờ Ưu-đầu-bàn lại nghĩ: 'Như Lai ắt muốn
độ Trưởng giả này. Sở dĩ như thế vì
Trưởng giả này sau khi chết sẽ sanh trong địa
ngục kêu khóc'.
Khi đó Ưu-đầu-bàn liền cười. Ngũ
đạo đại thần từ xa thấy ngài cười,
liền ẩn hình biến thành người đến chỗ
Ưu-đầu-bàn, để ngài sai khiến.
Tôn giả Ưu-đầu-bàn dẫn người này
đến ngoài cửa Trưởng giả,
đứng làm thinh không nói. Trưởng giả
xa thấy có đạo nhân đứng ngoài cửa,
tức thời nói kệ:
Này Ông làm thinh đứng,
Cạo đầu mặc cà-sa,
Vì muốn xin những gì?
Nhân việc gì đến đây.
Ưu-đầu-bàn dùng kệ
đáp:
- Ðấng Như Lai vô trước
Hôm nay bệnh phong phát
Nếu có nước nóng ấm
Như Lai muốn tắm rửa.
Trưởng giả làm thinh chẳng đáp. Ngũ đạo
đại thần bảo Tỳ-xá-la-tiên:
- Trưởng giả nên lấy nước cho, sẽ được
phước vô lượng, sẽ được quả báo cam lồ.
Trưởng giả đáp:
- Ta tự có Ngũ đạo đại thần, dùng
Sa-môn này đâu ích lợi thêm việc gì?
Ngũ đạo đại thần nói kệ:
Như Lai lúc mới sanh,
Thiên Ðế đến hầu hạ,
Lại là ai ra đây,
Có thể sánh ngang hàng?
Dùng Ngũ đạo thần chi
Chẳng thể có chỗ giúp,
Thà cúng dường Thích sư
Liền được quả báo lớn.
Bấy giờ Ngũ đạo đại thần lại bảo Trưởng
giả:
- Ông nên gìn giữ thân, miệng, ý hành. Ông chẳng biết uy lực của Ngũ
đạo đại thần sao?
Khi ấy Ngũ đạo đại thần liền hóa làm
thân quỷ thần lớn, tay phải cầm kiếm bảo Trưởng giả rằng:
- Nay ta chính là Ngũ đạo đại thần. Mau
lấy nước nóng cho Sa-môn này, chớ nên chần chờ.
Khi ấy Trưởng giả liền nghĩ: 'Kỳ quá! Lạ quá! Ngũ
đạo đại thần lại cúng dường Sa-môn này'.
Trưởng giả liền lấy nước nóng thơm đưa cho
Sa-môn, lại lấy đường phèn đưa cho
Sa-môn. Ngũ đạo đại thần tự cầm nước thơm này, cùng Ưu-đầu-bàn
đến chỗ Thế Tôn, đem nước nóng thơm dâng lên
Thế Tôn. Thế Tôn lấy nước nóng thơm tắm rửa thân thể, phong liền bớt,
không tăng nặng nữa.
Khi ấy Trưởng giả sau năm ngày liền
mạng chung sanh lên Trời Tứ thiên vương. Tôn giả Ưu-đầu-bàn
nghe tin Trưởng giả mạng chung, liền đến chỗ
Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Ưu-đầu-bàn
bạch Thế Tôn:
- Trưởng giả này mệnh chung rồi sanh về
đâu?
Thế Tôn bảo:
- Trưởng giả này mạng chung, sanh trên Trời Tứ thiên vương.
Ưu-đầu-bàn bạch Phật:
- Trưởng giả này ở đó mạng chung sẽ sanh
đi đâu?
Thế Tôn bảo:
- Ở đó mạng chung sẽ sanh trong Tứ thiên
vương, Trời Ba mươi ba cho đến sinh trong cõi
Trời Tha hóa tự tại. Ở kia mạng chung sẽ sanh trong trời Tứ thiên vương.
Trưởng giả này trong sáu mươi kiếp không đọa
đường ác. Rốt cuộc được mang thân người, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y,
xuất gia học đạo thành Phật Bích-chi. Sở dĩ như thế, vì
đức của sự bố thí nước nóng được phước như
vậy.
Thế nên, Ưu-đầu-bàn, hằng nhớ lo
nước tắm chúng Tăng, nghe thuyết đạo giáo.
Như thế, Ưu-đầu-bàn, nên học điều này.
Bấy giờ Tôn giả Ưu-đầu-bàn nghe
Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
8.Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ có Tỳ-kheo chẳng ưa tu Phạm hạnh, muốn bỏ cấm giới, hoàn tục.
Tỳ-kheo ấy đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, ngồi một
bên, rồi bạch Thế Tôn:
- Nay con không ưa tu Phạm hạnh, muốn bỏ cấm giới trở về làm bạch y.
Thế Tôn bảo:
- Nay thầy vì sao chẳng ưa tu Phạm hạnh, muốn bỏ cấm giới về làm bạch
y.
Tỳ-kheo đáp:
- Nay tâm ý con bừng bừng, trong thân như lửa
đốt. Nếu lúc con thấy đàn bà
đoan chánh vô song, lúc ấy con nghĩ rằng:
'Phải chi người đàn bà này cùng ta cộng giao'. Rồi con lại nghĩ:
'Ðây chẳng phải Chánh pháp, nếu ta theo tâm này thì chẳng phải chánh lý'.
Lúc ấy con lại nghĩ: 'Ðây là ác lợi, chẳng phải thiện lợi. Ðây là ác pháp,
chẳng phải thiện pháp'. Nay con muốn bỏ cấm giới trở về làm bạch y. Cấm
giới của Sa-môn, thực chẳng thể phạm. Con làm người thế tục có thể phân
đàn bố thí.
Thế Tôn bảo:
- Phàm là đàn bà có năm
thứ ác. Thế nào là năm? Uế ác, hai
lưỡi, tật đố, sân giận, không biết đền đáp.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Buồn vui do tài sản,
Hiện lành mà lòng độc,
Hại người mất đường lành,
Như chim ưng bỏ đất.
Thế nên, Tỳ-kheo! Nên trừ bỏ tưởng bất tịnh, suy nghĩ quán về bất tịnh.
Tỳ-kheo suy nghĩ quán về bất tịnh rồi sẽ đoạn
hết dục ái, sắc ái, vô sắc ái; đoạn hết vô minh, kiêu mạn. Này
Tỳ-kheo, lòng dục từ đâu sanh? Từ tóc sanh
chăng? Nhưng tóc xấu xí chẳng sạch. Ðó là do huyễn hóa dối gạt
người đời. Móng tay, răng... những thứ thuộc
thân thể là chỗ bất tịnh. Cái nào là chân thật? Từ
đầu đến chân thảy đều như thế. Gan, mật, ngũ
tạng, những vật có hình, không một cái gì
đáng tham đắm, cái nào là chân? Này
Tỳ-kheo, dục của Thầy từ đâu sanh? Nay Thầy
khéo tu Phạm hạnh, Chánh pháp của Như Lai, chắc chắn sẽ hết khổ. Mạng
người rất ngắn, chẳng ở đời lâu. Tuy có thọ lắm cũng chẳng qua trăm tuổi,
quá trăm tuổi chẳng mấy người. Tỳ-kheo nên biết, Như Lai ra
đời rất là khó gặp, nghe Pháp cũng
khó, nhận thân tứ đại cũng lại khó được, các
căn đầy đủ cũng khó được, được sanh trung tâm của nước cũng lại khó được,
cùng thiện tri thức gặp gỡ cũng rất khó gặp; nghe pháp cũng khó;
phân biệt nghĩa lý cũng lại khó được; pháp hành
thành tựu, việc này cũng khó.
Này Tỳ-kheo! Nếu được hầu hạ thiện tri
thức sẽ có thể phân biệt các pháp, cũng sẽ giảng giải nghĩa này
rộng rãi cho người. Nếu nghe pháp rồi sẽ hay phân biệt; hay phân biệt pháp
rồi thì có thể thuyết nghĩa; không có dục tưởng, sân giận, ngu si;
đã lìa tam
độc, liền thoát khỏi sanh, già, bệnh,
chết. Nay Ta nói sơ nghĩa này.
Bấy giờ Tỳ-kheo kia nhận lời Phật dạy, liền từ chỗ ngồi
đứng lên lễ chân Thế Tôn, rồi lui
đi. Tỳ-kheo ấy ở chỗ vắng vẻ, tư duy pháp mà
do đó con nhà vọng tộc, cạo bỏ râu
tóc, xuất gia học đạo, muốn tu Phạm hạnh vô
thượng, sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã
lập, việc làm đã xong, lại không thọ
thân nữa, như thực mà biết. Bấy giờ Tỳ-kheo kia thành A-la-hán.
Bấy giờ Tỳ-kheo kia nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
9. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà,
cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.
Bấy giờ A-nan, Ða-kỳ-xà đến giờ đắp y, ôm
bát vào thành khất thực. Khi ấy, Ða-kỳ-xà trong một ngõ thấy một cô
gái, hết sức đoan chánh, đặc biệt ở đời; thấy
rồi lòng dạ rối bời, không như bình thường. Khi ấy Ða-kỳ-xà dùng kệ
nói với A-nan:
Bị lửa dục thiêu đốt,
Tâm ý rất hừng hừng,
Mong thuyết diệt nghĩa này,
Có được nhiều lợi ích.
A-nan lại dùng kệ đáp:
Biết dục, pháp điên
đảo,
Tâm ý rất hừng hừng,
Nên trừ niệm tưởng tượng,
Ý dục liền tự thôi.
Ða-kỳ-xà lại dùng kệ nói:
Tâm là gốc của hình,
Mắt là nguồn của hầu,
Nằm ngủ thấy nâng đỡ,
Hình như cỏ rối úa.
Tôn giả A-nan tức thời tiến lên, lấy tay mặt xoa
đầu Ða-kỳ-xà nói kệ:
Niệm Phật không tham dục,
Ðộ dục của Nan-đà,
Thấy trời, hiện địa ngục,
Ngừa ý, lìa năm đường.
Ða-kỳ-xà nghe Tôn giả A-nan nói xong, liền nói:
- Thôi, thôi, A-nan!
Hai vị cùng khất thực xong, trở về chỗ Thế Tôn. Khi
đó cô gái từ xa thấy Ða-kỳ-xà liền
cười. Ða-kỳ-xà thấy cô gái cười, liền sanh ý nghĩ này: 'Nay cô thân hình
do xương lập với da bọc cũng như hình vẽ trong
đó chứa đầy bất tịnh, dối gạt người đời,
khiến phát loạn tưởng'.
Bấy giờ Tôn giả Ða-kỳ-xà quán cô gái ấy từ
đầu đến chân. 'Trong thân thể này có gì
đáng tham, ba mươi sáu vật thảy đều bất tịnh.
Nay các vật này từ đâu sanh?'.
Tôn giả Ða-kỳ-xà lại nghĩ: 'Nay ta quán thân hình cô ta chẳng bằng tự
quán trong thân mình. Dục này từ đâu sanh? Từ
đất sanh chăng? Từ nước, lửa, gió sanh chăng? Nếu từ đất sanh, đất cứng
cỏi không thể tan hoại; nếu từ nước sanh, nước hết sức mềm nhuyễn không
thể gìn giữ; nếu từ lửa sanh, lửa không thể gìn giữ; nếu từ gió
sanh, gió không hình tướng, không thể gìn giữ'. Tôn giả liền nghĩ: 'Dục
này chỉ từ tư tưởng sanh'.
Bấy giờ Ngài liền nói kệ:
Dục, ta biết gốc Ngươi,
Chỉ do tư tưởng sanh,
Ta không tư tưởng Ngươi,
Thì Ngươi không có được.
Tôn giả Ða-kỳ-xà nói kệ này rồi càng suy nghĩ về tưởng bất tịnh. Ngay
chỗ đó, tâm hữu lậu được giải thoát.
A-nan và Ða-kỳ-xà ra khỏi thành La-duyệt, về chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi
ngồi một bên. Khi ấy Tôn giả Ða-kỳ-xà bạch Thế Tôn:
- Nay con chóng được lợi lành,
đã có
điều giác.
Thế Tôn bảo:
- Nay Thầy tự giác thế nào?
Ða-kỳ-xà bạch Phật:
- Sắc không bền chắc cũng không kiên cố, chẳng thể thấy, huyễn ngụy
chẳng chân. Thọ không bền chắc cũng không kiên cố, cũng như bọt nước,
huyễn ngụy chẳng chân. Tưởng không bền chắc cũng không kiên cố, huyễn
ngụy, chẳng chân, cũng như sóng nắng. Hành cũng không chắc, không kiên cố,
cũng như cây chuối không có thực. Thức không chắc cũng không kiên cố,
huyễn ngụy chẳng chân.
Tôn giả lại bạch Phật:
- Ngũ thạnh ấm này không chắc cũng không kiên cố, huyễn ngụy chẳng
chân:
Tôn giả Ða-kỳ-xà liền nói kệ:
Sắc giống như đám bọt,
Thọ như là bong bóng,
Tưởng tợ như sóng nắng,
Hành như là cây chuối,
Thức là pháp huyễn hóa.
Bậc Tối Thắng thường nói
Suy nghĩ như thế rồi
Quán hết thảy các hành,
Tất cả đều không tịch,
Không có thật chân chính,
Ðều do thân này sanh.
Ðấng Thiện Thệ thường nói
Nên đoạn diệt ba pháp,
Thấy sắc hằng bất tịnh,
Thân này là như thế,
Huyễn ngụy chẳng chân thật.
Chúng đều là pháp hại,
Ngũ ấm chẳng bền chắc.
Ðã hiểu chẳng chân thật
Nay mau tiến bước lên.
Như thế, bạch Thế Tôn! Nay chỗ hiểu của con chính là vậy.
Thế Tôn bảo:
- Lành thay! Ða-kỳ-xà! Khéo hay quán sát gốc của năm
thạnh ấm này. Nay Thầy nên biết, phàm là người tu hành nên quán sát
gốc của năm ấm này
đều chẳng kiên cố. Vì sao như thế?
Ngay lúc quán sát năm thạnh ấm này, Ta
ở dưới cây Bồ-đề thành Vô thượng Chánh
Ðẳng Giác, cũng như Thầy quán hôm nay.
Lúc thuyết pháp này có năm mươi Tỳ-kheo,
ngay chỗ ngồi được lậu tận, ý giải.
Khi ấy, tôn giả Ða-kỳ-xà nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
*
10.Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Tăng-ca-ma, con của trưởng giả,
đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy và ngồi một bên, rồi bạch Phật rằng:
- Kính mong Thế Tôn cho con nhập đạo.
Khi ấy, con trưởng giả liền được nhập đạo
ở chỗ vắng vẻ, khắc kỷ tu hành, thành tựu quả pháp mà do
đó con nhà vọng tộc cạo bỏ râu tóc,
xuất gia học đạo, sanh tử đã tận, Phạm
hạnh đã lập, việc làm
đã xong, không tái sanh nữa, như thật
mà biết. Khi ấy Tăng-ca-ma liền thành
A-la-hán. Ở chỗ nhàn vắng ngài liền sinh niệm này:
- Như Lai xuất hiện rất là khó gặp. Như Lai
đúng thời mới hiện, cũng như hoa ưu-đàm-bát
đúng thời mới hiện. Ðây cũng như thế,
Như Lai xuất hiện ở đời đúng thời mới gặp,
tất cả hành diệt cũng lại khó gặp. Xuất yếu cũng khó, ái tận, vô
dục, Niết-bàn đây là yếu diệu.
Bấy giờ mẹ vợ Tăng-ca-ma nghe con rể làm
đạo nhân, chẳng đắm mến dục nữa, bỏ lụy nhà,
lại làm thương tổn con gái mình như bỏ đống
nước bọt.
Người mẹ liền đến chỗ con gái, bảo cô
rằng:
- Chồng con thực đã hành
đạo chăng?
Cô gái đáp:
- Con cũng không chịu cho hành đạo.
Bà mẹ bảo:
- Nay con nên trang điểm, mặc y phục đẹp,
ôm con trai và gái theo, đến chỗ
Tăng-ca-ma.
Bấy giờ hai mẹ con cùng đến chỗ
Tăng-ca-ma. Tôn giả Tăng-ca-ma đang ngồi kiết già dưới một gốc cây.
Hai người đến trước, đứng lặng thinh. Khi ấy,
bà mẹ và cô gái đứng nhìn Tăng-ca-ma
từ đầu đến chân, bà mẹ bảo Tăng-ca-ma
rằng:
- Nay vì sao Ông không nói chuyện với con gái ta? Còn hai
đứa con này là con của Ông. Nay Ông
làm thật phi lý, không ai chịu được. Nay sự
suy nghĩ của Ông chẳng phải là hạnh con người.
Khi ấy tôn giả Tăng-ca-ma liền nói kệ:
Ngoài đây không có thiện,
Ngoài đây không có diệu,
Ngoài đây không có đúng,
Niệm lành không đâu hơn.
Khi ấy mẹ vợ bảo Tăng-ca-ma:
- Nay con gái ta có tội gì? Có gì phi pháp? Cớ sao Ông bỏ nó, xuất gia
học đạo?
Tăng-ca-ma nói kệ:
Chỗ dơ hành bất tịnh,
Sân giận, ưa vọng ngữ,
Tật-đố, tâm chẳng chánh,
Là điều Như Lai nói.
Bà mẹ bảo Tăng-ca-ma:
- Không riêng con gái ta có việc này mà tất cả nữ nhân
đều giống vậy. Nhân dân trong thành
Xá-vệ thấy con gái ta thảy đều bấn loạn, muốn
giao thông với nó, như khát thèm uống nước, nhìn không chán,
đều khởi đắm trước. Nay sao Ông lại bỏ nó mà
học đạo, tìm cách hủy báng? Ngày nay
nếu Ông không dùng con gái ta, thì hai đứa
con của Ông trả cho Ông tự liệu.
Tăng-ca-ma lại nói kệ:
Ta cũng không con cái,
Ruộng vườn và tài sản,
Cũng không có nô tỳ,
Quyến thuộc và tùy tùng.
Ðộc hành không bạn lữ,
Vui ở chỗ vắng nhàn,
Thực hành pháp Sa-môn,
Cầu Chánh đạo của Phật.
Người có trai, có gái,
Tập hạnh của người ngu,
Ta còn không thân ta,
Há lại có trai gái?
Khi đó, mẹ vợ và hai con nghe nói
kệ này rồi, mỗi người tự nghĩ: 'Hôm nay, như ta quán sát ý này chắc chẳng
trở về nhà'.
Và họ lại quan sát Tôn giả từ đầu đến
chân, thở dài rồi đến trước quỳ xuống
nói:
- Nếu thân miệng ý có làm gì phi pháp, đều
xin tha lỗi cho.
