CHƯƠNG 3
GIỚI
LUẬT
1.- Hình Tướng Của Ngũ
Giới Và Ai Có Thể Thọ Trì Được ?
Ngũ giới là
năm giới hay năm điều răn cấm căn bản mà người Phật tử khi
đã quy y Tam-Bảo đều phải giữ gìn.
Trong năm giới
có chia ra làm 2 phần là trọng và khinh như các tội sát sanh, trộm
cắp, tà dâm thuộc về trọng và nói dối, uống rượu thuộc về
tội nhẹ hơn có thể sửa đổi được. Về hình tướng của năm
giới có thể nói một cách cụ thể hơn như sau :
- Giới thứ
nhất : Không sát sanh, tất cả mọi sanh vật dù lớn hay bé đều
không được giết hại. Vì tôn trọng sự sống của mọi loài, cho
nên trong ý nghĩ sát sanh có phân ra làm 2 trường hợp khác nhau :
cố ý sát, vui theo hay đồng lõa khi thấy sinh vật bị giết đều phạm
tội cả.
- Giới thứ hai :
Không được trộm cắp, vật sở hữu của kẻ khác chính là mồ
hôi nước mắt của họ mới tạo ra được. Từ những vật lớn cho
đến một cây kim, sợi chỉ, nếu không được sự đồng ý của chủ
nhân thì không được lấy hay tìm cách chiếm đoạt dưới mọi hình
thức thuộc về tội trộm cắp cả. Chẳng hạn như lén khi người ta
không hay biết mà lấy vật gọi là đánh cắp, dùng hình thức thô
bạo đánh đập hay xử dụng súng đạn để uy hiếp của gọi là
đánh cướp, rình rập chờ lúc người ta ngủ hoặc sơ ý để tìm
cách lấy đồ gọi là ăn trộm. Những cách dùng mánh khóe tráo
trở đồ xấu để lấy vật tốt hoặc cân non, đo thiếu v.v... cũng
đều thuộc về hành động gian manh trộm cắp cả. Ngay cả việc đi làm
trễ giờ, lên xe, tàu không mua vé, khai gian tên họ lãnh trợ cấp,
sai hẹn cũng là một hình thức trộm cắp.
- Giới thứ ba :
Không tà dâm, đối với người Phật tử tại gia, khi đến tuổi
trưởng thành được tự do lập gia đình. Ngoài vợ chồng chính
thức ra không được lang chạ tình ý với người khác. Bởi vì,
người có hành động như thế là làm hư hại hạnh phúc gia đình
và còn gây ra cho người khác sự khổ đau, ân hận, nên người
Phật tử cần phải tránh việc tà dâm.
- Giới thứ tư :
Không được nói dối, việc nói dối có 4 hình thức khác nhau :
a) Nói lưỡi
đòn xóc nhọn hai đầu để làm cho cả đôi bên có sự nghi ngờ,
hiềm khích lẫn nhau.
b) Nói thêm bớt
như chuyện có nói không, chuyện không nói có hay cố bôi son trét
phấn cho việc nhỏ trở thành chuyện lớn.
c) Lời nói độc
ác hung hăng như chưởi rủa, mắng nhiếc, trù ẻo, hăm dọa ...
d) Nói lời hoa
mỹ trau chuốt cốt để làm mê hoặc lòng người. Tất cả các hình
thức trên đây đều thuộc về loại nói dối cả.
Người nói dối
không bao giờ được người khác tin tưởng để có thể giao phó
cho bất cứ một công việc gì.
- Giới thứ năm
: Không được uống rượu, rượu có chất men dễ làm say người.
Khi uống nhiều ta đâm ra mất thăng bằng, có thể mù quáng gây ra
nhiều tội lỗi. Ví dụ : Người say lái xe dễ gây ra tai nạn. Người
say ưa đập đồ đạc trong nhà và hay gây gỗ, ấu đả với người
chung quanh. Vì thế, người thực hành Phật giáo muốn cho tâm được
thanh tịnh nên Phật cấm uống rượu.
Tuy nhiên, có
trường hợp được dùng tới rượu và coi đó như là một thứ
thuốc hay trong lúc mắc bịnh, y sĩ bảo cần có rượu để pha với
thuốc uống thì được tạm dùng, nhưng trước khi uống phải cho chư
Tăng biết thì không phạm. Đến khi bịnh lành phải chấm dứt ngay
việc uống rượu.
Người Phật tử
giữ được năm giới của Phật cấm một cách trọn vẹn sẽ tạo
được hạnh phúc cho chính mình và đem lại được niềm an lạc cho
mọi người.
2.-
Thế Nào Gọi Là Luật Tứ Phần ? Đó Là Những Phần Gì ?
Luật Tứ Phần
là bộ luật trong đó thuyết minh 4 phần về giới tướng của Tỳ-kheo
và Tỳ-kheo-ni. Đây là phần giải thích rõ các tội phạm khinh trọng
của đoàn thể xuất gia lấy giới luật làm khuôn thước trong việc
tu hành.
Bộ Luật Tứ
Phần rút ra từ bộ luật tạng "Đàm Vô Đức" và do ngài
Sa-môn Thích-Hoằng-Tán, đời Minh (thế kỷ 14) dịch từ chữ Phạn ra
chữ Hán. Luật Tứ Phần chia ra làm 4 mục như sau :
Phần đầu :
Giới luật của thầy Tỳ-kheo.
Phần hai : Giới
luật của Tỳ-kheo-ni và cách thức thọ giới, cách nói giới.
Phần ba : Bàn rõ
về điều kiện an-cư và phép tự-tứ.
Phần bốn : Nghị
định cách tổ chức, tạo lập phòng xá cho Tăng chúng trong Tự
Viện.
Luật Tứ Phần
chỉ dành riêng cho giới xuất gia thực hành nên ít có vị cư sĩ tại
gia nào biết tới. Nhưng giả sử có đọc qua Luật nầy, người
không chuyên cũng không biết cách hành trì và Thể - Tánh - Dụng
của phần giới tướng ra sao. Trong thời gian gần đây có một số ít
vị cư sĩ hằng lưu tâm tới nền Phật giáo trong tính cách muốn tìm
hiểu để nghiên cứu cũng tìm đọc tới Luật Tứ Phần đã được
dịch sang tiếng Việt, và còn một số quý vị khác không phải để
nghiên cứu cũng đọc qua Luật Tứ Phần vì muốn thỏa mãn tính tò
mò. Việc nầy không có gì phương hại cả nhưng không cần thiết vì
nó vượt ngoài phạm vi và cách thức thọ trì của những người tu
học Phật còn vướng bận nhiều việc gia đình.
Điều cần và
thực tế nhất là chúng ta làm thế nào đọc và nhớ cho được
Luật Tứ Phần gồm những gì và để cho ai thọ lãnh. Nghĩ và làm
được như thế là tỏ ra xứng đáng người Phật tử chân chánh
đang thực hành Phật giáo dù bất cứ là người xuất gia hay tại
gia.
Tóm lại, giới
Luật Phật chế không phải chỉ có Luật Tứ Phần nhưng đây là bộ
Luật tiêu biểu cho giới xuất gia nên được xem là phần cốt cán
trong tạng Luật Phật giáo.
3.-
Bát Quan Trai Được Áp Dụng Lúc Nào ?
Bát-Quan-Trai
giới là 8 giới cấm của người Phật tử giữ gìn trong vòng 24
giờ, tức là 1 ngày 1 đêm ở tại chùa để tập sống theo đời
sống của người xuất gia.
Tại sao gọi là
Bát-Quan-Trai ?
Bát là tám, quan
là cửa ngỏ, trai là ăn chay, tức là ngoài việc giữ 8 giới ra
người phát nguyện tu hành còn phải ăn chay trong suốt thời gian 24
giờ tại chùa. Tám giới gồm có :
1/-
Không sát sanh. 2/- Không trộm cắp. 3/- Không dâm dục. 4/- Không
nói
dối. 5/- Không uống rượu. 6/- Không dùng hương phấn và dầu thơm.
7/- Không nằm giường cao tốt rộng lớn, vì sợ móng tâm buông lung
bậy bạ. 8/- Không ăn uống trái giờ giấc.
Tám giới hay
tám cửa ngỏ nầy giúp ta khép chặc hay đóng cửa phiền não không
xen tạp vào tâm trí cho lòng được thanh tịnh, an ổn. Khóa tu ngắn
hạn nầy thường được tổ chức vào ngày rằm và mồng một trong
tháng. Tuy nhiên, việc nầy cũng còn tùy thuộc vào thì giờ và
cách sắp xếp của mỗi chùa để cho phù hợp với mỗi người. Vì
người Phật tử muốn đạt đến giải thoát cần phải thực hành
cách tu tập của người xuất gia, mà phương pháp tu Bát-Quan-Trai
rất
dễ thực hành và có nhiều lợi ích thiết thực. Ngoài ra,
Bát-Quan-Trai giới cũng được xem như là gạch nối giữa đời sống
của người xuất gia với đời sống của người cư sĩ tại gia.
Sự ảnh hưởng
của pháp tu nầy là mang lại cho người thực hành có được tâm
thức vắng lặng, an vui. Những tạp niệm như cải cọ, nói năng thô
tháo đều được dẹp bỏ.
Từ chỗ bắt
đầu tu một ngày đêm trong tám pháp trai giới nầy làm nhân cho
việc giải thoát ở kiếp sau vậy.
4.-
Tại Sao Phật Tử Phải Giữ Giới Cho Mất Tự Do ?
Giới cấm của
người Phật tử tại gia chỉ có 5 điều. Đây là 5 cấp bậc làm
nền tảng cho bậc thang của các quả Thánh ở sau nầy.
Người Phật tử
không phân biệt tại gia hay xuất gia, khi đã thọ giới cần phải
giữ giới, nhất là những điều cấm tự mình đã phát nguyện
trước thầy tổ và trước ngôi Tam-Bảo lúc quy y.
Năm giới của
người Phật tử tại gia là : Không sát sanh, không trộm cắp, không
tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Người nào giữ trọn
vẹn được cả 5 giới như thế gọi là toàn phần, người chỉ giữ
được 3 giới trong số 5 giới gọi là bán phần. Khi nào lở phạm
giới cần phải tự sám hối để chừa bỏ lỗi lầm và phát nguyện
sửa đổi. Người tu hành chân chính là kẻ biết nghiêm chính giữ
gìn giới luật không trái phạm.
Sa-di có 10 giới,
Tỳ-kheo có 250 giới, Tỳ-kheo-ni có 348 giới.
Giới như dây
cương ràng buộc con ngựa không đi sai đường, người tu hành cũng
nhờ giữ giới mà phát sanh trí tuệ. Giữ giới để tạo một
đời sống quân bình và xây dựng xã hội loài người thêm vững
mạnh và an lạc.
Người Phật tử
biết giữ giới đúng đắn sẽ có ảnh hưởng tốt đến gia đình,
đoàn thể, tôn giáo và rộng hơn nữa, tạo cho thế giới hòa bình
và trật tự.
5.-
Ưu Bà Di Dùng Chỉ Cho Ai ?
Người Phật tử
tu tại gia có hai phái : Nam và nữ. Người nữ hay nữ giới Phật
tử gọi là cận-sự-nữ, tức là người đàn bà thân cận với
Phật Pháp. Nói một cách khác là tín-nữ hay Ưu-bà-di.
Ưu-bà-di tiếng
Phạn là Upasika có nghĩa là người nữ gần gũi để thực hành và
hộ trì Phật giáo. Nhưng trong trường hợp chỉ mới tin hoặc có cảm
tình với Phật giáo mà chưa quy y Tam-Bảo, người đó chưa gọi
được là Ưu-bà-di. Như vậy, Ưu-bà-di chính là người biết áp
dụng Phật giáo vào đời sống hằng ngày từ hành động, lời nói
và ý nghĩ đều thấm nhuần tính chất từ bi của đạo Phật.
Ưu-bà-di còn có nghĩa là người nữ ưu tú trong hàng ngũ Phật
tử, vì họ đã dày công với đạo như góp phần vào việc tu tạo
chùa chiền, phát tâm làm việc tu phước, cũng như tham gia vào các
hội từ thiện khác, giúp đỡ kẻ nghèo và ra tay làm việc nghĩa
để an ủi tha nhân, không từ nan bất cứ một công việc Phật sự
nào, miễn có lợi cho người khác thì sẵn sàng xả thân thực
hiện ngay.
Riêng đối với
giới luật, người Phật tử Ưu-bà-di cũng chỉ giữ năm giới căn
bản của người tín đồ tại gia như nam giới, tức Ưu-bà-tắc mà
thôi. Tuy nhiên, về tuổi tác, những em bé nữ Phật tử chưa gọi
được là Ưu-bà-di, vì ở vào lớp tuổi còn nhỏ, các em chưa làm
được việc gì lợi ích thiết thực cho đạo và đời.
Người Phật tử
Ưu-bà-di còn biết phát nguyện tụng kinh, ăn chay, niệm Phật để thể
hiện được tâm từ bi. Có nhiều trường hợp và tùy theo hoàn
cảnh mà phát tâm tu niệm, nếu gia đình thuận tiện, người nữ
Phật tử nên dành nhiều thì giờ vào việc tụng kinh, niệm Phật. Vì
mỗi tâm niệm thiện của chúng ta có thể đem lại lợi ích cho mọi
người chung quanh và có khi còn cứu sống được cả các giống sinh
vật khác nữa.
