Phật học cơ bản
Kiến thức căn bản Phật giáo
26/06/2553 00:02 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

CHƯƠNG 8

VĂN HỌC PHẬT GIÁO

 

1.- Tam Đồ Bát Nạn Là Gì  ?  

Trong bài sám "Quy Mạng" có câu : "Tam đồ bát nạn cu ly khổ". Vậy tam đồ và bát nạn là những gì mà chúng sanh phải chịu qua các cảnh khổ triền miên đó ? 

Tam đồ có nghĩa là sự sống chết lẫy lừng như trong lửa đang cháy bừng, trong máu huyết và binh đao, do con người đem tỉ thí để mong phần thắng về mình. Như vậy, tam đồ là hỏa đồ (đường lửa), huyết đồ (đường máu), và đao binh đồ (đường đao binh) vậy. Còn bát nạn là tám con đường chướng ngại xấu xa khiến chúng sanh bất hạnh khó khăn trên đường đời. Đó là : Sanh nhằm vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Bắc-câu-lư-châu cõi trời Trường-Thọ, manh, lung, ám, á (đui mù, điếc, câm, ngọng), sanh trước Phật và sanh sau Phật khó thấy được Phật và thiếu duyên không được nghe giáo pháp của Phật là một trở ngại lớn cho việc tu hành. Chúng ta sanh gặp gia đình có thế lực, quyền uy cũng đều được xem như một nạn lớn. Người nào có nhiều mưu mẹo, trí xảo cũng là một việc xấu, thậm chí cho đến kẻ có tài hùng biện giỏi và người thông suốt mọi việc quá khứ, hiện tại, tương lai cũng là một trong tám điều xấu ác như trên. Ngoài ra, đối với những người thiếu may mắn, sanh nhằm phải miền giá buốt quanh năm như miền Bắc-cực và những kẻ sanh gặp miền tối tăm, thiếu ánh sáng mặt trời thuộc miền Nam-cực thuộc vùng Nam-thiện-bộ-châu cũng là những việc thiếu may mắn, và bị trở ngại lớn cho cuộc sống. Tất cả những cảnh đó đều là việc xấu, không thích hợp cho kiếp người. 

Con người sanh ra trong ba đường máu huyết, đao binh, lửa chiến tranh ; rồi hận thù cứ chồng chất giẩy đầy nên lúc nào cũng chờ dịp để thanh toán lẫn nhau. Dù cho kẻ khôn ngoan tài trí cũng bị người khác tìm dịp hãm hại. Do đó, tục ngữ luôn nhắc tới câu "cao nhân tắc hữu cao nhân trị", vẫn còn đúng nhất. 

Như thế, kiếp sống của con người không được bảo đảm chút nào, và chúng ta lúc nào cũng cảm thấy bất an, lo sợ cho sanh mạng bị đe dọa nếu không là một ác nạn thì còn gọi là gì ? 

2.- Tam Khổ , Bát Khổ Là Gì ?  

Tam khổ là ba việc khốn đốn và khó khăn kéo theo cuộc sống triền miên không bao giờ rời khỏi. Đó là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. 

Con người có nhiều nổi đau khổ tâm linh vật chất chồng chất lên nhau, sự mất mát hư hỏ và những nghiệp lực hành vi lối kéo theo một hướng đi định sẳn đều là việc thống khổ. Còn bát khổ có hình tướng ra sao ? 

Trong cuộc sống nhân sanh bao hàm tám điều khốn khổ là khổ sanh ra đời, lớn lên già bệnh hoạn và chết là cả một trường tranh đấu cam go nhưng bên cạnh đó còn có những việc như đang yêu nhau mà phải chia lìa do hoàn cảnh trái ngang chi phối bắt buộc, thật là khổ. Chúng ta cầu mong nhưng không được toại nguyện cũng gây ra sự đau buồn khổ não. Trong trường hợp ghét nhau mà hai người cứ phải gặp nhau thật là cảnh chán trường không thể tả được ! Ngũ ấm hay ngũ uẩn là năm yếu tố cấu tạo cơ thể như sắc thân, thọ nhận, tưởng nghĩ, hành vi, ý thức hợp thành. Một trong năm phần đó bất bình thường đều gây ra sự bất an cho tinh thần lẫn cơ thể - đều khổ sở. 

Muốn diệt khổ, có bốn phương pháp căn bản nầy làm phương châm dẫn đạo, là quán thân thể không sạch, việc lảnh thọ và tích chứa tạo thêm mối bận tâm lo nghĩ, tâm luôn luôn thay đổi và vạn pháp đều không thật ngã. Bốn pháp quán nầy gọi là Tứ-Niệm-Xứ, nếu áp dụng đúng, chúng ta sẽ lìa khổ được vui. 

Ở đời, kẻ nào tâm trí không bị chi phối bận rộn, phiền lo vào những việc bất thiện sẽ có một đời sống thoải mái nhẹ nhàng, chắc chắn đời sau thoát khỏi cái khổ ràng buộc. 

 3.- Phật Trong Nhà Không Thờ Lại Thờ Thích Ca Ngoài Đường, Nghĩa Là Gì ?  

Câu nói trên đã bao hàm nhiều ý nghĩa để nhắm vào những ai thiếu một căn bản đạo đức và chỉ lo lao theo tiếng khen hão, những lời tán thưởng không thật tế. 

Ở đời có đủ các hạng người như kẻ thích sống khoa trương, và người muốn nội tâm phong phú. Do đó, có nhiều người ở nhà thờ hình tượng Phật, nhưng không bao giờ thắp được nén nhang hay dọn dẹp lau chùi gì cả. Tệ hơn nữa, để những nơi thờ tượng bụi đất bám đầy, nhưng không bao giờ chịu để ý quét tước cho sạch sẽ, trái lại người ta chỉ lo đi chùa là những nơi có đông người để chứng tỏ cho mọi người thấy rằng ta đây là người tu hành đứng đắn. 

Người tu Phật đừng bao giờ nghĩ và làm những công việc thiếu thực tế cả. Muốn giác ngộ được người khác, trước phải giác ngộ chính mình. Đức Phật Thích-Ca cũng phải qua công lý nầy mới đạt được đạo quả và xứng đáng để người đời ca tụng là "Thiên nhân chi đạo sư" (Thầy của trời và người) 

Người Phật tử không vì một lẽ gì mà không tự tu sửa thân tâm, thí dụ muốn lên Cực-Lạc thực quả là một ý tưởng điên rồ ! Người nào hiện đời còn cha mẹ nên cố gắng phụng dưỡng để an ủi lúc xế bóng về chiều. Bổn phận làm con đã tròn được hiếu đạo đối với đấng sanh thành đó cũng chính là cách báo ân phụng thờ Phật tổ trong muôn một vậy. Bởi lẽ, "Cha mẹ tại tiền như Phật tại thế", nếu hiểu được ý nghĩa nầy, chúng ta cố gắng thật hành Phật giáo ngay trong lúc mạnh khỏe với một lòng thành thật, không vọng ngoại, không cầu mong để tự rèn luyện ý chí, đạo đức là một món ăn tinh thần cho tương lai. 

Chỉ khi nào chúng ta hoàn thành được trọn vẹn đức Phật của chính mình, lúc đó mới có quyền nghĩ tới những việc lợi lành khác là điều cần thiết không thể không suy nghĩ của người Phật tử chân chánh. 

4.- Giải Thích Câu : Chớ Đợi Tuổi Già Mới Học Đạo, Mồ Hoang Lắm Kẻ Tuổi Xuân Xanh  

Hai câu thơ bảy chữ nầy rất quen thuộc và dễ nhớ, khi mới đọc lên ta nghe như không có gì quan trọng, nhưng nếu đem phân tích kỷ, câu nói hàm chứa cả một triết lý vô thường theo quan niệm Phật giáo. 

"Chớ đợi tuổi già mới học đạo" có nghĩa là người muốn học đạo ở bất cứ hạng tuổi nào cũng có thể được cả. Có một số bạn trẻ vì mắc cở hay có tính rụt rè không dám đi tới chùa sinh hoạt hay tham gia vào các tổ chức gia đình Phật tử. Còn một số các bạn nam nử thanh niên khác quan niệm rằng đời còn trẻ, ở ngoài thế tha hồ mà hưởng thụ, đợi đến lúc gối mỏi lưng còm rồi tìm học đạo cũng đâu có muộn gì ! Quan niệm như thế là sai, vì cái chết không đợi người nào cả. Sống trên đời nầy đâu phải người nào cũng chết lúc tuổi già cả đâu. Theo lý vô thường, thì con người lúc sống luôn luôn vật lộn với cái chết. Thế thì việc đợi cho tuổi già mới lo tới đời sống tinh thần thật quá muộn. Do đó, sống ngày nào, ta cần phải lo nghĩ tới cái chết trước nhất để lở khi tử thần đến réo gọi còn kịp trở tay. Nói như thế có nghĩa là người nào biết tu phước, làm thiện thì nghiệp lực được nhẹ nhàng, vì chưa biết được một lúc nào đó sẽ từ giả cõi đời, và mồ hoang lắm kẻ tuổi xuân xanh ! Kìa ta thử nhìn xem ngoài nghĩa địa có bao nhiêu nắm mồ mà phần đông là tuổi trẻ đã vào nằm trong lòng đất lạnh ! 

Câu thơ không những diễn tả lý vô thường mà còn hàm chứa một ý nghĩa đích thực hơn là khuyên răn người đời nên tinh tấn tu học. Người nào không ý thức trước vấn đề sanh tử sẽ có hối hận về sau và tới lúc đó cũng đã quá muộn rồi. 

Ngay bây giờ ta phải bắt tay vào việc tu sửa mình để gieo trồng cội phúc mới mong cứu vãng được trong kiếp sau. 

5.-Giải Thích Câu Ca Dao : Thương Nhau Cau Sáu Bổ Ba, Ghét Nhau Cau Sáu Bổ Ra Làm Mười  

Tình cảm của con người thay đổi theo một nhịp độ nhanh chóng, ta không thể nào đo lường được. Chính tâm lý học ghi nhận được rằng trong một ngày chúng ta thay đổi trạng thái trong tâm lý đến ba triệu lần. 

Việc thương ghét nơi mỗi người có thể tráo trở một cách đột ngột. Do đâu mà có ra sự thương ghét đó ? Theo Phật giáo quan niệm, đó là do bảy thứ tình cảm : Mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, mong muốn và sáu điều ham muốn sáu điều (lục dục) là tiền, của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ mà ra. Ngoài thất tình lục dục ra tình cảm còn do tham sân, si gọi là tam độc chi phối dẫn dắt nữa. Nói một cách dể hiểu, khi đã dể ý ưa thích người nào rồi ta tìm đủ cách để bao bọc, che chở, cho dù người đó có lỗi lầm ta cũng tha thứ dễ dàng. 