Rồi nhiễu ba vòng lui về nhà.
Khi ấy, Tôn giả A-nan đến giờ đắp y ôm bát
vào thành Xá-vệ khất thực, từ xa thấy bà mẹ và cô gái, liền hỏi:
- Vừa rồi có gặp Tăng-ca-ma chăng?
Bà mẹ bảo:
- Tuy gặp cũng không gặp.
A-nan hỏi:
- Có nói chuyện không?
Bà mẹ đáp:
- Tuy có nói năng cũng chẳng vào
lòng tôi.
Tôn giả A-nan liền nói kệ:
Muốn khiến lửa sanh nước,
Lại khiến nước sanh lửa,
Pháp không, muốn cho có,
Không dục, muốn khiến dục.
Tôn giả A-nan khất thực xong, trở về rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc, đến chỗ Tăng-ca-ma ngồi một
bên, bảo Tăng-ca-ma:
- Ðã biết pháp như chân chưa?
Tăng-ca-ma đáp:
- Tôi đã giác tri pháp như chân.
A-nan bảo:
- Thầy giác tri pháp như chân thế nào?
Tăng-ca-ma đáp:
- Sắc là vô thường. Nghĩa của vô thường này tức là khổ. Khổ tức là vô
ngã; vô ngã tức là không. Thọ, tưởng, hành, thức thảy
đều vô thường, nghĩa vô thường này tức
là khổ, khổ tức là vô ngã, vô ngã tức là không. Năm
thạnh ấm này là nghĩa vô thường. Nghĩa vô thường tức là khổ; tôi
không, kia có; kia không, tôi có.
Khi ấy Tăng-ca-ma liền nói kệ:
Khổ khổ lại sanh nhau,
Ðộ khổ cũng như thế,
Tám đạo phẩm Hiền Thánh,
Cho đến chỗ diệt tận,
Không trở lại đời này
Lưu chuyển trong Trời, Người,
Nên dứt nguồn gốc khổ
Ngưng hẳn không di động,
Nay tôi thấy vết không,
Như chỗ Phật đã nói,
Nay đắc A-la-hán,
Không còn tái sanh nữa.
Khi ấy Tôn giả A-nan khen rằng:
- Lành thay! Khéo hay thấu rõ pháp như chân.
A-nan nói kệ:
Khéo giữ dấu Phạm hạnh,
Cũng hay khéo tu đạo,
Ðoạn tất cả kiết sử,
Là chân đệ tử Phật.
Tôn giả A-nan nói kệ xong liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi đứng một bên. Bấy giờ A-nan
đem nhân duyên này bạch hết cho Thế
Tôn. Khi ấy, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- A-la-hán luận dục bình đẳng nên
nói chính là Tỳ-kheo Tăng-ca-ma. Hay hàng
phục quyến thuộc ma cũng là Tỳ-kheo Tăng-ca-ma.
Vì sao thế? Tỳ-kheo Tăng-ca-ma bảy
phen đến hàng ma, nay mới thành đạo.
Từ nay về sau, cho bảy phen hành đạo.
Quá hạn này là phi pháp.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Trong hàng Thanh văn của Ta, Tỳ-kheo hay
hàng phục ma, nay mới thành đạo, chính
là Tỳ-kheo Tăng-ca-ma.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
XXXVI. Phẩm Thính pháp (Dhammasavana)
1. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Tùy thời nghe pháp có năm công đức. Tùy
thời lãnh thọ chẳng mất thứ lớp. Thế nào là năm?
Ðiều chưa từng nghe sẽ được nghe; điều
đã được nghe, đọc tụng lần nữa; cái
thấy không bị tà, lệch; không có hồ nghi; liền hiểu nghĩa thậm
thâm.
Tùy thời nghe pháp có năm công đức. Thế nên
các Tỳ-kheo nên tìm phương tiện tùy thời nghe pháp. Như thế, các Tỳ-kheo,
nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
*
2. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Tạo phòng tắm có năm công đức. Thế nào
là năm? Trừ phong, bịnh được lành, trừ
bỏ cáu bẩn, thân thể nhẹ nhàng, được mập
trắng.
Ðó là, này Tỳ-kheo! Tạo nhà tắm có năm
công đức này. Thế nên các Tỳ-kheo, nếu có bốn bộ chúng muốn cầu năm
công đức này, nên tìm phương tiện tạo lập phòng tắm. Như thế, các
Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
*
3. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Bố thí tăm xỉa răng cho người có năm
công đức. Thế nào là năm? Trừ phong,
trừ nước miếng, sanh tạng được tiêu, trong miệng không hôi, mắt
được trong sạch.
Ðó là, này Tỳ-kheo! Cho người tăm xỉa răng
có năm công đức. Nếu Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn nào cầu năm
công đức này, nên nhớ đem tăm xỉa răng
bố thí. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học
điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
*
4. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy có thấy người giết trâu do tạo nghiệp này mà sau
được cỡi xe, ngựa, voi lớn chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
- Thưa không, Thế Tôn!
Thế Tôn bảo:
- Lành thay! Các Tỳ-kheo! Ta cũng chẳng thấy, chẳng nghe người mổ giết
hại trâu, rồi lại được cỡi xe, ngựa, voi lớn.
Sở dĩ như thế vì Ta cũng chẳng thấy người mổ trâu
được cỡi xe, ngựa, voi lớn, trọn không có lý
này. Thế nào, Tỳ-kheo! Các Thầy có thấy người giết dê, giết heo,
người săn bắn nai, những người như thế tạo
việc ác này rồi được có tài
sản, sau được cỡi xe, ngựa, voi lớn chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
- Thưa không, Thế Tôn!
Thế Tôn bảo:
- Lành thay! Các Tỳ-kheo! Ta cũng chẳng thấy, chẳng nghe người giết dê,
sát hại các sinh vật, rồi được cỡi xe, ngựa,
voi lớn, trọn không có lý này. Tỳ-kheo các Thầy! Nếu thấy người
giết trâu cỡi xe, ngựa, đây là phước
đời trước chẳng phải phước đời này,
đều là việc làm cũ của
đời trước đưa đến. Các Thầy nếu thấy người
giết dê được cỡi xe, ngựa, nên
biết người này gieo trồng phước cũ ở đời
trước. Vì sao thế? Vì tâm sát chẳng trừ. Vì cớ sao? Nếu có người
gần gũi người ác, ưa thích sát sanh, gieo trồng tội
địa ngục thì nếu trở lại làm người,
thọ mạng sẽ rất ngắn. Nếu lại có người ưa thích trộm cắp, gieo trồng tội
địa ngục thì cũng như người mổ trâu
kia, mua rẻ bán đắt, dối gạt người đời, chẳng
theo Chánh pháp. Người giết trâu cũng lại như thế, do tâm sát nên
gây tội lỗi này; chẳng được cỡi xe, ngựa, voi
lớn. Thế nên các Tỳ-kheo nên khởi tâm từ
đối với tất cả chúng sanh. Như thế, các
Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
*
5. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn cùng chúng đại Tỳ-kheo năm
trăm người câu hội. Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân, như trong khoảng co
duỗi cánh tay, đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi
ngồi một bên. Thích-đề-hoàn-nhân
bạch Thế Tôn:
- Như Lai cũng nói, phàm Như Lai ra đời ắt
sẽ vì năm việc. Thế nào là năm?
Sẽ chuyển Pháp luân; sẽ độ cha mẹ; người không tin, lập lòng tin;
người chưa phát tâm Bồ-tát khiến phát tâm Bồ-tát; ở trong ấy sẽ truyền
trao Phật quyết. Như Lai xuất hiện sẽ vì năm
nhân duyên này. Nay Phật mẫu ở cõi trời Ba mươi ba muốn
được nghe pháp. Nay Như Lai ở trong Diêm-phù-đề,
bốn bộ chúng vây quanh, Quốc vương, nhân dân đều tụ hội. Lành thay!
Thế Tôn nên đến trời Ba mươi ba thuyết pháp
cho mẹ.
Khi ấy, Thế Tôn làm thinh nhận lời. Long vương Nan-đà,
Ưu-bàn-nan-đà liền nghĩ: 'Các Sa-môn
trọc đầu này, bay ở trên ta, nên tìm
phương tiện cho họ không di chuyển được'.
Khi ấy, Long-vương nổi giận phóng gió lửa lớn khiến trong cõi Diêm-phù-đề
lửa cháy hừng hực. Khi ấy A-nan bạch Phật:
- Trong Diêm-phù-đề này, vì sao có
lửa khói này?
Thế Tôn bảo:
- Ðây là hai Long-vương nghĩ rằng: 'Sa-môn trọc
đầu thường bay ở trên ta, chúng ta nên
khống chế họ đừng cho lấn chiếm hư không';
rồi nổi giận phóng lửa khói này. Do nhân duyên này nên có sự biến
hiện ấy.
Khi ấy Ðại-ca-diếp liền từ chỗ ngồi đứng
dậy bạch Thế Tôn:
- Nay con muốn đến đánh nhau với họ.
Thế Tôn bảo:
- Hai Long vương này rất là hung ác, khó thể chịu giáo hóa. Thầy về chỗ
ngồi đi.
Tôn giả A-na-luật liền từ chỗ ngồi đứng
dậy bạch Thế Tôn:
- Nay con muốn đến hàng phục rồng
dữ kia.
Thế Tôn bảo:
- Hai rồng dữ này rất là hung bạo, khó thể chịu giáo hóa. Thầy trở về
chỗ ngồi đi.
Tôn giả Ly-việt, Tôn giả Ca-chiên-diên, Tôn giả Tu-bồ-đề,
Tôn giả Ưu-đà-di, Tôn giả Ba-kiệt (Sa-kiệt) mỗi người từ chỗ ngồi
đứng dậy bạch Thế Tôn:
- Nay con muốn đến hàng phục rồng
dữ.
Thế Tôn bảo:
- Hai Long vương này rất là hung ác, khó thể chịu giáo hóa. Thầy về chỗ
đi.
Bấy giờ, Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên từ chỗ ngồi
đứng dậy, bày lộ vai phải, quỳ gối
chắp tay bạch Phật:
- Con muốn đến đó hàng phục rồng
dữ.
Thế Tôn bảo:
- Hai Long vương này rất là hung ác, khó thể chịu giáo hóa, nay Thầy
làm sao cảm hóa Long vương kia?
Mục-liên bạch Phật:
- Trước tiên con đến đó hóa hình
hết sức lớn làm rồng kia khủng khiếp. Sau đó
con lại hóa hình hết sức nhỏ rồi mới dùng phép tắc thường mà hàng
phục.
Thế Tôn bảo:
- Lành thay Mục-liên! Nay Thầy đủ sức hàng
phục rồng dữ. Nhưng này Mục-liên! Kiên trì tâm ý chớ khởi loạn tưởng. Vì
sao thế? Rồng kia hung ác, đủ xúc nhiễu Thầy.
Mục-liên liền lễ chân Phật, trong khoảng co duỗi cánh tay biến mất;
đến trên núi Tu-di. Bấy giờ Long vương
Nan-đà và Ưu-bàn-nan-đà
lượn quanh núi Tu-di bảy vòng, cực kỳ sân giận phun khói lửa lớn. Khi ấy
Mục-liên tự ẩn mình, hóa làm Ðại Long vương có mười bốn
đầu, lượn quanh núi Tu-di mười bốn vòng,
phun khói lửa mạnh, trụ ở ngay trên hai Long vương.
Bấy giờ Long vương Nan-đà,
Ưu-bàn-nan-đà thấy Ðại Long vương có
mười bốn đầu liền sanh lòng sợ hãi,
nói với nhau:
- Hôm nay chúng ta nên thử oai lực của Long vương này, xét xem có thắng
ta hay không?
Long vương Nan-đà, Ưu-bàn-nan-đà
lấy đuôi quậy trong biển lớn, lấy nước rảy
khắp trời Tam thập tam cũng không trúng nhằm thân Mục-liên. Khi ấy
Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên lại lấy đuôi quậy
trong nước biển lớn, nước bèn lên đến
trời Phạm-ca-di và lại tưới trên thân hai Long vương. Hai Long
vương nói với nhau:
- Chúng ta dùng hết thế lực, lấy nước tưới trời Ba mươi ba mà Ðại Long
vương này lại hơn quá chúng ta. Chúng ta chính có bảy
đầu, nay Long vương này mười bốn
đầu. Chúng ta nhiễu núi Tu-di bảy vòng,
nay Long vương này nhiễu núi Tu-di mười bốn vòng. Nay hai Long vương mình
nên chung sức chiến đấu với hắn.
Khi ấy hai Long vương hết sức giận dữ nổi sấm chớp sét rền, phun lửa
rực lớn. Tôn giả Mục-liên liền nghĩ: 'Phàm rồng chiến
đấu dùng lửa sấm sét, nếu ta dùng lửa
sấm sét chiến đấu thì nhân dân trong
cõi Diêm-phù-đề và trời Ba mươi ba
đều sẽ bị hại. Nay ta hóa hình cực nhỏ
để chiến đấu'.
Mục-liên liền hóa hình nhỏ xíu, chui vào miệng rồng rồi chun ra lỗ mũi,
hoặc vào lỗ mũi rồi chui ra lỗ tai, hoặc vào lỗ tai rồi chui ra con mắt,
đã ra khỏi mắt lại
đi trên lông mi.
Khi đó hai Long vương hết sức sợ hãi,
liền nghĩ rằng:
- Ðại Long vương này rất có oai lực, có thể vào miệng ra mũi, vào mũi
ra mắt. Hôm nay chúng ta thật chẳng bằng. Loài rồng chúng ta nay có bốn
loại: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, nhưng không ai vượt qua
nổi chúng ta. Nay long vương này uy lực như thế, chẳng thể
đánh nhau nổi. Tánh mạng chúng ta chết trong
chốc lát.
Cả hai sợ hãi, áo lông dựng đứng. Mục-liên
đã thấy Long vương sanh lòng sợ hãi,
lại ẩn hình, trở lại hình dung bình thường đi
trên mí mắt rồng. Khi ấy hai Long vương thấy Ðại Mục liên, tự nói
với nhau:
-Ðây là Sa-môn Mục-liên, cũng chẳng phải Long vương. Thật là kỳ lạ ! Vị
này có đại oai lực, có thể đánh nhau với ta !
Bấy giờ hai Long vương bạch Mục-liên rằng:
-Tôn giả sao lại xúc nhiễu ta như thế ? Muốn răn
dạy điều gì ?
Mục-liên bảo:
-Các Ông hôm qua nghĩ rằng: ' Làm sao mà Sa-môn trọc
đầu lại bay trên ta. Nay ta sẽ chế
ngự' phải không ?
Long vương đáp:
- Ðúng thế, Mục-liên !
Mục-liên bảo:
-Long vương nên biết ! Núi Tu-di này là
đường đi của chư thiên, chẳng phải chỗ ở của Ông.
Long vương thưa:
- Cúi mong tha thứ, chúng con chẳng biết tội nặng, từ nay về sau sẽ
không dám xúc nhiễu, nổi loạn tưởng ác. Cúi mong nhận chúng con làm
đệ tử.
Mục-liên đáp:
- Các ông chớ quy y ta. Nơi ta quy y, các Ông hãy quy y.
Long vương bạch Mục-liên:
-Các Ông không thể ở núi Tu-di này mà quy y Thế Tôn. Nay nên cùng ta
đến thành Xá-vệ mới quy y
được.
Mục-liên dẫn hai Long vương, như trong khoảng co duỗi cánh tay, từ trên
núi Tu-di đến thành Xá-vệ. Bấy giờ Thế
Tôn đang thuyết pháp cho vô số chúng. Mục-liên
bảo hai vua rồng:
- Các Ông nên biết. Hôm nay Thế Tôn thuyết pháp cho vô số chúng, các
Ông không thể để thân hình này mà
đến chỗ Phật.
Long vương bảo:
- Ðúng vậy, Mục-liên !
Long vương liền ẩn hình rồng, hóa hình thành người không cao, không
thấp, dung mạo đoan chánh như màu hoa
đào. Mục-liên
đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên.
Khi ấy Mục-liên bảo Long vương:
- Nay chính là lúc nên tiến đến !
Long vương nghe Mục-liên nói, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, quỳ xuống chấp tay, bạch Thế Tôn:
- Hai chúng con, một tên là Nan-đà,
hai là Ưu-bàn-nan-đà xin quy y Như
Lai, thọ trì ngũ giới. Cúi mong Thế Tôn cho phép chúng con làm Ưu-bà-tắc,
trọn đời không sát sanh nữa.
Thế Tôn búng ngón tay chấp nhận. Hai Long vương trở về chỗ muốn
được nghe pháp.
Lúc ấy, vua Ba-tư-nặc liền nghĩ: 'Có nhân duyên gì khiến trong cõi
Diêm-phù-đề khói lửa như thế?'. Vua Ba-tư-nặc
liền cỡi xe kiệu ra khỏi thành Xá-vệ
đến chỗ Thế Tôn. Khi ấy, nhân dân từ xa thấy vua đến, đều cùng
đứng dậy tiếp đón:
- Kính chào Ðại vương, hãy đến đây ngồi.
Hai Long vương làm thinh chẳng đứng lên.
Vua Ba-tư-nặc cúi lạy Thế Tôn rồi ngồi một bên. Khi ấy Ðại vương bạch Thế
Tôn:
- Nay con muốn hỏi. Cúi mong Thế Tôn diễn bày từng việc cho.
Thế Tôn bảo:
- Muốn hỏi gì, nay chính phải lúc.
Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
- Có nhân duyên gì khiến trong cõi Diêm-phù-đề
này khói lửa đến thế?
Thế Tôn bảo:
- Do Long vương Nan-đà và
Ưu-bàn-nan-đà tạo nên. Nhưng Ðại vương
chớ sợ hãi, ngày nay không còn biến ra khói lửa nữa.
Vua Ba-tư-nặc liền nghĩ: 'Nay ta là Ðại vương của nước. Nhân dân sùng
kính, danh vang bốn phương. Hai người này từ
đâu tới, thấy ta đến cũng không đứng dậy đón rước? Nếu ở trong nước ta, ta
sẽ bắt giam, nếu ở nước khác đến ta sẽ giết chết'.
Khi ấy Long vương biết tâm vua Ba-tư-nặc nghĩ như thế liền tức giận.
Long vương liền nghĩ: 'Chúng ta chẳng có lỗi gì với vua này, thế mà vua
này muốn hại ngược lại ta. Cần phải đem Quốc
vương và dân nước Ca-di giết hết'.