Người nữ vì
nặng nghiệp hơn người nam, nên ở trong đời phải chịu nhiều điều
khổ cực hơn, ngay trong gia đình là một ví dụ dễ hiểu hơn cả.
Người nữ Phật
tử đã quy y nên cố gắng thực hành Phật giáo và cũng để xứng
đáng là Phật tử chân chánh.
6.-
Ưu Bà Tắc Là Gì Và Chỉ Cho Ai ?
Trong giới luật
của Phật giáo có chia làm hai phần : Giới luật của người xuất gia
và giới luật của người Phật tử tại gia.
Kinh Ưu-bà-tắc
giới còn phân biệt : Người nữ Phật tử đã thọ 5 giới và quy
y Tam-Bảo gọi là Ưu-bà-di, còn người nam gọi là Ưu-bà-tắc.
Ưu-bà-tắc là người Phật tử phái nam hay còn gọi là
thiện-nam-tử, tức chỉ cho người trai lành gần gũi Phật Pháp để
tu học theo các pháp lành. Cũng theo kinh Ưu-bà-tắc giới thì người
tu tại gia còn chia ra làm ba hạng, tùy theo cách giữ giới ít hay
nhiều mà thành như :
- Thiểu phần
Ưu-bà-tắc, để chỉ cho người nam Phật tử nào chỉ có khả năng
lãnh thọ và thực hành 1 hay 2 trong 5 giới.
- Đa phần
Ưu-bà-tắc là những người giữ từ ba giới trở lên.
- Toàn phần
Ưu-bà-tắc : Người vâng giữ được trọn vẹn cả 5 giới.
Tùy theo lời
phát nguyện lúc quy y để giữ giới, theo đó mà người thực hành
Phật giáo được phân chia ra như trên. Nếu một Phật tử biết lễ
lạy cúng Phật, và thường hay đi chùa, nhưng chưa quy y thì chưa
gọi
được là Ưu-bà-tắc hay Ưu-bà-di. Chữ Ưu-bà-tắc lấy từ tiếng
Phạn ra là Upasak, để chỉ cho người phái nam có sức khỏe, gọn
gàng, gánh vác được công việc Phật Pháp.
Người Phật tử
tại gia biết giự gìn giới luật không những có lợi cho mình mà
còn tăng phần hữu ích cho mọi người chung quanh nữa.
7.-
Sa Di Có Mấy Hạng Và Điều Kiện Ra Sao ?
Bước đầu tiên
của người xuất gia là làm Sa-di hay gọi theo danh từ thông thường
tức chú tiểu hoặc điệu. Thật ra, điệu hay chú tiểu để chỉ cho
các em bé mới xuất gia đầu còn để chỏm tóc ở phía trước ;
còn Sa-di phải tiến xa hơn lên một bậc.
Sa-di dịch là
"tức từ" nghĩa là ngưng ác làm lành hay "cần sách"
là siêng năng tinh tiến hoặc còn một nghĩa nữa là "cầu
tịch" tức tìm tới đời sống an tịnh. Tuổi thích hợp cho Sa-di
là từ 14 đến 19 tuổi. Những vị lớn tuổi mới xuất gia cũng phải
trải qua thời kỳ làm Sa-di.
Sa-di có 4 nghĩa
:
- Sa-di đuổi quạ
(khu-ô Sa-di) : Các em bé dưới 14 tuổi tập sự sống theo quy tắc
của
chùa và tuổi còn quá nhỏ nên chưa làm được việc gì khác ngoài
đuổi quạ để chúng đừng làm náo động các khu vực chư tăng
đang tọa thiền.
- Sa-di danh-tự
(danh-tự Sa-di) : Những người đã quá 20 tuổi mà không có đủ
điều kiện thọ giới Tỳ-kheo.
- Sa-di hình-đồng
: Người có tướng mạo và cốt các trông giống như Sa-di, nhưng
không đủ tư cách thọ lãnh giới pháp như bị căn tật, cơ thể
không tròn đủ v.v...
- Sa-di hợp-pháp
(ứng-pháp Sa-di) : Người tuổi từ 14 đến 19 và tỏ ra cố gắng trong
việc tu học và có tác phong đạo đức.
Sa-di chưa phải
lãnh một công việc nào nặng nhọc trong chùa cả, ngoài việc tu học
và công phu bái sám ra, chỉ cần tập theo lối tham thiền của các vị
Đại-Đức Tỳ-kheo lớn tuổi. Về sinh hoạt, Sa-di phải đảm đương
việc cơm nước, bếp núc, chợ búa, củi than ... (nếu chùa không có
người giúp việc) và hầu thầy để giúp đỡ các vị Tỳ-kheo đang
bận tâm vào việc tọa thiền hay nghiên cứu. Sa-di chỉ cần giữ 10
giới luật, trong khi vị Tỳ-kheo phải thọ 250 giới. Sa-di phải
chứng
tỏ khả năng đầy đủ mới theo giới Tỳ-kheo được. Tuổi sớm
nhất và hợp lý để thọ giới Tỳ-kheo là 20 tuổi, có những chú
tiểu ở chùa từ nhỏ và có khả năng nhưng tuổi còn nhỏ, cũng
không được phép thọ giới Tỳ-kheo.
Sa-di là thời
kỳ dễ thực hành và đẹp nhất trong đời tu học của một người
xuất gia học Phật.
8.-
10 Giới Của Sa Di Có Hình Tướng Ra Sao ?
Giới luật của
Sa-di có 10 điều và chính những phần căn bản nầy làm thềm thang
tiến lên giới Tỳ-kheo trong tương lai. Mười giới Sa-di là :
1- Không sát
sanh
2- Không trộm
cắp
3- Không dâm
dục
4- Không nói
dối, thêu dệt, lưỡi hai chiều và không chưởi mắng.
5- Không uống
rượu
6- Không được
dùng nước hoa và những cách trang điểm lòe loẹt khác
7- Không được
nằm giường nệm cao sang, vì sự đắm tâm ưa thích
8- Không được
khiêu vũ, hát xướng
9- Không được
xử dụng vàng bạc phi pháp
10- Không được
ăn ngoài giờ ăn (ăn uống không độ lượng sái giờ giấc)
Về giới thứ 5
có thể không phạm, trong trường hợp bịnh nặng, y sĩ bảo cần phải
dùng rượu hòa với thuốc để trị lành bệnh thì được tạm dùng,
nhưng trước khi uống rượu phải thưa hỏi và cho chư Tăng biết rồi
mới được dùng.
Giới không ăn
phi thời thứ 10, có nghĩa là ngoài bửa ăn chính thức ra, không
được phép ăn lặt vặt. Chư Tăng ăn đúng giờ ngọ buổi trưa,
còn bửa ăn chiều chỉ phụ thôi, vì buổi tối là giờ ăn của
loài ngạ quỉ, buổi sáng giờ ăn của các cõi trời ; chánh ngọ :
Giờ ăn của chư Phật. Người tu học Phật, ngoài giờ ăn chính ra
cần phải giữ cho hoàn toàn được thanh tịnh. Loài quỷ đói một khi
nghe tiếng khua động chén bát bèn nổi lên lòng thèm khát muốn ăn
không tốt, do đó người giữ giới phải nghiêm chỉnh không cho trái
phạm điều nầy.
10 giới Sa-di là
bậc thang đầu tiên bước lên giới Tỳ-kheo. Sa-di không thực hành
đúng và đầy đủ phần giới tướng thì khó có thể tiến xa lên
được trên đường tu tập để hoàn thiện tác phong đạo đức của
người tăng sĩ xuất gia. Người nữ thọ 10 giới trên gọi là
Sa-di-ni.
Giới luật có
tinh chuyên thì trí tuệ, đạo nghiệp mới phát triển được.
Người tu hành không thể nào lơ là trong khi giữ giới luật.
9.-
Thức Xoa Ma Na Là Gì, Và Cách Phân Biệt Ra Sao ?
Những người
nữ tu sĩ Phật giáo khi đến tuổi 18 dù đã thọ giới Sa- di-ni hay
chưa cũng phải thọ giới Thức-xoa-ma-na trong 2 năm trước khi được
thọ giới Tỳ-kheo-ni.
Giới
Thức-xoa-ma-na là những giới điều cơ bản chuẩn bị cho giới
Tỳ-kheo-ni và gồm có 6 giới khinh, trọng như sau :
1- Không dâm
dục
2- Không trộm
cướp
3- Không sát
sanh
4- Không nói
dối
5- Không uống
rượu
6- Không ăn
ngoài giờ ăn (giờ ăn chính thức của người tu sĩ vào đúng
giờ ngọ buổi trưa, ngoài ra không nên ăn uống một cách tạp
nhạp).
Sáu giới
Thức-xoa-ma-na đều có trong 10 giới của Sa-di-ni, tại sao có sự
trùng lặp giới luật như thế ? Theo Luật-tông, đây không phải đã
bỏ bớt 4 giới để chỉ còn 6 giới cho nhẹ bớt phần hành trì mà
trong thời gian thọ giới Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni tập giữ giới
luật
của Tỳ-kheo-ni. Sự giữ giới Thức-xoa-ma-na kéo dài trong thời gian
2 năm. Nhưng ai chưa thọ giới Sa-di-ni mà đã đến tuổi 18 cũng có
quyền xin thọ giới Thức-xoa-ma-na và sau thời gian hành trì đủ 2
năm cũng đủ tư cách để thọ giới Tỳ-kheo-ni vậy. Ngoài ra, những
thiếu phụ trước kia đã lập gia đình hay sống độc thân (đã ly
hôn hay chồng chết), nếu muốn thọ giới Thức-xoa-ma-na phải đợi 10
năm sau ngày ly hôn hay ngày chồng chết mới thọ được giới pháp
của người nữ tu. (*)
Nữ giới có
phần nghiệp chướng nặng nề hơn, cho nên người nào tìm tới ánh
sáng của đạo và ly khai gia đình để học hạnh của người xuất gia
là đã làm một cuộc cách mạng lớn trong đời sống. Người đàn
bà đầu tiên xuất gia thọ Sa-di giới trong Phật giáo khi đức Phật
còn tại thế là bà Da-Du-Đà-La.
(*)
Theo Việt-Nam Phật-Giáo Sử Luận của Nguyễn-Lang, nhà xuất bản Lá
Bối in tại Paris năm 1978.
10.-
Tỳ Kheo Là Tiếng Dùng Để Chỉ Cho Ai ?
Người tăng sĩ
xuất gia tu theo Phật giáo đã thọ đủ 250 giới (giới cụ túc) chia
ra hai giới là Tỳ-kheo-tăng và Tỳ-kheo-ni.
Tỳ-kheo có nghĩa
là khất sĩ. Khất là cầu xin, sĩ là người : Như vậy thầy Tỳ-kheo
cầu xin những gì ? Thầy Tỳ-kheo về mặt nội tâm lo tu đức thanh
nhã, còn mặt ngoài xa lìa những nhận lãnh và hưởng thọ vật
chất một cách quá đáng, ngược lại phải làm việc lành lợi ích
cho mọi người, mọi vật cốt để giúp mình thành tựu được đạo
nghiệp và giữ tròn hạnh nguyện của người xuất gia. Khất còn có
nghĩa là trừ đói khát, tức có ý nói người xuất gia giữ tròn
giới hạnh làm ruộng phước mà nơi đó có thể sanh ra vật lành
để người đời đặt trọn tin tưởng vào nơi thầy Tỳ-kheo quy y và
cúng dường mong gieo trồng phước đức. Ví dụ : ruộng có bón phân
tạo cho đất mầu mới sanh ra được lúa tốt nhờ đó trừ được
nạn đói thiếu cho người gieo mạ, cấy lúa.
Tỳ-kheo có 8
hạng như dưới đây :
1- Danh-tự
Tỳ-kheo (hình tướng giống vị Tỳ-kheo nhưng không thọ 250 giới)
2- Tương-tợ
Tỳ-kheo
3- Tự-xưng
Tỳ-kheo : Mạo danh nghĩa cốt để người đời cung kính.
4- Thiện-lai
Tỳ-kheo : Người tốt gần gủi Phật Pháp giữ giới tu hành.
5- Khất-cầu
Tỳ-kheo : Trên cầu Phật Pháp, dưới xin cơm ăn để làm việc
đạo.
6- Cát-tuyệt-y
Tỳ-kheo : Dứt đường tình ái, phát túc siêu phương, khác người
đời.
7- Phá-kiết-sử
Tỳ-kheo : Đoạn diệt phiền não, nghiệp chướng ràng buộc.
8-
Thọ-đại-giới bạch 4 lần Yết-ma như pháp thành tựu đắc xứ sở
Tỳ-kheo.
Như trên, cho có
5 hạng Tỳ-kheo đúng nghĩa theo như hạnh nguyện người tăng sĩ, còn
hạng 1, 2, 3 là những trường hợp không được giới luật thừa
nhận và họ là phần tử giả trang thiền tướng để cầu được
tiếng khen.