Trong khi đó, một người đã bị chúng ghét rồi dù có lội nhỏ đến đâu cũng bị thêm thắt ra thành chuyện lớn. Câu ca dao lại dùng trái cau để cho người bình dân dễ hiểu. Cau dùng để ăn trầu, người ta thường bổ ra 6 hoặc 8 miếng. Nếu trái cau nhỏ hơn, có thể bổ ra làm 4 phần. Cau 6 bổ 3 có nghĩa là bổ lớn miếng cau hơn và có hàm sự che chở, tha thứ và độ lượng dể dãi. Nhưng câu : "Ghét nhau cau 6 bổ ra làm mười" nghĩa hoàn toàn trái ngược lại. Người ta thường nói, ít xít cho nhiều là thế. Khi nào chúng ta đem lòng ghét một người nào rồi, khó có dịp hàn gắn lại nổi, vì tình cảm trước đó đã bị tổn thương, sứt mẻ. 

Người Phật tử phải biết giữ mức trung bình giữa 2 thái độ : Ghét, thương. Vì câu tục ngữ thường nhắc: yêu nhau lắm, cắn nhau đau hoặc yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng vẫn còn có giá trị ... 

6.- Cho Biết : Trăm Năm Bia Đá Vẫn Mòn, Ngàn Năm Bia Miệng Vẫn Còn Trơ Trơ Là Gì ?  

Bia đá do người tạo lập để ghi tên tuổi, chức vị của người chết, còn bia miệng tuy không có hình tướng nhưng lại tồn tại rất lâu trong đời này và lưu truyền lại mãi cho đến tận mai sau. 

Ta có thể phân biệt câu ca dao ra làm 2 phần : 

Câu một, chỉ cho vật chất có tính cách hoại diệt, dù vật cứng rắn như đá, cũng chỉ tồn tại được trong một khoảng thời gian hữu hạn nào đó. 

Câu hai, thuộc về khía cạnh tư tưởng hay tinh thần thuộc phạm vi phán đoán. Tiếng thị phi ở đời rất quan trọng. Chúng ta sống đừng bao giờ xem thường dư luận cả, vì dư luận nhiều khi cũng giúp cho ta tu sửa được mình và trau dồi tác phong đạo đức. Người nào xem thường dư luận là tự tách rời ra khỏi sinh hoạt cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, dư luận nghiệt ngã có khi sai với sự thật, cũng dễ gây ra cho ta sự bực bội, khó chịu, chán chường rồi không tìm ra được cách để giải quyết. Vì thiếu ý thức nên chúng ta hay mắc phải lầm lỗi này. Câu "tiếng lành đồn xa", còn "việc xấu" cũng gây ra tác động tâm lý quần chúng không kém phần tai hại rất quan trọng. Câu nói trên không luận ở bất cứ một tôn giáo nào mà mọi người ai cũng có thể thuộc nằm lòng. 

Bia miệng tuy độc thật, nhưng nếu ta làm được việc lợi ích chung cho đời, hẳn tiếng thơm sẽ lưu truyền lại cho hậu thế mãi tới tận mai sau, vẫn còn được người đời tán dương, ghi nhớ. 

Còn câu nói "để tiếng đời" có nghĩa là lưu lại tiếng thơm hay tiếng xấu lại cho đời, cốt để ca tụng công ơn của những người đã dày công tô điểm cho hậu thế hoặc chê bai kẻ xấu ác có một tác dụng tâm lý rất sâu rộng trong quần chúng nên được truyền rộng ra khắp nơi trong dân gian và truyền lưu cho đời mãi mãi. 

7.- Hãy Chứng Minh Câu : "Hùm Chết Để Da, Người Ta Chết Để Tiếng" Là Thế Nào ?  

Hùm là một loại thú dữ ưa ăn thịt người, ít có ai dám đến gần chúng. Nhất là trẻ con, khi nghe nói tới hùm hay beo hoặc cọp, chúng ta đều cảm thấy rợn tóc gáy lên. 

Đồng loại với hùm còn có beo, sư tử ... Chúng dữ tợn, hung hăng không những đối với loài vật nhỏ hơn mà ngay cả đối với người ta cũng phải sợ trước tiếng kêu lẫm liệt của chúng. Lúc còn sống, loài mạnh thú này vốn dữ tợn như vậy. Cho đến khi chết chúng còn để lại lớp da. Da hùm được xử dụng vào việc trang trí phòng xá, khách sãnh rất đẹp và lâu bền. Do ý này mà ta ưa gọi hùm chết để da là vậy. 

Còn câu : "Người ta chết để tiếng" là thế nào ? Tiếng đây có nghĩa là dư luận thị phi và gồm có 2 loại : Tiếng tốt và tiếng xấu. Đối với những người có công và biết hy sinh cho đời như đóng góp tài năng, sức lực vào việc xây dựng cộng đồng xã hội, sau khi họ chết được người đời luôn luôn nhắc đến tên tuổi. Ngược lại, hạng người thứ hai cũng để lại tiếng đời, nhưng lại là tiếng dèm pha, khinh rẽ. Với những kẻ lúc sống chỉ biết thủ lợi riêng với nhiều mưu mô để lường gạt và khiến cho nhiều người phải điêu đứng, tan gia bại sản. Đến khi chết họ bị quần chúng nguyền rũa, lên án không tiếc lời. Tiếng đời rất quan trọng như vậy, cho nên chúng ta sống ở đời đừng bao giờ làm một việc gì trái với lương tâm, lẽ phải và có phương hại đến kẻ khác. Ta nên tự nghĩ rằng: việc gì mình muốn và ưa thích, thì chính kẻ khác cũng nghĩ như vậy. 

Chúng ta cố gắng đến mức tối đa thực hành điều thiện để sau khi nhắm mắt lìa đời còn lưu lại được tiếng thơm mãi mãi như da thú còn hữu dụng cho nhiều người. 

8.- Giải Thích Câu : Ta Là Phật Đã Thành Các Người Là Phật Sẽ Thành  

Đức Phật Thích-Ca luôn nhắc nhở chúng ta, ngài thành Phật là do công tu tập nhiều đời mà đạt thành Chánh-đẳng Chánh-giác, còn đối với chúng ta, nếu biết lo tinh tấn tu hành cũng sẽ đạt được kết quả như đức Phật vậy. 

Câu nói trên hàm chứa cả một triết lý bình đẳng cao siêu. Tất cả chúng sanh đều có sẵn Phật tánh, nhưng vì màn vô minh che lấp nên không thể nào chứng ngộ được sự tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn như Phật. Phật không chủ trương ngài là bậc toàn năng tuyệt đối mà Ngài tự cho mình như một vị lương y mang phương thuốc hay trừ căn bịnh hiểm nghèo cho nhân thế. Chính Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng sanh con đường tu hành diệt khổ để đạt đến Niết-Bàn an lạc. Ngài quan niệm rằng tự nơi mỗi người đều có sẵn mầm Phật tánh, nếu biết triên khai triệt để bằng cách tu sửa, đãi lọc những phiền não tự tâm, chắc chắn ai cũng có thể đạt tới đích giải thoát mọi ràng buộc khỏi sanh tử luân hồi. Khi mới nghe qua câu nói trên, chúng ta nghĩ là dễ thực hành, nhưng trên thực tế, muốn trở thành một vị Phật phải đòi hỏi nhiều công phu tu tập. Đức Phật nhờ thiền quán suốt 6 năm và sau 49 ngày đêm dưới gốc cây Bồ-Đề mới giác ngộ thành Phật. Sau đó Ngài đem ánh sáng đạo mầu giải thoát, trước hết độ cho 5 người bạn đồng tu lúc trước là nhóm ông Kiều-Trần-Như. 

Nhờ sự tinh tấn tu hành mà đương thời lúc Phật còn tại thế đã có nhiều người chứng quả, đắc đạo. Quả thật câu nói của Ngài rất bình đẳng và tôn trọng mọi loài đều có trí giác như nhau. 

9.-  Cha Mẹ Tại Tiền Như Phật Tại Thế Có Nghĩa Là Gì ?  

Chúng ta ra đời, lớn khôn rồi góp mặt với xã hội là do công ơn cha mẹ tạo thành. Bổn phận làm con là phải biết báo đền công ơn dưỡng dục sanh thành của cha mẹ để làm tròn được đạo hiếu. Vậy, câu nói : Cha mẹ tại tiền như Phật tại thế là gì ? 

Người Phật tử kính ngưỡng đức Phật bao nhiêu, lại càng phải tôn kính cha mẹ bấy nhiêu. Đức Phật đã nhập Niết-Bàn, nhưng người Phật tử vẫn luôn luôn tôn thờ như lúc Ngài còn tại thế. Cũng như thế, lúc cha mẹ còn sống, con cái phải phụng dưỡng, chăm sóc và khi các người trở về già yếu bổn phận làm con phải hầu cận cháo cơm và lo chu toàn mọi nhu cầu vật chất, tinh thần để an ủi cha mẹ trong lúc tuổi già. Tâm lý con người lúc còn trẻ và khi trở về già có thể giống nhau. Do đó việc sớm chiều gần gủi, giúp đỡ cha mẹ của con cái là điều cần thiết và rất quan trọng. Mỗi người Phật tử chúng ta nên nghĩ rằng, còn cha mẹ để được săn sóc, phụng thờ là niềm hãnh diện lớn lao. Có nghĩ và làm được như thế, chúng ta mới không phụ đấng sinh thành. Trong kinh Phụ Mẫu, "Phẩm Báo Ân" đức Phật dạy rằng : "Công ơn cha mẹ sánh như trời biển người con cho dù suốt đời cỏng cha bên vai trái và mẹ bên vai phải đi suốt từ nguồn tới biển để báo ơn cũng chưa thể báo đền công ơn sanh thành được trọn vẹn" và ca dao Việt-Nam cũng có câu : 

Công cha như núi Thái-sơn, 

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, 

Một lòng thờ mẹ kính cha, 

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. 

Chúng ta có bổn phận phải săn sóc cha mẹ lúc còn sống để khỏi phải ân hận khi các ngài đã nhắm mắt lìa đời ; và tới lúc đó dù cho có nghĩ tới cách báo ơn, ta cũng không thể nào thực hiện được. 