Long vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi
lạy Thế Tôn rồi đi; lìa Kỳ Hoàn chẳng xa thì biến mất. Vua
Ba-tư-nặc thấy người này đi, chưa bao lâu
bạch Thế Tôn:
- Quốc sự bận rộn, con muốn về cung.
Thế Tôn bảo:
- Nên biết phải thời!
Vua Ba-tư-nặc từ chỗ ngồi đứng lên
lui đi; bảo quần thần:
- Hai người vừa rồi đi theo đường nào?
Mau bắt lấy!
Quần thần nghe vua ra lệnh liền đuổi theo
tìm mà chẳng biết chỗ, liền trở về cung.
Khi đó Long vương Nan-đà và
Ưu-bàn-nan-đà, mỗi người nghĩ rằng:
'Chúng ta không có lỗi với vua đó, vừa rồi
vua đó lại muốn bắt chúng ta để hại. Chúng ta nên làm hại hết nhân
dân của ông ta không sót một ai'.
Khi ấy Long vương lại nghĩ rằng: 'Nhân dân trong nước có tội lỗi gì?
Nên bắt nhân dân trong thành Xá-vệ hại đi'.
Rồi lại nghĩ nữa: 'Dân nước Xá-vệ có lỗi gì với chúng ta. Nên
đem các quan lại thuộc hạ trong Vương cung
giết sạch'.
Bấy giờ Thế Tôn đã biết trong lòng
Long vương nghĩ gì, liền bảo Tôn giả Mục-liên:
- Nay Thầy nên cứu vua Ba-tư-nặc, chớ để
cho Long vương Nan-đà và Ưu-bàn-nan-đà
làm hại.
Mục-liên đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Mục-liên vâng lời Phật dạy, cúi lạy rồi lui
đi, ở trên Vương cung ngồi kiết-già,
chẳng hiện thân. Hai Long vương kéo sấm sét vang rền, gió mưa dồn dập trên
Vương cung. Hoặc mưa ngói đá, hoặc mưa đao
kiếm, chưa rơi xuống đất đã thành hoa sen Ưu-bát trong hư không.
Khi ấy Long vương càng thêm giận dữ, mưa ra núi cao lớn ở trên cung
điện, Mục-liên lại hóa thành các thức
ăn uống. Khi ấy Long vương nổi giận đùng
đùng, mưa các
đao kiếm, Mục-liên lại khiến biến
thành y phục thật đẹp. Long vương càng
giận dữ, mưa cát đá lửa trên cung
Ba-tư-nặc, cát đá chưa rớt xuống đất lại hóa
thành bảy báu. Vua Ba-tư-nặc thấy trong cung
điện mưa các thứ bảy báu, vui mừng hớn hở
không thể tự kềm, liền nghĩ: 'Trong cõi Diêm-phù-đề,
người có đức không ai hơn ta, chỉ trừ Như Lai. Vì sao thế? Trong
nhà ta, trên một gốc lúa thu thập được mười
đấu lúa; nấu cơm với nước mía hết sức thơm ngon. Nay lại ở trên
cung điện mưa bảy báu. Ta có lẽ được làm
Chuyển luân Thánh vương ư?
Vua Ba-tư-nặc ra lệnh các thể nữ thu lượm bảy báu. Khi ấy hai Long
vương bảo nhau:
- Hôm nay sắp có ý gì? Chúng ta lúc đến
muốn hại vua Ba-tư-nặc, nay biến hóa ra thế. Bao nhiêu thế lực hôm
nay hiện hết còn chẳng động đến vua Ba-tư-nặc
được mảy may.
Khi ấy Long vương thấy Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên ở trên cung
điện ngồi kiết-già, chính thân chính
ý, thân không xiêu vẹo. Thấy rồi liền nghĩ: 'Ðây chắc là do ngài Mục-liên
làm'.
Hai Long vương thấy Mục-liên rồi liền lui
đi. Mục-liên thấy Long vương đi liền
xả thần túc, về chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Khi
đó vua Ba-tư-nặc liền nghĩ rằng: 'Nay các
thức ăn uống này chẳng nên ăn trước. Nên
trước hết dâng lên Như Lai rồi sau mới đến mình'.
Vua Ba-tư-nặc lấy xe chở trân bảo và các thức
ăn uống đến chỗ Thế Tôn rồi bạch:
- Hôm qua trời mưa bảy báu và các thức ăn
uống này. Cúi mong Thế Tôn nạp thọ.
Bấy giờ Ðại Mục-kiền-liên cách Thế Tôn chẳng xa. Phật bảo vua rằng:
- Nay Ðại vương nên đem thức ăn uống và
bảy báu cúng cho Ðại Mục-liên. Vì sao thế? Nhờ ơn Mục-liên mà Ðại vương
được sống lại trên
đất Thánh hiền.
Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
- Có nhân duyên gì mà nói là con sống lại?
Thế Tôn bảo:
- Khi sớm chẳng phải vua đến chỗ Ta định
nghe pháp đó sao? Lúc ấy có hai người cũng đến nghe pháp. Vua sanh niệm này:
'Ta ở nước này là bậc hào quý đệ nhất, được
mọi người kính nể. Nhưng hai người này từ
đâu tới, thấy ta chẳng đứng dậy tiếp đón'.
Vua bạch Phật:
- Thực vậy Thế Tôn!
Thế Tôn bảo:
- Ðây chẳng phải là người mà là Long vương Nan-đà,
Ưu-bàn-nan-đà. Họ biết ý vua nên nói
với nhau rằng: 'Chúng ta không có lỗi đối với
nhân vương này, cớ sao ngược lại muốn hại ta? Cần nên tìm cách diệt
nước này'. Ta biết được ý của Long vương bèn
sai Mục-liên: 'Nay nên cứu vua Ba-tư-nặc, chẳng
để bị rồng hại'. Thầy ấy vâng lời Ta dạy, ở
trên cung điện ẩn hình chẳng
hiện, tạo sự biến hóa này. Khi ấy Long vương hết sức giận dữ, mưa cát,
ngói, đá ở trên cung
điện, lúc chưa rơi xuống đất đã hóa
thành các thứ ẩm thực, y phục, bảy báu. Do nhân duyên này, hôm nay Ðại
vương coi như sống lại.
Khi ấy, vua Ba-tư-nặc kinh sợ, lông áo dựng
đứng, quỳ gối đi đến trước Như Lai mà
bạch Phật:
- Cúi mong Thế Tôn, rũ ơn thâm hậu, cứu giúp sinh mạng của con.
Vua lại dạy Tôn giả Mục-liên, cung kính:
- Mong nhờ ơn của Tôn giả được cứu mạng
sống.
Bấy giờ Quốc vương liền nói kệ:
Chí Tôn thọ vô cùng,
Luôn luôn hộ mạng con,
Ðộ thoát khổ nguy cùng,
Nhờ Ngài được thoát nạn.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc dùng hương hoa trời rải trên thân Như Lai và nói:
- Nay con đem bảy báu này dâng lên
Tam bảo. Cúi mong thâu nhận.
Vua cúi lạy, nhiễu Phật ba vòng rồi lui
đi. Khi ấy Thế Tôn liền nghĩ rằng: 'Bốn bộ chúng này có nhiều giải
đãi, đều
chẳng nghe pháp, cũng không cầu phương tiện thân chứng, cũng lại không cầu
điều chưa được khiến được, điều chưa đắc khiến đắc. Nay Ta nên làm
cho bốn bộ chúng khát ngưỡng pháp'.
Bấy giờ Thế Tôn chẳng báo cho bốn bộ chúng, cũng chẳng
đem thị giả, như trong khoảng thời gian co
duỗi cánh tay biến mất khỏi Kỳ Hoàn,
đến cõi trời Tam thập tam. Khi ấy Thích-đề-hoàn-nhân
xa thấy Thế Tôn đến, liền dẫn Thiên
chúng đến trước rước Thế Tôn, cúi lạy và
thỉnh đến tòa ngồi, cùng nói rằng:
- Kính chào Thế Tôn! Ly biệt đã lâu
không đến thăm.
Khi ấy Thế Tôn tự nghĩ: 'Nay Ta sẽ dùng sức thần túc tự ẩn hình khiến
mọi người không thấy Ta ở đâu'.
Bấy giờ Thế Tôn lại nghĩ: 'Nay Ta ở cõi trời Tam thập tam hóa thân hết
sức to lớn'.
Khi ấy giảng đường Thiện Pháp trên
trời có tảng đá vàng to rộng một
do-tuần, Thế Tôn ngồi kiết-già khắp kín trên
đá. Bà Ma-gia, dẫn các Thiên nữ đến
chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên và nói rằng:
- Không phụng sự Ngài quá lâu, nay Ngài
đến đây thực là đại hạnh; mong mỏi nhớ
nghĩ gặp Phật, hôm nay Phật mới đến.
Khi ấy bà Ma-gia cúi lạy rồi ngồi một bên. Thích-đề-hoàn-nhân
cũng lạy Như Lai rồi ngồi một bên. Lúc đó,
chúng của chư Thiên thấy Như Lai, ở đó
tăng thêm Thiên chúng, giảm bớt chúng A-tu-la. Bấy giờ Thế Tôn dần
dần thuyết diệu luận cho chúng chư Thiên kia. Những luận về thí luận, giới
luận, luận sanh thiên; dục là tưởng bất tịnh; dâm là uế ác; xuất yếu là
vui.
Bấy giờ Thế Tôn đã thấy các chúng
đến nghe, và chư Thiên tâm ý khai mở.
Pháp chư Phật Thế Tôn thường thuyết: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo; Ngài
đều thuyết hết cho chư Thiên. Mọi
người đều ở tại tòa, các trần cấu hết,
được pháp nhãn thanh tịnh. Lại có mười
tám ức Thiên nữ thấy đạo tích; ba vạn sáu ngàn
Thiên chúng được pháp nhãn tịnh. Khi
ấy bà Ma-gia liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi
lạy rồi trở về cung. Thích-đề-hoàn-nhân bạch Phật:
- Nay con nên dùng thức ăn gì
để dọn cho Như Lai? Dùng thức
ăn của nhân gian hay dùng thức
ăn tự nhiên của Trời?
Thế Tôn bảo:
- Nên dùng thức ăn của nhân gian dọn cho
Như Lai.Vì sao vậy? Thân Ta sanh ở nhân gian, lớn lên ở nhân gian,
thành Phật ở nhân gian.
Thích-đề-hoàn-nhân bạch Phật:
- Xin vâng Thế Tôn!
Thích-đề-hoàn-nhân lại bạch Phật:
- Dùng thời tiết trên trời hay dùng thời tiết nhân gian?
Thế Tôn bảo:
- Dùng thời tiết nhân gian.
- Xin vâng, Thế Tôn.
Khi ấy Thích-đề-hoàn-nhân liền lấy
thức ăn của nhân gian, lại dùng thời
tiết nhân gian dọn ăn cho Như Lai.
Bấy giờ Trời Tam thập tam bảo nhau rằng:
- Nay chúng ta thấy Như Lai trọn ngày ăn
cơm.
Thế Tôn liền nghĩ: 'Nay Ta nên nhập Như thị tam-muội muốn khiến chư
Thiên đến thì
đến, muốn cho chư Thiên lui thì lui'.
Khi ấy, Thế Tôn nhập vào tam-muội này làm chư Thiên
đến lui tùy thời.
Bốn bộ chúng ở nhân gian đã lâu
không thấy Như Lai, đi đến chỗ Tôn giả A-nan
bạch:
- Như Lai nay ở đâu? Chúng con mong mỏi
được thấy.
Tôn giả A-nan đáp:
- Chúng tôi cũng chẳng biết Như Lai ở đâu.
Khi ấy vua Ba-tư-nặc, vua Ưu-điền đến chỗ
A-nan, hỏi A-nan rằng:
- Hôm nay Như Lai ở đâu?
Tôn giả A-nan đáp:
- Ðại vương! Tôi cũng chẳng biết chỗ Như Lai ở.
Hai vua nhớ mong, muốn gặp Như Lai bèn đau
khổ. Bấy giờ quần thần đến chỗ vua Ưu-điền, tâu vua rằng:
- Nay bị bịnh gì?
Vua đáp:
- Nay ta vì sầu lo thành bệnh.
Quần thần tâu vua:
- Vì sao mà sầu lo thành bệnh?
Vua đáp:
- Do chẳng thấy Như Lai, nếu ta không thấy Như Lai, ta sẽ chết mất!
Quần thần liền nghĩ: 'Phải dùng cách gì cho vua Ưu-điền
không mạng chung. Chúng ta nên làm hình tượng Như Lai.
Quần thần tâu vua:
- Chúng tôi muốn làm hình tượng, cũng có thể cung kính, thừa sự, lễ
bái.
Vua nghe xong, vui mừng hớn hở không dừng
được, bảo quần thần:
- Lành thay! Các Khanh nói rất hay!
Quần thần tâu vua nên lấy báu gì làm hình tượng Như Lai. Vua liền ra
lệnh các thầy thợ kỹ xảo trong nước rằng:
- Nay ta muốn làm hình tượng.
Thợ khéo đáp:
- Xin vâng, Ðại vương!
Vua Ưu-điền liền lấy Ngưu-đầu Chiên-đàn
làm hình tượng Như Lai cao năm thước.
Vua Ba-tư-nặc nghe vua Ưu-điền làm
hình tượng Phật cao năm thước để cúng dường.
Vua Ba-tư-nặc liền mời thợ khéo trong nước mà bảo:
- Nay ta muốn làm hình tượng Như Lai. Các người phải làm cho xong ngay!
Vua Ba-tư-nặc nghĩ: 'Nên dùng báu gì làm hình tượng Như Lai?' Chốc lát
lại nghĩ: 'Hình thể Như Lai vàng như thiên kim, nên lấy vàng làm hình
tượng Như Lai'.
Vua Ba-tư-nặc, lấy toàn vàng tử-ma làm tượng Như Lai cao năm
thước. Bấy giờ cõi Diêm-phù-đề mới có
hai hình tượng Như Lai này. Khi ấy bốn bộ chúng
đến chỗ Tôn giả A-nan bạch:
- Chúng tôi khát ngưỡng Như Lai, nhớ muốn thăm
viếng Ngài. Nay Như Lai ở đâu?
A-nan đáp:
- Chúng tôi cũng chẳng biết chỗ Như Lai ở. Nhưng nay hãy cùng
đến chỗ A-na-luật mà hỏi nghĩa này. Vì
sao vậy? Tôn giả A-na-luật thiên nhãn đệ
nhất, thanh tịnh không vết nhơ. Tôn giả dùng thiên nhãn thấy một
ngàn thế giới, hai ngàn thế giới, ba ngàn đại
thiên thế giới. Tôn giả có thể thấy biết.
Bốn bộ chúng cùng A-nan đến chỗ Tôn giả
A-na-luật, bạch A-na-luật:
- Nay bốn bộ chúng này đến chỗ tôi hỏi:
'Hôm nay Thế Tôn ở đâu?'. Cúi mong Tôn giả
dùng thiên nhãn xem Như Lai ở chỗ nào?
Tôn giả A-na-luật bảo:
- Các Ông hãy chờ. Nay tôi muốn xem Như Lai trọn ở chỗ nào?
Khi ấy, A-na-luật chánh thân, chánh ý, buộc niệm ở trước, dùng thiên
nhãn xem trong cõi Diêm-phù-đề mà
chẳng thấy. Tôn giả lại dùng thiên nhãn xem Cù-da-ni, Phật-vu-đại,
Uất-đơn-việt mà chẳng thấy; lại xem trời Tứ thiên vương, trời Tam
thập tam, Diệm thiên, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại,
cho đến xem Phạm thiên mà chẳng thấy
đâu; lại xem ngàn Diêm-phù-đề,
ngàn Cù-da-ni, ngàn Uất-đơn-việt, ngàn
Phất-vu-đãi, ngàn Tứ thiên vương, ngàn
Diệm thiên, ngàn trời Ðâu-suất, ngàn trời Hóa tự tại, ngàn trời Tha hóa tự
tại, ngàn Phạm thiên mà chẳng thấy Như Lai; lại xem ba ngàn
đại thiên cõi nước mà chẳng thấy.
Tôn giả A-na-luật liền từ tòa đứng dậy,
nói với Tôn giả A-nan:
- Nay tôi đã xem ba ngàn
đại thiên cõi nước mà không thấy.
Bấy giờ A-nan và bốn bộ chúng đứng lặng
thinh. A-nan nghĩ: 'Như Lai sẽ không nhập Niết-bàn chứ?'.
Khi đó, Trời Tam thập tam mỗi người tự bảo
nhau:
- Chúng ta mừng được lợi lành. Cúi
mong bảy Phật thường hiện ở đời. Trời và
Người đời được nhiều lợi ích.
Hoặc có vị Trời bảo rằng:
- Hãy gác bảy Phật, chỉ cho có sáu Phật cũng rất tốt.
Hoặc có vị Trời nói:
- Chỉ cho có năm Phật.
Hoặc chư vị nói bốn Phật, hoặc nói ba Phật, hoặc nói hai Phật xuất hiện
ở đời, có nhiều lợi ích.
Thích-đề-hoàn-nhân bảo chư Thiên:
- Hãy gác bảy Phật cho đến hai Phật. Chỉ
khiến ngày nay Phật Thích-ca-văn trụ
lâu ở đời, thì được nhiều lợi ích.
Bấy giờ ý Như Lai muốn chư Thiên đến, chư
Thiên liền đến, ý muốn cho chư Thiên
đi, chư Thiên liền
đi. Lúc ấy, Trời Tam thập tam bảo nhau:
- Như Lai cớ sao trọn ngày một lần ăn?
Thích-đề-hoàn-nhân bảo Trời Tam
thập tam:
- Nay Như Lai ăn theo thời tiết của nhân
gian, chẳng dùng thời tiết trên trời.
Thế Tôn trải qua ba tháng, liền nghĩ: 'Người trong bốn bộ chúng ở
Diêm-phù-đề chẳng thấy Ta đã lâu, có
lòng rất mong. Nay Ta nên bỏ thần túc khiến các Thanh văn
biết Như Lai ở trời Tam thập tam'.
Khi ấy Thế Tôn liền xả thần túc. Tôn giả A-nan
đến chỗ Tôn giả A-na-luật mà thưa
rằng:
- Nay bốn bộ chúng rất khát ngưỡng mong thấy Như Lai. Nhưng nay Như Lai
không phải diệt độ chứ?
A-na-luật bảo A-nan:
- Ðêm qua có vị Trời đến chỗ tôi nói rằng:
Như Lai ở giảng đường Thiện Pháp cõi trời Tam thập tam. Nay Thầy
hãy chờ. Tôi muốn xem chỗ Như Lai ở.