Tỳ-kheo đúng
nghĩa là Bhikhu, chỉ cho người hành trì và truyền bá giáo pháp
nhiệu mầu của chư Phật, chư Tổ cho chúng sanh được thấm nhuần
lợi lạc. Thầy Tỳ-kheo khi thọ giới cụ túc thường thọ luôn
giới Bồ-Tát. Vì giới Tỳ-kheo rất nghiêm khắc nên người giữ
giới không thể ra tay cứu độ người bị nạn khác phái trong lúc
khẩn cấp. Trong khi đó, giới Bồ-Tát khai mở cho để người thọ
trì có thể rộng đường thực hành Bồ-Tát hạnh một cách trọn
vẹn và cởi mở mà không sợ phạm giới.
Thầy Tỳ-kheo
vừa làm hạnh Bồ-Tát như thế là tự bảo toàn được thanh đức
cho mình và làm lợi cho người.
Phụ : Vị Tỳ-kheo
có 4 chỗ nương tựa tu hành :
- Nương tựa vào
3 pháp y
- Nương tựa vào
chiếc bình bát
- Nương tựa tự
viện hay gốc cây
- Nương tựa
tăng đoàn hay tăng thân
Và theo bốn phép
xử sự như sau :
- Bị người
đánh không đánh lại
- Bị mắng không
mắng lại
- Bị sỉ nhục
không sỉ nhục lại
- Bị giết không
giết lại.
11.-
Tỳ Kheo Ni Có Những Điều Cấm Giới Nào ?
Khác với tăng
sĩ ở cách thọ giới và hình thức của giới Tỳ-kheo-ni cũng nhiều
hơn.
Trước khi muốn
thọ giới Tỳ-kheo-ni, Ni chúng phải thọ giới Thức-xoa- ma-na trước
đó 2 năm mới hợp cách.
Về phần giới
tướng của Tỳ-kheo-ni cũng có phần khác biệt với bên tăng. Như
những giới trọng của thầy Tỳ-kheo là không sát sanh, trộm đạo,
không dâm dục ... còn giới trọng của Tỳ-kheo-ni là không dâm dục,
không trộm cắp, không sát sanh ... Về lượng số, giới của
Tỳ-kheo-ni gồm 348 giới, trong khi đó Tỳ-kheo chỉ giữ 250 giới.
Ngoài ra, khi đã
cầu thầy bên Ni chúng truyền Tỳ-kheo-ni giới cho rồi, Giới-Tử nội
trong ngày ấy, chớ không được để qua đêm, phải đến nhờ Tăng
truyền trao giới tướng cho mới gọi được là thọ giới Tỳ-kheo-ni
đúng pháp.
Khi xin thọ giới
tướng với Tỳ-kheo-tăng, Giới-tử phải báo trước cho bên Tăng
biết. Thầy truyền Tỳ-kheo-ni giới phải báo cho Giới-tử lễ lạy
sám hối trước một tháng hoặc 2 tuần để cho 3 nghiệp thân, miệng,
ý được thanh tịnh.
Những thiếu phụ
lớn tuổi mới xuất gia, dù đã quá tuổi qui định cho việc thọ
giới (20 tuổi), Tỳ-kheo-ni cũng vẫn phải theo tập sự từ bước
đầu trong việc tu hành. Sau đó một thời gian chịu sự huấn luyện
ở trong tự viện, người ấy đủ lý giải được Phật Pháp, thầy
Bổn-Sư mới cho thọ giới.
Ni-cô đã thọ
giới Tỳ-kheo-ni một thời gian có đủ tư cách mở giới đàn
truyền giới, thu nhận đệ tử và phát triển đạo theo khả
năng.
12.-
Bố Tát Và Bồ Tát Khác Hay Giống Nhau ?
Bố-Tát là tập
họp tăng chúng lại một nơi như điện Phật hay giảng đường để
đọc tụng giới luật mỗi tháng hai lần vào ngày rằm và mồng một
và chỉ ra những điều lầm lỗi để sửa đổi.
Bố-Tát theo định
nghĩa như trên, ta không nên lầm lẫn với Bồ-Tát được. Bồ-Tát
là quả vị tu chứng của hàng Đại-thừa, là những bậc căn trí
thông đạt không còn câu chấp vào sự tướng.
Nơi nào chư
Tăng, Ni cùng nhau lo tu học, thường lệ mỗi tháng sau khi sám hối
xong, vào ngày hôm sau, tất cả tăng chúng nhóm họp lại và đề
cử người đọc lại giới luật Phật dạy.
Việc sám hối
vào tối 14 và tối 30 hay 29 (nếu tháng thiếu) thì lễ Bố-Tát vào
sáng ngày mùng một và ngày rằm. Khi làm lễ Bố-Tát, các thầy
Tỳ-kheo đọc từng giới Tỳ-kheo. Trong khi đó, Sa-di chỉ được phép
nghe tụng 10 giới và 24 oai nghi của Sa-di mà thôi. Sa-di không
được
phép nghe các thầy Tỳ-kheo tụng giới, cũng như các chú tiểu không
được dự vào lễ Bố-Tát của các thầy Sa-di.
Khi vào chánh
điện lễ Phật xong, thầy Yết-Ma đọc phần giới tướng căn bản cho
Sa-di. Sau đó, chúng Sa-di phải lui ra khỏi chánh điện để về lại
hậu Tổ tụng lại một lần nữa giới của Sa-di. Trong khi đó, các
thầy Tỳ-kheo tự kiểm và chỉ lỗi cho nhau, nếu được thầy Tỳ-kheo
khác thấy lỗi lầm bèn chỉ cho người phạm lỗi phát nguyện sám
hối trước ngôi Tam-Bảo.
Lễ Bố-Tát là
một hình thức hết sức dân chủ và có ý nghĩa rất sâu xa, nhưng
không rõ do ai sáng kiến sắp đặt ra lễ nầy. Có lẽ sau khi đức
Phật nhập diệt, các hàng đệ tử của Ngài muốn duy trì giới luật
trong việc tu hành nên nghĩ ra cách tụng giới nầy. Mặt khác, các
vị
Tổ sư như ngài Quy-Sơn (người làm ra Văn Cảnh-Sách gồm 24 thiên
oai
nghi cho thầy Sa-di trong mỗi động tác như việc đi, đứng, nằm,
ngồi
phải giữ cho đúng phép của người xuất gia). Tổ Bách-Trượng
(Trung-Hoa) đặt ra quy tắc bất tác, bất thực (không làm việc thì
không ăn uống) để duy trì quy luật Thiền môn cho được chặc chẽ,
hẳn là những nhà luật sư mô phạm trong Phật giáo !
Tóm lại,
Bố-Tát chỉ thành tựu được khi có từ 4 vị Tăng trở lên mới
đủ tư cách của một đoàn thể tăng hòa hợp.
13.-
Nngười Phật Tử Tại Gia Đã Có Pháp Danh, Khi Xuất Gia Thọ Giới
Có Cần Thay Đổi Gì Không ?
Người Phật tử
đã thọ 5 giới và quy y Tam-Bảo đều có pháp danh. Một trong những
nghi vấn cần được giải đáp là khi đã có pháp danh rồi mới
vào chùa tu, lúc thọ giới xuất gia có cần lấy thêm pháp danh nữa
không ?
Có hai trường
hợp như sau :
- Người xuất gia
chọn cùng một thầy với lúc chưa đi tu, thì pháp danh có thể giữ
nguyên như trước.
- Lúc xuất gia
và khi còn tại gia có hai thầy khác nhau, trong trường hợp nầy
pháp
danh phải thay đổi. Vì người xuất gia chỉ lấy pháp danh sau khi đã
thọ giới Sa-di. Chữ đầu của pháp danh được dùng chung cho cả
Phật tử tại gia và xuất gia, căn cứ theo bài kệ truyền pháp của
Tổ lưu truyền lại.
Ví dụ : Dòng kệ
pháp Lâm-Tế do ngài Minh-Hải truyền như sau :
Minh thiệt pháp
toàn chương,
Ấn chơn như thi
đồng,
Chúc thánh thọ
thiên cữu,
Kỳ quốc tô địa
trường ...
Thầy Bổn-Sư có
pháp danh là Minh-Tánh thì cho pháp danh xuống đệ tử là Thiệt
Diệu,
Thiệt Hòa ... Thầy mang pháp danh là Đồng Chơn, người đệ tử phải
có pháp danh mang chữ Chúc như Chúc Hải, Chúc Quang.
Pháp danh, vì thế
phải chọn đúng dòng kệ truyền pháp, cũng như ở đời phải có
tên do cha mẹ đặt từ lúc còn nhỏ. Nhưng cái tên đạo rất quan
trọng, vì nó đánh dấu giai đoạn mới trong đời sống tinh thần. Kể
từ lúc cạo tóc xuất gia, cái tên do cha mẹ đặt ít khi được
dùng tới nữa.
Pháp danh ghi dấu
một gian đoạn như một kỷ niệm trong đời tu học lúc còn sơ cơ, cho
nên có người giữ nó như một bảo vật trong đời sống tại tự
viện.
14
Tự Tứ Là Gì ?
Sau ba tháng
Kiết-hạ An-cư (từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy) của chư Tăng
đã mãn, trong lễ mãn hạ nầy gọi là lễ Tự-tứ, tức lễ nhận
tội và chỉ lỗi cho nhau khi hai vị Tăng đối diện làm lễ, vào ngày
rằm tháng 7 âm lịch.
Tự-tứ có
nghĩa là thỉnh cầu một vị Tăng khác chỉ cho mình biết những khuyết
điểm đã lỡ trái phạm trong việc giữ gìn giới luật suốt trong
thời gian ba tháng Kiết-hạ để mình biết lỗi mà sám hối. Trong lễ
Tự-tứ, chư Tăng theo như pháp Yết-Ma, đề cử ra 2 vị gọi là nhận
lãnh Tự-tứ (thọ Tự-tứ). Hai vị nầy ra trước chánh điện và
chư Tăng để lạy nhau rồi quỳ xuống đối diện nhau, một vị làm
phép Tự-tứ trước bằng cách nói với người kia :
Bạch Đại-Đức,
hôm nay là ngày chư Tăng Tự-tứ, tôi là Tỳ-kheo ... cũng xin
Tự-tứ với Đại-Đức, nếu Đại-Đức thấy hoặc nghe hay nghi tôi
có những khuyết điểm lỗi lầm nào về giới luật thì xin thương
xót chỉ bảo cho tôi. Nếu tôi nhận được lỗi lầm, tôi sẽ theo
đúng như pháp mà sám hối (đọc ba lần).
Nếu thấy vị kia
không có khuyết điểm nào, vị Tăng đóng vai Tự-tứ đối diện
đáp :
Rất tốt
(thiện).
Vị Tăng tự tứ
liền đáp :
Cám ơn
Đại-Đức (nhĩ).
Và lạy xuống
một lạy.
Lạy xong thì quỳ
lên để đóng vai nhận lãnh Tự-tứ cho vị kia làm lễ Tự-tứ. Khi
hai người đã Tự-tứ xong, đại chúng chia ra làm hai toán. Mỗi vị
nhận lãnh Tự-tứ đi về phía một toán, các vị Tăng trong toán bắt
đầu thay phiên nhau tới quỳ trước vị nhận lãnh Tự-tứ. Vị nầy
thấy vị kia tới quỳ trước mình cũng tự quỳ xuống để Tự-tứ.
Tất cả chư Tăng trong chánh điện đều làm y như vậy cho đến khi
mọi người trong đại chúng đều Tự-tứ xong.
Phép Tự-tứ
để chư Tăng chỉ lỗi cho nhau thấy và tự nhận lỗi lầm để sửa
đổi hầu tấn tu đạo hạnh là một hình thức rất công bằng và
dân chủ. Chư Tăng đã cùng nhau tu học trong cùng một hoàn cảnh và
cùng thọ nhận pháp kính nhường trong tinh thần hòa hợp.
Lễ Tự-tứ
được tổ chức sau 3 tháng tu tập, cũng có nghĩa là mỗi người
đã để tâm thanh tịnh và muốn tu sửa những hành vi bất thiện nhỏ
mà chính mình không tự hay biết nên cần người khác chỉ lỗi cho
để tu niệm.
15.-
Nói Rõ Về Ý Nghĩa Của Kiết Hạ An Cư
Kiết-hạ An-cư
là mùa chư Tăng an định ở một nơi để chuyên tâm vào việc tu
học, nhất là việc giữ gìn giới luật cho chu đáo trong phạm vi đã
qui định.
Mùa An-cư mỗi
năm có 3 tháng, tính từ rằm tháng 4 âm lịch cho đến rằm tháng 7.
Trong khoảng thời gian đó, các Đại-Đức, Tỳ-kheo tập hợp lại
để thực hành pháp Yết-Ma kiết giới, tức là qui định ranh giới
cho việt cư trú trong suốt mùa An-cư. Lấy ngôi chùa làm trung tâm
và
đánh dấu các góc Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc để giới
hạn sự đi lại của chư Tăng trong bốn nơi đã làm phép kiết giới
ấy. Khi Yết-Ma kiết giới đã được thực hiện, không một vị Tăng
nào có quyền đi ra khỏi ranh giới ấy nữa. Tuy nhiên, trong trường
hợp bất khả kháng, vị Tăng có thể chỉ được phép ra khỏi phạm
vi đã ấn định, nếu có làm phép Yết-Ma giải giới trong vòng 24
tiếng đồng hồ hay 48 tiếng tùy theo công việc giải quyết mau hoặc
chậm của vị ấy.