10.- Chứng Minh Câu : "Cây Xanh Thì Lá Cũng Xanh, Cha Mẹ Hiền Lành Để Phước Cho Con"  

Trong một vườn cây, chúng ta thấy hễ cây nào có thân to lớn bụ bẫm được tưới bón phân nước dồi dào tự nhiên cành lá trở nên sum xuê, xanh tốt ; cũng như vậy, con người sống ở đời phải có một mối dây liên hệ mật thiết với nhau. Theo Phật giáo, thuyết nhân quả, nghiệp báo thì cái hạt mầm gieo xuống sẽ không bao giờ mất. Nó nằm tiềm ẩn trong lòng đất, rồi chờ cơ hội tốt mầm sẽ mọc lên thành cây và ra hoa kết quả. 

Qua 2 câu thơ trên ta nhận thấy ở mỗi câu đều bao gồm 2 phần : Nhân và quả. Hễ nhân lành thì quả tốt : Cây xanh thì lá cũng xanh, và cha mẹ hiền lành để phước cho con. Tuy nhiên, theo lý nhân quả, không hẳn cái quả đi liền theo cái nhân như cây xanh thì lá cũng xanh mà ở phần thứ hai của câu thơ 8 chữ đã cho ta thấy, cái nhân lành là do cha mẹ gieo trồng thế mà cái quả được phước lại phải đợi tới đời con cháu mới thành hình. Điều đó chứng tỏ rằng, lý nhân quả liên tục theo một chu kỳ không đầu mối và kỳ hạn không nhất định mau hoặc chậm. Có 3 trường hợp xảy ra như sau : Nhân quả đồng thời sanh khởi (như cây và lá); nhân quả hiện thời sanh khởi (trong khoảng thời gian 20, 30 năm) và nhân quả dị thời sanh khởi (cha mẹ hiền lành để phước cho con). 

Khi đã phân tích xong câu nói, chúng ta biết rõ hơn lý nhân quả theo một tiến trình tiệm tốc nhứt định. Có khi gieo nhân tốt, nhưng gặp hoàn cảnh xấu như thời tiết, sâu bọ ... thì không thể nào có được kết quả tốt như ý ta mong muốn được. Trái lại, đôi khi chúng ta gieo nhân rồi phải chờ lâu mới có kết quả. 

Như thế, người ta phải biết tu phước chỉ cần làm việc lành và đừng mong đợi kết quả tốt. Lẽ dĩ nhiên kết quả tốt sẽ đến mà không cần đắn đo lúc làm việc thiện. 

11.- Hãy Cho Biết Rõ : Người Nào Ăn Mặn, Người Ấy Khát Nước Là Sao ? 

Sống ở đời, mỗi hành vi, ngôn ngữ, cử chỉ của ta đều có một tác dụng hết sức lớn lao đối với mọi người chung quanh, nhưng trách nhiệm và chủ nhân của việc làm vẫn là ta chứ không phải do người nào khác. 

Ví dụ : Người ăn trộm sẽ bị vào tù, 

Kẻ giết người phải bị tội tử hình... 

Cho đến những hành độ nhỏ, như ta đánh người sẽ bị người đánh lại ... Như thế, tất cả những hành động của ta làm đều do chính ta nhận lấy cái hậu quả đã gây ra. Dù cha con, anh em, bạn bè cũng không thể thay thế để chịu những lỗi lầm đó được. Câu nói : "Người nào ăn mặn, người ấy khát nước" có một ý nghĩa hết sức rõ ràng như vậy. Vì những gì ta làm có phương hại tới cá nhân hay đoàn thể về thể diện, uy tín thì cũng chính ta phải nhận lấy cái xấu, cái dỡ trước công luận. Trong trường hợp những tù nhân chính trị được các đoàn thể hay tôn giáo làm thành một bản thỉnh nguyện yêu cầu nhà cầm quyền tha tội, thì lại là vấn đề khác. Đó là cộng nghiệp (nghiệp chung) trong biệt nghiệp mà mỗi cá nhân sống trong xã hội phải có sự liên đới, hỗ tương nhau. Nếu luận như thế, thì câu nói trên có tính cách buộc tội cho kẻ đã gây ra tội lỗi hơn là biết linh động uyển chuyển vấn đề. 

Có thể lấy thêm một ví dụ nữa cho dễ hiểu : Lúc đói bụng ta cần ăn, lúc khát ta cần uống là những nhu cầu tối thiểu phải có trong cuộc sống hàng ngày. Dĩ nhiên, việc ăn và uống không làm no bụng, đở khát được kẻ khác mà là cho ngay chính ta. Câu nói nhằm ngăn chặn những việc làm tai hại quá đáng đối với người nào thiếu suy nghĩ và hay bừa bãi. 

Phải gạn lọc những việc xấu ác ra khỏi tư tưởng và làm những việc lành lợi ích cho nhiều người ta mới tránh được cảnh kẻ ăn mặn, người khát nước. 

12.- Quan Âm Thị Kính Nói Qua Ý Nghĩa Và Sự Tích  

Đây là một vở tuồng chèo rất phổ thông trong giới bình dân Việt-Nam, và không một ai rõ được tác giả cả. Người ta chỉ biết Thị-Kính là một người con gái nhà trung lưu, vừa có nhan sắc lại có đức hạnh. 

Sau khi kết hôn với Thiện-Sĩ, con nhà dòng dõi quý tộc. Vợ chồng Thị-Kính sống bên nhau rất hòa thuận, đầm ấm, bỗng nhiên, một hôm lại xảy ra một việc tình cờ là trong lúc chồng đang ngủ, vợ bận tay ngồi khâu vá, chợt nhìn thấy sợi râu mọc ngược trên cằm chồng, nàng cầm dao định cắt, thì chàng vừa tỉnh giấc. Lúc nửa tỉnh nửa thức, vừa thấy lưỡi dao đang kề cổ, chàng bèn tri hô lên là bị vợ mưu ám sát. 

Thị-Kính bị buộc tội giết chồng và bị gia đình nhà chồng đuổi về nhà cha mẹ. Nàng không còn có cách nào bào chửa được nữa. Vì quá oan ức, nàng bỏ nhà đi tu, để tránh cho khỏi lộ tung tích, Thị-Kính cải dạng nam trang tới chùa Vân-Tự xin Sư cụ trụ trì xuất gia đầu Phật với pháp danh là Kính-Tâm. 

Lòng trần tưởng đã rửa sạch, do công phu tu tập mỗi ngày chú tiểu càng tỏ ra tinh chuyên hơn. Nào ngờ việc oan lại đến, thật đúng là "người trung mắc nạn". Một cô gái con nhà giàu, có tính trăng hoa, bèn đem lòng mê đắm chú Kính-Tâm, vì tưởng là nam nhi. Hơn nữa nàng đang mang bụng chửa hoang, rồi bèn đỗ lỗi cho là đã thông dâm với Kính-Tâm. Kính-Tâm bị làng bắt tra tấn, hạch tội đủ điều, nhưng quyết một mực không khai. Động mối từ tâm được sư phụ bảo lãnh nên chú tiểu mới được tha tội. 

Sau khi Thị-Mầu sanh con lại đem đứa bé tới bỏ trước cửa tam quan chùa. Nghe tiếng khóc, Kính-Tâm nhận vào chùa nuôi dưỡng, mặc dù gặp sự phản đối của sư cụ. Khi đứa bé lên ba tuổi thì Kính-Tâm viên tịch (qua đời). Trước khi nhắm mắt lìa đời, Kính-Tâm có để bức thơ lại cho cha mẹ trong ấy có kể rõ đầu đuôi mọi việc. 

Sau khi Kính-Tâm tịch rồi, người ta mới khám phá ra được đâu là sự thật của một người suốt đời bị hàm oan. Nhờ phép Phật nhiệm mầu, người xuất gia âm thầm nhẫn nại chịu đựng cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời cho tới khi đã rõ nổi oan ức của Kính-Tâm, dân làng bắt Thị-Mầu phải để tang và trả mọi chi phí cho việc mai táng. 

Cha mẹ Thị-Kính sau khi nhận được thơ, tức tốc tới tìm, vừa kịp để dự trai đàn, cùng với Thiện-Sĩ và gia đình bên chàng. Mọi người đều trông thấy cảnh Đức Phật hiện ra truyền cho ông bà họ Mảng (tức cha mẹ Kính-Tâm) và đứa trẻ cũng được lên tòa sen, còn Thiện-Sĩ hóa thành chim vẹt bay hầu bên Phật bà. 

Nhờ phép Phật thần thông mầu nhiệm, Kính-Tâm vào Niết-Bàn thành Phật Quan-Âm : 

"Truyền rằng nào tiểu Kính-Tâm, 

Phi thăng làm Phật Quan-Âm nhứt thì". 

Do sự tích trên, mỗi khi có người nào mắc oan không thể cải được, người ta nói rằng : oan như oan Thị-Kính là do tích chuyện nầy vậy. 

13.- Ăn Mặn Nói Ngay Hơn Ăn Chay Nói Dối Là Thế Nào ?  

Việc ăn chay hay ăn mặc là một vấn đề tối quan trọng để người Phật tử lấy đó làm thước đo được lòng từ bi của người đang thực hành Phật giáo. 

Ăn chay để nuôi dưỡng lòng từ bi trong ta mỗi ngày cho thêm tăng trưởng. Việc ăn chay có nhiều cách như : Ăn chay trường, ăn chay kỳ hay ăn chay vì một đại nguyện. Ăn chay trường tức là ăn thường trực các loại rau trái không ngừng nghỉ và có thể ăn chay suốt đời. Ăn chay kỳ là ăn chay theo lời phát nguyện định kỳ mỗi năm hoặc 3 hay 6 tháng và hết thời gian đó lại tiếp tục ăn mặc trở lại. Cũng có nhiều người ăn chay kỳ trong mỗi tháng theo những ngày rằm và mồng một gọi là nhị trai (hai ngày ăn chay), 14, 15, 30 và 1 (tứ trai), 1, 8, 14, 15, 21, 30 (lục trai). Ngoài ra, cũng có người từ nhỏ tới lớn chưa từng biết tời việc ăn chay, nhưng phát nguyện, khi thành tựu được một công việc trọng đại nào đó là ăn chay hoặc ăn chay trước khi bắt tay vào làm công việc khó. 