Tôn giả A-na-luật liền ngồi kiết-già, chính thân chính ý, tâm không di
động, dùng thiên nhãn xem trời Tam
thập tam, thấy Thế Tôn ngồi trên tảng đá
vuông vắn một do-tuần. Khi ấy A-na-luật từ tam-muội dậy bảo A-nan:
- Nay Như Lai ở trời Tam thập tam thuyết pháp cho mẹ.
Tôn giả A-nan và bốn bộ chúng hoan hỉ hớn hở không thể kềm
được. A-nan hỏi bốn bộ chúng:
- Ai có thể đảm nhận đến trời Tam thập tam
thăm hỏi Như Lai?
Tôn giả A-na-luật nói:
- Nay Tôn giả Mục-liên, thần túc đệ nhất,
mong dùng sức thần đến thăm hỏi Như
Lai.
Khi ấy bốn bộ chúng bạch Tôn giả Mục-liên:
- Hôm nay Như Lai ở cõi trời Tam thập tam. Cúi mong Tôn giả
đem danh tánh bốn chúng thăm hỏi Như Lai, lại
đem nghĩa này đến bạch Như Lai: 'Thế
Tôn ở tại Diêm-phù-đề, nơi thế gian
đắc đạo. Mong rũ oai thần trở về thế gian'.
Mục-liên bảo:
- Rất tốt, chư Hiền!
Mục-liên nhận lời bốn bộ chúng, trong khoảng thời gian co duỗi cánh tay
lên đến trời Tam thập tam, tới chỗ Như
Lai. Thích-đề-hoàn-nhân và Trời Tam
thập tam xa thấy Mục-liên đến. Chư Thiên
mỗi người nghĩ: 'Ðây chắc là sứ giả của Tăng,
cũng như sứ giả của các vua'. Bấy giờ chư Thiên
đều đứng lên,
đến đón.
- Kính chào Tôn giả!
Tôn giả Mục-liên xa thấy Thế Tôn thuyết pháp cho vô số chúng; thấy rồi
nghĩ rằng: 'Thế Tôn ở trong cõi trời này cũng lại phiền phức, ồn ào'.
Mục-liên đến chỗ Thế Tôn cúi lạy, đứng một bên.
Bấy giờ Mục-liên bạch Phật:
- Thế Tôn! Chúng bốn bộ thăm hỏi Như Lai
được mạnh khỏe, nhẹ nhàng thư thái.
Tôn giả bạch việc này:
- Như Lai sanh trưởng trong Diêm-phù-đề, ở
thế gian đắc đạo. Cúi mong Thế Tôn trở lại thế gian. Bốn bộ chúng khao
khát muốn gặp Thế Tôn.
Thế Tôn bảo:
- Chúc bốn bộ chúng tiến tu đạo nghiệp,
không có mệt mỏi. Thế nào Mục-liên! Bốn bộ chúng du hóa mệt chăng?
Không tranh tụng chăng? Ngoại đạo dị học không xúc nhiễu chăng?
Mục-liên đáp:
- Bốn bộ chúng hành đạo không mỏi mệt.
- Nhưng này Mục-liên! Vừa rồi Thầy nghĩ rằng Như Lai ở
đây cũng phiền não. Việc này chẳng
đúng. Vì sao thế? Thời thuyết pháp của
Ta không lâu, nếu Ta nghĩ rằng muốn khiến chư Thiên
đến, họ liền đến; muốn khiến chư Thiên
chẳng đến, họ liền chẳng đến. Mục-liên!
Thầy trở về thế gian, sau bảy ngày nữa, Như Lai sẽ
đến nước Tăng-ca-thi bên ao nước lớn.
Lúc ấy, Mục-liên trong khoảng thời gian co duỗi cánh tay trở về thành
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc,
đến bốn bộ chúng mà nói rằng:
- Chư Hiền nên biết! Sau bảy ngày Như Lai sẽ xuống cõi Diêm-phù-đề
bên ao nước lớn Tăng-ca-thi.
Bấy giờ bốn bộ chúng nghe xong vui mừng hớn hở không thể tự kềm. Vua
Ba-tư-nặc, vua Ưu-điền, vua Ác-sanh, vua Ư-đà-diên,
vua Tần-bà-sa-la nghe Như Lai sau bảy ngày sẽ
đến bên ao nước lớn Tăng-ca-thi, hết
sức vui mừng không thể kềm được. Khi ấy dân chúng Tỳ-xá-ly, họ Thích ở
Ca-tỳ-la-vệ, dân chúng Câu-di-la-việt nghe Như Lai sẽ đến đất Diêm-phù-đề,
vui mừng hớn hở không thể kềm được. Bấy giờ vua Ba-tư-nặc tập họp bốn bộ
binh đến bên ao nước muốn gặp Thế Tôn. Năm
vua đều tập họp binh lính đến chỗ Thế Tôn muốn được thăm viếng Như Lai.
Dân chúng họ Thích ở Ca-tỳ-la-vệ đều đến chỗ Thế Tôn. Và bốn bộ
chúng đều đến chỗ Thế Tôn, muốn gặp Như Lai.
Ðúng bảy ngày, Thích-đề-hoàn-nhân
bảo Thiên tử Tự Tại:
- Nay Ông từ đỉnh núi Tu-di đến ao nước
Tăng-ca-thi làm ba con đường, xem Như
Lai chẳng dùng thần túc đến đất Diêm-phù.
Thiên tử Tự Tại đáp:
- Việc này rất hay. Ðúng lúc ấy sẽ làm xong.
Bấy giờ Thiên tử Tự Tại liền hóa ra ba con
đường bằng vàng, bạc, thủy tinh. Con
đường vàng ở giữa, đường bạc một bên,
đường thủy tinh một bên, hóa làm cây
vàng. Ngay lúc ấy, chư thần diệu tôn thiên, trong bảy ngày
đều đến nghe pháp. Khi ấy Thế Tôn thuyết pháp
cho mấy ngàn vạn chúng vây quanh trước sau, thuyết năm
thạnh ấm khổ. Thế nào là năm? Nghĩa là
sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Thế nào là sắc ấm? Nghĩa là thân tứ
đại, là tứ
đại tạo sắc, gọi là sắc ấm.
Thế nào gọi là thọ ấm? Nghĩa là khổ thọ, lạc thọ, bất khổ, bất lạc thọ;
gọi là thọ ấm.
Sao gọi là tưởng ấm? Nghĩa là ba đời cùng
hội; gọi là tưởng ấm.
Sao gọi là hành ấm? Nghĩa là thân hành, khẩu hành, ý hành; gọi là hành
ấm.
Sao gọi là thức ấm? Nghĩa là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức; gọi là
thức ấm.
Thế nào gọi là sắc? Sắc nghĩa là lạnh cũng là sắc, nóng cũng là sắc,
đói cũng là sắc, khát cũng là sắc.
Thế nào gọi là thọ? Thọ gọi là giác. Giác vật gì? Giác khổ, giác vui,
giác chẳng khổ chẳng vui; gọi là giác.
Thế nào gọi là tưởng? Tưởng cũng là biết. Biết xanh, vàng, trắng,
đen, biết khổ vui, nên gọi là biết.
Thế nào gọi là hành? Hành là có thể thành tựu nên gọi là hành. Là thành
việc gì? Hoặc thành ác hạnh, hoặc thành thiện hạnh; nên gọi là hành.
Thế nào gọi là thức? Biết phân biệt đúng
sai, cũng biết các vị; đây gọi là thức.
Chư Thiên tử nên biết, có năm thạnh ấm này
thì biết có ba ác đạo, thiên
đạo, nhân đạo. Năm thạnh ấm này diệt
liền biết có đạo Niết-bàn.
Bấy giờ, lúc thuyết pháp này có sáu vạn Thiên nhân
được pháp nhãn thanh tịnh. Thế Tôn
thuyết pháp cho các Thiên nhân xong, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đến đỉnh núi Tu-di nói kệ:
Các Ông nên siêng học,
Ðối với Phật, Pháp, Tăng,
Nên diệt con đường chết,
Như người điều phục voi.
Nếu được ở pháp này,
Không có sự lười biếng,
Liền sẽ hết sanh tử,
Không còn nguồn gốc khổ.
Bấy giờ Thế Tôn nói kệ này rồi, liền đến
đường giữa. Khi ấy Phạm thiên ở đường
bạc bên mặt Thế Tôn và Thích-đề-hoàn-nhân
ở bên đường thủy tinh và chư Thiên
nhơn ở trên hư không rải hoa, đốt hương,
xướng kỹ nhạc làm vui lòng Như Lai.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Liên-hoa-sắc nghe hôm nay Như Lai sẽ
đến bên ao nước lớn Tăng-ca-thi,
nghe rồi liền nghĩ: 'Bốn bộ chúng, Quốc vương, đại thần, nhân dân trong
nước không ai không đến. Nếu ta theo lối thường đi đến, điều này
không nên. Ta hãy biến làm thân Chuyển luân Thánh vương
đến gặp Thế Tôn'. Tỳ-kheo-ni Liên Hoa
Sắc liền ẩn hình, hóa thành Chuyển luân Thánh vương bảy báu
đầy đủ. Bảy báu là: xe báu, voi báu,
ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, điển binh
báu, điển tạng báu. Ðó là bảy báu.
Bấy giờ Tôn giả Tu-bồ-đề ở trong núi Kỳ-xà-quật
thành La-duyệt, tại một mé núi vá y. Tu-bồ-đề
nghe Thế Tôn hôm nay sẽ đến đất Diêm-phù-đề,
bốn bộ chúng đều đến gặp, liền nghĩ: 'Nay ta nên
đến thăm hỏi lễ bái Như Lai'. Bấy giờ Tôn giả
Tu-bồ-đề liền bỏ việc vá y, từ chỗ ngồi đứng lên, chân phải
đặt xuống đất. Khi ấy ngài lại nghĩ
rằng: 'Thân Như Lai là gì? Thế Tôn có phải là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý
chăng? Người
đến gặp lại là
đất, nước, gió, lửa chăng?' Tất cả các pháp
thảy đều không tịch, không tạo, không tác. Như bài kệ của Thế Tôn
nói:
'Nếu người muốn lễ Phật,
Và những bậc Tối Thắng,
Ấm, trì, nhập các thứ,
Thảy đều quán vô thường.
Phật quá khứ lâu xa,
Và các Phật vị lai,
Như nay Phật hiện tại,
Tất cả đều vô thường.
Nếu người muốn lễ Phật,
Quá khứ và tương lai,
Nếu ở trong hiện tại,
Nên quán ở pháp không.
Nếu người muốn lễ Phật,
Quá khứ và tương lai,
Cùng chư Phật hiện tại,
Nên quán ở vô ngã.
'Trong đây vô ngã, vô mạng, vô
nhân, vô tạo tác, cũng không hình dung, có dạy, có truyền. Các pháp
đều không tịch. Cái gì là ta? Ta là
không chủ, nay ta quy mạng chân pháp tụ'.
Bấy giờ Tôn giả Tu-bồ-đề trở lại chỗ ngồi
vá y. Khi đó Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc làm Chuyển luân Thánh vương
dẫn theo bảy báu đến chỗ Thế Tôn.
Năm Quốc vương xa thấy Chuyển luân Thánh
vương đến, vui mừng hớn hở không thể tự kềm, nói với nhau rằng:
- Thật là kỳ đặc! Thế gian xuất hiện hai
trân bảo: Như Lai và Chuyển luân Thánh vương.
Bấy giờ Thế Tôn dẫn mấy vạn Thiên nhân, từ
đỉnh núi Tu-di đến bên ao nước. Thế Tôn giở chân
đạp đất, tam thiên
đại thiên thế giới này sáu phen chấn
động. Khi ấy, Hóa Chuyển luân Thánh vương dần
dần đến chỗ Thế Tôn, các Tiểu quốc vương và nhân dân
đều tránh ra. Hóa Chuyển luân Thánh vương
biết và đã gần Thế Tôn, liền
trở lại hình cũ thành Tỳ-kheo-ni cúi lạy Thế Tôn. Năm
vua thấy rồi, kêu oán, bảo nhau rằng:
- Hôm nay chúng ta thật là sơ sót. Chúng ta
đáng lẽ gặp Như Lai trước; mà nay gặp
Tỳ-kheo-ni trước.
Khi ấy Tỳ-kheo-ni đến chỗ Thế Tôn cúi lạy
bạch Phật:
- Nay con lễ đấng Tối thắng! Hôm nay con
được thăm viếng đầu tiên. Con, Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc là
đệ tử của Như Lai.
Bấy giờ Thế Tôn dùng kệ bảo Liên Hoa Sắc:
Thiện nghiệp, đã lễ trước,
Ðầu tiên không ai hơn,
Không - Vô - Giải thoát môn,
Ðây là nghĩa lễ Phật.
Nếu người muốn lễ Phật,
Tương lai và quá khứ,
Nên quán pháp Không - Vô,
Ðây là nghĩa lễ Phật.
Khi ấy, năm vua và dân chúng
đông vô kể, đến chỗ Thế Tôn tự xưng tên:
- Con là Ba-tư-nặc, vua nước Ca-thi. Con là vua nước Bạt-kỳ tên là Ưu-điền;
con là chúa của nhân dân Ngũ-đô tên
là Ác-sanh. Con là chúa Nam-hải tên là Ưu-đà-diên.
Con là vua Tần-bà-sa-la nước Ma-kiệt.
Bấy giờ mười một Na-thuật nhân dân tụ tập và các bậc tôn trưởng
được tôn trọng nhất của bốn bộ chúng, một ngàn
hai trăm người đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi
đứng một bên.
Bấy giờ vua Ưu-điền tay bưng tượng
Ngưu-đầu-chiên-đàn, dùng kệ
hướng Như Lai thuyết:
Nay con muốn thưa hỏi,
Từ bi hộ tất cả,
Người tạo hình tượng Phật,
Sẽ được những phước gì?
Ðức Thế Tôn dùng kệ đáp:
- Nay Ðại vương hãy nghe,
Giảng ít nhiều nghĩa này,
Người tạo hình tượng Phật,
Nay sẽ nói sơ đó,
Nhãn căn trước chẳng hoại,
Sau lại được thiên nhãn,
Trắng đen thấy phân minh,
Ðức tạo hình tượng Phật.
Thân thể sẽ đầy đủ,
Ý chính không mê hoặc,
Thế lực hơn người thường.
Người tạo hình tượng Phật
Trọn không vào đường ác,
Trọn sẽ sanh lên Trời,
Ở đó làm Thiên vương,
Phước tạo hình tượng Phật.
Phước khác không thể kể,
Phước này bất tư nghì,
Tiếng đồn khắp bốn phương,
Phước tạo hình tượng Phật.
Lành thay! Lành thay! Ðại vương có nhiều lợi ích trời người nhớ ơn.
Bấy giờ vua Ưu-điền cực kỳ hoan hỷ không
thể kềm được.
Thế Tôn diễn thuyết diệu luận cho bốn bộ chúng và năm
vua. Những luận là Thí luận, Giới luận và Sanh thiên luận, dục là
tưởng bất tịnh, lậu là hoạn lớn, xuất yếu là diệu.
Khi ấy, Thế Tôn biết bốn bộ chúng tâm ý khai mở. Chư Phật Thế Tôn
thường thuyết pháp Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, nay thuyết hết cho họ. Bấy giờ,
trời và nhân dân hơn sáu vạn người, ngay tại chỗ ngồi, các trần cấu sạch,
được pháp nhãn thanh tịnh.
Bấy giờ năm vua bạch Thế Tôn:
- Xứ này phước đức vi diệu, thật là
thần địa. Như Lai mới từ trời Ðâu-suất
xuống đây thuyết pháp. Nay con muốn kiến lập
đất này khiến cho còn mãi không hoại.
Thế Tôn bảo:
- Năm Ðại vương! Ở
đất này hãy lập thần tự, mãi mãi hưởng
phước trọn không hư bại.
Các vua đáp:
- Nên tạo lập thần tự ra sao?
Bấy giờ Thế Tôn duỗi tay phải, từ dưới đất
xuất hiện chùa của Phật.
Ca-diếp nhìn năm vua bảo:
- Muốn tạo thần tự nên lấy đây làm
phép tắc.
Khi đó, năm vua ở chỗ ấy dựng đại thần tự.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Hằng sa Như Lai đời quá khứ, tùy
tùng nhiều ít, cũng như hôm nay không khác. Ngay
đến chư Phật Thế Tôn tương lai, tùy
tùng nhiều ít, cũng như hôm nay không khác.
Nay kinh này tên là 'Pháp Bổn Du Thiên'. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học
điều này.
Bấy giờ bốn bộ chúng và năm Quốc vương
nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
XXXVII.1. Phẩm Lục trọng (1)
1. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy nên nhớ nghĩ pháp lục trọng, kính trọng, giữ mãi trong lòng
đừng cho quên mất. Thế nào là sáu?
Ở đây Tỳ-kheo thân hành niệm từ,
như ngắm hình trong gương, đáng kính, đáng
quý, chớ cho quên mất.
Lại nữa, khẩu hành niệm từ, ý hành niệm từ,
đáng kính, đáng quý, chớ cho quên mất.
Lại nữa, được các thứ pháp lợi, hay cùng
các người Phạm hạnh dùng chung, cũng không có tưởng bỏn xẻn. Pháp này
đáng kính, đáng quý, chớ để quên mất.
Lại nữa, có các cấm giới không hư không hại, rất hoàn toàn không thiếu
sót, được người trí quý. Lại muốn cho giới này
bủa khắp cho người khiến đồng mùi vị
này. Pháp này đáng kính, đáng quý, chớ để quên
mất.
Lại nữa chánh kiến Hiền Thánh được xuất
yếu. Cái thấy như thế muốn các người Phạm hạnh cùng
đồng pháp này, cũng
đáng quý, chớ để quên mất.
Ðó là, Tỳ-kheo! Có pháp lục trọng này,
đáng kính, đáng quý, chớ để quên mất.
Thế nên, các Tỳ-kheo! Thường nên tu hành thân, khẩu, ý hành. Nếu
được đồ lợi dưỡng, nên nhớ phân phát,
chớ khởi tưởng tham. Như thế, các Tỳ-kheo nên học
điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
*
2. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở bên suối A-nậu-đạt, cùng
đại chúng Tỳ-kheo năm trăm người câu hội, đều
là A-la-hán, tam đạt lục thông, thần
túc tự tại, tâm không sợ hãi, chỉ trừ một Tỳ-kheo là A-nan.
Bấy giờ Thế Tôn ngồi trên hoa sen vàng, bảy báu làm cọng, và năm
trăm Tỳ-kheo ai nấy đều ngồi hoa sen báu. Khi đó, Long vương A-nậu-đạt đến
chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên.