Đến hết mùa
An-cư Kiết-hạ, chư Tăng một lần nữa thực hiện phép Yết-Ma giải
giới và làm lễ đối đầu tỏ bày lỗi lầm của nhau trong thời gian
ba tháng vừa qua. Lễ nầy gọi là lễ Tự-tứ vậy.
Tại sao chư Tăng
phải làm lễ Kiết-hạ An-cư ?
Khi đức Phật
còn tại thế, Ngài cùng với các thầy Tỳ-kheo đi khất thực và
bố giáo trong khắp xứ Ấn-Độ cũng như các vùng phụ cận, nhưng
vào giữa tháng tư cho tới giữa tháng bảy là mùa mưa, đồng
thời cũng là mùa sanh nở của các loài côn trùng. Để tránh sự
dẫm đạp lên sanh mạng của những sinh vật nhỏ ấy, vì lòng từ bi,
Phật chế ra phép Kiết-hạ An-cư để sách tấn chư Tăng cùng nhau tu
học các pháp lành, hồi hướng các công đức lành ấy về cho
khắp pháp giới chúng sanh cùng được lợi nhuần ơn đức.
Việc Kiết-hạ
An-cư là phương pháp tu kiến hiệu nhất, một thầy Tỳ-kheo đã thọ
250 giới, nếu chưa theo các khóa tu tập ngắn hạn nầy mỗi năm thì
chưa đủ tư cách của người xuất gia vậy.
16.- Pháp Lục Hòa Và Những Ai Thực
Hành ?
Lục-hòa là 6
phương thức sống hòa kính của người tăng sĩ ở trong cùng một
tự viện hay ở tại các chùa và bất cứ nơi nào có đoàn thể
xuất gia cùng ở chung nhau tu học.
Sáu pháp hòa
kính như sau :
- Thân hòa đồng
trụ : Cùng trong một hoàn cảnh và giống nhau ở trong một môi
trường sinh hoạt, chư Tăng sống hòa mình với nhau để nhắc nhở
nhau tu học.
- Giới hòa
đồng tu : Trong phạm vi của một tự viện, chư Tăng cùng giữ một
số giới luật giống nhau. Ngoài ra, còn có bản nội quy riêng của
tự viện để việc chấp hành giới luật được đúng đắn, nhờ
đó nhắc nhủ nhau tu tập để cố tránh điều lầm lỗi.
- Khẩu hòa vô
tránh : Cùng hợp lực và xa lánh việc dùng lời lẽ thiếu nhã
nhặn cố gây ra sự bất hòa để tránh sự xung đột và giữ
được niềm hòa khí với nhau.
- Kiến hòa đồng
giải : Những ý kiến bất đồng, những sự hiểu lầm tai hại phải
được đem ra mổ xẻ và phải trao đổi sự hiểu biết, cùng chia xẻ
những kiến thức và quan niệm của nhau trong một thái độ thật cởi
mở và khiêm tốn.
- Ý hòa đồng
duyệt : Cùng nhau kết hợp mọi ý kiến dị đồng để tạo nên sự
hòa hợp vui vẽ trong đại chúng, hầu giữ được một nếp sống
đạo hạnh trong sạch và một lòng tin yêu lẫn nhau.
- Lợi hòa đồng
quân : Mọi điều kiện vật chất đều phải có sự phân chia đồng
đều, vì tất cả của cải vật chất đều được xem như của chung cho
mọi người.
Trong tinh thần
tự giác ấy, người tăng sĩ phát tâm xuất gia là đã phát nguyện
từ bỏ tất cả của cải vật chất ở đời, kể cả vợ đẹp con
ngoan, để hòa mình vào nếp sống đại chúng. Theo tinh thần đó, sáu
phép hòa kính chỉ là trợ duyên cho việc tu tập mà thôi. Nếu ý
thức được như thế, người tăng sĩ rất dễ dàng học hỏi và
tiến xa hơn trong mọi trường hợp và hoàn cảnh.
Từ hai vị tăng
trở lên sống chung nhau mà biết áp dụng đúng theo sáu pháp hòa
kính trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau nầy thì đoàn thể xuất gia
trở nên có uy tín và gây được ảnh hưởng tốt.
17.-
Bất Tác Bất Thực Là Nghĩa Thế Nào ?
Câu "bất
tác bất thực" đã trở thành Thiền-ngữ lưu hành trong Phật
giáo, nhất là Phật giáo phái Thiền-tông.
Bất tác bất
thực nghĩa là không làm thì không ăn hay là nhứt nhựt bất tác
bất thực, tức là một ngày không làm việc thì không có sanh lợi
nên không chi tiêu, được áp dụng đúng theo tiêu chuẩn kinh tế và
lợi tức, theo như tinh thần tự lực cánh sinh vậy.
Thiền-sư
Bách-Trượng (749-814) thuộc phái Thiền Lâm-Tế Trung-Quốc, khởi
xướng ra câu tiêu ngữ trên đã được Thiền-sư Vô-Ngôn-Thông
đem áp dụng tại Việt-Nam vào đầu thế kỷ thứ 9. Sau đó lại có
thêm danh từ "chấp lao phục dịch" (làm việc phục vụ theo
sức lực) cũng xuất hiện trong giới Thiền-môn. Tinh thần làm việc
lao động như trồng cây, cuốc đất, tưới hoa, làm vườn ... vừa tu
tập vừa tìm ra thêm được món lợi cho chùa để góp phần vào
việc chi phí hàng ngày. Sự xen lẫn việc công tác vào công phu tu
Thiền tạo cho thiền sinh có một tinh thần khai phóng, cũng như tạo
sự lành mạnh cho cơ thể và đạt sự hiệu quả trong việc tu tập,
ngoài ra, còn bảo đảm được một phần nào về đời sống kinh tế
cho tự viện.
Như vậy, ngược
dòng lịch sử hơn 1000 năm về trước, không riêng gì xã hội
Trung-Quốc mà ngay như hoàn cảnh nghèo nàn của Việt-Nam, lại còn
không phải ở ngoài đời sống thế tục mà ngay trong giới thiền
môn đã biết tận dụng triệt để tinh thần tự lập đúng theo
"cung cầu" của luật kinh tế và tạo được thế quân bình
giữa vật chất với tinh thần song song nhau để phát triển và tồn
tại. Những Thiền-sư là người nghĩ và làm đúng theo tinh thần
đó, nên câu nói trên đã được lưu lại qua nhiều thế hệ cho
tới ngày nay.
Mỗi một thiền
sinh trong bước đầu tu tập thiền định là một nhà khám phá và
chinh phục. Khám phá những điều mới lạ nơi tâm thức và chinh
phục những phiền não tự thân tâm. Vì thế, ngoài giờ tu thiền ra,
thiền sinh còn phải phân phiên làm một số những công tác khác
để cho cơ thể hoạt động có sự đồng đều, và đồng thời cũng
để cho hành giả tìm thấy sự thoải mái tâm hồn trong lúc làm
việc.
Công tác và
thiền định là hai việc song hành giúp cho người tu chóng đạt
được mục đích của việc tu tập và cũng để nhiếp tâm trong chánh
niệm, không nghĩ ngợi buông lung.
18.-
Tam Sư Thất Chứng Là Gì ?
Hội đồng truyền
giới Tỳ-kheo phải có ít nhất là 10 vị trưởng lão gọi là
Thập-sư. Trong số đó, 3 vị quan trọng nhất là Hòa-Thượng, Yết-Ma
và Giáo-Thọ, còn 7 vị kia thuộc hàng Tôn-chứng nên gọi là thất
chứng.
Giáo-Thọ là vị
Thượng-Tọa chỉ dẫn và trao truyền giới pháp cho người xin thọ
giới. Trong trường hợp số người thọ giới đông thì phải cần
hai vị Giáo-Thọ. Các vị Giáo-Thọ dạy cho giới tử tất cả những
điều cần biết, cần hiểu, cần làm và cần nói trong lễ thọ giới.
Còn 7 vị Tôn-chứng là những người được mời chứng minh cho
việc truyền giới và có phận sự quyết định sự thành tựu của
việc làm phép Yết-Ma. Địa điểm và lễ truyền giới được gọi
là Giới-đàn hay Đàn-tràng. Giới-tử khi đi làm lễ cầu thỉnh
Hòa-Thượng, Yết-Ma, Giáo-Thọ và Tôn-chứng phải được hướng
dẫn bởi một số tăng sĩ gọi là các thầy dẫn thỉnh. Các vị dẫn
thỉnh có nhiệm vụ hướng dẫn và giới thiệu người thọ giới
với các vị được thỉnh cầu vào Hội-đồng truyền giới tức là
Tam sư Thất chứng.
Các Giới-tử
có thành tựu được đạo nghiệp hay không một phần quyết định quan
trọng đều do nơi Giới-đàn truyền Tỳ-kheo-giới và nó cũng còn
tùy thuộc vào các bậc thầy chứng minh nữa. Như vậy, cuộc đời tu
hành và huệ mạng của Giới-tử đều do từ đạo hạnh của các vị
tôn chứng mà thành tựu được công đức tu hành vậy.
Do đó, trước
khi tổ chức thọ giới Tỳ-kheo, ban điều hành cuộc lễ phải cân
nhắc cẩn thận và mời những vị thiền đức xứng đáng có tác
phong đạo đức gương mẫu mới đưa lại cho lễ truyền giới được
trang nghiêm, thanh tịnh và nhờ đó mới có thể thu đạt được kết
quả viên mãn. Trong những Giới-đàn tổ chức thu hẹp không có
đủ 10 vị cao đức tăng chứng minh, nhưng tối thiểu phải có 4 vị
để được gọi là chúng.
Tóm lại, các
bậc tu hành cao đức đáng được tôn kính, quy thuận ở trong
Hội-đồng truyền giới là những bông hoa tỏa ngát hương thơm đến
hàng Giới-tử, nếu trái lại như thế, lễ truyền giới sẽ không
được nhiều lợi lạc.
19.-
Phép Yết Ma Là Gì ? Và Ở Đâu Làm Phép Yết Ma ?
Trong tự viện,
nơi chúng tăng ở tu học, mỗi tháng hai lần tập họp nhau lại để
thuyết giới, nghĩa là ôn nhắc lại những giới luật và kiểm
điểm ưu khuyết của việc hành trì giới cấm trong nữa tháng
trước.
Những hành
động phát lồ ăn năn như tự thú tội, sám hối hay bị xử trị
cũng như các lễ thọ giới, lễ kiết-hạ an-cư đều được thực
hiện trong nguyên tắc pháp Yết-ma. Yết-ma là "tác pháp biện
sự" để chỉ cho tính cách hợp pháp của những giải quyết căn
cứ theo một nghi thức tuyên cáo đọc và quyết nghị trong tăng
chúng. Bất cứ một quyết định hay một hành động nào liên hệ
đến đời sống giới luật của chư tăng đều phải do sự thực
hành phép Yết-ma mới hợp pháp. Muốn thực hiện phép Yết-ma, phải
hội đủ hai điều kiện :
1/. Số người
tối thiểu phải đủ. Ví dụ, việc xử tội một tăng sĩ, hội đồng
nhóm họp ít nhất phải có 20 vị đã thọ giới Tỳ-kheo. Trường
hợp tối thiểu phải đủ 4 vị Tỳ-kheo chứng kiến thì việc xử phạt
mới thành. Khi làm lễ tác bạch theo phép Yết-ma như sau :
Thầy Yết-ma : Xin
chư Đại-Đức nghe đây : Các vị có tên .... xin thọ giới cụ túc
với ngài .... làm trách vụ Hòa-Thượng. Lời tác bạch như thế
có đúng pháp không ? Các thầy tôn chứng chấp tay trả lời :
Đúng pháp.
2/. Quyết nghị
phải được thực hiện trong sự hòa hợp hoàn toàn. Nếu thiếu
sự hòa hợp tức là còn có ý kiến chống đối thì phép Yết-ma
không có hiệu lực. Người có trách vụ tuyên cáo Yết-ma gọi là
thầy Yết-ma do chư Tăng đề cử hoặc thỉnh mời. Như trong trường
hợp thọ giới Tỳ-kheo, thầy Yết-ma được các Giới-tử (người
sắp thọ giới) cung thỉnh vào vai trò nầy. Các vị Tăng thọ giới
phải tới trước vị tăng mà họ muốn cung thỉnh làm thầy Yết-ma
làm lễ, quỳ đọc 3 lần :
Nay chúng con xin
thỉnh Đại-Đức làm thầy Yết-Ma, xin Đại-Đức vì chúng con mà
nhận trách vụ, chúng con sẽ nhờ Đại-Đức mà được thọ giới
Tỳ-kheo.
Sau đó, thầy
Yết-Ma để cho thành tựu theo đúng nguyên tắc sẽ hỏi đại chúng
:
- Chư Tăng đã
nhóm họp lại chưa ?