Trường hợp các vị vua chúa muốn cầu quốc thái dân an hay mưa thuận gió hòa, trước khi vào đàn tế lễ phải ăn chay nằm đất 3 ngày cho tâm được thanh tịnh (theo tục lệ cổ). Sau 1975 có một số người phát nguyện ăn chay, nếu cha mẹ, anh em được sum họp ở ngoại quốc hay sau chuyến vượt biên thập tử nhất sanh, đã đến được các nước tự do. 

Câu nói "ăn mặn nói ngay, hơn ăn chay nói dối" cốt để châm biếm những người nào lòng không ngay thật, thì dù có ăn chay mãn đời mà không thành tâm thì cũng vô ích. Với người ăn chay mà mang tâm địa nham hiểm, độc ác cố làm hại kẻ khác thì thà ăn mặn mà làm được việc phước thiện, có lợi lạc cho mình và người còn hơn ăn chay mà tâm hồn hẹp hòi, rỗng tuếch ! 

Việc ăn chay có một giá trị không tuyệt đối mà còn tùy thuộc vào quan niệm và trình độ hiểu biết của mỗi người, theo đúng tinh thần của Phật giáo đã bám rễ sâu vào tâm thức như Nhật-Bản đã áp dụng. 

14.- Cây Muốn Lặng Mà Gió Chẳng Dừng, Con Muốn Đền Ân Nhưng Song Thân Bất Tại Là Thế Nào ?  

Công ơn cha mẹ đối với con cái rộng sâu như trời biển, cho nên ca dao có câu : 

Công cha như núi Thái-sơn, 

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. 

Con muốn báo đáp công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ cũng không thể nào đền đáp nổi. Cha mẹ nuôi con từ khi tấm bé cho đến ngày lớn khôn, rồi mỗi người lại tạo một đời sống riêng và làm chủ một mái gia đình. Người con hiếu luôn luôn phải nghĩ tới cha mẽ lúc trở về già, tóc bạc da nhăn cũng như cây giữa rừng, có thể bị gió lay động và làm ngã đỗ bất cứ lúc nào ; cũng như thế, trong gia đình con cái khi mới lớn lên cứ nghĩ rằng cha mẹ sẽ chung sống đời đời, nhưng không ngờ được cái chết đang rình rập để rước các người đi lúc nào cũng không ai đoán trước được. Khi sự việc xảy đến người con đâm ra thương nhớ, luyến tiếc và tới lúc đó mới nghĩ việc hiếu và muốn báo đền công ơn thì than ôi cha mẹ đã lìa đời ! 

Thật chua xót, thương tâm đối với những người con thảo, cháu hiền !   Đối với người Phật tử, lúc cha mẹ còn sống chúng ta cố gắng làm sao để đấng sanh thành được vui từ thể chất đến tinh thần. Nhất là người con phải biết cản ngăn những việc trái mà mình biết là điều xấu, ác khi cha mẹ tuổi già lầm lỡ có thể phạm phải. Con không nên chiều theo ý cha mẹ để phạm vào những việc sái quấy mà phải lấy lời chân thật, hành động đùng để khuyên nhắc cha mẹ tránh việc làm xấu. Như vậy, đến lúc cha mẹ có qua đời cũng không có điều gì muối tiếc ăn năn cả. 

Kính thờ cha mẹ lúc sống cũng như khi chết cho được tốt đẹp và đầy đủ để chứng tỏ người con giữ tròn đạo hiếu đối với gia đình và tròn bổn phận của người tín đồ đối với lý tưởng của tôn giáo mà mình đang thờ. 

15.- Sống Gởi Thác Về Là Gì Và Về Đâu ?  

Chúng ta thường quan niệm rằng cuộc đời nầy rất tạm bợ, vì mỗi người chỉ có thể sống lâu được tới trăm tuổi là cùng. 

Sống gởi có ý nói từ khi ta sinh ra đời cho tới lúc chết phải sống nương nhờ vào cõi đời tạm bợ nầy. Khi chết còn để lại cho con cháu nắm xương tàn nơi trần thế và chẳng mang theo được gì cả. Nhưng con người, phần quan trọng nhất là tinh thần. Theo Phật giáo, ở đời ta làm ác dĩ nhiên khi chết sẽ khó mà thoát đi đầu thai trở lại cõi thiện được. Câu : "Sống gởi, thác về" có ý khuyên răn chúng ta nên nổ lực làm lành lánh dữ để sau khi chết được sanh về một thế giới an lành hơn.  Đó là cõi Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà hay một cõi trời, đối với người không có đạo, hoặc cảnh tiên dành cho người tu luyện phép trường sanh bất tử ... Đó là những cảnh giới mà với con mắt phàm của chúng ta khó hình dung ra được hay diễn đạt qua ngôn ngữ. Nói như thế, ở đời ta khỏi cần làm việc thiện chi cả và cứ chờ cho đến lúc chết để về một cảnh giới an vui khác có phải khỏe thân xác lẫn tinh thần không ? Câu nói trên hàm hai ý nghĩa bi quan và lạc quan. Nếu chúng ta nghĩ rằng cần một thế giới khác sung sướng hơn và ngồi chờ mãi cho tới ngày để được về nơi đó, thật là điều mơ hồ không bao giờ có được. Còn theo nghĩa tích cực, sống ở đời chúng ta ra sức làm việc lợi ích, đến khi chết còn để lại được những công trình tốt cho người sau, thì cho dù thân xác nầy có mất đi, nhưng ảnh hưởng của việc làm thiện kia vẫn còn nơi trần thế để được đời nhắc tới tên tuổi. 

Muốn sau khi chết được sanh về một cảnh giới lành, trong đời hiện tại chúng ta phải làm tròn bổn phận với xã hội và tôn giáo để làm điểm tựa cho tinh thần có chỗ dựa nương sau khi bỏ lại xác thân nơi cõi tạm để hướng về cảnh tự tại an vui. 

16.- Gieo Gió Gặt Bảo Hay Gieo Nhân Hưởng Quả Là Thế Nào ?  

Định luật nhân quả tất yếu không thể nào sai chạy đi đâu được là trồng cây ắt phải có trái, điều mà xưa nay ai cũng hiểu được như thế. 

Gieo gió gặt bảo có nghĩa là nhân và quả đồng thời có cúng một lúc như ta đánh người một tát tay thì sẽ bị đánh lại ngay. Việc dễ hiểu hơn là hai võ sĩ cùng đấu trên võ đài. Hiệp đầu anh A thắng, nhưng vì mặc cảm trước đám đông khán giả, anh B cố tìm cách hạ thủ cho được anh A trong hiệp nhì cũng là điều dễ hiểu. Nhưng còn câu : "Gieo nhân hưởng quả" lại có một nghĩa hơi khác và có phần sâu sắc hơn nhiều. Trong trường hợp ta gieo hạt giống tốt hay trồng cây bụ bẫm, nhưng chưa hẳn được hưởng quả lành ngay, vì mầm cây lớn lên được là nhờ ở thời tiết như mưa thuận gió hòa và nhờ sự gia công tưới nước, làm cỏ, bón phân của người trồng cây thì mới có được trái tốt. Ở đời phần nhiều hễ gieo nhân lành là được quả tốt, như trong vụ làm mùa trồng lúa chẳng hạn. Nhưng về khía cạnh tinh thần, người làm phúc chưa chắc đã được hưởng quả ngay trong đời nầy, vì nó còn phải tùy thuộc vào nhiều yếu tố liên hệ khác.  Câu ca dao sau đây nói lên được ý nầy : 

Người trồng cây hạnh người chơi, 

Ta trồng cây phúc để đời mai sau. 

Và đều có ý nghĩa nhân và quả liên tục, kéo dài. 

Muốn tránh gây nhân xấu cho người khác, ta phải biết sửa đổi từ trong hành vi, tư tưởng, không làm bất cứ một việc ác nhỏ nào, cũng như không từ chối bất cứ một điều thiện nhỏ nào. 

Mỗi người đều nghĩ và làm được như vậy mới mong xây dựng được một xã hột tốt đẹp và xem kẻ khác, đồng trong tình huynh đệ tương thân. 

17.- Phật Tại Tâm Là Thế Nào ? 

Nơi mỗi người chúng ta đều có sẵn lòng từ bi, nhưng vì bị màn vô minh che lấp chân tánh thiện ấy để dong đuổi theo cảnh vật hào nhoáng bên ngoài. Chính đức Phật Thích-Ca đã nói rằng, chúng ta có thể thành Phật như Ngài. 

Ở trong ta có hai thứ ý thức : Tỉnh và động. Ý thức tỉnh tức là tâm thức sáng suốt có thể quyết định mọi việc một cách lẹ làng mà không gặp phải một trở ngại khó khăn nào ; còn ý thức động để chỉ cho thú tính hay các dục vọng thấp hèn đang tiềm tàng ở bên sau tầng ý thức, cốt chờ dịp thuận lợi sẽ nổi lên khuấy phá vùng sáng suốt của tâm từ bi. Ta có thể ví nó như con rắn độc nguy hiểm chờ dịp giao đấu nơi trường ý thức của con người. Nếu biết tu thiện, ta sẽ nhờ đạo quân tinh nhuệ của trí tuệ đẩy lui được đám tàn quân của đạo tặc vào sâu trong vùng bóng tối. 

Tâm Phật là những đức tánh tốt tự nhiên có sẵn bên trong con người. Do từ ý nầy, ngài Khuông-Việt Đại-sư (930-1011) trước khi tịch có dặn lại Cảm-Thành Thiền-sư bài thi kệ sau đây : 

Mộc trung nguyên hữu hỏa 

Nguyên hỏa phục hoàn sanh 

Nhược vị mộc vô hỏa 

Tỏa toại hà do manh 

Nghĩa : 

Trong cây vốn có lửa 

Có lửa lửa mới sanh 

Nếu bảo cây không lửa 

Cọ mạnh sao lửa ra ? 

Chúng ta không cần phải mất công tìm kiếm Phật ở đâu xa lạ cả, mà chỉ cần quay về với chân tâm của mình để tu tập các pháp lành thì tâm sáng suốt ấy sẽ hiện ra nơi ý thức. 

Ý thức tự giác trong suốt như trăng rằm chiếu rọi khắp cả bầu trời tự tại và tâm tư ta vắng lặng như hồ thu soi rọi được cả vũ trụ, vạn vật bao la tức là tâm Phật lộ hiện. 

18.- Giải Thích Và Chứng Minh Khẩu Phật Tâm Xà Là Gì ?  

Mỗi khi có dịp tiếp xúc với nhiều người ngoài xã hội, chúng ta sẽ gặp đủ mọi thành phần : Chất phác, thật thà, hiền lương, ngay thẳng, gian manh, quỷ quyệt, lừa đảo, mưu mẹo, xảo trá, bất lương ... 