Long vương xem khắp thánh chúng xong, bạch Thế Tôn:
- Nay con xem trong chúng đây trống thiếu
không đầy đủ, còn thiếu Tôn giả Xá-lợi-phất. Cúi mong Thế Tôn sai
một Tỳ-kheo gọi Xá-lợi-phất đến đây.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất ở Tinh xá Kỳ Hoàn vá y cũ. Thế Tôn bảo
Mục-liên:
- Ông đến chỗ Xá-lợi-phất bảo Xá-lợi-phất:
'Long vương A-nậu-đạt muốn gặp Thầy'.
Mục-liên đáp:
- Xin vâng Thế Tôn.
Khi ấy Tôn giả Ðại Mục-liên như trong khoảng thời gian co duỗi cánh tay
đi đến Tinh xá Kỳ Hoàn, gặp Tôn giả
Xá-lợi-phất bảo:
- Như Lai có dạy rằng: 'Long vương A-nậu-đạt
muốn được gặp Thầy'.
Xá-lợi-phất đáp:
- Ông đi trước đi, tôi sẽ đến sau!
Mục-liên nói:
- Tất cả Thánh chúng và Long vương A-nậu-đạt
ngóng đợi tôn nhan muốn được thấy mặt thầy, mong đi ngay chớ có trễ giờ.
Xá-lợi-phất đáp:
- Ông đến đó trước, tôi sẽ đến sau.
Mục-liên lập lại:
- Thế nào Xá-lợi-phất! Trong những người có thần túc, lại có thể hơn
tôi chăng mà nay lại bảo tôi
đi trước? Nếu Xá-lợi-phất không đứng dậy đi,
tôi sẽ nắm tay bắt đến suối đó.
Khi ấy, Xá-lợi-phất nghĩ: 'Mục-liên tìm cách
đùa thử ta
đây!' Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất tự cởi dây
kiệt-chi (lưng) để xuống đất, bảo Mục-liên rằng:
- Nếu Thầy là thần túc đệ nhất, thì
bây giờ nhấc dây này khỏi mặt đất đi, rồi hãy
nắm tay tôi dẫn đến suối A-nậu-đạt.
Mục-liên liền nghĩ: 'Nay Xá-lợi-phất lại đùa
cợt ta, muốn thử nhau chăng? Nay Ông ta cởi
dây lưng để trên đất nói: 'Có thể nhấc
lên được sau mới nắm tay ta dẫn đến
suối'. Mục-liên lại nghĩ: 'Ðây ắt có nguyên nhân, chớ không thì
đâu có khổ công vậy'.
Liền duỗi tay nắm dây nhấc lên, nhưng dây không nhúc nhích chút nào.
Khi đó Mục-liên dùng hết sức dời sợi
dây mà không thể khiến động đậy. Xá-lợi-phất
bèn lấy dây này cột vào cành cây Diêm-phù, Tôn giả Mục-liên
đem hết thần lực muốn nhấc sợi dây này
mà không thể dời được. Ngay lúc nhấc sợi dây
thì đất Diêm-phù chấn
động mạnh.
Khi ấy Xá-lợi-phất bèn nghĩ: 'Tỳ-kheo Mục-liên còn có thể khiến cõi
Diêm-phù chấn động, hà huống dây này.
Nay ta nên cầm dây này cột vào hai thế giới'. Bấy giờ Mục-liên cũng lại
nhấc nữa. Xá-lợi-phất lại cột dây vào ba thế giới, bốn thế giới, Mục-liên
cũng có thể nhấc lên như nhấc chiếc áo nhẹ.
Bấy giờ Xá-lợi-phất lại nghĩ: 'Tỳ-kheo Mục-liên
đủ sức nhấc bốn thế giới cũng không đáng kể.
Nay ta cầm dây này cột vào lưng núi Tu-di'. Khi ấy Mục-liên lại có
thể làm động núi Tu-di này và cung
trời Tứ thiên vương, cung trời Tam thập tam thảy
đều dao động.
Xá-lợi-phất lại đem dây này cột
ngàn thế giới, Mục-liên cũng có thể làm chấn
động. Xá-lợi-phất lại lấy dây này cột hai ngàn thế giới, ba ngàn
thế giới cũng bị Mục-liên làm chấn động. Khi
ấy đất trời chấn động mạnh, chỉ có Như Lai ngồi ở suối A-nậu-đạt không di
động, ví như lực sĩ đùa lá cây không khó khăn.
Khi ấy, Long vương A-nậu-đạt bạch Thế Tôn:
- Nay trời đất này cớ sao chấn
động?
Thế Tôn nói rõ nguyên nhân cho Long vương:
Long vương bạch Phật:
- Thần lực của hai người này, ai hơn?
Thế Tôn bảo:
- Tỳ-kheo Xá-lợi-phất thần lực lớn nhất.
Long vương bạch Phật:
- Thế Tôn trước có thọ ký rằng Tỳ-kheo Mục-liên thần túc
đệ nhất, không ai hơn.
Thế Tôn bảo:
- Long vương! Ông nên biết có bốn thần túc. Thế nào là bốn? Tự tại
tam-muội thần túc. Tinh tấn tam-muội thần túc. Tâm tam-muội thần túc. Giáo
giới tam-muội thần túc. Này Long vương! Có sức của bốn thần túc này,
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni có bốn thần túc này, thân cận tu hành không buông bỏ.
Ðây tức là thần lực đệ nhất.
Long vương A-nậu-đạt bạch Phật:
- Tỳ-kheo Mục-liên không được bốn thần lực
này sao?
Thế Tôn bảo:
- Tỳ-kheo Mục-liên cũng được bốn thần lực
này, thân cận tu hành chẳng hề buông bỏ, Tỳ-kheo Mục-liên muốn trụ
thọ mạng hết kiếp cũng có thể làm được. Nhưng
tam-muội mà Xá-lợi-phất nhập, Tỳ-kheo Mục-liên không biết tên gọi.
Khi ấy Tôn giả Xá-lợi-phất lại nghĩ: 'Ba ngàn
đại thiên quốc
độ, Mục-liên
đều có thể di chuyển, côn trùng bị
chết không thể kể xiết. Nhưng chính ta nghe tòa của Như Lai không thể di
động. Nay ta nên lấy dây này cột vào
tòa của Như Lai'.
Bấy giờ Tôn giả Mục-liên lại dùng thần túc nhấc dây này lên, nhưng
không nhúc nhích. Mục-liên bèn nghĩ: 'Không phải ta bị thối chuyển thần
túc rồi sao mà nay nhấc dây này chẳng thể
động đậy? Nay ta đến chỗ Thế Tôn, để hỏi nghĩa này'. Mục-liên bỏ
sợi dây, dùng thần túc đến chỗ Thế Tôn, từ xa
thấy Xá-lợi-phất ngồi trước Như Lai. Thấy rồi Mục-liên bèn nghĩ:
'Ðệ tử Thế Tôn thần túc đệ nhất không ai hơn
ta. Nhưng ta chẳng bằng Xá-lợi-phất sao?
Bấy giờ Tôn giả Mục-liên bạch Phật:
- Con đối với thần túc có bị thối chuyển
không? Vì sao thế? Con từ Tinh xá Kỳ Hoàn
đi trước, Xá-lợi-phất đi sau. Nay Tỳ-kheo
Xá-lợi-phất lại đến trước, ngồi trước Như Lai.
Phật nói:
- Thần túc của Thầy không thối chuyển, nhưng pháp thần túc tam-muội mà
Xá-lợi-phất nhập, Thầy không biết. Vì sao thế? Tỳ-kheo Xá-lợi-phất trí tuệ
không có hạn lượng, tâm được tự tại. Thầy
không bằng Xá-lợi-phất theo tâm. Xá-lợi-phất tâm thần túc được tự tại. nếu
Tỳ-kheo Xá-lợi-phất tâm nghĩ đến gì liền
được tự tại.
Ðại Mục-liên tức thời im lặng. Khi ấy Long vương A-nậu-đạt
hoan hỷ mừng rỡ không kềm được:
- Nay Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, rất có thần lực chẳng thể nghĩ nghì, khi
nhập tam-muội, Tỳ-kheo Mục-liên chẳng biết tên gọi.
Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho Long vương A-nậu-đạt,
khuyên bảo khiến cho hoan hỷ, liền ở
đó thuyết giới. Sáng sớm Phật đem các Tỳ-kheo Tăng trở về thành
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Khi ấy, các Tỳ-kheo nói với nhau:
- Thế Tôn đích thân thọ ký, trong hàng
Thanh văn của ta, người thần túc đệ nhất là
Tỳ-kheo Mục-liên, nhưng hôm nay chẳng bằng Xá-lợi-phất.
Bấy giờ các Tỳ-kheo khởi tâm khinh mạn đối
với Mục-liên. Ðức Thế Tôn liền nghĩ: 'Các Tỳ-kheo này sanh tưởng
khinh mạn đối với Mục-liên, sẽ chịu
tội khó kể'.
Ngài bảo Mục-liên:
- Thầy hãy hiện thần lực cho đại chúng này
xem, đừng để đại chúng khởi tưởng lười biếng.
Mục-liên đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Bấy giờ Mục-liên lạy Phật, rồi ở trước Như Lai biến mất,
đi đến cách bảy hằng sa cõi Phật, ở
phương Ðông có Phật tên Kỳ Quang Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất
hiện ở đó. Mục-liên dùng y phục bình
thường đến cõi
đó đi trên miệng bát. Nhân dân nước
đó hình thể rất to lớn. Các Tỳ-kheo
trông thấy Mục-liên rồi, nói với nhau:
- Các Thầy xem con sâu này giống như Sa-môn.
Các Tỳ-kheo bắt xuống đưa cho Phật.
- Thưa Thế Tôn! Nay có một con sâu giống Sa-môn.
Kỳ Quang Như Lai bảo các Tỳ-kheo:
- Phương Tây cách đây bảy hằng sa thế
giới; cõi đó có Phật tên
Thích-ca Văn Như Lai Chí Chân Ðẳng
Chánh Giác xuất hiện ở đời. Ðây là
đệ tử thần túc đệ nhất của Ngài.
Bấy giờ Phật kia bảo Tôn giả Mục-liên:
- Các Tỳ-kheo này khởi ý khinh mạn, Thầy hãy hiện thần lực cho
đại chúng xem!
Mục-liên đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Mục-liên nghe lời Phật dạy, lấy bình bát
đựng năm trăm Tỳ-kheo nước đó đem lên trời Phạm thiên. Khi ấy
Mục-liên lấy chân trái để lên núi
Tu-di, chân phải đặt lên trời Phạm
thiên, rồi nói bài kệ:
Thường nên nhớ chuyên cần,
Tu hành nơi Phật pháp,
Hàng phục chúng ma oán,
Như điều phục được voi.
Nếu hay ở pháp này,
Năng hành không phóng dật,
Sẽ dứt nguồn mé khổ,
Không còn các não nữa.
Bấy giờ Như Lai dùng âm thanh này vang khắp tinh xá Kỳ Hoàn. Các
Tỳ-kheo nghe xong đến bạch Phật:
- Mục-liên đứng ở đâu mà nói kệ
này.
Thế Tôn bảo:
- Ðây là Tỳ-kheo Mục-liên cách cõi Phật này bảy hằng sa thế giới về
phía Ðông, dùng bình bát đựng năm trăm
Tỳ-kheo ở đó, chân trái bước lên núi Tu-di, chân phải
đặt lên trời Phạm Thiên mà nói kệ này.
Các Tỳ-kheo khen:
- Chưa từng có, thật là kỳ đặc! Tỳ-kheo
Mục-liên có đại thần túc thế mà
chúng con khởi tâm coi thường Mục-liên. Cúi mong Thế Tôn khiến Mục-liên
đem năm trăm Tỳ-kheo đến đây.
Khi ấy Thế Tôn từ xa hiện đạo lực khiến
Tôn giả Mục-liên biết ý. Mục-liên bèn dẫn năm
trăm Tỳ-kheo đến thành Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ Thế Tôn đang thuyết
pháp cho mấy ngàn vạn chúng. Mục-liên
đem năm trăm Tỳ-kheo đến chỗ Thế Tôn. Ðệ tử Phật Thích-ca Văn
ngước nhìn các Tỳ-kheo ấy. Khi đó
Tỳ-kheo ở thế giới phương Ðông lễ chân Thế Tôn rồi ngồi một bên.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo ấy rằng:
- Tỳ-kheo các Thầy từ đâu tới? Là
đệ tử của ai? Ði
đường hết bao lâu?
Năm trăm Tỳ-kheo kia bạch Phật Thích-ca
Văn:
- Thế giới của chúng con nay ở phương Ðông. Phật tên Kỳ Quang Như Lai,
chúng con là đệ tử của Ngài. Nhưng nay
chúng con chẳng biết từ đâu đến, đã
trải qua mấy ngày!
Thế Tôn bảo:
- Các Thầy có biết thế giới của Phật chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
- Thưa vâng, Thế Tôn! Chúng con muốn trở về cõi ấy.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo ấy:
- Nay Ta sẽ nói với các Thầy về pháp lục giới. Hãy khéo suy nghĩ.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn.
Bấy giờ các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy rồi.Thế Tôn bảo:
- Thế nào gọi là pháp lục giới? Này Tỳ-kheo! Nên biết sáu giới của
người bẩm thọ tinh khí của cha mẹ mà sanh. Thế nào là sáu? Nghĩa là
địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới,
không giới, thức giới. Ðó là này Tỳ-kheo, có sáu giới này. Thân
người nhân tinh huyết mà sanh lục nhập. Thế nào là sáu? Nghĩa là nhãn
nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, ý nhập. Ðó là, này
Tỳ-kheo, có sáu nhập này do cha mẹ mà có
được. Ðã nương theo sáu nhập liền có sáu thức. Thế nào là sáu? Nếu
nương nhãn nhập thì có nhãn thức, rồi nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân
thức, ý thức. Ðó là, này Tỳ-kheo, đây gọi là
sáu thức thân.
Nếu có Tỳ-kheo hiểu sáu giới, sáu nhập, sáu thức này, có thể
đến sáu cõi trời thọ nhân. Nếu ở
đó hết tuổi thọ lại sanh cõi này,
thông minh tài cao. Ở ngay thân hiện tại dứt hết kiết sử
được đến Niết-bàn.
Bấy giờ Thế Tôn bảo Tôn giả Mục-liên:
- Nay Thầy đem các Tỳ-kheo này trở
về cõi Phật kia.
Mục-liên đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Khi ấy, Mục-liên lại lấy bát đựng năm trăm
Tỳ-kheo, nhiễu Phật ba vòng lui đi,
như trong khoảng thời gian co duỗi cánh tay, đã
đến cõi Phật kia. Bấy giờ Mục-liên thả
các Tỳ-kheo ra, lễ chân Phật kia rồi trở về cõi Nhân này. Các Tỳ-kheo cõi
kia nghe lục giới này rồi, các trần cấu sạch,
được pháp nhãn thanh tịnh.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Trong hàng đệ tử Ta, Thanh văn thần túc
đệ nhất khó ai theo kịp là Tỳ-kheo Ðại Mục-kiền-liên.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
*
3. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Bạt-kỳ trong vườn Ngưu Sư Tử. Các Tỳ-kheo cao
đức có thần túc là Hiền giả
Xá-lợi-phất, Hiền giả Ðại Mục-kiền-liên, Hiền giả Ca-diếp, Hiền giả
Ly-việt, Hiền giả A-nan v.v... năm trăm người
câu hội.
Khi ấy, Ðại Mục-kiền-liên, Ðại Ca-diếp, A-na-luật, sáng sớm
đến chỗ Xá-lợi-phất. Tôn giả A-nan từ xa
trông thấy ba Ðại Thanh văn đến chỗ
Xá-lợi-phất, liền bảo Tôn giả Ly-việt rằng:
- Ba Ðại Thanh văn đi đến ngài
Xá-lợi-phất, hai người chúng ta cũng nên đến
chỗ Xá-lợi-phất. Vì sao thế? Ðể nghe ngài Xá-lợi-phất thuyết
đầy đủ pháp kỳ diệu.
Ly-việt đáp:
- Việc này nên lắm!
Rồi Ly-việt, A-nan đến chỗ Xá-lợi-phất.
Khi ấy Xá-lợi-phất nói:
- Kính chào chư Hiền! Mời đến đây ngồi!
Xá-lợi-phất bảo A-nan:
- Nay tôi có điều muốn hỏi, vườn Ngưu Sư
Tử này rất vui thích, hương trời tự nhiên tỏa khắp bốn phương, làm
sao khiến cho vườn này được vui thích?
A-nan đáp:
- Tỳ-kheo nghe nhiều chẳng quên, tổng trì nghĩa vị của các pháp, tu
hành Phạm hạnh đầy đủ, những pháp như thế
cũng không sót mất; vì bốn bộ chúng mà thuyết pháp, chẳng mất thứ
lớp, cũng chẳng thô tháo, không có loạn tưởng. Như thế, Tỳ-kheo ở vườn
Ngưu Sư Tử được vui thích.
Xá-lợi-phất bảo Ly-việt rằng:
- Hôm nay A-nan đã diễn thuyết rồi.
Nay tôi lại muốn hỏi nghĩa Thầy. Vườn Ngưu Sư Tử vui thích như vậy. Nay
Thầy hãy nói tiếp nghĩa ấy thế nào?
Ly-việt đáp:
- Ở đây Tỳ-kheo thích chỗ nhàn
vắng, tư duy tọa Thiền, tương ưng với chỉ quán. Như thế Tỳ-kheo thích ở
trong vườn Ngưu Sư Tử.
Khi ấy Xá-lợi-phất bảo A-na-luật:
- Nay Thầy nên nói nghĩa của vui thích.
A-na-luật đáp:
- Tỳ-kheo có thiên nhãn thấy suốt xem xét chúng sanh: người chết, người
sanh, sắc lành, sắc ác, đường lành,
đường dữ, hoặc đẹp, hoặc xấu, thảy đều biết
hết. Hoặc có chúng sanh thân, miệng, ý làm ác; phỉ báng Hiền Thánh,
thân hoại mạng chung sanh trong địa ngục;
hoặc lại có chúng sanh thân, miệng, ý làm lành, chẳng phỉ báng Hiền
Thánh, ví như sĩ phu quán không trung, thảy
đều đầy đủ. Tỳ-kheo có thiên nhãn cũng lại như thế, xem xét thế
giới chẳng có nghi nan. Như thế, Tỳ-kheo ở trong vườn Ngưu Sư Tử vui thích
như thế.
Xá-lợi-phất bảo Ca-diếp:
- Nay tôi hỏi Thầy, chư Hiền như thế đã
nói về nghĩa vui thích. Nay Thầy nên nói tiếp.