Vị chủ lễ đáp
: Chư Tăng đã nhóm họp xong.
Thầy Yết-Ma : Có
sự hòa hợp không ?
Thầy chủ lễ :
Có sự hòa hợp.
Thầy Yết-Ma : Chư
Tăng tập hợp hôm nay để làm gì ?
Thầy chủ lễ :
Để thực hiện Yết-Ma truyền giới Tỳ-kheo.
Phép Yết-ma có
sự dân chủ và rành mạch như thế mỗi khi chư Tăng cần thưa thỉnh
việc gì có liên hệ tới sự tu hành cũng như giới luật.
20.-
Lễ Thế Phát Là Gì ?
Thế phát là
cạo tóc râu hay chất bẩn bám vào thân thể. Lễ thế phát là lễ
cạo tóc cho người xuất gia tu học theo đoàn thể tăng già.
Người mới
phát tâm tu học phải y chỉ vào một vị sư và liền sau đó được
thầy làm lễ cạo tóc cho mới chánh thức trở thành là một tăng
sĩ. Lễ nầy tuy đơn giản, nhưng rất quan trọng và thiêng liêng. Vì
đây là giờ phút quyết định cho cuộc hành trình của hành giả
trên bước đường tu tập. Người phát tâm tu hành tự phát
nguyện trước Bổn-Sư và Phật tổ bằng cách hướng về bốn hướng
để lễ lạy mỗi phương một lạy gọi là tạ ơn. Ý nghĩa của các
hướng như sau :
- Hướng về
phương Nam, lễ một lạy để tạ ơn cha mẹ đã dày công nuôi dưỡng
cho ta khôn lớn nên người và có được thân mạng ngày nay.
- Hướng về
phương Bắc lễ một lạy để đền ơn quốc gia, thủy thổ đã cho ta
có được một đời sống bình an, khỏe mạnh.
- Hướng về
phương Đông lễ một lạy đền đáp công ơn thầy học, bạn bè đã
giúp đỡ dẫn dắt ta nên người.
- Hướng về
phương Tây lễ một lạy để tạ ơn Tam-Bảo, các vị tổ sư tiền bối
đã hy sinh pháp thân huệ mạng để bồi đắp cho ngôi nhà Phật giáo
được tồn tại lâu bền trong đời.
Bằng thành tâm
trong chí nguyện, người xuất gia trong lễ cạo tóc cảm thấy tâm hồn
nhẹ lâng lâng như cảm thông được với các đấng thiêng liêng
để bắt đầu bước vào ngôi nhà của đại gia đình Phật
giáo.
Bài kệ khi làm
lễ xuống tóc là :
Thế trừ tu
phát
Đương nguyện
chúng sanh
Viễn ly phiền
não
Cứu cánh tịch
diệt.
(Nghĩa là : Cạo
bỏ râu tóc, nguyện cho chúng sanh xa lìa phiền não để đạt đến
chỗ rốt ráo vắng lặng, tức giải thoát)
Lễ cạo tóc có
thể không xảy ra đúng theo nghi thức trên, tùy theo mỗi vị thầy
hướng dẫn. Tuy nhiên, nếu các bậc tôn túc am tường về giới
luật phải tổ chức lễ cạo tóc cho đệ tử thật trọng thể và
trang nghiêm, nhờ đó nhắc nhở họ dễ dàng trong việc tu niệm.
Người mới
xuất gia, cái ấn tượng đầu tiên khi thầy đặt con dao lên đầu và
đọc thần chú cũng như lời phát nguyện khắc sâu vào tâm tư một
hình ảnh đẹp và khó quên trong đời tu học về sau.
21.-
Xuất Gia Phải Cần Những Điều Kiện Gì ?
Xuất gia theo nghĩa
gần nhất là ra khỏi nhà, nhưng theo lối giải thích đó không được
ổn thỏa lắm, vì người tu theo Phật giáo muốn trở thành một
Tăng-sĩ hay Ni-cô chân chánh phải có sự nhiếp tâm giữ giới
luật để diệt được giặc nội tâm và ngoại cảnh.
Chữ xuất gia bao
gồm trong 3 ý nghĩa như sau đây : 1) Xuất thế tục gia, xuất tam
giới
gia và xuất phiền não gia, nghĩa là ra khỏi nhà thế tục, tức là
hành giả từ bỏ cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc và ngay cả
vợ con (nếu có) để dấn thân vào con đường tu học, hầu sữa
mình và trau dồi đức hạnh để trở thành một người gương mẫu
dẫn dắt những kẻ sơ cơ học đạo. 2) Cầu mong ra khỏi nhà của 3
cõi : Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới, là một tâm niệm
thật cao thượng của người tu muốn hướng trọn đời mình phục vụ
cho tha nhân. 3) Mong khỏi bị vướng mắc vào trong những sự phiền
não, các việc vui khoái lạc ở trong vòng ô nhiễm của kẻ phàm
tục mà cố nhiếp tâm trong chánh niệm để thắng trận sau cùng là
giặc phiền não nơi tự tâm. Đó là thoát ra được khỏi mọi ràng
buộc của đời sống phức tạp và đa diện để cầu mong đạt
được đạo quả giải thoát.
Với ý nghĩa
đó, người tu theo Phật giáo muốn đạt đến giác ngộ được mọi
mặt cần phải gạn lọc hay thanh trừng cho hết sạch những chướng
ngại bên trong lẫn bên ngoài để thành tựu đạo quả Vô-thượng
Bồ-đề. Hiểu đúng mức ý nghĩa xuất gia cũng như thực hành
nghiêm chỉnh giới luật, người tăng sĩ mới xứng đáng là
trưởng tử của đức Phật, kẻ rao giảng chánh pháp của Như-Lai cho
nhân sinh.
Xuất gia vì thế
rất khó thực hành, người nào suốt đời không thối chí trong
việc tu tập là tự dâng hiến trọn đời mình cho đạo pháp để
phục vụ tha nhân. Người xuất gia cần các điều kiện : Thân thể
vẹn toàn tức là 6 căn : Mắt, tai, mũi, lưỡi, chân tay và ý
thức minh mẫn. Ngoài ra không phải vì trốn lánh xã hội, không mắc
nợ người, không thất tình, không phạm pháp ... mà xuất gia thì
mới được thừa nhận là người tu hành ở trong hàng ngũ tăng
già.
Người xuất gia
mang một sứ mạng cao cả là hoằng pháp lợi sanh và lấy trí huệ
làm sự nghiệp, nếu không hội đủ một số điều kiện như trên thì
khó mong thành tựu được ý nguyện tu hành đúng nghĩa.
22.-
Thế Độ Là Gì, Và Trong Trường Hợp Nào ?
Thế độ là
tiếp, đưa người thế tục vào với ánh sáng của đạo mầu giải
thoát, tức là người được nhận cho sống đời xuất gia và phát
nguyện một đời theo thầy học đạo.
Thế độ còn có
nghĩa là thay đổi lối sống của người trần để dấn thân vào
cửa chùa, thực hành Phật giáo theo đời sống của người xuất gia
và xã bỏ tất cả những cái vinh hoa phú quý của đời sống thế
tục. Một người phát tâm xuất gia như thế phải cần nương tựa
vào một vị thầy có uy tín, đạo đức để học hỏi giáo lý giải
thoát. Thầy nhận cho người ấy xuất gia gọi là thầy thế độ.
Người đệ tử coi vị thầy mà mình nương tựa như là người
hướng dẫn gương mẫu, sáng suốt để nhờ đó phát triển trí tuệ.
Từ lúc xuất gia trở đi, có điều gì thắc mắc cần hỏi, người
đệ tử đều tham khảo nơi thầy hướng dẫn, nhất là việc tu hành
và việc học hỏi ở lúc ban đầu.
Như vậy, giữa
thầy Bổn-Sư và thầy Thế-độ có giống nhau ? Có nhiều trường
hợp người tu lúc đầu chưa biết gì về đời sống tu hành và cần
nhờ một thầy hướng dẫn. Sau khi đã vào tu ở chùa người ấy
lại chọn một thầy khác, do đó thầy Bổn-Sư chưa hẳn là người
đã chỉ dẫn cho các kinh nghiệm tu tập lúc mới nhập môn. Nói một
cách khác, chữ Thế-độ có tính cách giai đoạn và ngắn hạn mà
người tu cần y chỉ để học hỏi nơi một thầy đạo hạnh xứng
đáng. Tác phong đạo đức của một người tu hành có được một
phần lớn đều nhờ nơi thầy Thế-độ mà thành tựu.
Ở đời dù
chúng ta làm bất cứ một công việc gì, lúc ban đầu rất quan trọng,
vì nó đánh dấu cho cả một tương lai rạng rỡ hay khó khăn.
23.-
Pháp Hiệu Là Gì ? Ai Có Pháp Hiệu ?
Người Phật tử
tại gia khi quy y chỉ nhận được Pháp-danh, trong khi đó người tăng
sĩ, ngoài Pháp-danh lúc thọ 10 giới, còn có Pháp-hiệu khi thọ 250
giới.
Pháp-hiệu là
tên do thầy truyền pháp đặt cho theo một câu thi kệ có ý nghĩa nào
đó trong Phật Pháp hoặc một bài thơ do Bổn-Sư sáng tác. Như vậy,
Pháp-hiệu không quan trọng bằng Pháp-danh ? Người tăng sĩ đã có
Pháp-danh hoặc Pháp-tự được chọn làm tên gọi hằng ngày trong
đời tu học, còn Pháp-hiệu chỉ là tên dùng trong phạm vi của chùa
và có liên hệ giữa thầy trò với nhau. Pháp-hiệu thường ít
được dùng tới, nhưng tới lúc người mang tên hiệu qua đời
phải viết đầy đủ lên bài vị để cho người sau dễ nhận ra tông
môn.
Pháp-hiệu cũng
khác với Bút-hiệu, vì Bút-hiệu có thể có tới 3 hoặc 5, nhưng
Pháp-hiệu chỉ có một thôi. Pháp-hiệu do thầy chọn đặt cho, chứ
không phải đương sự tự chọn lựa.
Người xuất gia
vì thế có đủ 3 tên là Pháp-danh, Pháp-tự và Pháp-hiệu, cũng
như trong tăng đoàn đều lấy theo dòng họ Thích của đức Phật
Thích-Ca để chứng tỏ là dòng Thích tử (con Phật). Tên đạo, đầu
tròn, áo vuông là 3 yếu tố quan trọng tạo nên hình ảnh nhà tu
đạo hạnh đáng làm nhà mô phạm cho người đời noi theo. Ngoài ra,
người tăng sĩ còn tâm niệm tới 3 mối liên hệ mà họ đang
được thừa hưởng là ở nhà Như-Lai (chùa), ăn cơm Đàn-việt
(người tín đồ đem của tới cúng) và mặc áo Như-Lai (chiếc áo
nhà tu là pháp y).
Người tu có
Pháp-hiệu cũng có nghĩa là đã tu hành trong nhiều năm kinh nghiệm
và đã tới lúc có thể tự ra đảm đang công việc Phật sự một
mình được.
24
Pháp Danh Là Gì ?
Pháp-danh là tên
dùng theo thứ tự của dòng kệ truyền pháp mà người tín đồ
Phật giáo lúc thọ 5 giới và quy y Tam-Bảo được thầy đặt
cho.
Người xuất gia
và Phật tử tại gia đều có Pháp-danh cả. Pháp-danh của một
người lấy ra từ một chữ của bài kệ do Tổ lưu truyền lại, theo
tông phái mà thành hình. Ví dụ : Dòng Lâm-Tế do Thiền-sư Minh-Hải
truyền xuống có câu :
Ứng chơn như thị
đồng
Chúc thánh thọ
thiên cữu ...
Mỗi đời truyền
pháp lấy một chữ nơi bài kệ ấy. Chẳng hạn thầy có Pháp-danh
chữ Thánh như Thánh Tâm thì cho Pháp-danh xuống đệ tử là Thọ như
Thọ Trường, Thọ Xuân ... Có một vài trường hợp người thọ
giới mang Pháp-danh chữ Thị, mặc dù người ấy là đàn ông. Chữ
Thị theo thứ tự của bài kệ trên, chứ không phải Thị là đàn
bà. Thầy có Pháp-danh chữ Như, bắt buộc cho xuống các đệ tử
phải là chữ Thị. Lúc cho Pháp-danh, hẳn thầy truyền giới đã
giảng giải rõ ý nghĩa nầy.
Từ khi người
Phật tử nhận lãnh Pháp-danh, được xem như có đủ tư cách là
một Phật tử đã quy y Phật Pháp Tăng và luôn luôn hướng tâm
niệm thiện về 3 ngôi báu ấy để mong làm điều lành tránh điều
dữ.
Cái tên của
một người rất quan trọng, và Pháp-danh lại càng cần thiết hơn cho
người Phật tử đã chọn Phật giáo như lý tưởng để tôn thờ,
vì nó được gắn liền với đời sống tinh thần của chúng ta.
25
Pháp Sư Có Phải Là Thầy Phù Thủy Có Đủ Pháp Thuật Trừ Tà
Yếm Quỉ Không ?