Cũng có nghĩa ta chỉ nhìn qua tư cách của họ là đã có cảm tình ngay. Nhưng rất nhiều trường hợp chúng ta phải sống chung đụng với người khác mới biết được phần nào về họ. Câu tục ngữ : Khẩu Phật tâm xà chỉ hạng người bề ngoài có vẽ đạo đức, nhưng trong thâm tâm hiểm độc và luôn luôn gây mối tỵ hiềm, bất hòa với kẻ khác. Với thành phần như thế cho dù ngoài miệng có đường mật trau chuốt bao nhiêu cũng không được người khác tin yêu, và chính tự họ muốn sống tách rời với quần chúng, đã bị xã hội cô lập trong mọi trường hợp. Vì trong nhất thời người khác có thể lầm, nhưng dần dần khi biết được dã tâm của kẻ bất chính mọi người sẽ tìm cánh xa lánh ngay. 

Đối với người Phật tử muốn gây được lòng tin kính nơi kẻ khác, trước hết phải thành thật với chính mình, từ ngôn ngữ, cử chỉ, tư cách phải đồng nhất, nghĩa là không nói một đường làm một nẽo hay chơi trò lật lọng tay trên. Ngược lại phải giữ lòng chân thật, ngay thẳng, không có tính cách mầu mè, tỏ vẽ để bịp người khác. Người mang tâm địa độc ác là một đại tai họa cho tập thể đang cần sự tin yêu lẫn nhau để tồn tại. 

Chúng ta nên đề cao cảnh giác, những kẻ ưa dùng lời đường mật để lung lạc người khác qua lời nói thánh thiện mà thâm tâm ẩn chứa mầm độc ác nguy hiểm. 

19.- Miệng Thì Luôn Niệm Nam Mô, Trong Tâm Lại Chứa Một Bồ Dao Găm Là Thế Nào ?  

Tục ngữ và ca dao Việt-Nam có nhiều câu hàm chứa được ý nghĩa trong khía cạnh tinh thần rất sâu sắc, cốt để châm biếm, chế giễu hay có tính cách cảnh tỉnh người đời như hai câu nầy : 

"Miệng thì luôn niệm Nam Mô, 

Trong tâm lại chứa một bồ dao găm". 

Hai câu ca dao lục bát trên bao hàm được hai ý nghĩa : Thiện và ác. Câu 6 chữ ẩn chứa hành vi thiện, vì chữ Nam mô đã gồm được trong 6 nghĩa : Cứu ngã, độ ngã, quy y, quy mạng, đảnh lễ, cung kính (xin cứu giúp xin độ thoát, nương tựa, đem thân mạng hướng về, đảnh lễ và cung kính chư Phật, Bồ-Tát). 

Nghĩ và thực hành được như thế chỉ có người tu thiện mới làm trọn được bổn phận như một Phật tử chân chánh. Nhưng qua câu 8 chữ tiếp theo lại hàm chứa một ý nghĩa xấu hoàn toàn và có ý nói rằng người tu hành (xuất gia lẫn tại gia cư sĩ) dù cho ngoài miệng có niệm Phật, tụng kinh đi nữa mà trong lòng lại độc ác, với nhiều mưu lược gian xão, để được lợi lộc riêng tư thì việc làm trước cũng sẽ trở thành vô ích. Chữ "Bồ" được hiểu là một thứ đồ vật đan bằng tre hay mây có thành cao dùng để đựng thóc gạo, nhưng chữ "bồ" xử dụng trong câu nầy không có nghĩa như vậy, vì thuộc về tinh thần nên ta phải hiểu theo một nghĩa bóng, tức là chỉ nơi chứa nhóm bẩn thỉu, xấu xa. Còn chữ "dao găm" đi liền theo sau cũng đủ nói lên trọn vẹn được hành vi bất thiện (hảo) của những kẻ mang tâm hồn vẫn đục như thế. Vì chưa tin người hay do khinh dễ kẻ khác, chúng ta mới có những việc làm bề ngoài trông có vẽ đạo đức, nhưng bên trong có sự lật lọng, tráo trở, như con dao hai lưỡi chờ hại người trước và đâm thẳng vào chính mình sau. 

Một việc làm thiện của ta dù nhỏ cũng đã đóng góp vào việc xây dựng cho cộng đồng xã hội tốt đẹp, nhưng chỉ một ý niệm xấu ác thôi cũng là bước cản trở lớn cho việc tiến bộ và gây ra chia rẽ, hận thù. 

20.- Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du Có Diễn Tả Về Cái Tâm Qua 2 Câu : Thiện Căn Ở Tại Lòng Ta Chữ Tâm Kia Mới Bằng Ba Chữ Tài Là Nghĩa Gì ?  

Phật giáo quan niệm cái TÂM là chủ tể, tâm tạo tác sơn hà, đại địa. TÂM còn là cái bản thể bao hàm cả thế giới TAM TÀI : trời, đất và con người.  Do đó, Nguyễn-Du viết : 

Thiện căn ở tại lòng ta, 

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. 

Con người muốn làm thánh hiền, thần linh hay ma quỷ cũng do từ cái tâm mà ra. Phật giáo chủ trương tu sửa thân tâm thanh tịnh và phải cố sửa đổi để diệt trừ tam độc là tham, sân, si, nhờ đó kết hợp được giữa con người với tại vật thành "Hồn Thiêng Sông Núi", không có sự phân chia giới hạn vật chất, tinh thần mà chỉ có một dòng sống luân lưu không ngừng trong cái chu kỳ có sự dung hợp, điều lý tuyệt vời. 

Tư tưởng dung hợp nầy bắt nguồn từ trong tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên giữa đạo Nho, đạo Lão và đạo Phật đã thành hình từ thời kỳ lập quốc - nhà Đinh - để tạo cho dân tộc Việt có một tinh thần độc lập, tự chủ thật vô cùng phong phú. 

Cái Tâm ấy không do ai ban tới cho ta cả mà chính do từ nơi mỗi người đã có sẵn căn tánh thiện, nhưng vì bị màn vô minh che lấp căn tánh thiện ấy, cho nên chúng sanh không thấy được cái chân tánh sáng suốt của mình. Người nào biết tu sửa để gạn lọc những thói xấu, tánh bất thiện, tự nhiên trí giác sáng suốt hiển hiện như trăng soi đáy nước. 

Mỗi người tự giữ được sự hòa nhã, lòng từ ái, tánh khiêm cung đối với mọi người đều do nơi tâm thành lộ hiện và như thế là đã thể hiện trọn vẹn được cái tâm tánh thiện nơi ta. 

21.- "Y Kinh Diễn Nghĩa Tam Thế Phật Oan, Ly Kinh Nhứt Tự Tức Đồng Ma Thuyết" Là Thế Nào ?  

Kinh điển của Phật giáo rộng sâu như biển cả, nước trăm sông đều đỗ dồn về đó để cùng hòa nhịp lại thành một vị : Vị mặn của chất muối. Cũng như thế giáo lý của Phật giáo bao hàm trong ba tạng Kinh, Luật, Luận cũng chỉ hàm chứa một vị : Vị giải thoát mà thôi. 

Trải qua trên 2500 năm, từ khi đức Phật Thích-Ca xuất thế, con người phải trải qua nhiều thời đại nhiểu nhương, tao loạn, nhưng cái tinh hoa của đạo Phật vẫn còn được nhìn ngắm như một khu vườn với đủ loại kỳ hoa dị thảo. Điều nầy chứng tỏ rằng nhờ tính chất đa diện của những lời Phật dạy một phần, phần còn lại nhờ tinh thần cởi mở, sự linh động, uyển chuyển trong việc khế hợp giữa chân lý và trình độ tại những nơi mà đạo Phật có mặt của các nhà truyền giáo. Thật vậy, giáo lý đạo Phật không có phần nào chủ trương chấp chặt vào một vấn đề nào cố định cả. Nếu các nhà truyền thừa Phật giáo không khéo trong vấn đề diễn đạt tư tưởng "tùy duyên" của Phật cho con người thời đại hiểu thấu trọn vẹn, lại nhai đi nhai lại chất bả của cây mía, trong khi đó chất ngọt của nước mía lại hời hợt, thì có phải kinh Phật dạy sai hay người chỉ đường không biết áp dụng phương pháp đạo Phật đúng mức ? Còn như người nào tự hào là mình đạt được thánh ý, lúc diễn bày lại không căn cứ vào kinh điển, để dẫn dắt người khác đi vào tà thuyết. Đó chẳng phải lời Phật dạy vậy. Câu "tùy duyên nhi bất biến" trong Phật giáo là một chìa khóa có thể mở được tất cả kho tàng châu báu của giáo lý Phật-đà. Tùy duyên nhi bất biết có nghĩa là thuận theo hoàn cảnh để tồn tại, nhưng không thể để cho hoàn cảnh chi phối, sai sử hay lèo lái được người trong cuộc đi lạc đường hướng để làm lạc tôn chỉ của đạo Phật. 

Chỉ khi nào người Phật tử biết nhìn đạo Phật dưới con mắt bao dung, tức là hàm chứa tâm đại từ bi mới quán triệt được lý mầu nhiệm trong biển giáo pháp của Phật một cách trọn vẹn. Muốn có được tâm địa phóng khoáng như vậy cần đòi hỏi chúng ta phải gia công thực hành và nghiên cứu giáo điển thật tích cực và lâu dài. Những gương tu chứng còn để lại trong sử sách mà các bậc thầy tổ đã dày công giáo huấn cho nhiều thế hệ là những bài học sống động và hùng hồn nhất cho chúng ta trong thời đại hôm nay. Do tính chất đặc biệt đó mà có một vài dân tộc như Nhật-Bản biết quý trọng các tổ sư hơn. Họ nghĩ rằng nhờ các Ngài mà dân tộc họ thấm nhuần được ân đức của chư Phật trong quá khứ. Chúng ta không lấy làm lạ, khi hầu hết các chùa Nhật đều thấy bàn thờ tổ khai sáng ra tông phái, cũng như ngày kỵ giỗ của tổ linh đình hơn là ngày Phật-Đản, ngày Phật Thành-Đạo. 

Người thừa hành sứ mạng thay Phật truyền bá chánh pháp phải luôn luôn để ý giữ gìn oai nghi, tế hạnh để làm gương mẫu cho hàng Phật tử. 

22.- Nhứt Nhơn Tác Phước Thiên Nhơn Hưởng, Độc Thọ Hoa Khai Vạn Thọ Hương Là Nghĩa Gì ?  