Ca-diếp đáp:
- Tỳ-kheo hành hạnh A-lan-nhã (tịch tịnh), lại dạy người khác khiến
hành A-lan-nhã; tán thán đức của nhàn
tịnh, thân mình mặc y chằm vá, lại dạy người khiến hành
đầu đà. Thân tự tri túc ở chỗ nhàn cư,
lại dạy người khác khiến tu hành này. Thân mình giới
đức đầy đủ, tam-muội thành tựu, trí
tuệ thành tựu, lại dạy người khác khiến hành pháp này; tán thán pháp này
rồi lại khuyến hóa; lại dạy người khác khiến hành pháp này, giáo huấn
không chán. Như thế, Tỳ-kheo ở trong vườn Ngưu Sư Tử vui thích không gì
sánh bằng.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất bảo Ðại Mục-kiền-liên:
- Chư Hiền đã nói nghĩa vui thích.
Nay Thầy nên nói tiếp nghĩa vui thích; vui thích trong vườn Ngưu Sư Tử vô
song, nay Thầy muốn nói thế nào?
Mục-liên đáp:
- Ở đây, Tỳ-kheo có đại thần túc, đối thần
túc được tự tại. Họ có thể biến hóa vô số sự việc không khó khăn; cũng hay
phân một thân thành vô số thân, hoặc hợp lại làm thành một thân;
vách đá đều qua được, vọt lên, biến
mất tự tại cũng như thuyền lướt trên sông, chim bay trên không trung không
dấu vết. Ví như lửa mạnh thiêu đốt núi rừng,
cũng như mặt trời trăng không đâu chẳng chiếu; cũng có thể đưa tay sờ nhật
nguyệt; cũng có thể hóa thân đến trời Phạm thiên. Như thế, Tỳ-kheo
thích hợp ở trong vườn Ngưu Sư Tử.
Khi ấy Mục-liên bảo Xá-lợi-phất:
- Chúng tôi mỗi người tùy chỗ mà biện thuyết rồi, nay muốn hỏi nghĩa
Xá-lợi-phất, vườn Ngưu Sư Tử rất là vui thích. Những Tỳ-kheo nào nên ở
trong ấy.
Xá-lợi-phất nói:
- Tỳ-kheo có thể hàng phục tâm, mà tâm không thể hàng phục Tỳ-kheo. Nếu
Tỳ-kheo ấy muốn được tam-muội tức thời
Tỳ-kheo ấy được tam-muội, tùy ý xa gần thành tam-muội, liền hay
thành tựu đầy đủ. Ví như nhà Trưởng
giả có y phục tốt đẹp đựng đầy rương. Bấy giờ
Trưởng giả ấy muốn lấy loại y phục nào thì tùy ý lấy không khó khăn,
cũng hay tùy ý nhập vào trong tam-muội. Ðây cũng như thế, tâm hạnh
khiến Tỳ-kheo, chẳng phải Tỳ-kheo hay khiến tâm, tùy ý vào tam-muội cũng
không khó. Như thế Tỳ-kheo hay khiến tâm, chẳng phải tâm khiến Tỳ-kheo.
Người như thế nên ở trong vườn Ngưu Sư Tử.
Bấy giờ Xá-lợi-phất bảo chư Hiền:
- Chúng ta đã tùy theo sự biện bác
của mình mà nói, mỗi người tùy cách thức khéo thuyết nghĩa này. Nay chúng
ta nên đến hỏi Thế Tôn: Tỳ-kheo thế nào
thích ở trong vườn Ngưu Sư Tử? Nếu Thế Tôn có nói gì, chúng ta sẽ vâng
làm.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Ðúng vậy, Xá-lợi-phất.
Bấy giờ các đại Thanh văn đều dẫn nhau đến
chỗ Thế Tôn, sau khi đến cúi lạy Thế Tôn rồi ngồi một bên. Các
đại Thanh văn đem nhân duyên này bạch
đầy đủ với Phật.
Khi ấy, Thế Tôn bảo:
- Lành thay! Như lời A-nan nói. Vì sao thế? Tỳ-kheo A-nan nghe pháp,
hay tổng trì, gìn giữ hết các pháp, tu hành Phạm hạnh
đầy đủ; pháp như thế khéo nghe không quên,
cũng không tà kiến; thuyết pháp cho bốn bộ chúng, lời nói không lầm lẫn,
cũng không thô bạo.
Tỳ-kheo Ly-việt thuyết cũng hay thay! Vì sao thế? Ưa ở chỗ nhàn vắng,
không ở trong nhân gian, thường nhớ tọa Thiền, cũng không tranh tụng;
tương ưng với chỉ quán, nhàn cư tịch tĩnh.
Tỳ-kheo A-na-luật cũng lại hay thay! Vì sao thế? Tỳ-kheo A-na-luật
thiên nhãn đệ nhất. Thầy ấy dùng thiên
nhãn quán sát tam thiên thế giới, giống như người có mắt xem hạt châu
trong bàn tay; Tỳ-kheo A-na-luật cũng lại như thế. Thầy ấy dùng thiên nhãn
quán tam thiên đại thiên thế giới,
không có nghi nan.
Nay Tỳ-kheo Ca-diếp cũng lại hay thay! Vì sao thế? Tỳ-kheo Ca-diếp tự
thân mình hành A-lan-nhã, lại hay tán thán hạnh nhàn cư. Thân hay khất
thực, lại hay khen ngợi đức khất thực. Thân
mặc y chằm vá, lại hay tán thán đức mặc y chằm vá. Thân mình tri
túc, laị hay khen ngợi đức tri túc. Thân mình
ở hang núi, lại tán thán đức ở hang núi. Thân
mình giới thành tựu, tam-muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải
thoát thành tựu, giải thoát kiến tuệ thành tựu, lại có thể dạy người thành
tựu năm phần Pháp thân này. Thân có
thể giáo hóa, lại có thể dạy người khiến hành pháp này.
Lành thay! Lành thay! Như lời Mục-liên nói. Vì sao thế? Tỳ-kheo
Mục-liên có đại oai lực, thần túc đệ nhất,
tâm được tự tại, ý muốn thân ấy làm gì thì có thể làm xong; hoặc
hóa một thân phân làm vạn ức, hoặc hợp trở lại làm một; vách
đá đều qua được không chướng ngại, ẩn hiện tự
tại như vào nước không chướng ngại; như chim bay trong không, không
có vết chân. Ví như nhật nguyệt không chỗ nào chẳng chiếu hay hóa thân
đến trời Phạm thiên.
Lành thay! Như lời Xá-lợi-phất nói. Vì sao thế? Xá-lợi-phất hay hàng
phục tâm, chẳng phải tâm hàng phục Xá-lợi-phất. Nếu lúc muốn nhập
tam-muội, thì có thể thành tựu không có nghi nan. Ví như Trưởng giả có y
phục tốt đẹp, tùy ý lấy không nghi
nan; Tỳ-kheo Xá-lợi-phất cũng lại như thế, có thể hàng phục tâm, chẳng
phải tâm có thể hàng phục Xá-lợi-phất; tùy ý nhập tam muội, thảy
đều ở trước mắt.
Lành thay! Lành thay! Các Tỳ-kheo! Các Thầy mỗi người tùy theo phương
tiện mà nói. Nhưng nay lại nghe ta nói: Tỳ-kheo thế nào vui ở vườn Ngưu Sư
Tử?
Tỳ-kheo nương ở trong thôn xóm. Người ấy
đến giờ đắp y, ôm bát vào làng khất thực, khất thực xong trở về chỗ
ở, rửa tay, rửa mặt, ở dưới gốc cây chính thân, chính ý, ngồi kiết-già,
cột niệm ở trước, Tỳ-kheo ấy nghĩ rằng: 'Nay ta ngồi tòa bất hoại, phải
nên dứt hữu lậu thành tựu vô lậu'.
Bấy giờ Tỳ-kheo ấy tâm hữu lậu liền được
giải thoát. Tỳ-kheo như thế thích hợp ở trong vườn Ngưu Sư Tử. Tỳ-kheo như
thế chuyên cần tinh tấn, không có giải
đãi, ở đâu cũng được sùng kính.
Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
*
4. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta sẽ nói về chú nguyện có sáu đức.
Các Thầy hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Bấy giờ các Tỳ-kheo đã nhận lời
Phật dạy. Thế Tôn bảo:
- Thế nào gọi là sáu đức? Ở đây đàn-việt
thí chủ thành tựu ba pháp. Ðàn-việt thí chủ thành tựu ba pháp thế nào? Ở
đây đàn-việt thí chủ thành tựu tín căn,
thành tựu giới đức, thành tựu
sự nghe. Ðó là đàn-việt thí chủ thành
tựu ba pháp này. Pháp bố thí vật lại thành tựu ba pháp. Thế nào là ba? Là
vật kia sắc thành tựu, vị thành tựu, hương thành tựu. Có ba pháp này. Ðó
là này Tỳ-kheo! Có sáu việc này đạt được công
đức lớn, danh đức vang xa, đạt được quả báo cam lồ.
Thế nên, các Tỳ-kheo nếu muốn thành tựu sáu việc này, nên nhớ bố thí.
Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
*
5. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp cho vô số chúng. Khi ấy trên tòa có một
Tỳ-kheo sanh ý niệm này: 'Mong Như Lai bảo cho ta những
điều luận thuyết'. Khi đó Như Lai biết tâm
của Tỳ-kheo ấy liền bảo các Tỳ-kheo'.
- Nếu có Tỳ-kheo sanh niệm này: 'Như Lai sẽ
đích thân giáo huấn ta'. Tỳ-kheo ấy giới
thanh tịnh, không có vết nhơ, tu hành chỉ quán, ưa chỗ nhàn vắng.
Nếu Tỳ-kheo ấy ý muốn cầu y phục, thức ăn
uống' giường chõng, thuốc men, cũng phải nên giới
đức thành tựu, ở chỗ vắng vẻ mà tự tu
hành, tương ưng với chỉ quán. Nếu Tỳ-kheo ấy ý muốn tri túc, nên nhớ
đức đầy đủ, ở chỗ nhàn vắng tự tu
hành, tương ứng với chỉ quán.
Nếu Tỳ-kheo ấy muốn bốn bộ chúng, Quốc vương, nhân dân, các loại hữu
hình trông thấy và hiểu biết mình; thì nên nhớ giới
đức đầy đủ.
Nếu Tỳ-kheo ấy ý muốn cầu Tứ thiền, khoảng giữa không có tâm hối hận,
cũng không biến đổi thì nên nhớ giới
đức thành tựu.
Nếu Tỳ-kheo muốn cầu tứ thần túc thì cũng nên giới
đức đầy đủ.
Nếu Tỳ-kheo ý lại muốn cầu tám môn giải thoát không chướng ngại thì nên
nhớ giới đức đầy đủ.
Nếu Tỳ-kheo ý lại muốn cầu thiên nhĩ nghe suốt hết tiếng trời người thì
nên nhớ giới đức đầy đủ.
Nếu Tỳ-kheo ý muốn biết ý nghĩ trong tâm người khác, các căn
thiếu sót thì cũng nên nhớ giới đức
đầy đủ.
Nếu Tỳ-kheo ấy ý muốn cầu biết tâm ý chung sanh, tâm có dục, tâm không
dục, tâm có sân hận, tâm không sân giận, tâm có ngu si, tâm không ngu si,
như thực mà biết; tâm có ái, tâm không ái, tâm có thọ, tâm không thọ, như
thực mà biết; tâm có loạn, tâm không loạn; tâm tật
đố, tâm không tật
đố; tâm nhỏ hẹp, tâm không nhỏ hẹp; tâm có
hạn lượng, tâm không hạn lượng; tâm có độ, tâm không độ; tâm có tam-muội,
tâm không tam-muội; tâm có giải thoát, tâm không giải thoát, như thực mà
biết; muốn được như thế, nên nhớ giới
đức đầy đủ.
Nếu Tỳ-kheo ý muốn được vô lượng thần túc
phân một thân thành vô số, lại hợp trở lại thành một; xuất hiện
biến mất tự tại, hóa thân cho đến Phạm thiên
thì nên nhớ giới đức đầy đủ.
Nếu lại Tỳ-kheo ý muốn cầu tự nhớ việc vô số kiếp
đời trước, hoặc một đời, hai đời, cho đến ngàn
đời, trăm ngàn ức
đời, kiếp thành kiếp hoại, kiếp thành
hoại không thể tính kể: 'Ta từng chết đây
sanh kia tên gì họ gì, hoặc từ nơi kia chết,
đến sanh nơi đây'; tự nhớ việc vô số kiếp như
thế thì nên nhớ giới đức đầy đủ, mà
không có niệm khác.
Nếu lại, Tỳ-kheo ý muốn cầu thiên nhãn thấy suốt, quán chúng sanh
đường lành,
đường ác, sắc lành sắc ác, hoặc
đẹp hoặc xấu, như thực mà biết; hoặc
lại có chúng sanh thân, miệng, ý làm ác, phỉ báng Hiền thánh, thân hoại
mạng chung sanh trong địa ngục; hoặc lại có
chúng sanh thân, miệng, ý làm lành, chẳng phỉ báng Hiền Thánh, tâm
ý chánh kiến, thân hoại mạng chung sanh cõi lành lên trời; nếu muốn như
thế thì nên nhớ giới đức đầy đủ.
Lại nữa, nếu Tỳ-kheo ý muốn cầu dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải
thoát, trí tuệ giải thoát, sanh tử đã
dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm
đã xong, không tái sanh nữa, như thực
mà biết thì nên nhớ giới đức đầy đủ, trong
từng suy nghĩ không có loạn tưởng, ở nơi vắng vẻ thì Tỳ-kheo ấy nên
nhớ giới đức đầy đủ, không có các niệm khác,
oai nghi thành tựu đầy đủ, lỗi nhỏ
thường sợ, huống là lỗi lớn.
Nếu có Tỳ-kheo ý muốn cùng luận đàm
với Như Lai thì nên thường nhớ giới đức đầy
đủ; giới đức đã đầy đủ nên nhớ
văn đầy đủ, văn đã
đầy đủ nên nhớ thí
đầy đủ, thí đã
đầy đủ nên nhớ trí tuệ
đầy đủ, giải thoát tri kiến thảy đều đầy đủ.
Nếu có Tỳ-kheo giới thân, định thân, tuệ
thân, giải thoát thân, giải thoát tri kiến thân đầy đủ, liền được thiên
long, quỷ thần thấy biết cúng dường, đáng
kính, đáng quý, trời người phụng sự.
Thế nên, Tỳ-kheo nên nhớ ngũ phần pháp thân
đầy đủ là ruộng phước của
đời, không ai có thể hơn được. Như thế, các
Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
XXXVII.2. Phẩm Lục trọng (2)
6. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất đến chỗ Thế
Tôn; cúi lạy Thế Tôn rồi ngồi một bên. Khi ấy, Xá-lợi-phất bạch Thế
Tôn:
- Nay con đã nhập hạ ở thành Xá-vệ
rồi, ý muốn đi du hóa trong nhân gian.
Thế Tôn bảo:
- Nay chính phải thời.
Xá-lợi-phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi
lạy và lui đi. Xá-lợi-phất đi chưa bao
lâu, có một Tỳ-kheo ôm lòng phỉ báng, bạch Thế Tôn rằng:
- Xá-lợi-phất tranh cãi với các Tỳ-kheo mà không sám hối, nay lại du
hành trong nhân gian.
Bấy giờ Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:
- Thầy mau đem lời Ta gọi Xá-lợi-phất đến!
Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Phật dạy Tôn giả Mục-liên và Tôn giả A-nan:
- Các Thầy mời các Tỳ-kheo trong các phòng
đến chỗ Thế Tôn. Vì sao thế? Xá-lợi-phất nhập tam-muội, nay sẽ ở
trước Như Lai rống tiếng sư tử.
Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, ai nấy đều
tụ tập chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Khi ấy Tỳ-kheo kia
vâng lời Phật dạy đi đến chỗ Xá-lợi-phất, bảo
Xá-lợi-phất:
- Như Lai muốn gặp Tôn giả.
Tôn giả Xá-lợi-phất đến chỗ Thế Tôn; cúi
lạy Thế Tôn rồi ngồi một bên. Phật bảo Xá-lợi-phất:
- Thầy vừa đi chưa bao lâu, có một Tỳ-kheo
hạnh nhơ đến chỗ Ta, bạch Ta rằng: 'Tỳ-kheo Xá-lợi-phất tranh cãi
với các Tỳ-kheo mà không sám hối, lại du hóa trong nhân gian'. Xem xét có
thực vậy không?
Xá-lợi-phất bạch Phật:
- Như Lai tự biết việc này.
Như Lai bảo:
- Ta tự biết rồi, nhưng nay đại chúng hoài
nghi. Nay Thầy ở trong đại chúng, nên
tự biện minh mình trong sạch.
Xá-lợi-phất bạch Phật:
- Con từ khi sanh ra đến nay tuổi vừa tám
mươi, mỗi lúc tự suy nghĩ: chưa từng sát sanh, cũng không nói dối, ngay
cho khi đùa bỡn cũng không nói dối, cũng lại chưa hề cãi cọ kia
đây. Ví thử lúc không chuyên ý, có thể
làm điều này. Bạch Thế Tôn! Nay con
tâm ý thanh tịnh há lại cùng người Phạm hạnh
đấu tranh sao?
Cũng như đất này, chấp nhận vật
sạch và cũng nhận vật không sạch, phân tiểu dơ uế thảy
đều nhận cả, máu mủ đờm dãi trọn chẳng
chống nghịch. Song đất này cũng chẳng
nói xấu, cũng không nói tốt. Con cũng như vậy, bạch Thế Tôn! Tâm con không
di động, há lại cùng người Phạm hạnh
tranh cãi mà bỏ đi xa ư? Người tâm không chuyên
thì mới như thế. Nay con tâm chánh, đâu lẽ cùng
người Phạm hạnh tranh cãi mà bỏ đi xa ư?
Cũng như nước có thể rửa sạch vật tốt, cũng có thể rửa sạch vật xấu.
Nước ấy cũng chẳng nghĩ rằng: 'Ta rửa sạch cái này, bỏ cái này'. Con cũng
như thế, không có tưởng khác; há lại cùng người Phạm hạnh tranh cãi mà bỏ
đi xa ư?
Ví như lửa mạnh đốt cháy núi rừng chẳng
chọn tốt xấu, trọn không tưởng niệm. Con cũng như thế, há nên có ý
cùng người Phạm hạnh tranh cãi sao?