Chữ Pháp-sư có
nghĩa là thầy tinh thông về Phật Pháp hay là vị giảng sư của Phật
giáo có khả năng diễn giảng giáo lý đạo Phật cho quần
chúng.
Danh từ Pháp-sư
đã bị nhiều người hiểu lầm là thầy pháp có thuật trừ ma,
luyện chú giỏi hay là ông thầy chuyên việc cứu nhân độ thế.
Pháp-sư nói cho đúng nghĩa theo tinh thần Phật giáo là vị
Thượng-Tọa có nhiều kinh nghiệm trong đạo. Người đã thọ giới
Tỳ- kheo (250 giới) và tinh chuyên giới hạnh, đã trải qua 10 năm
theo
học tại các khóa an-cư kiết-hạ. Vị ấy đã là tôn chứng cho các
đại giới-đàn Tỳ-kheo và Bồ-Tát giới hoặc là vị giảng sư lưu
động của Phật giáo được đề cử đến thuyết pháp ở các nơi
để cho quần chúng thấm nhuần giáo lý đạo Phật được gọi là
Pháp-sư.
Khi phân biệt như
thế, chúng ta đừng đồng hóa Pháp-sư trong Phật giáo với thầy
pháp bên đạo phù thủy. Mặc dù ngày nay không còn những hình
thức của các thầy pháp phù thủy nữa, vẫn có người còn lạm
dụng danh từ hay đúng ra vì không phân biệt nổi chỗ khác nhau
chăng
?
Người Phật tử
Trung-Hoa và Nhật-Bản xử dụng danh từ Pháp-sư dùng trong giới Phật
giáo để tôn kính các vị Thượng-Tọa chuyên việc diễn giảng.
Trong Phật giáo,
bất cứ một sự tướng nào, chúng ta cũng nên tìm hiểu cho tường
tận để khỏi bị nhầm lẫn và hiểu sát nghĩa. Còn một điểm sai
lầm tai hại nữa là có những tăng sĩ hành nghề thầy cúng chuyên
môn, cũng được gọi bằng Pháp-sư. Danh từ trong Phật giáo không
thể bị lạm dụng đến như vậy.
Người Phật tử
nên nghiêm chỉnh trong việc dùng cách xưng hô cho đúng trong khi
gặp
các vị lãnh đạo tinh thần để tránh những lỗi lầm tai hại.
26
Pháp Tự Là Gì Và Những Ai Có Pháp Tự ?
Pháp-tự là
tên chữ theo đúng dòng kệ truyền pháp được thầy đặt cho khi
người tăng sĩ Sa-di-giới. Mỗi tăng sĩ đều có 3 tên riêng biệt
là Pháp-danh, Pháp-hiệu và Pháp-tự.
Trong 3 tên ấy,
có thể chọn tên nào để gọi cũng được, nhưng thông thường
Pháp-danh được chọn để gọi tên hơn, vì ở giai đoạn đầu
Pháp-danh gắn liền với đời sống tu học khi người mới vào chùa
tu và mang nhiều nét đặc biệt, nhất là đã quen dùng nên khó sửa
đổi. Tuy nhiên, tên gọi là do người ấy quyết định, vì thế cũng
có đôi lúc Pháp-hiệu được dùng làm tên gọi từ khi thầy
Tỳ-kheo thọ 250 giới về sau. Pháp-hiệu cũng được dùng nhưng ít
phổ thông hơn. Trong trường hợp người tăng sĩ qua đời, bắt buộc
phải viết tên gồm Pháp-danh, tự, hiệu lên bài vị để thờ.
Đã có Pháp-danh
và Pháp-hiệu, còn Pháp-tự không cần có được không ?
Người xuất gia
mỗi một giai đoạn trong đời tu học là để đánh dấu một bước
tiến lên, vì đã trải qua nhiều thử thách để đạt tới được,
do đó tên mới cũng làm cho người được mang tên thay đổi về
lối sống và cách suy nghĩ. Tâm lý học cho chúng ta thấy rằng, khi
mặc quần áo mới ta tự nhiên có cảm tưởng như có sự thay đổi
toàn diện. Như vậy, cái tên gọi rất là quan trọng, nên thầy
Tỳ-kheo được mang thêm tên Pháp-hiệu lúc thọ giới cũng là việc
dễ hiểu.
Pháp-tự phải
giống với tánh tình và tư cách của người ấy mà thầy Bổn-Sư
cần phải theo dõi người đệ tử qua nhiều năm tháng ở tự viện
mới hiểu rõ được mà chọn để đặt cho.
Người tăng sĩ
nhận Pháp-tự cũng có nghĩa là để đánh dấu giai đoạn trưởng
thành trong đời tu học và có thể lãnh trọng trách hoằng pháp
lợi sanh.
27.-
Ai Thực Hành Phép Tam Đề Trong Phật Giáo ?
Tại các tự
viện, chư Tăng theo đúng qui tắc của một thiền môn, trước khi ăn
cơm phải làm phép tam-đề và ngũ-quán.
Ngoài việc giải
thích ra, để quý độc giả có thể hiểu thêm về chiều rộng của
vấn đề, ở đây xin được bàn tới thái độ thọ nhận của cúng
một cách nghiêm túc của người tăng sĩ trong lúc ăn uống để
nhiếp tâm cầu nguyện cho mọi việc phước lành đến với người
và chính người thọ nhận của cúng cũng được lợi lạc.
Tam-đề là ba
muổng hay ba miếng cơm làm phép trước khi thọ thực. Chư Tăng
trước khi vào bàn ăn phải bưng chén cơm hay bình bát đưa lên ngang
trước trán vừa tầm với chân mày trong tư thế bắt ấn Cam-lồ (3
ngón tay giơ thẳng lên, chỉ ngón đeo nhẫn cung lại giáp với ngón
tay
cái). Tất cả đều đồng thanh đọc bài "cúng dường thanh tịnh
..." Nghi thức nầy chỉ trong vòng 10 đến 15 phút, sau đó bửa ăn
bắt đầu. Trước khi ăn chư Tăng phải làm phép. Ý nghĩa của 3
miếng cơm đầu tiên như sau :
- Muổng thứ
nhứt : Nguyện đoạn nhứt thiết ác. Tức là người thọ cơm tự
hứa với mình đoạn trừ tất cả điều ác dù nhỏ hay lớn. Điều
ác ở đây cũng có nghĩa là lòng tham lam như muốn ăn ngon, ăn
nhiều và ăn quá phần ăn của mình.
- Muổng thứ hai :
Nuyện tu nhứt thiết thiện. Phát khởi lòng từ bi tu tập tất cả
những pháp lành, nghĩa là không từ nan bất cứ một việc thiện
nhỏ nào. Người tu hành hễ có cơ hội làm được việc lợi ích
là cứ hăng hái bắt tay vào việc không chút do dự.
- Muổng thứ ba :
Thệ độ nhứt thiết chúng sanh. Tất cả mọi loài đang còn bị đói
khổ, thiếu thốn, ngay cả miếng ăn thức mặc, nên hành giả phải
phát tâm vì tất cả những chúng sanh nào còn đang gặp phải khó
khăn trong đời sống về vật chất, và nhất tâm cầu nguyện cho tất
cả được ấm no đầy đủ.
Khi phát ra những
lời nguyện rộng lớn như thế xong, sau đó mới bắt đầu bửa ăn
trong tinh thần cầu nguyện, rất yên lặng và trang nghiêm (nên nhớ :
3
muổng cơm tượng trưng, mỗi muổng chỉ vài ba hột thôi, chứ không
phải là một muổng đầy). Nghi thức nầy vẫn áp dụng cho Phật tử
tu tại gia về thọ giới Bát-Quan-Trai tại chùa trong 24 giờ.
28.-
Ngũ Quán Diễn Ra Lúc Nào ?
Ngũ quán là
năm điều quán tưởng trước khi vào bửa ăn của chư Tăng Ni trong
các tự viện.
Năm phép quán
tưởng nầy để người tu hành luôn nhớ nghĩ tới những việc làm
lợi ích giữa mình và người khác. Năm phép quán ấy như sau :
- Phép quán thứ
nhứt : Nghĩ tới công ơn khó nhọc của người sản xuất ra hạt lúa
cho đến khi thành hình nên gạo và do công người nấu nước để
thành cơm. Như vậy khi thành được chén cơm đây phải trải qua bao
nhiêu mồ hôi nước mắt của nhiều người kết tụ lại mới có
được.
- Phép quán thứ
hai : Khi đã nghĩ tới công khó của người rồi, phải xét kỹ lại
tài đức của mình đã tròn đủ chưa để xứng đáng thọ nhận
được hạt cơm nầy.
Nếu tự xét
thấy chưa đủ tư cách và đạo hạnh để người tin tưởng thì phải
biết tự hỗ thẹn khi nhận lãnh hột cơm của người tín đồ đem
tới dâng cúng.
- Phép quán thứ
ba : Cần phải ngăn chận lòng tham lam quá độ dấy lên.
- Phép quán thứ
tư : Tự xem hột cơm đang ăn như là một phương thuốc hay cứu chửa
cơn bịnh đói cho cơ thể mà thôi.
- Phép quán thứ
năm : Muốn làm việc đạo để đem lại lợi lạc cho nhiều người
nên mới thọ nhận cơm nầy.
Như thế, trong
bửa ăn của người tăng sĩ rất thanh tịnh trong sự nhiếp tâm cầu
nguyện. Người hiến cúng đặt trọn tin tưởng vào để cầu phước,
kẻ nhận của cúng không cảm thấy hỗ thẹn khi thọ lãnh của tín
đồ một cách phí phạm.
(Nguyên văn của
5 phép quán tưởng ấy như sau : Nhất kế công đa thiểu, lượng bỉ
lai xứ, nhị thốn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng, tam phòng
tâm ly quá, tham đẳng vi tôn, tứ chánh sự lương dược, vị liệu
hình khô, ngũ vị thành đạo nghiệp ưng thọ thử thực)
Vì làm việc
đạo mà thọ nhận của người cúng, giới tăng sĩ xuất gia có bổn
phận ban bố pháp cho mọi người để biết mà tu, như vậy, cả hai
bên mới được lợi ích, thiết thực.
29.-
Tam Tụ Tịnh Giới Hình Tướng Ra Sao ?
Trong bộ đại
tạng luật có nói về tam-tụ-tịnh-giới. Ngoài ra, trong các bộ luật
của Tiểu-thừa không thấy nói tới phần nầy. Vậy
tam-tụ-tịnh-giới là gì ?
Tam-tụ-tịnh-giới
là sự kết hợp giữa ba phần giới luật căn bản để xây dựng
xã hội. Hình tướng của ba phần giới luật căn bản nầy gồm :
- Nhiếp luật nghi
giới.
- Nhiếp thiện
pháp giới
- Nhiêu ích chúng
sanh giới (hữu tình)
Thường thường
vị tăng sĩ khi thọ giới Tỳ-kheo là thọ luôn giới Bồ-Tát để
việc cứu độ chúng sanh được tự tại, không bị bất cứ một
cản trở nào làm lui sụt ý chí muốn làm việc lợi ích cả. Do
đó, phần giới luật của Bồ-Tát có 2 phần là Tỳ-kheo giới và
Bồ-Tát giới, và bao hàm ở khía cạnh :
- Nghiêm chỉnh
giữ gìn các giới đã thọ
- Làm việc thiện
lợi ích khắp cho mọi người
- Phụng sự cho
mọi loài hữu tình và coi tất cả như là anh em trong tình đồng
đạo.
Cả ba phần trên
đều bổ túc cho nhau để người thực hành có thể hoàn thành
được sứ mạng tự cứu lấy mình và cảm hóa được người chung
quanh tìm về với đạo giải thoát. Nói về giới luật có rất
nhiều, nhưng chỉ đề cập tới 3 phần cơ bản của giới Tỳ-kheo Bồ-
Tát, vì đây là phần giới luật qui định rõ phạm vi tu tập của
người xuất gia.
Nhờ y cứ vào
ba phần giới đây mà thầy Tỳ-kheo rộng đường ra tay cứu giúp
tất cả mọi chúng sanh dù ở bất cứ nơi đâu, để hoàn thành
sứ mạng độ sanh cao cả của người đệ tử xuất gia.
30.-
Bố Tát Giới Và Bồ Tát Có Khác Nhau Không ?
Trong Phật giáo
có nhiều danh từ cần phân biệt để khỏi có sự lẫn lộn với
nhau. Danh từ Bồ-Tát-Giới và Bồ-Tát hoàn toàn khác nhau.
Bồ-Tát-Giới
là giới luật cho người phát tâm Đại-thừa gồm có 10 giới
trọng và 48 giới khinh (nhẹ), có thể áp dụng chung cho cả người
xuất gia và Phật tử tại gia. Kinh Phạm-Võng của Đại-thừa, phẩm
Bồ-Tát Tâm Địa Giới có nói rõ về phần giới tướng nầy.