Việc làm phước và gieo nhân lành trong đời nầy là tâm niệm của những người có một đời sống nội tâm phong phú và họ chính là tấm gương sáng xứng đáng để chúng ta học hỏi. Ảnh hưởng dây chuyền và sự liên đới của mọi người sống trong xã hội rất quan trọng, cho nên qua ca dao Việt-Nam chúng ta nhận thấy câu : 

Nhứt nhơn tác phước thiên nhơn hưởng, 

Độc thọ hoa khai vạn thọ hương. 

Nghĩa là một người làm phước thì muôn người được hưởng, cũng như một cây trổ hoa thì cả vườn cây đều ngào ngạt mùi hương. Tại sao một người làm phước mà nhiều người được hưởng ? Mọi người được hưởng ở đây có hai ý nghĩa : Chúng ta sống có sự tương quan mật thiết với nhau trong cùng một hoàn cảnh, hành động trong việc làm tốt của ta có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều người chung quanh là điều không ai chối cải được, cũng như trong sân vườn có một cây hoa đang trỗ, một mùi thơm từ cây ấy tỏa ra xông khắp cả khu vườn. 

Trong cùng ý nghĩa ấy còn có câu : "Nhứt nhơn hành đạo cữu huyền thăng" (một người tu hành gương mẫu đứng đắn sẽ cứu độ được 9 đời người quá cố được siêu thăng). Như trường hợp đức Phật Thích-Ca, sau khi tu hành chứng quả, Ngài độ được cả phụ vương, vợ con và bà con đều tu hành giải thoát khỏi cảnh đọa lạc. 

Hành vi đạo đức tốt của chúng ta rất có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi người, nhất là bà con thân thuộc của ta, cho nên người Phật tử nên cố gắng tạo phước và gây nhân lành. 

23.- Pháp Thân Phật Là Sao ? 

Pháp thân là chân thân Phật ứng hóa hiện thành để thuyết pháp độ sanh. Phật có thể hóa ra nhiều pháp thân khác nhau. Các loại pháp thân như : 

- Tự tánh pháp thân tức là muốn hóa hiện thân hình thế nào. Tùy đó mà hiện thành được tự tại không gì ngăn ngại. 

- Thọ dụng pháp thân : Dung hợp giữa lý trí để hoàn thành. 

- Biến hóa tức là thay hình đổi dạng tùy nghi ứng biến. 

- Đẳng lưu pháp thân : Ra vào tự tại được trong 9 cõi mà không bị chướng ngại gọi là đẳng lưu. 

Ngoài cách phân chia pháp thân 4 loại như trên, theo như kinh Anh-Lạc có 5 loại pháp thân là : 

- Như như trí pháp thân : Pháp thân trí như thật. 

- Công đức pháp thân : Do tu tập các công đức lành mà thành tựu. 

- Tự pháp thân : Tự do, tự tại theo ý muốn. 

- Biến hóa pháp thân : Thay đổi tùy nghi, tùy thời. 

- Hư không pháp thân : Pháp thân biến khắp trong hư không. 

Pháp thân có nhiều hình tướng, thứ loại, nhưng không ngoài pháp tánh chân thật mà chư Phật hóa hiện ra đời để cứu độ chúng sanh. Kinh Pháp-Hoa, phẩm Phổ-Môn cũng có diễn tả cách hóa thân trong pháp thân của Bồ-Tát Quán-Thế-Âm như sau : Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật để được độ thoát, cho đến thân Duyên-giác, Thanh-văn, Phạm-vương, Đế-thích, Thân Tự-Tại hay Đại-Tự-Tại Thiên, thân Thiên-Tướng-Quân, Tỳ-Sa-Môn, Tiểu-Vương, Trưởng-Giả, Cư-Sĩ, Tể-Quan, Bà-La-Môn, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thân Phụ nữ, Đồng-nam, Đồng-nữ, thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, Nhân và Phi nhân ... thì đức Quán-Thế-Âm liền hiện ra thân đó ngay để thuyết pháp hóa độ chúng sanh. Pháp thân Phật là chân lý bất nhị, là sức biến hóa vô cùng trong phép thần thông tự tại mà chỉ có Phật hay Bồ-Tát vì đại nguyện mới thành tựu được. 

Pháp thân Phật ở trong 6 phép thần thông (xem bài riêng) của chư Phật, Bồ-Tát đem dánh sáng giác ngộ, giải thoát lợi sanh để độ muôn loài giải thoát và tiến tới chân lý như Phật. 

24.- Chùa Một Cột Sự Tích Và Lịch Sử Thành Lập  

Chùa Một-Cột còn có tên là chùa Diên-Hựu, xây năm 1049 vào đời Lý-Thái-Tông.  Bên trong chùa thờ đức Phật Quan-Âm. 

Chùa được dựng trên một cột trụ đá giữa hồ sen đồng thời ngôi chùa cũng hình hoa sen, là một công trình kiến trúc cổ rất tinh vi. Nghệ thuật kiến trúc đời Lý qua việc xây cất ngôi chùa lịch sử nầy đã đạt được tới chỗ tuyệt mỹ. Trước sân chùa còn có ngôi bảo tháp bằng ngọc thạch cao chót vót lên không độ 16m. Có đường cầu bắc ngang qua từ tháp vào chùa rất tiện lợi cho du khách thăm viếng. Ngoài ra, chùa còn nổi tiếng về quả chuông Qui-Điền, qua câu chuyện thần kỳ được truyền lại, chuông nặng 12,000 cân, đúc vào đời Lý năm 1108, vì chuông nặng quá nên được dự trù phải treo trên một cái giá bằng đá xanh, cao 3m, nhưng khi đúc xong, giá ấy không chịu đựng nổi sức nặng của chông. Vì thế chuông phải để dưới đất thành khi thỉnh không có tiếng kêu. Do đó, dân chúng chung nhau lại di chuyển chuông đi chỗ khác. Cứ di động mãi, chuông lăn nhào ra ngoài ruộng phía trước chùa. Cuối cùng, rùa chun vào ở bên trong quả chuông, từ đó chuông giác thế (chuông thức tỉnh người đời) được đổi thành chuông Qui-Điền (chuông ruộng rùa). Quả chuông lịch sử nầy bị quân nhà minh phá vào năm 1427 để lấy đồng dùng vào việc đúc súng, nhưng cũng đã bị thất bại nặng nề. 

Chùa Một-Cột trải qua gần 1000 năm lịch sử, đã nhiều lần được trùng tu trở lại để giữ được vẽ uy nghiêm của ngôi cổ tự quốc bảo nầy. 

Hiện tại, ngôi chùa Một-Cột vẫn còn trơ lại với tuế nguyệt, nhưng khách tham quan hầu như thưa vắng, trừ một số ít du khách người ngoại quốc được phép tới thăm có tính cách phô trương cái võ tôn giáo của chế độ. 

 Sách tham khảo : 

- Sổ tay văn hóa Việt-Nam. 

- Năm mươi năm chấn hưng Phật giáo. 

25.-  Lịch Sử Bút Tích Chùa Hương

Theo truyền thuyết thì Phật Bà Quan-Âm tức Ni-cô Diệu-Thiện hay Chúa-Ba, con vua Diệu-Trang-Vương tu hành chứng quả ở chùa Hương-Tích vào khoảng thế kỷ thứ 15, như vậy lịch sử thành lập chùa hẳn đã có từ lâu đời. 

Chùa Hương-Tích hay còn gọi là chùa Hương thuộc tình Hà-Tỉnh, quận Mỹ-Đức, xã Hương-Sơn, thôn Yên-Vĩ, là ngôi danh lam đứng vào bậc nhất ở miền Bắc, Việt-Nam. Chùa vốn có tiếng nhờ cảnh trí nơi các hang động đẹp như núi Tuyết-Sơn, núi Hình Bông, núi Hương-Tích với động Hương-Tích nổi tiếng đẹp nhất Việt-Nam từ xưa. Động Hương-Tích được xem như vẽ đẹp thần tiên, tự nhiên qua những công trình thiên nhiên hùng vĩ như nhủ đá hình kỳ diệu, đã tượng hình chuồng thú không do ai tạc mà thành với đủ vẽ mỹ quan, thần kỳ. Do vẽ đẹp tuyệt vời nầy mà Trịnh-Sâm (1767 - 1782) có đề ngoài cửa động là "Nam Thiên đệ nhất động" (động đẹp nhất nước Nam) 

Trong động có thờ tượng đức Phật Bà Quan-Âm bằng đá xanh đúc vào đời vua Cảnh-Thịnh (1793). Pho tượng vốn bằng đồng đúc vào đời Lê-Cảnh-Hưng thức 28, tức năm 1767, nhưng đã bị quân Tây-Sơn xua quân ra đánh chúa Trịnh, phá hủy pho tượng lấy đồng (1786) dùng vào việc đúc súng đạn. Ngoài ra, chùa còn có quả chuông lớn, là những công trình kiến trúc đời Tây-Sơn mà hai di tích lịch sử nầy còn sót lại tới ngày nay. 

Nhà thơ Chu-Mạnh-Trinh (1862 - 1905) đã tả cảnh chùa Hương-Tích như sau : 

Bầu trời cảnh Bụt, 

Thú hương sơn ao ước bấy lâu nay, 

Kìa non non, nước nước, mây mây, 

Đệ nhất động hỏi rằng đây có phải ? 

Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái, 

Lững lờ dưới suối cá nghe kinh, 

Lẳng bên tai một tiếng chày kình, 

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng. 

Nầy suối giải oan, nầy chùa Cửu-Võng, 

Nầy am Phật-Tích, nầy động Tuyết-Quynh. 

Nhác trông lên ai khéo vẽ hình, 

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt. 

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt, 

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây. 

Chừng giang sơn còn đợi ai đây, 

Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt. 

Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật 

Cửa Từ-Bi công đức biết bao ! 

Càng trông phong cảnh càng cao ... 

26.- Chùa Dâu Đôi Nét Lịch Sử Và Sự Ứng Nghiệm  

Chùa Dâu hay còn gọi là chùa Diên-Ứng, ở làng Khương-Tự, quận Thuận-Thành, tỉnh Hà-Tĩnh (Hà-Bắc bây giờ). 