Cũng như chổi quét không chọn tốt xấu, đều
có thể quét sạch trọn không tưởng niệm. Giống như bò bị cưa hai
sừng, hết sức hiền lành không có hung bạo; khéo có thể dẫn dắt, tùy ý
đi đâu, trọn không nghi nan. Thật vậy, Thế
Tôn! Tâm con như thế, cũng không khởi tưởng có điều làm thương tổn,
há lại cùng người Phạm hạnh tranh cãi mà đi
xa ư?
Cũng như cô gái Chiên-đà-la mặc áo
cũ rách, ở trong nhân gian xin ăn cũng không
cấm kỵ. Con cũng như thế, bạch Thế Tôn! Cũng không tưởng niệm sẽ khởi
tranh tụng mà đi xa.
Cũng như chảo mỡ rỉ chảy khắp nơi, người có mắt thảy
đều trông thấy mọi chỗ rỉ ra. Con cũng như
thế, Thế Tôn! Trong chín lỗ rỉ chảy ra bất tịnh, há nên cùng người
Phạm hạnh tranh cãi?
Ví như người nữ tuổi trẻ đoan chánh, lại
lấy thây chết buộc vào cổ mình rồi chán ghét nó. Thế Tôn! Con cũng
như thế, chán ghét thân này như thế không khác, há nên cùng người Phạm
hạnh tranh cãi mà đi xa sao? Việc này
chẳng đúng.
Thế Tôn nên tự biết cho. Tỳ-kheo kia cũng nên biết cho. Nếu có việc
này, mong Tỳ-kheo ấy nhận sự sám hối của con.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo kia:
- Nay Thầy phải tự hối lỗi. Vì sao thế? Nếu không hối lỗi,
đầu sẽ bể làm bảy mảnh.
Khi ấy, Tỳ-kheo kia sợ hãi, lông áo dựng
đứng; liền từ chỗ ngồi đứng lên lễ chân Như Lai, bạch Thế Tôn:
- Nay con tự biết đã xúc phạm Tôn
giả Xá-lợi-phất, cúi mong Thế Tôn cho con sám hối.
Thế Tôn bảo:
- Tỳ-kheo! Thầy hãy tự hướng về Xá-lợi-phất sám hối, nếu không
đầu sẽ bể làm bảy mảnh.
Tỳ-kheo ấy liền hướng về Xá-lợi-phất cúi lạy và bạch Xá-lợi-phất rằng:
- Cúi mong ngài cho tôi sám hối, vì tôi ngu, không phân biệt lẽ chân
thật.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
- Nay Thầy nên nhận Tỳ-kheo này hối lỗi, lại lấy tay xoa
đầu thầy ấy. Vì sao thế? Nếu không cho
Tỳ-kheo này sám hối, đầu Thầy ấy sẽ bể làm
bảy mảnh.
Xá-lợi-phất lấy tay xoa đầu Tỳ-kheo, bảo
rằng:
- Chấp nhận cho Thầy sám hối. Như ngu như mê, trong Phật pháp này rất
là rộng lớn; lại có thể tùy thời hối lỗi. Lành thay! Nay cho Thầy sám hối,
sau chớ phạm nữa.
Như thế ba lần. Bấy giờ Xá-lợi-phất bảo Tỳ-kheo kia rằng:
- Thầy chớ phạm nữa! Vì sao thế? Có sáu pháp vào
địa ngục, sáu pháp sanh lên trời, sáu
pháp đến Niết-bàn.
Thế nào là sáu pháp vào địa ngục? Muốn hại
người khác; ta đã khởi tâm hại này liền hoan hỉ, hớn hở không thể
dừng được; ta sẽ dạy người khiến hại người
khác; trong đó khởi tâm hại; đã hại
được người trong đó khởi hoan hỷ: 'Ta sẽ được tiếng tăm không tốt này';
chưa khởi việc này, liền ôm sầu lo. Ðó là có sáu pháp này khiến người
đọa đường ác.
Thế nào là sáu pháp khiến người đến chỗ lành?
Nghĩa là thân giới đầy đủ, khẩu giới đầy đủ,
ý giới đầy đủ, mạng căn thanh tịnh, không tâm sát hại, không tâm tật đố.
Ðó là có sáu pháp này sanh ở cõi lành.
Thế nào là tu sáu pháp đến Niết-bàn?
Nghĩa là sáu pháp nghĩ nhớ. Thế nào là sáu? Nghĩa là thân hành từ, không
tỳ vết; miệng hành từ không tỳ vết; ý hành từ không tỳ vết; nếu
được lợi dưỡng hay chia cho mọi người không
có lẫn tiếc; phụng trì cấm giới không tỳ vết;
được người trí quý mến. Giới như thế có thể
đầy đủ. Có các tà kiến, chánh kiến, Hiền Thánh xuất yếu có thể
được dứt gốc khổ; các kiến như thế
thảy đều phân biệt rành. Ðó là sáu nên
cầu phương tiện tu hành sáu pháp này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học
điều này.
Bấy giờ Tỳ-kheo kia lại từ chỗ ngồi đứng
dậy, lễ chân Tôn giả Xá-lợi-phất một lần nữa:
- Nay con lại xin sám hối, như kẻ ngu mê, không phân biệt
được chân thật. Cúi mong ngài
Xá-lợi-phất cho con hối lỗi. Sau này con không phạm nữa.
Xá-lợi-phất nói:
- Cho Thầy hối lỗi. Trong pháp Hiền Thánh rất là quảng
đại, phải tự sửa lỗi cũ, tu chính mới,
chớ có phạm nữa.
Bấy giờ Tỳ-kheo kia nghe Xá-lợi-phất nói xong, hoan hỉ vâng làm.
*
7. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta sẽ thuyết về pháp đệ nhất tối
không. Các Thầy khéo suy nghĩ.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn.
Bấy giờ các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Phật bảo:
- Sao gọi là pháp đệ nhất tối không? Nếu
lúc mắt khởi thì khởi, cũng chẳng thấy chỗ
đến; lúc diệt thì diệt cũng không thấy
chỗ diệt, trừ pháp giả hiệu nhân duyên. Thế nào là giả hiệu nhân duyên?
Nghĩa là cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh, vô minh
duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập,
lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên
hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên tử, tử duyên sầu lo, khổ não, chẳng thể
tính kể. Như thế Khổ ấm thành tựu nhân duyên này.
Không đây là không kia,
đây diệt thì kia diệt; vô minh diệt
thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh
sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ
diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt,
hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì tử diệt, tử diệt thì sầu lo khổ não
thảy đều diệt; tận trừ pháp giả hiệu.
Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế; lúc khởi thì khởi cũng không
biết chỗ đến, lúc diệt thì diệt cũng
không biết chỗ diệt, trừ pháp giả hiệu. Pháp giả hiệu là
đây khởi thì khởi,
đây diệt thì diệt.
Sáu nhập này cũng không người tạo tác; cũng là pháp danh sắc lục nhập.
Do cha mẹ mà có thai, cũng không nhân duyên mà có. Ðây cũng giả hiệu. Chỉ
cần trước có đối đãi sau bèn có. Ví
như dùi cây kiếm lửa. Vì trước có đối đãi,
sau mới có lửa sanh, lửa cũng chẳng từ cây ra, cũng chẳng lìa cây. Nếu lại
có người chẻ cây tìm lửa, cũng chẳng thể
được, đều do nhân duyên hội họp rồi sau có lửa. Sáu tình này khởi
bệnh cũng lại như thế, đều do nhân duyên
hội họp, trong đó khởi bệnh. Lúc sáu nhập này
khởi thì khởi cũng chẳng thấy chỗ đến, lúc
diệt thì diệt, cũng chẳng thấy chỗ diệt, trừ pháp giả hiệu này.
Nhân do cha mẹ hội họp mà có.
Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:
Trước hết thọ bào thai,
Dần dần như váng sữa,
Rồi lại như cục thịt,
Sau chuyển như tượng hình.
Trước sanh đầu, cổ, ót,
Dần sanh tay, chân, ngón,
Chi tiết mỗi mỗi sanh,
Tóc, lông, móng, răng thành.
Nếu lúc mẹ ăn uống,
Các thứ món ăn ngon,
Tinh khí làm sống mạng,
Nguồn gốc của thọ thai.
Hình thể đã hoàn thành,
Các căn không thiếu sót,
Do mẹ được sanh ra,
Thọ thai khổ như thế.
Tỳ-kheo nên biết, do nhân duyên hội họp mà có thân này. Lại nữa,
Tỳ-kheo! Trong một thân người có ba trăm sáu
mươi đốt xương, chín vạn chín ngàn lỗ chân lông, năm
trăm mạch máu, năm trăm gân, tám vạn hộ trùng. Tỳ-kheo nên biết!
Thân lục nhập có tai biến như thế. Tỳ-kheo nên nhớ tư duy họa hoạn như
thế. Ai tạo xương này? Ai hợp gân mạch này? Ai tạo tám vạn hộ trùng này?
Bấy giờ, Tỳ-kheo nghĩ suy điều này,
liền đạt nhị quả, A-na-hàm hoặc
A-la-hán. Khi ấy Thế Tôn liền nói kệ:
Ba trăm sáu mươi xương,
Ở trong thân người này,
Chư Phật đã diễn nói,
Nay Ta cũng nói thế.
Gân có năm trăm sợi,
Số mạch cũng như thế,
Trùng có tám vạn thứ,
Chín vạn chín ngàn lông.
Nên quán thân như thế,
Tỳ-kheo cần tinh tấn,
Mau được đạo La-hán,
Và đến được Niết-bàn.
Pháp này đều không tịch.
Chỗ tham của người ngu.
Người trí tâm vui vẻ,
Nghe pháp bốn 'không' này.
Này Tỳ-kheo! Ðây gọi là pháp đệ nhất tối
không. Ta vì các Thầy nói về pháp tu hành của Như Lai. Nay ta
đã khởi tâm từ bi thương xót, việc Ta
làm đã xong. Các Thầy thường nên nhớ
tu hành pháp này. Ở chỗ vắng vẻ, ngồi Thiền tư duy, chớ có giải
đãi. Nay không tu hành sau hối hận vô
ích. Ðây là lời giáo huấn của Ta. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học
điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
8. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Phạm chí Sanh Lậu đến chỗ Thế Tôn
cùng thăm hỏi, ngồi một bên.
Khi ấy, Phạm chí bạch Thế Tôn:
- Cù-đàm! Dòng Sát-lợi nay ý muốn
cầu điều gì? Có hạnh nghiệp gì? Theo
giáo lý nào? Cứu cánh việc gì?
Bà-la-môn ý muốn việc gì? Có hành nghiệp gì? Theo giáo lý nào? Cứu cánh
việc gì?
Quốc vương ngày nay ý muốn cầu gì? Có hành nghiệp gì? Theo giáo lý nào?
Cứu cánh việc gì?
Ðạo tặc ngày nay ý muốn cầu gì? Có hành nghiệp gì? Theo giáo lý nào?
Cứu cánh việc gì?
Người nữ ý muốn cầu gì? Có hạnh nghiệp gì? Nghe giáo lý nào? Rốt ráo
việc gì?
Bấy giờ Thế Tôn bảo Phạm chí:
- Dòng Sát-lợi thường ưa đấu tranh, nhiều
kỹ thuật, ưa làm việc muốn cho rốt ráo không nghỉ giữa chừng.
Phạm chí hỏi:
- Phạm chí ý muốn cầu gì?
Thế Tôn bảo:
- Phạm chí ý thích chú thuật, cần ở nhà, thích chỗ vắng vẻ, ý
để nơi Phạm thiên.
Phạm chí lại hỏi:
- Quốc vương cầu việc gì?
Thế Tôn bảo:
- Phạm chí nên biết! Ý vua muốn được việc
nước, ý để nơi binh đao gậy gộc, tham đắm tài bảo.
Phạm chí lại hỏi:
- Trộm cướp ý muốn gì?
Thế Tôn bảo:
- Trộm thì có ý trộm cắp, tâm để chỗ gian
tà, ý muốn khiến người không biết việc làm của mình.
Phạm chí lại hỏi:
- Người nữ ý muốn cầu gì?
Thế Tôn bảo:
- Người nữ ý để nơi người nam, tham đắm tài
bảo, tâm ràng buộc việc nam nữ, tham dục tự do.
Bấy giờ Phạm chí bạch Thế Tôn:
- Thật là kỳ đặc! Thế Tôn biết hết bao nhiêu
sự biến đổi, như thật không dối. Hôm nay
Tỳ-kheo ý muốn cầu gì?
Thế Tôn bảo:
- Giới đức đầy đủ, tâm dạo nơi đạo pháp, ý
để nơi Tứ đế, muốn đến Niết-bàn. Ðó là
điều mong cầu của Tỳ-kheo.
Phạm chí Sanh Lậu bạch Thế Tôn:
- Ðúng vậy, Thế Tôn! Việc làm của Tỳ-kheo ý không thể di chuyển. Nghĩa
ấy thật như vậy. Thưa Cù-đàm! Niết-bàn
ấy thật là vui thích. Như Lai nói đã
nhiều. Ví như người mù được thấy, người điếc
được nghe, ở chỗ tối thấy sáng, ngày nay Như Lai nói cũng như thế,
không có khác. Nay tôi việc nước bận rộn, muốn trở về.
Thế Tôn bảo:
- Nên biết đúng thời.
Khi ấy Phạm chí Sanh Lậu liền đứng dậy,
nhiễu Phật ba vòng rồi lui đi.
Bấy giờ, Phạm chí Sanh Lậu nghe Phật nói xong, vui vẻ vâng làm.
*
9. Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Phạm chí Sanh Lậu đến chỗ Thế Tôn,
cúi lạy rồi ngồi một bên.
Khi ấy Phạm chí bạch Thế Tôn:
- Trong đây có Tỳ-kheo chăng? Làm
sao được tu Phạm hạnh không có thiếu sót? Và
thanh tịnh tu Phạm hạnh?
Thế Tôn bảo:
- Nếu có người giới luật đầy đủ không phạm
điều gì, đấy gọi là thanh tịnh
tu hành Phạm hạnh. Lại nữa, Phạm chí! Nếu có mắt thấy sắc mà không khởi
tưởng dính mắc, không khởi thức niệm; trừ ác tưởng, bỏ pháp bất thiện,
nhãn căn được toàn vẹn. Ðó là người
này thanh tịnh tu Phạm hạnh. Nếu tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm
vị, thân biết xúc chạm, ý biết pháp đều không
thức tưởng, không khởi tưởng niệm, thanh tịnh được tu Phạm hạnh, ý căn
được toàn vẹn; người như thế tu Phạm hạnh không có thiếu sót.
Bà-la-môn bạch Phật:
- Những người nào không tu Phạm hạnh? Không
đầy đủ hạnh thanh tịnh?
Thế Tôn bảo:
- Nếu có người cùng hội họp, đây gọi là
không phải Phạm hạnh.
Bà-la-môn bạch Phật:
- Những người nào sơ sót không hành đầy
đủ?
Thế Tôn bảo:
- Nếu có người cùng nữ nhân giao tiếp, hoặc
đụng chạm tay chân, ấp ủ trong lòng
không quên mất; đó là này Phạm chí,
không hành đầy đủ, rơi vào các dâm
dật, tương ưng với dâm, nộ, si. Lại nữa Phạm chí! Hoặc cùng nữ nhân
đùa bỡn nói năng
qua lại; đó là, này Phạm chí người này hành không
đầy đủ, rơi vào dâm, nộ, si. Phạm hạnh
chẳng đầy đủ để tu hành thanh tịnh.
Lại nữa Phạm chí! Nếu có nữ nhân dùng mắt ác nhìn nhau mà không di chuyển,
trong đó liền khởi tưởng dâm, nộ, si, sanh
các loạn niệm; đó là, Phạm chí, người này Phạm hạnh chẳng sạch,
chẳng tu Phạm hạnh. Lại nữa, Phạm chí! Hoặc có người nghe xa xa, hoặc nghe
tiếng khóc, hoặc nghe tiếng cười, trong đó
khởi dâm, nộ, si, khởi các loạn tưởng; đó là Phạm chí, người này
chẳng thanh tịnh tu Phạm hạnh, tương ưng với dâm, nộ, si, hạnh không hoàn
toàn. Lại nữa Phạm chí! Nếu có người từng thấy nữ nhân, sau lại khởi
tưởng, nhớ đến đầu mắt cô gái, trong đó khởi
tưởng, ở chỗ vắng vẻ sanh dâm, nộ, si, tương ưng với ác hạnh; đó là,
Phạm chí người này chẳng tu Phạm hạnh.
Khi ấy, Phạm chí Sanh Lậu bạch Thế Tôn:
- Rất là kỳ đặc! Sa-môn Cù-đàm
này cũng biết Phạm hạnh, cũng biết chẳng phải Phạm hạnh; cũng biết lậu
hạnh, cũng biết bất lậu hạnh. Vì sao thế? Nay tôi cũng sanh niệm này: 'Có
những người cùng nữ nhân đụng chạm tay chân,
khởi các loạn tưởng'. Tôi liền sanh niệm này: 'Người này hạnh chẳng
thanh tịnh, tương ứng với dâm, nộ, si'. Ðệ nhất thọ lạc là nữ nhân vậy.
Ðáng ham muốn đệ nhất là mắt mắt nhìn
nhau. Và nữ nhân ấy hoặc nói, hoặc cười ràng buộc
đàn ông, hoặc cùng nói chuyện ràng
buộc đàn ông. Khi ấy tôi liền sanh
niệm này: 'Sáu điều này người trọn
hành hạnh chẳng thanh tịnh'.
Hôm nay Như Lai nói đã nhiều. Ví
như người mù được mắt, người mê thấy
đường, người ngu nghe đạo, người có mắt thấy
sắc; Như Lai thuyết pháp cũng lại như thế. Nay con tự quy y Phật, Pháp,
Tăng chúng. Từ nay về sau con không sát sanh nữa, cúi mong Thế Tôn nhận
con làm Ưu-bà-tắc.
Bấy giờ Phạm chí nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
*
10. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở trong rừng phía ngoài thành Tỳ-xá-ly cùng chúng
đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.
Bấy giờ Tôn giả Mã Sư đến giờ đắp y, ôm
bát vào thành khất thực. Khi ấy Ni-kiền Tử Tát-giá xa thấy Mã Sư
đến, liền nói với Mã Sư rằng:
- Thầy Ông thuyết những nghĩa gì? Có những giáo giới gì? Dùng lời dạy
gì cho đệ tử?