Giới Bồ-Tát
khai mở phương tiện độ đời, giúp đỡ chúng sanh rất rộng rãi
về nhiều phương diện. Phật giáo quan niệm rằng nếu thuyết phục
được một vị lãnh đạo quốc gia thọ Bồ-Tát-Giới là một công
đức vô lượng. Vì mọi chữ ký và sắc lệnh của nhà vua ban hành
rất quan trọng đối với quốc dân như việc ân xá các tội phạm,
việc giảm miễn sưu thuế cho dân chúng đều là những công việc có
tính cách từ bi cao thượng cũng như giọt nước cam lồ với nhành
dương liệu của Bồ-Tát Quán-Thế-Âm rưới tắt mọi hận thù, si
mê cho tất cả mọi người. Do đó, vào ngày mồng một và rằm mỗi
tháng tại các ngôi chùa lớn có nghi thức lễ thù ân chúc tán,
xưng tán và cầu nguyện cho vị Bồ-Tát nhân vương có đủ sáng
suốt, cũng như lòng quảng đại để trị dân hầu đem lại thái bình
cho trăm họ.
Còn Bồ-Tát là
quả vị thứ 3 trong 4 bậc Thánh là Thanh-văn, Duyên- giác, Bồ-Tát
và Phật.
Sách Tam Tổ
Thực Lục còn ghi rõ vào năm 1304 vua Anh-Tông mời chư Tăng vào
cung
để cho các quan thọ giới và chính vua cũng đã phát tâm thọ
Bồ-Tát-Giới.
Chỉ có hạnh
Bồ-Tát hay giới Bồ-Tát thì người Phật tử mới rộng phương
tiện cứu giúp tất cả mọi loài theo như tinh thần từ bi của Phật
giáo.
31.-
250 Giới Của Tỳ Kheo Hay Cụ Túc Giới Là Gì ?
Cụ-túc-giới
(điều cấm đầy đủ) là giới luật của thầy Tỳ-kheo gồm có 250
điều để ngăn ngừa những lỗi lầm do hành vi, động tác, lời
nói, cách đi, đứng, nằm, ngồi (4 oai nghi) gây ra. Trong 250 giới
cụ
túc chia ra 8 phần :
1.- Đức hạnh
không trong sạch gồm có 4 pháp ba-la-di có nghĩa là tội nặng như
sâu
bọ đục khoét cây cối không còn phương pháp cứu chửa được
nữa.
2.- Việc tiếp
xúc giữa nam nữ trong 13 pháp tăng-tàng, nếu phạm một trong số 13
giới đây còn có cách dự cứu được, nhưng phải nhờ y cứ
trong pháp tăng già mà làm phép xả tội nên gọi là
tăng-tàng.
3.- Lòng dục dấy
động thuộc về 2 pháp bất-định, vì tội không có hình tướng nên
gọi là bất-định.
4.- Chứa của
cải sanh tâm tham đắm có 30 pháp xả-đọa. Nếu thầy Tỳ- kheo mắc
vào tội nầy cần phải đem xả cho người khác và tội đọa phải
đối trước chúng tăng mà tỏ bày sám hối.
5.- Về tư cách
bê bối gồm 90 pháp ba-la-dật-đề như nói dối, chê bai, nói lưỡi
đòn xóc nhọn hai đầy và hành vi lem luốt có thể do đó bị đọa
lạc trong đường dữ do từ cửa miệng độc địa mà ra.
6.- Ăn năn lỗi
trước đã phạm có 4 pháp hối quá. Người phạm tội tới trước
chúng Tăng tỏ bày sửa đổi về việc thọ nhận ăn uống đã làm
tăng lòng tham lam không đúng cách để mất lòng tin của tín
đồ.
7.- Các oai nghi
trong các sinh hoạt hằng ngày trong 100 pháp chúng học, tức là 100
điều cần phải học hỏi gồm có 10 việc như : Đắp y, vào làng,
đứng ngồi, ăn uống, giữ gìn bình bát, đại tiểu tiện, thuyết
pháp, xây tháp đắp tường, đi đường, trèo cây.
8.- Việc rầy rà
tranh cải qua 7 pháp diệt-tránh (cần phải trừ diệt). Đó là lời
nói rầy rà, tìm lỗi rầy rà, phạm tội rầy rà và việc không gọn
gàng.
Tội gồm có thô
và tế, ta có thể chia ra làm 2 : Các điều thuộc phần 1, 2, 3 về
tội
thô nên là trọng tội. Các điều còn lại thuộc tế tội chỉ các
oai nghi chửng chạc của thầy Tỳ-kheo trong phần khinh tội.
Trong 250 giới
Tỳ-kheo cũng có những giới cấm không cần thiết và không hợp
thời nữa, nhưng vẫn còn duy trì, cũng chỉ vì trọng tôn ý của các
bậc khai sáng chế ra giới cấm chăng ?
32.-
Giới Cụ Túc Của Tỳ Kheo Tăng Gồm 250 Điều Khoản Có Thể Tóm Tắt
Như Lược Đồ Dưới Đây :
1.- 4 pháp ba-la-di
: Thầy Tỳ-kheo đức hạnh không trong sạch.
2.- 13 pháp
tăng-tàng : Việc tiếp xúc, đụng chạm giữa nam nữ.
3.- 2 pháp
bất-định : Móng tâm và làm việc dâm dục.
4.- 30 pháp
xả-đọa : Của cải chứa quá nhiều sanh tâm tham đắm và nhiễm
trước vật chất, không chuyên tâm vào việc tu tập.
5.- 90 pháp
ba-dật-đề : Nói dối, chê bai, nói lưỡi đòn xóc nhọn 2 đầu và
tư cách bê tha, giải đải không hợp với hạnh người xuất
gia.
6.- 4 pháp
hối-quá : Việc thọ nhận ăn uống từ người cúng không đúng
cách làm tăng trưởng lòng tham để mất lòng tín kính của người
tín chủ.
7.- 100 pháp
chúng-học : Tư cách của người tăng sĩ qua công việc sinh hoạt hằng
ngày nằm trong 4 oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi phải cho đàng
hoàng
chững chạc.
8.- 7 pháp
diệt-tránh : Trừ diệt những điều phiền toái rầy rà vô ích để
chuyên tâm tu tập.
Trên đây là 250
giới, nếu thầy Tỳ-kheo biết ứng dụng những điều răn cấm vào
đời sống tu tập hàng ngày sẽ tạo được cho mình một khuôn mậu
đúng và đem lại cho người điều lợi lành không nhỏ vậy.
33.- Sám Hối Ăn
Năn, Hối Quá, Phục Thiện Khác Hay Giống Nhau ?
Sám hối tiếng
Phạn gọi là Samma, có nghĩa là tự mình thú tội và hứa sửa
đổi những lỗi lầm đã phạm, không còn tái phạm nữa.
Việc sám hối
có nhiều hình thức như tự mình đối trước tượng Phật và phát
nguyện chừa bỏ điều quấy đã lỡ phạm phải hoặc ở trước mặt
chư tăng tự nêu lỗi lầm ra để nhờ có sự chứng minh nầy mà
xin sửa đổi điều sai trái, xấu ác. Chữ sám hối có rất nhiều
nghĩa như kinh sám, tức là kinh dùng để tụng trong việc sám hối
như
Hồng-Danh Bảo-Sám. Bái sám là lễ lạy để xin chừa sữa lỗi lầm,
sám pháp tức cách thức sám hối.
Sám hối còn ở
sự thành tâm mới trừ diệt được tội lỗi. Ngoài ra, chúng ta
còn phải phát nguyện chừa bỏ những thói hư tật xấu đã bám
sâu vào trong tâm thức lâu ngày.
Ăn năn nghĩa là
biết cải đổi học hỏi để tiến bộ, nhưng trong ý nghĩa nầy có
thể là những lỗi nhỏ đã phạm và mong được người khác tha
thứ.
Hối quá là lấy
làm tiếc một việc không đáng xẩy ra mà đã lỡ phạm như do lời
nói vụng về khiến kẻ khác giận, làm hư hỏng đồ đạc của kẻ
khác, sau đó ta tự cảm thấy lương tâm cắn rứt khó chịu nên
muốn được người bỏ qua.
Còn phục thiện
là làm lại việc lành hay điều hay đẹp mà ta đã lỡ cơ hội
đánh mất nó, để chuộc lại và bù vào chỗ thiếu trống trước
kia vì lỡ vô ý thức gây ra.
Những danh từ
sám hối, ăn năn, phục thiện về hình tướng cũng như tội trạng
không giống nhau. Chữ sám hối có một nghĩa bao hàm sâu xa các tội
lỗi trong quá khứ, hiện tại, có phương hại tới đời sống nội
tâm rất lớn lao nên phải gấp rút chừa bỏ. Trong khi đó, chữ
ăn-năn và hối-quá ở trong phạm vi thu hẹp, hàm cái nghĩa việc
phạm vào những lỗi nhỏ, có thể sửa đổi được. Phục thiện
được xem như một việc lỗi nhẹ thôi, không có tính cách liên tục
kéo dài, khi nào ta nảy ra được ý định biết được việc làm
quấy, tội ấy liền tiêu diệt.
Từ thấp đến
cao, từ việc nhỏ đến việc lớn mà danh từ có khác nhau, nhưng
tất cả đều có nghĩa là sửa đổi điều sai trái để cầu tiến
bộ vậy.
34.- Hồi Tâm Là
Gì ? Danh Từ Nầy Được Dùng Trong Phạm Vi Nào ?
Hồi tâm
(conversion) là nghĩ lại và nhận chân ra được những sự việc đã
diễn ra nơi ý thức ta, thuộc về phạm vi tinh thần trong tôn
giáo.
Danh từ hồi tâm
không giống với động từ "to remember", vì nó có một phạm
vi rộng hơn nhiều trong khía cạnh tâm thức của đạo giáo. Có mấy
danh từ ta cũng cần phân biệt giữa : hồi tưởng, quán tưởng, suy
tư với hồi tâm. Hồi tưởng là tiếng thường dùng để nhớ lại
những sự việc đã qua, hồi tưởng lại thời thơ ấu, hồi tưởng
cuộc chiến tranh Việt Pháp .. Trong khi đó quán tưởng và suy tư
(meditation) có một ý nghĩa sâu sắc hơn thuộc lãnh vực đạo giáo
trong lúc ta tập trung tư tưởng để thiền định vậy. Nói một cách
khác, khi nào chúng ta dùng thì giờ để chú tâm vào một vấn đề
gì đều được gọi là suy nghĩ mà không thể gọi được là
meditation có tính cách quán tưởng nầy. Chữ hồi tâm còn có nghĩa
là cải đổi nhân cách và hoàn toàn theo một lối sống mới tiến
bộ hơn để được thích hợp với mỗi giai đoạn trong cuộc đời.
Vì thế, hồi tâm có thể ở bất cứ nơi đâu và lúc nào cũng
làm được cốt để hoàn thiện nhân cách của mình đối với tôn
giáo đang theo. Do đó, danh từ hồi tâm không những chỉ đúng trong
phạm vi Phật giáo mà còn có tính cách phổ thông chung cho các tôn
giáo khác để chỉ trạng thái vắng lặng của tâm thức, khi ta nghĩ
tới những việc làm vừa qua. Tuy nhiên, ở đây không như phản
tỉnh, vì chỉ thấy xấu hỗ lương tâm rồi thôi ; trong khi đó, hồi
tâm ngoài việc nghĩ tới điều lầm lẫn trong quá khứ ra, còn phải
cố gắng tích cực nhiều hơn nữa để làm đẹp cho cuộc sống, nhất
là cuộc sống về nội tâm cho được phong phú và sáng suốt
hơn.
Tóm lại, ngoài
phạm vi tôn giáo ra, chúng ta ít thấy danh từ "hồi tâm"
được xử dụng, vì có chăng cũng chỉ là phản tỉnh, ăn năn và
tạ lỗi ... mà thôi.
35.-
Vu Lan Với Giá Trị Lịch Sử Của Nó Và Cách Thực Hành Ra Sao ?
Vu-Lan nói cho đủ
là Vu-Lan-Bồn. Người Trung-Hoa dịch là Cứu-Đảo- Huyền, tức có ý
nói cứu thoát tội lỗi bị treo ngược đối với người đã
chết.
Lễ Vu-Lan trong
Phật giáo gắn liền với rằm tháng 7 hay rằm trung ngươn hoặc còn
gọi là ngày Xá tội vong nhân vào giữa tháng 7 Âm lịch của mỗi
năm.
Khi đức Phật
Thích-Ca còn tại thế, ngài Mục-Kiền-Liên tôn giả có mẹ là bà
Thanh-Đề chết và bị đọa vào loài quỷ đói đã phải chịu nhiều
cực hình rất khổ sở, đau đớn. Biết được nghiệp báo của mẹ
phải đền trả, ngài Mục-Kiền-Liên bèn vận dụng thần thông đến
đó để cứu nguy mẹ, nhưng chỉ có một mình Ngài nên đành bất
lực. Tôn giả bèn trở lại bạch Phật để tìm phương pháp cứu
thoát mẹ ra khỏi chốn u đồ. Phật dạy rằng sức của một người
không thể nào cứu nổi, dù có vận dụng sức thần thông cũng
khó mà làm được việc trọng đại kia. Do đó, cần phải nhờ vào
sức chú nguyện của chư Tăng thì may ra những oan hồn bị đọa mới
có thể thoát kiếp khổ được. Sau đó Phật chỉ dạy phương pháp
thực hành bằng cách vào ngày rằm tháng 7 mỗi năm, người con
hiếu thảo muốn đến đáp phần nào công ơn cha mẹ hiện tại và
bảy đời quá khứ, nên thành tâm sắm đủ những thức ăn ngon
lạ, thơm sạch, các thứ trái cây đủ năm màu đựng trong bình bát
có sự chú nguyện của chư tăng để nhờ oai đức của các vị
thiền đức mà các tội đồ được siêu sanh vào cảnh giới an
vui.