Trong chùa thờ Phật Bà Đại-Thánh Pháp-Vân, tục truyền rằng có vị cao tăng Ấn-Độ tên là Khâu-Đà-La, sang nước ta truyền đạo và trụ trì ở chùa Phúc-Nghiêm, cạnh thần Liên-Lâu vào thời Sĩ-Vương. Một hôm vì vô ý vị tăng bước qua mình người con gái tên là Man-Nương. Sau đó nàng thụ thai. Khi sanh con xong cô đem con tới trả cho vị cao tăng ấy và vào chùa tu. Nhà sư, vì không muốn cho tăm tiếng lộ ra ngoài, bèn đem đứa bé đấu trong một hốc cây, nhưng chẳng may gặp bảo nổi lên, cây ấy trốc gốc lại trôi dọc theo sông đến chùa Man-Nương ở tu và quanh quẩn mãi ở đấy, cô thấy lạ bèn dìu cây vào và bóc đứa bé ra thì nó đã chết khô từ bao giờ. Ni-cô đem đứa bé vào chùa dấu bên trong tượng Phật. Tượng Phật lại tỏa ra ánh hào quang. Từ đó, mỗi ngày mọi người đến chùa cầu khẩn một đông. Man-Nương được tôn hiệu là Phật-Mẫu hay còn gọi là Phật-Bà Đại-Thánh Pháp-Vân, còn cây gỗ kia được cưa ra làm 4 khúc để tạc bốn pho tượng : Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điện thờ ở bốn ngôi chùa. Chùa nầy hiện còn thờ pho tượng Pháp-Vân cao 2m, bên dưới bệ có 4 vòng sắt để luồn đòn bẩy vào khiêng, mỗi khi có lễ rước hằng năm. 

Ngoài ra, còn có tượng Kim-Đồng Ngọc-Nữ, theo lối điêu khắc chạm trỗ xưa rất mỹ thuật. 

Thiết nghĩ, những chuyện tích linh ứng diệu kỳ của lịch sử dân tộc, nhất là trong tín ngưỡng Phật giáo hẳn phải có nguyên nhân, tìm ra được điểm phát xuất tức là khám phá được màn bí mật trong thuyết luân hồi nghiệp báo của Phật giáo một cách đúng mức, khoa học. 

Tham khảo : sổ tay văn hóa Việt-Nam, nhà xuất bản Văn-Hóa Saigon, 1978 

27.- Sự Tích Chùa Keo, Tỉnh Thái Bình  

Chùa Keo tọa lạc tại Dũng-Nghĩa, quận Vũ-Thư, tỉnh Thái-Bình (Bắc-Việt). Chùa vốn có tên là Thần-Quang Tự, lập nên từ đời nhà Lý. Theo truyền thuyết, chùa có sự thần bí mà câu chuyện đã được nhiều người biết đến. 

Bên trong chùa có thờ tượng Thiền-sư Không-Lộ đã bị dời chỗ nhiều lần. Cuối cùng, đến đời Hậu Lê vào thế kỷ thứ 17 mới được yên trụ ; cho đến ngày nay cũng còn có một sự thay đổi lớn nữa. Điểm đặc biệt về pho tượng chân dung ngài Không-Lộ bằng gỗ trầm hương, để nguyên chất cây không sơn phết chi cả và quanh năm mùi trầm vẫn bốc lên thơm ngào ngạt. Theo tục truyền thì pho tượng không phải do ai tạc nên cả, mà khi Thiền-sư Không-Lộ tịch, hóa thành thánh tượng. Do sự linh ứng kỳ lạ ấy, cho nên ngôi chùa mang tên Thần-Quang là vì vậy. Hiện nay, dưới chế độ Cộng-sản, chủ trương thuyết tam vô (1), đã cấm đoán không cho dân chúng đến chùa, pho tượng cũng bị giam vào trong cung cấm, hàng ngày cửa khóa chặt lại, không ai có thể vào được cả. Theo lời các vị sư (2) cho hay thì "mặt mũi, chân tay Ngài khác thường lắm". 

Đây là điềm lành hay dữ ? Với cái tên ngôi cổ tự nầy đã chứng tỏ có nhiều điều thần bí, thì nay dưới chế độ độc tài phi nhân Cộng-sản, chúng ta mong Ngài vì lòng từ bi có thể hiện phép lành cho người đời tin tưởng ! 

Ngoài ra, chùa Thần-Quang còn có lầu chuông ba tầng là một công trình kiến trúc theo lối cổ điển rất công phu và có giá trị lịch sử lâu đời. 

Niềm mong ước của chúng ta là đất nước sớm được thanh bình và hết tay cánh bạo tàn để có dịp ta viếng qua ngôi chùa lịch sử nầy và chiêm bái pho tượng linh thiêng của ngài Không-Lộ. 

(1) Thuyết tam vô của Cộng-sản là : Vô gia đình, vô tổ quốc, và vô tôn giáo. Do đó, người duy vật chủ trương cho rằng tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng và làm mê hoặc nhân dân. 

(2) Các vị sư nầy sống dưới chế độ phi nhân của Cộng-sản mà còn tin ở sự linh thiêng của pho tượng đến như thế ! 

Tài liệu tham khảo : Sổ tay Văn-Hóa Việt-Nam của Trương-Chính và Đặng-Đức-Siêu, nhà xuất bản Văn-Hóa Saigon năm 1978. 

28.- Chùa Bút Tháp, Sự Tích, Thành Lập Vào Năm Nào ?  

Chùa Bút-Tháp còn gọi là chùa Ninh-Phúc, ở xã Bút-Tháp, quân Thuận-Thành, tỉnh Hà-Tĩnh (Hà-Bắc) gần hữu ngạn sông Đuống. 

Chùa thành lập đã lâu, nhưng không ai biết rõ năm nào, mãi cho tới thế kỷ 17 bà Hoàng-hậu Trịnh-Thị-Ngọc pháp danh Diệu-Viên, vợ vua Lê-Thần-Tông cho tu tạo trở lại. Khi Lê-Thần-Tông mất (1662) bà đang mang thai bốn tháng, sau sinh ra Lê-Gia-Tông, được Trịnh-Tạc đem về phủ chúa để nuôi, còn bà Ngọc ở lại tu nơi chùa nầy. Chùa nổi tiếng vì pho tượng Phật-Bà Quan-Âm nghìn mắt nghìn tay bằng gỗ, sơn son thiếp vàng chiều cao 3m, có ghi tên người tạc là : Trương-Văn-Thọ, tước nam, phụng khắc năm Bính Thân (1656). Tượng có 11 mặt. Mặt chính lớn như mặt người thường, còn hai mặt hai bên và 8 mặt phụ gồm 1000 tay. Trong số đó có 42 tay tháo gỡ ra được. Với hai tay chấp trước ngực, còn những tay nhỏ xòe ra, xếp thành hình lá sen. 1000 con mắt, nơi mỗi bàn tay một con mắt. Tượng ngồi trên tòa sen, bên dưới là đầu rồng và tứ quy (bốn con rùa). Do lấy theo sự tích : Phật-Bà là Nam-Hải Quan-Âm, con vua Diệu-Trang sùng tín đạo Phật. Bà cưỡng lời vua cha đi tu nên bị xử hình, hồn xuống âm phủ. Tại đó bà trì chú, tụng kinh và giải cứu được cho nhiều người đang bị mắc đọa trong chốn địa ngục. Sau đó, bà hiện hồn về chữa bịnh cho vua cha bằng cách lấy tay và mắt của mình để làm thuốc trị lành bịnh nan y cho cha. Khi thành đạo bà biến hóa ra 1000 tay, 1000 mắt. Trước chùa còn có tháp sen, xây thành 9 lớp (9 phẩm hoa sen), tám mặt đều sơn son nằm trên một cái trụ quay. Ngoài ra, chùa còn thờ tượng Tây Thiên Đông Độ Việt Nam Lịch Đại Tổ Sư, tức là tổ Bồ-Đề Đạt-Ma. 

Chùa cũng có thờ tượng Hoàng-hậu Diệu-Viên, với gương mặt giữ vẽ tự cao của một người tu hành nhưng không quên mình là dòng quý tộc. 

Sách tham khảo : Sổ tay Văn-Hóa Việt-Nam. 

29.- Chùa Tây Phương Lai Lịch Và Đặc Điểm Như Thế Nào ?  

Chùa Tây-Phương còn có tên là chùa Sùng-Phúc tọa lạc trên núi Câu-Lậu thuộc xã Thạch-Xá, quận Thạch-Thất, tỉnh Hà-Nam (Hà-Sơn-Bình ngày nay). 

Ngọn núi hình cong như lưỡi câu. Từ dưới chân núi lên chùa có 360 bậc đá ong được lát theo lối xen kẻ nhau. Chùa có từ thế kỷ thứ 3 và trải qua nhiều lần được tu bổ lại. Đến thời kỳ Tây-Sơn (1798) chùa được nới rộng lớn hơn và tên chùa Tây-Phương có bắt đầu từ đó. 

Chùa Tây-Phương nổi tiếng nhờ có 76 pho tượng lớn nhỏ đủ cở gồm cả Phật, Bồ-Tát, La-Hán, Hộ-Pháp, Long-Thần ...

Các pho tượng đều bằng gỗ mít sơn son thiếp vàng. Tám tượng Kim-Cang, 16 tượng La-Hán, một tượng ông Thiện, một tượng ông Ác. Tất cả đều theo lối điêu khắc cổ rất tinh vi. Đặc biệt tượng La-Hầu-La (Rhahula) con của Thái-tử Tất-Đạt-Đa (Shidarta), tay cầm gậy, tay để trên đầu gối và tượng ngài Tuyết-Sơn Phật má hóp, mắt sâu còn da bọc lấy xương, bộ ngực để lộ rõ 12 đốt xương sườn đang trầm tư mặc tưởng ... 

Nhìn lại nghệ thuật cổ truyền của dân tộc ta, đây là một công trình điêu khắc rất công phu mà ngày trước tổ tiên, cha ông chúng ta đã đạt được đến độ tinh vi nầy ! Vào năm 1976, chính quyền Cộng-sản Hà-Nội cho làm những bộ tem hình tượng Phật chùa Tây-Phương. Trong số đó có những tem hình La-Hầu-La, hình đức Phật Thích-Ca tu khổ hạnh trong núi tuyết thân thể đến héo gầy còn da bọc xương ! 

Ngày nay dưới chế độ độc tài Cộng-sản, những công trình điêu khắc cổ của ta hiện vẫn còn ở miền Bắc, nhưng người dân trong nước khó mà có dịp lui tới những nơi danh lam thắng cảnh như thế nầy để học hỏi và tìm hiểu nghệ thuật cổ truyền. Còn riêng đối với du khách người ngoại quốc, hẳn chánh quyền còn để một lối hỡ cho nhìn thấy cái lớp son tôn giáo của chế độ với thế giới bên ngoài ! 