Mã Sư đáp:
- Phạm chí! Sắc là vô thường, vô thường tức là khổ, khổ tức là vô ngã,
vô ngã tức là không. Không là kia không phải sở hữu của ta, ta không phải
sở hữu của kia. Như thế là điều người trí
học, thọ, tưởng, hành, thức vô thường; ngũ thạnh ấm này vô thường,
vô thường tức là khổ, khổ tức là vô ngã, vô ngã tức là không. Không là kia
không phải sở hữu của ta, ta không phải sở hữu của kia. Ông muốn biết thì
Thầy ta giáo giới nghĩa như thế, thuyết cho các
đệ tử nghĩa như thế.
Khi ấy Ni-kiền Tử lấy hai tay bịt tai lại nói rằng:
- Thôi! Thôi! Mã Sư! Tôi không ưa nghe nói vậy. Nếu Sa-môn Cù-đàm
có dạy vậy, tôi thực chẳng ưa nghe. Vì cớ sao? Như nghĩa của tôi: sắc là
thường, nghĩa của Sa-môn là vô thường. Hôm nào sẽ gặp Sa-môn Cù-đàm
để cùng luận nghị, sẽ trừ tâm
điên đảo
của Sa-môn Cù-đàm.
Bây giờ trong thành Tỳ-xá-ly có năm trăm
đồng tử tụ tập một chỗ nhóm bàn luận. Ni-kiền Tử
đến chỗ năm trăm đồng tử, bảo đồng tử rằng:
- Các em hãy cùng đến chỗ Sa-môn Cù-đàm.
Vì sao thế? Ý ta muốn cùng Sa-môn kia thảo luận, khiến Sa-môn kia thấy
được đạo chánh đế. Sa-môn nói sắc là
vô thường nhưng như nghĩ của ta sắc là thường. Ví như lực sĩ tay nắm dê
lông dài, tùy ý dẫn đi khắp nơi không nghi
nan; nay ta cũng lại như thế, cùng Sa-môn kia luận nghị, tùy ta
buông bắt không có nghi nan. Ví như voi mạnh hung bạo có sáu ngà ở trong
núi sâu đùa chơi không khó gì; nay ta
cũng lại như thế, cùng Sa-môn ấy luận nghị không có nghi nan. Ví như hai
trượng phu mạnh mẽ bắt một người yếu đuối,
đặt trên lửa nướng tùy ý xoay trở cũng không khó khăn;
nay ta cùng ông ấy luận nghĩa cũng không nghi nan. Trong luận nghị
của ta, voi còn có thể bị hại huống là người; cũng hay khiến voi chạy
Ðông, Tây, Nam, Bắc há không bằng người sao? Nay kèo cột trong giảng
đường này là vật vô tình còn có thể
khiến cho di chuyển, hà huống cùng người luận nghị có thể thắng
được ta? Ta sẽ khiến ông ấy phun máu từ mặt
mũi ra mà chết.
Trong nhóm đó, hoặc có đồng tử nói:
- Ni-kiền Tử trọn chẳng thể luận nghị với Sa-môn, chỉ e Sa-môn Cù-đàm
sẽ luận nghị lại Ni-kiền Tử.
Hoặc có người nói:
- Sa-môn chẳng thể cùng Ni-kiền Tử luận nghị; Ni-kiền Tử có thể cùng
Sa-môn luận nghị.
Khi ấy Ni-kiền Tử liền nghĩ rằng: 'Nếu khiến Sa-môn Cù-đàm
nói như Tỳ-kheo Mã Sư thì đủ cho ta đối đầu.
Nếu lại có nghĩa khác thì nghe xong sẽ biết'.
Ni-kiền Tử liền dẫn năm trăm đồng tử,
trước sau vây quanh đến chỗ Thế Tôn, thăm hỏi xong ngồi xuống một bên.
Khi ấy, Ni-kiền Tử bạch Thế Tôn:
- Thế nào, Cù-đàm có giáo giới gì,
dùng giáo giới gì dạy các đệ tử?
Phật bảo Ni-kiền Tử:
- Ðiều của Ta nói sắc là vô thường, vô thường tức là khổ, khổ tức là vô
ngã, vô ngã tức là không, không tức là kia không phải (do) sở hữu của ta,
ta không phải sở hữu của kia; thọ, tưởng, hành, thức, năm
thạnh ấm thảy đều vô thường, vô thường tức là khổ, khổ thì vô ngã,
vô ngã là không. Không là kia không sở hữu của ta, ta không phải sở hữu
của kia. Giáo giới của Ta, nghĩa này như vậy.
Ni-kiền Tử đáp:
- Tôi chẳng ưa nghe nghĩa này. Vì cớ sao? Như tôi hiểu nghĩa, sắc là
thường.
Thế Tôn bảo:
- Nay Ông hãy chuyên tâm ý, tư duyên về diệu lý, sau hãy nói.
Ni-kiền Tử nói:
- Nay tôi nói sắc là thường, năm trăm
đồng tử này, nghĩa này cũng thế.
Thế Tôn bảo:
- Nay Ông nói sắc là thường, năm trăm đồng
tử này nghĩa cũng vậy.
Thế Tôn lại bảo:
- Nay Ông đã tự mình biện thuyết,
vì sao lại dẫn năm trăm người kia?
Ni-kiền Tử đáp:
- Nay tôi nói sắc là thường. Sa-môn muốn nói năng
những gì?
Thế Tôn bảo:
- Nay Ta nói: sắc là vô thường cũng lại vô ngã; tạm dối hội họp có sắc
này; cũng không chân thật, không chắc chắn cũng như
đám tuyết, là pháp môn diệt, là pháp
biến đổi. Nay Ông vừa nói sắc là
thường. Ta lại hỏi Ông, hãy tùy ý đáp Ta.
Thế nào Ni-kiền Tử? Chuyển luân Thánh vương lại ở nước mình
được tự tại không? Lại Ðại vương ấy,
người không đáng chết mà giết chết,
người không đáng trói lại trói, có được
không?
Ni-kiền Tử đáp:
- Thánh Vương này có sức tự tại ấy. Người chẳng
đáng giết có thể giết, người chẳng đáng trói
có thể trói.
Thế Tôn bảo:
- Thế nào, Ni-kiền Tử, Chuyển luân Thánh vương sẽ lại già chăng?
Ðầu bạc, mặt nhăn, áo quần dơ bẩn?
Khi ấy Ni-kiền Tử làm thinh chẳng đáp. Thế
Tôn hỏi hai ba lần. Ông ta cũng hai ba phen làm thinh chẳng
đáp. Khi ấy lực sĩ Kim Cang Mật Tích, tay cầm
chày kim cang, ở trên hư không bảo:
- Nay Ông không đáp lại luận này,
thì ở trước Như Lai, ta sẽ đập đầu Ông thành
bảy mảnh.
Bấy giờ Thế Tôn bảo Ni-kiền Tử:
- Ông hãy nhìn lên hư không.
Ni-kiền Tử ngước nhìn không trung, thấy lực sĩ Kim Cang Mật Tích, lại
nghe nói giữa không: 'Ông không đáp luận của
Như Lai, ta sẽ đập đầu Ông bể làm bảy mảnh'. Ni-kiền Tử thấy rồi
kinh sợ, áo lông dựng lên, bạch Thế Tôn:
- Cúi mong Cù-đàm, hãy cứu giúp
cho. Nay hãy hỏi luận, tôi sẽ đáp.
Thế Tôn bảo:
- Thế nào, Ni-kiền Tử, Chuyển luân Thánh vương có già chăng?
Cũng lại đầu bạc, răng rụng, da dùn, mặt nhăn
chăng?
Ni-kiền Tử đáp:
- Sa-môn Cù-đàm! Tuy có lời này
nhưng theo nghĩa của tôi, sắc là thường.
Thế Tôn bảo:
- Ông khéo suy nghĩ rồi sau hãy đáp. Nghĩa
trước và sau chẳng tương ưng với nhau, chỉ hãy luận rằng Chuyển
luân Thánh vương rồi có già không? Cũng sẽ
đầu bạc, răng rụng, da dùn, mặt nhăn
chăng?
Ni-kiền Tử đáp:
- Chuyển luân Thánh vương cũng sẽ già.
Thế Tôn bảo:
- Chuyển luân Thánh vương thường hay ở nước mình tự do. Vì cớ sao chẳng
thể khỏi già, khỏi bệnh, khỏi chết? (Bảo là) Ta không già, bệnh, chết, ta
là thường thì đáng lẽ phải được như thế,
nghĩa này có thể được không?
Ni-kiền Tử làm thinh không đáp, sầu lo
chẳng vui, lặng lẽ chẳng nói, thân thể tuôn mồ hôi, thấm ướt y phục, thấm
chỗ ngồi và ướt cả đất.
Thế Tôn bảo:
- Ni-kiền Tử! Ông ở trong đại chúng rống
như sư tử. 'Ðồng tử các em! Cùng ta
đến chỗ Cù-đàm
để cùng luận nghị; ta sẽ hàng phục như
bắt dê lông dài, tùy ý dắt đi khắp nơi không
có nghi nan. Cũng như voi lớn vào trong nước sâu, tùy ý dạo chơi
không có sợ. Cũng như hai trượng phu mạnh mẽ bắt một người yếu ớt,
để trên lửa nướng tùy ý xoay trở'. Ông
cũng lại nói: 'Ta thường hay luận bại voi lớn, cột kèo thảo mộc như thế,
toàn là vô tình, cùng chúng luận nghị có thể khiến cho co duỗi, cúi,
ngước, cũng có thể khiến dưới nách chảy mồ hôi'.
Bấy giờ Thế Tôn vén ba y lên, chỉ cho Ni-kiền Tử:
- Ông xem Như Lai không có chút mồ hôi chảy. Ngược lại bây giờ Ông mồ
hôi thấm đất.
Ni-kiền Tử làm thinh chẳng đáp. Bấy giờ có
một đồng tử tên là Ðầu-ma ở trong chúng kia. Khi ấy
đồng tử Ðầu-ma bạch Thế Tôn:
- Nay con đủ sức nhận có điều thi hành,
cũng muốn được nói.
Thế Tôn bảo:
- Tùy ý nói đi.
Ðồng tử Ðầu-ma bạch Phật:
- Ví như cách làng xóm không xa, có ao tắm tốt, nhưng ao tắm ấy có
trùng nhiều chân. Nhân dân lớn, nhỏ, trai, gái trong làng
đến ao tắm bắt trùng này ra, lấy
đá ngói ném trùng này bị thương, chặt
hết chân. Trùng này muốn trở vào nước, trọn không
được. Ni-kiền Tử này cũng lại như thế,
ban đầu hung hăng muốn cùng Như Lai
tranh luận, ôm lòng tật đố và kiêu
mạn. Như Lai trừ hết không sót chút nào. Ni-kiền Tử này không thể
đến luận nghị với Như Lai lần nào nữa.
Bấy giờ Ni-kiền Tử bảo đồng tử
Ðầu-ma rằng:
- Ông ngu mê không phân biệt được chân
ngụy, ta không nghị luận với Ông, ta nghị luận với Sa-môn Cù-đàm.
Ni-kiền Tử bạch Phật:
- Xin hỏi nghĩa lý, tôi sẽ thuyết nữa.
Thế Tôn bảo:
- Thế nào Ni-kiền Tử? Chuyển luân Thánh vương muốn cho già, bịnh, chết
chẳng đến, có thể được chăng? Vị Thánh
Ðại vương kia quả có được toại nguyện chăng?
Ni-kiền Tử đáp:
- Quả không toại nguyện.
- Muốn cho có sắc này, muốn cho không có sắc này, có kết quả chăng?
Ni-kiền Tử đáp:
- Không kết quả, Cù-đàm!
Thế Tôn bảo:
- Thế nào, Ni-kiền Tử? Sắc là thường hay vô thường?
Ni-kiền Tử đáp:
- Sắc là vô thường.
- Nếu lại vô thường thì là pháp biến đổi,
Ông lại thấy đây là ngã, cho ngã là sở hữu của kia chăng?
- Không, Cù-đàm!
- Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?
- Vô thường.
Thế Tôn bảo:
- Nếu lại vô thường, là pháp biến đổi, Ông
thấy có chăng?
- Không.
Thế Tôn bảo:
- Ngũ thạnh ấm này thường hay vô thường?
Ni-kiền Tử đáp:
- Vô thường.
Phật nói:
- Nếu lại vô thường là pháp biến đổi, Ông
có thấy có chăng?
- Không.
- Thế nào Ni-kiền Tử? Ông nói là thường. Lý này không trái với nghĩa
sao?
Khi ấy, Ni-kiền Tử bạch Phật:
- Nay con ngu si không phân biệt chân đế nên
mới khởi lòng muốn tranh luận với Cù-đàm
mà nói sắc là thường. Ví như sư tử mạnh, từ xa thấy người
đến mà có tâm sợ sệt sao? Không có
việc đó. Hôm nay Như Lai cũng lại như thế,
không có mảy may sợ sệt. Nay con cuống hoặc, không rõ nghĩa sâu,
dám xúc nhiễu Sa-môn Cù-đàm.
Ngài đã nói quá nhiều, ví như người
mù được mắt, người điếc được nghe suốt, người
mê được thấy đường, người không mắt
thấy sắc. Sa-môn Cù-đàm cũng
lại như thế, dùng vô số phương tiện vì con thuyết pháp. Nay con xin quy y
Sa-môn Cù-đàm, Pháp và Tỳ-kheo Tăng.
Từ nay về sau con xin trọn đời làm Ưu-bà-tắc, không sát sanh nữa.
Cúi mong Cù-đàm và Tỳ-kheo Tăng
nhận lời con thỉnh. Con muốn cúng cơm trưa cho Phật và Tỳ-kheo Tăng.
Bấy giờ Thế Tôn yên lặng nhận lời. Ni-kiền Tử thấy Thế Tôn
đã nhận lời mời, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy nhiễu Phật ba vòng, cúi lạy
rồi đi. Ông ta đến chỗ của các đồng tử ở
Tỳ-xá-ly, bảo các đồng tử rằng:
- Các Ông định cúng dường ta những gì
thì ngay bây giờ cung cấp cho ta, chớ để lỡ
thời. Nay ta thỉnh Sa-môn Cù-đàm
và Tỳ-kheo Tăng ngày mai thọ thực.
Khi ấy các đồng tử mỗi người đều lo bày
biện các thức ăn uống, đem đến cho ông ta.
Rồi ngay đêm đó, Ni-kiền Tử bày
biện đủ các thức ăn uống ngon ngọt, trải tọa
cụ tốt đẹp, rồi đến bạch Phật:
- Ðúng thời, nay đã
đến giờ, cúi mong hạ cố.
Bấy giờ Thế Tôn đến giờ, đắp y ôm bát cùng
Tỳ-kheo Tăng vào thành Tỳ-xá-ly,
đến nhà Ni-kiền Tử, ngồi vào chỗ theo
thứ tự. Ni-kiền Tử thấy Phật và Tỳ-kheo Tăng
ngồi yên rồi liền tự tay châm chước các món
ăn uống. Khi thấy Phật và Tỳ-kheo Tăng
ăn xong và rửa tay rồi, ông lấy một ghế nhỏ
đến trước Như Lai ngồi, muốn được nghe pháp.
Bấy giờ Thế Tôn thuyết diệu luận cho ông ta. Nghĩa là thí luận, giới
luận, luận sanh thiên, dục là uế ác, dâm là hạnh bất tịnh, xuất yếu là
vui. Thế Tôn thấy Ni-kiền Tử tâm ý khai mở theo pháp chư Phật, Thế Tôn
thường thuyết là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Ngài bèn thuyết hết cho Ni-kiền Tử.
Khi đó, Ni-kiền Tử ở ngay chỗ ngồi, các trần
cấu dứt sạch, được pháp nhãn thanh tịnh.
Thế Tôn liền nói kệ:
Tế tự, lửa trên hết
Thi thơ, tụng là đầu
Trong người, vua cao nhất
Các sông, biển là nguồn.
Trong sao, trăng sáng nhất
Ánh sáng, mặt trời hơn,
Trên dưới và bốn phương
Các vật ở dưới đất.
Trời cùng với nhân loại.
Phật là đấng vô thượng.
Người muốn cầu đức này
Chánh giác là tối thượng.
Bấy giờ Thế Tôn nói kệ xong, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy đi. Khi đó, năm trăm đệ tử của
Ni-kiền Tử nghe thầy mình nhận Phật giáo hóa, mới bảo nhau rằng:
- Ðại sư của chúng ta tại sao lại thờ Cù-đàm
làm thầy?
Rồi các đệ tử này ra khỏi thành
Tỳ-xá-ly, đứng ở giữa đường. Lúc ấy, Ni-kiền
Tử muốn đến chỗ Phật nghe pháp. Thế Tôn thuyết pháp cho Ni-kiền Tử, khuyến
khích cho hoan hỉ. Nghe pháp xong, Ni-kiền Tử liền từ chỗ ngồi đứng lên
lễ Phật, và lui đi.
Ðệ tử Ni-kiền Tử từ xa thấy thầy mình đến
liền bảo nhau:
- Ðệ tử Sa-môn Cù-đàm
đang trên
đường đi đến.
Rồi họ dùng đá ngói đánh chết ông ta. Các
đồng tử nghe Ni-kiền Tử bị đệ tử giết chết, liền đến chỗ Thế Tôn cúi lạy,
rồi ngồi xuống một bên. Các đồng tử
bạch Thế Tôn:
- Ni-kiền Tử được Như Lai giáo hóa, bây
giờ bị đệ tử giết chết rồi. Nay đã mạng chung, ông ấy sanh về chỗ
nào?
Thế Tôn bảo:
- Ông ấy là người có đức, đầy đủ tứ đế, đã
diệt ba kiết sử thành Tu-đà-hoàn, ắt
dứt được mé khổ. Ngày nay mạng chung,
ông ấy sanh lên cõi trời Ba mươi ba. Ông ta thấy Phật Di-lặc rồi sẽ hết mé
khổ. Ðây là nghĩa ấy, nên nhớ tu hành.
Bấy giờ các đồng tử bạch Thế Tôn:
- Thật là kỳ lạ! Ni-kiền Tử này đến chỗ
Thế Tôn đòi thi luận nghị, trở lại dùng sự luận nghị của mình
để tự trói buộc, và nhận sự giáo hóa
của Như Lai. Hễ người nào gặp Như Lai, thì hoàn toàn không có hư vọng. Ví
như có người vào biển lấy của báu, chắc chắn sẽ lấy
được, trọn không về tay không. Ðây
cũng như thế, có chúng sanh nào đến chỗ Thế
Tôn muốn được pháp bảo thì trọn chẳng về không.
Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho các
đồng tử, khiến cho hoan hỷ. Các đồng tử nghe
Phật thuyết pháp xong, liền từ chỗ ngồi đứng lên, nhiễu Phật ba
vòng, cúi lạy rồi lui đi.
Bấy giờ các đồng tử nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
-ooOoo-