Nhờ thực hiện
đúng như lời Phật dạy, ngài Mục-Kiền-Liên đã cứu được mẹ
ra khỏi cảnh đói khát trong kiếp ngạ quỉ.
Ngày nay những ai
muốn đền ơn cha mẹ đã hy sinh cho ta mà chưa có dịp báo đáp thì
nên thực hành lễ Vu-Lan vào rằm tháng 7 theo như lời đức Phật
đã chỉ dạy để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được tăng
phước tăng thọ, cha mẹ bảy đời siêu sanh Tịnh-độ là một phương
pháp báo hiếu hữu hiệu nhứt.
36
Bỉ Ngạn Là Gì ? Đáo Bỉ Ngạn Là Đi Tới Đâu ?
Bỉ ngạn là bờ
bên kia. Con người trần thế sống trong cõi đời nầy bị dòng sanh
tử chi phối nên phải chìm đắm trôi lăn trong 3 nẻo (tức 3 cõi :
Dục, sắc và cõi vô sắc), 6 đường (địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh,
thiên, nhơn, A-tu-la) như đang chơi vơi bên bờ vực thẳm và chờ con
thuyền giải thoát đưa qua bên kia bờ an lạc.
Đáo bỉ ngạn là
đến bờ bên kia, tức là bờ bến an vui giải thoát, không còn bị
các dục vọng, phiền não chi phối nữa. Nhờ sự tu hành mà chúng
sanh gạn lọc được những điều bất thiện như tham, sân, si và khi
đạt đến một trình độ cao thì những mê chấp đều xa lìa, tâm
được thanh tịnh an ổn. Đó là sự giải thoát, tức là đã đến
được bờ giác ngộ.
Lễ Bỉ-ngạn
người Nhật gọi là O HIGAN vào tháng 3 của mỗi năm và kéo dài
trong một tuần lễ từ 13 đến 20. Vào dịp nầy, người tín đồ Phật
giáo đến cúng viếng mồ mã tổ tiên ở ngay trong phạm vi của chùa.
Thường thường con cháu thuê chùa viết các bài vị bằng cây thông
mỏng nhẹ và dài độ 2m gọi là tô-ba (tháp bà) để cắm lên ngôi
mộ người quá vảng gọi là tưởng niệm báo ân.
Lễ nầy không
rõ có phải người Việt-Nam chọn vào dịp lễ Thanh-Minh trong tháng 3
chăng ? Theo thiển nghĩ, tiết Thanh-Minh để cho con cháu đi tảo mộ
ông
bà, cũng như cúng bái tưởng niệm người chết, cũng là một hình
thức đượm tính chất Phật giáo. Trong truyện Kiều, Nguyễn-Du có tả
tiết Thanh-Minh như sau :
Thanh-Minh trong
tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ,
hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức
yến oanh,
Chị em sắm sửa
bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử
giai nhân,
Ngựa xe như
nước áo quần như nem.
Ngổn ngang gò
đống kéo lên,
Thoi vàng gió
rắc, tro tiền giấy bay ...
Lễ Bỉ-ngạn ở
Việt-Nam chưa được phổ thông, vì chỉ có một số ít người biết
tới. Trong Phật giáo những ngày lễ đã trở thành tục lệ trong
dân gian như lễ Bỉ-ngạn cần phải được phổ cập sâu rộng để duy
trì được nếp cũ, vì đó là nét đẹp thuần túy của
Đông-phương, nên người Phật tử không thể lơ là.
37.-
Tam-Bảo Là Gì ?
Người Phật tử
khi quy y được thầy giảng giải kỹ cho biết Tam-Bảo là gì rồi, để
cho dễ nhớ ở đây tôi xin nhắc lại danh từ nầy.
Tam-Bảo là 3
ngôi báu mà chúng ta không thể nào tìm ra được trong đời sống
vật chất, song chỉ có thể tìm thấy được trong phạm vi của Phật
giáo. Ba ngôi báu ấy là Phật, Pháp, Tăng. Phật Pháp Tăng sao gọi
là Tam-Bảo ? Vì Phật rất khó gặp, Pháp khó tìm, Tăng khó hành,
và cả ba đều hiếm thấy trong đời sống chúng ta nên gọi là
"bảo" vậy. Bảo có nghĩ là của báu hay vật quý giá khó
tìm. Nơi nào có chùa thờ Phật, kinh điển được lưu truyền, tức
là giáo pháp của Phật được lưu hành rộng rãi và đoàn thể
tăng già an trú để tu học được gọi là Tam-Bảo. Người tăng sĩ
đại diện cho chư Phật và các vị tổ sư để truyền bá giáo pháp
của đức Phật cũng như hướng dẫn tín đồ tu học. Người Phật
tử tại gia đặt trọn tinh tưởng vào các thầy lãnh đạo tinh thần,
nhất là khi đã quy y với thầy ấy và quyết chí tu học để lánh
dữ làm lành. Người Phật tử đã quy y là bắt đầu bước sang
một giai đoạn mới trong đời sống tinh thần. Nó đánh dấu một
thời điểm tinh thần rất quan trọng khó quên trong việc tu học ngay
khi
đã chánh thức quy y Tam-Bảo. Từ đây trở đi người tín đồ mới
đủ tư cách nhận mình là một Phật tử chân chánh. Ngoài ra, chư
tăng thay Phật để duy trì chánh pháp phải là những người hành
trì giới luật nghiêm chỉnh và có tác phong đạo đức đàng hoàng
để xứng đáng là nhà lãnh đạo tinh thần cho tín đồ Phật tử.
Trong đời sống phức tạp và đa diện ngày nay, một số trường
hợp người tu hành lợi dụng danh nghĩa tăng sĩ để lừa dối lòng
tinh tưởng của người Phật giáo đồ, chúng ta nên mạnh dạn ly khai
khỏi họ và tố cáo ra trước công luận những hạng người sâu
dân mọt nước ấy, cũng như phải tìm cách khai trừ họ ra khỏi
hàng ngũ tăng sĩ.
Tam-Bảo hàm ý
nghĩa quý báu, trong sạch mầu nhiệm làm điểm tựa cho hàng tín đồ
tin theo, nếu chư Tăng thiếu giới đức thanh tịnh trang nghiêm thì
không xứng đáng ở trong 3 ngôi báu vậy.
38.-
Giới Như Con Thuyền Có Lái Là Thế Nào ?
Từ việc nhỏ cho
tới việc lớn chúng ta muốn thành công cần phải có sự ràng
buộc hoặc sự giới hạn nào đó từ những điều lệ, bản nội
quy, hiến chương v.v... là thước đo của những người ở trong việc
điều hành một tổ chức.
Trong kinh
Phạm-Võng Bồ-Tát-Giới nói rằng giới là chiếc bè nổi đưa
người vượt qua biển khổ. Biển khổ tức là dòng sanh tử luân
hồi mà chúng sanh đang vướng mắc ở trong đó. Người tu theo Phật
giáo mhờ biết được những giới cấm Phật dạy mà được thoát
ra ba cõi, cũng như con thuyền có lái, con ngựa có dây cương ;
giới
cũng có công năng ràng buộc chặc chẽ như vậy. Một nhà tu không
giữ giới thì còn gì để gọi được là có giá trị đạo đức !
Nói một cách khác, giới có công năng hướng dẫn chúng ta đúng
theo đường ngay lẽ chánh để tu tập. Người nào biết áp dụng
giới luật đúng mức ở trong bất cứ một tổ chức nào sẽ tạo
cho mình có một phẩm cách đúng đắn đàng hoàng và cũng làm cho
tổ chức phát triển và uy tín. Như vậy, người học Phật, việc
giữ gìn giới luật lại càng quan trọng hơn. Giới có nhiều cấp
bậc khác nhau từ thấp đến cao. Tùy theo phạm vi lãnh thọ của các
chúng đệ tử Phật khác nhau mà có phân ra 5 giới, 10 giới, 48
giới, 250 giới v.v...
Có người lý
luận cho rằng tôi có đi tu đâu mà phải giữ giới cho mất tự do
?
Điều lý luận
như trên có phần không được chính xác, vì giữ giới là do chính
ta phát nguyện lúc quy y Tam-Bảo và thọ các giới cấm, chứ không
có ai bắt buộc, nhưng chỉ có lương tâm của chúng ta mới là quan
tòa phán đoán đúng nhất.
Ta tự khép mình
vào trong khuôn khổ của bất cứ một hình thức sinh hoạt nào cũng
có nghĩa là ta biết tuân theo giới luật vậy.
39.-
Nhàn Cư Vi Bất Thiện Là Gì ?
Câu tục ngữ
của Việt-Nam mà những người thường đọc sách nhiều hay áp dụng
là "nhàn cư vi bất thiện ..." Như vậy đứng về mặt giới
luật mà nói câu ấy có tác dụng ra sao ?
Nhàn cư vi bất
thiện có nghĩa là người không có công việc gì làm hay ưa nghĩ
bậy để giết chết thì giờ. Nếu chúng ta dùng thì giờ thừa vào
việc giải trí lành mạnh cũng tạm chấp nhận được, nhưng phần
nhiều những người không làm gì cả suốt quanh năm dễ đâm ra chán
nản, bực bội. Có khi họ ngồi nghĩ ra kế hoạch, mưu mẹo tính toán
làm mưa hại kẻ khác. Đó là chưa nói tới một số trường hợp,
vì nhàn nhã mà người ta chuyên la cà nơi các quán rượu và tối
ngày cứ say sưa đánh chén. Lúc về nhà họ đánh đập vợ con,
gây gổ cải vả với hàng xóm làm xáo trộn sự yên tỉnh của
người láng giềng. Trong số 100 người nhàn hạ, có tới 90 người
làm việc bất chánh rồi. Người nào có công việc làm cũng bị bó
buộc bởi một số điều kiện, luật lệ qui định sẵn, như mỗi ngày
phải đến sở đúng giờ, phải làm việc chuyên cần, làm việc cho
tới nơi tới chốn không bỏ dỡ dang ... đều là những quy ước
tối thiểu của người tác viên cộng sự.
Ở đời những
ai còn khả năng làm việc mà không chịu lăn xã hy sinh lại chỉ lo
trốn lánh việc nặng tìm việc nhẹ hay muốn hưởng nhàn đều là
những phần tử bị xã hội ruồng bỏ lên án gắt gao.
Những người
ở không bất hợp pháp là con sâu đục mòn xã hội, cũng như
những người tu hành không biết giữ giới đều là những kẻ
đáng được đề phòng hơn cả.
40.-
Bồ Tát Sợ Gây Nhân Chúng Sanh Sợ Quả Báo Là Thế Nào ?
Chúng sanh là
những kẻ còn phàm phu, tâm trí luôn luôn quay cuồng trong lạc thú
ở đời, còn Bồ-Tát là những bậc tu hành đã giác ngộ nên
sáng suốt, có thể biết được tâm niệm của kẻ khác.
Bồ-Tát biết
nhìn sâu rộng hơn trong nhiều lãnh vực, nhất là con đường sanh
tử, nên không tạo ra cuộc đời xấu ác trong vòng lục đạo
(thiên, nhân, A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỉ và súc-sanh). Do đó, các
Ngài không bao giờ tái sanh làm người trở lại, trừ phi do một
nguyện lực, các vị Bồ-Tát có thể trở lại nhân gian, nhưng mẫu
người mà họ muốn phải có một cái quyền tối thiểu nói cho mọi
người nghe và tin tưởng. Trong khi đó chúng sanh vốn biết mang
thân
xác hiện tại là khổ mà vẫn tạo sự ân ái dục tình, thì không
biết đến kiếp nào mới dứt được quả báo khổ đau!
Hai trạng thái
trái ngược nầy cốt để khuyên răn người đời như là một
điều giới cấm, không nên làm việc gì thái quá. Một ví dụ khác
cho dễ hiểu hơn, tên trộm vốn biết thân phận của mình sẽ ra sao
lở khi chủ nhân bắt được, nhưng vẫn cứ thèm thuồng món đồ phi
nghĩa ! Một khi cái nhân chính là lòng tham lam không chừa mà chỉ
lo
sợ rằng mình sẽ vào tù là điều khó mong thoát được. Cũng như
trong những cuộc chiến tranh đều là mầm mống của diệt chủng, thế
nhưng các nước ôm mộng bá chủ hoàn cầu vẫn hăm he muốn chiếm
đoạt các nước nhỏ láng giềng là điều không thể tránh gây ra
đại họa cho mọi người.
Biết ngăn ngừa
để chận đứng những hành vi bất thiện trong mỗi người là chúng
ta đã tạo được một hạt nhân tốt rồi.
---
o0o
---