Đất nước ta đẹp phong phú về nghệ thuật điêu khắc nhân gian, nhưng rất tiếc mọi người không được chứng kiến tận mắt, nhìn tại chỗ những công trình cổ điển của quê hương ta đó, vì màn mây đen còn che phủ cả bầu trời Việt thân yêu ! 

Tham khảo : Sổ tay văn hóa Việt-Nam. 

30.-  Lịch Sữ Chùa Láng Hay Chùa Chiêu Thiền Và Sự Tích Ra Sao ?  

Chùa Láng còn tên là Chiêu-Thiền tự tọa lạc ở quận Từ-Liêm thuộc ngoại ô thành phố Hà-Nội, nằm trên đường Láng. 

Chùa lập nên từ đời nhà Lý (1010 - 1225) và bên trong chùa có thờ Thiền-sư Từ-Đạo-Hạnh. Chùa được dựng ngay trên nền nhà cũ của ông thân sinh Từ-Đạo-Hạnh là Từ-Vinh. Sự tích kể rằng ông Từ-Vinh làm chức Tăng-Quân đô án, đã dùng tà thuật làm phật lòng Diên-Thành-Hầu và bị Diên-Thành-Hầu mượn tay vị Pháp-sư Đại-Điên dùng pháp thuật đánh chết và ném thây xuống sông Tô-Lịch. Tử thi Từ-Vinh trôi đến cầu Quyết, trước nhà Diên-Thành-Hàu thì dựng đứng dậy như người sống không trôi nữa. Tay chỉ vào nhà Hầu suốt ngày. Hầu sợ quá bèn tìm Đại-Điên giải cứu. Đại-Điên đọc chú đến câu : "Người xuất gia có giận ai cũng không quá một đêm ngày". Tử thi bèn trôi đi ... 

Sau vì muốn báo thù cha, Từ-Đạo-Hạnh cùng với Nguyễn-Minh-Không và Giác-Hải sang Ấn-Độ học pháp thuật, nhưng đi mới đến được tới xứ Miến-Điện thì đường sá quá hiểm trở nên đành trở về và ẩn tu torng núi Từ-Sơn. Hàng ngày chuyên trì tụng chú Đại-Bi Tâm Đà-La-Ni. Khi tụng đủ được 108,000 lần thì thấy một thần nhân xuất hiện đến trước mặt nói : "Đệ tử là tứ trấn Thiên-Vương cảm công đức Ngài trì chú cho nên đến hầu Ngài để Ngài sai bảo". Từ-Đạo-Hạnh biết pháp thuật mình đã viên thành và thù cha có thể trả được, liền dùng gậy tìm đến đánh chết được Đại-Điên. Sau khi chết, Từ-Đạo-Hạnh đầu thai làm con trai Sùng-Hiền-Hầu, em Lý-Nhân-Tông. Được Lý-Nhân-Tông đem vào cung lập làm Thái-tử là Dương-Hoán tức Lý-Thần-Tông (1128 - 1138) sau nầy. Tục truyền ông còn đầu thai một lần nữa và cũng làm vua vào đời nhà Lê, là Lê-Thần-Tông (1619-1643). Do sự tích nầy, trong chánh điện của chùa Thần-Quang có thờ ba pho tượng của Từ-Đạo-Hạnh. Khi đạo sĩ, lúc hóa Phật và khi làm vua (vi tăng, vi Phật, vi Quốc-vương, sinh hóa tam thân lưu di tích), sinh hóa ba thân với nhiều phép lạ. Tượng Lý-Thần-Tông làm bằng mây sợi đan bện thành, trong khi đó, tượng Từ-Đạo-Hạnh bằng gỗ ngồi trên tòa sen. Chùa Láng và chùa Keo (tức chùa Thầy) có liên hệ mật thiết, vì Từ-Đạo-Hạnh tu ở chùa Thầy. 

Vào ngày mồng 7 tháng 3 mỗi năm có hội chùa Láng, đã được dân chúng tổ chức thật trọng thể : 

Nhớ ngày mồng bảy tháng ba, 

Trở vào hội Láng trở ra hội Thầy. 

Sách tham khảo : Việt-Nam Phật-Giáo Sử Luận, sổ tay văn hóa Việt-Nam. 

31.- Chùa Tam Thai Non Nước Người Khai Sơn Và Thành Lập Năm Nào ?  

Chùa Tam-Thai (Non-Nước) thuộc núi Ngũ-Hành-Sơn do Quốc-sư Hưng-Liên, pháp danh Quả-Hoằng, người Trung-Quốc, khai sáng vào đời chúa Nguyễn-Phúc-Chu (1695). 

Ngài là đệ tử của Thạch-Liêm Hòa-Thượng (1633 - 1704) được chúa Nguyễn-Phúc-Chu mời sang Đại-Việt vào cuối thế kỷ thứ 17 tức là năm 1695 và là người khai sơn chùa Tam-Thai ở tỉnh Quảng-Nam. Chùa tọa lạc trên đỉnh núi thấp, có năm ngọn là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tượng trưng cho ngũ hành hay còn gọi là Ngũ-Chỉ-Sơn (núi bàn tay năm ngón), cách Đà-Nẵng 9km ở về hướng Đông Nam. Chùa nằm về phía Tây núi Ngũ-Hành, thuộc làng Hà-Thân, xã Diên-Phước. Núi Non-Nước có ba ngôi chùa là chùa Tam-Thai, nằm trên ngọn Kim-Mộc, chùa Linh-Ứng trên ngọn Thủy và chùa Quan-Âm trên ngọn Thổ-Sơn. Hòn quả sơn đứng rời xa cách các ngọn núi kia độ vài trăm thước có những hang động mới được khám phá ra từ năm 1960, cũng như dưới chân núi có nhiều đá quí dùng để khắc tượng Phật rất nổi tiếng và nhiều đồ dùng khác rất thông dụng như bình hoa, vòng đeo tay, cối nghiền tiêu ... Các đời trụ trì kế tục duy trì quốc tự Tam-Thai như : Ngài Huệ-Quang, ngài Hoằng-Ân, ngài Mật-Hạnh, ngài Chí-Thành. Đến đời vua Thành-Thái sắc phong các vị Tăng-Cang : Từ-Trí, Từ-Nhẫn, Phước-Điền, Phước-Trí, Thiện-Trung, Thiện-Quả. Kế đến các vị trụ trì : Phước-Thông, Tôn-Bảo, Huệ-Tràng và hiện nay ngài Chí-Giác. 

Chùa Tam-Thai bị phá hủy bởi chiến tranh vào cuối thế kỷ thứ 18 và đã được tu sữa vào năm 1825, đời Minh-Mạng. Chùa Tam-Thai có các động Huyền-Không, bên trong động có hai thạch nhũ (vú đá có nước chảy), nước dùng để uống rất tốt, đã bị nghẽn hết một bên và chỉ còn một bên chảy nước. Tục truyền rằng khi vua Minh-Mạng (1820-1840) vào viếng động đã sờ vào một thạch nhũ, rồi từ đó nước bị tắt nghẽn luôn, ngoài ra, còn có các hang động như Hoa-Nghiêm, động Vân-Thông, đường Lên-Trời, vọng Giang-Đài (nơi ngắm các khúc sông từ xa trên đỉnh núi) là những nơi rất nổi tiếng cho du khách đến tham quan. Chùa Tam-Thai đã được sửa lại nhiều lần, ngày nay vẫn giữ lại được sắc thái cổ kính của một ngôi danh lam thuộc di tích lịch sử Việt-Nam, và chùa được trùng tu lại năm 1995. 

Từ năm 1975, du khách ít có dịp viếng chùa như trước đây, vì con người dưới chế độ xã hội chủ nghĩa phải lo làm việc nên không còn thì giờ cũng như tiền bạc để đi chiêm bái ? Ngày nay khách thập phương tới hành hương cảnh Non-Nước ngày càng đông. 

32.-  Chùa Linh Ứng Non Nước : Duyên Cách Và Thành Lập  

Chùa Linh-Ứng cũng như chùa Tam-Thai đều tọa lạc trên ngọn núi Ngũ-Hành-Sơn, thuộc tỉnh Quảng-Nam, cách thành phố Đà-Nẳng độ 9km về phía Đông Nam. 

Chùa không rõ do ai thành lập vào năm nào, nhưng có lẽ được xây dựng sau chùa Tam-Thai, tức là vào đời nhà Nguyễn vào thế kỷ thứ 17 do Hòa-Thượng Quang-Chánh, hiệu Bảo-Đài khai sơn. Chùa Linh-Ứng ở về phía Đông núi Non-Nước, xoay hướng mặt ra biển, nằm trên ngọn thủy sơn với hai con đường : Đường ăn thông qua chùa Tam-Thai băng qua ngọn núi và đường xuống núi, đồng thời cũng là lối ra biển. Con đường dốc gồm có 108 cấp đá xây thoai thoải ... chung quanh chùa còn có các hang động nổi tiếng như động Tàng-Chơn, chính giữa an trí hình đức Phật Thích-Ca ngồi thiền định, đục vào trong núi đá, ở trên cao cách mặt đất chừng 3, 4m. Phía bên trong còn có hang Dơi (nơi tàng quân của loài dơi chuột ở, có cả hàng trăm ngàn con nhởn nhơ bay lượng suốt ngày trong rất đẹp mắt). Ngoài ra, còn có động Ngũ-Cốc với năm thứ hạt hoa mầu như : Lúa, bắp, đậu, mè, kê tự nhiên hiện rõ trên vách đá như một kho tàng thực lượng mà tạo vật đã dành cho con người, không do ai tu tạo chi cả. Con đường xuống âm phủ âm u, mờ mịt, trong dễ sợ. Phía Tây chùa còn có vọng Hải-Đài (nơi để nhìn ngắm ra biển). 

Việc kế thừa ngôi Quốc-Tự Linh-Ứng có các vị trụ trì : Hòa-Thượng Quang-Chánh hiệu Bảo-Đài, Hòa-Thượng Chơn-Như, Mật-Hạnh, Hòa-Thượng Ấn-Lang tự Tổ-Huệ, hiệu Từ-Trí, ngài Hải-Nghiêm, hiệu Phước-Nghi, ngài Đạo-Cát hiệu Hưng-Long, ngài Như-Thông hiệu Tôn-Nguyên, Hòa-Thượng Tôn-Thắng, Thượng-Tọa Thích-Hương-Sơn hiệu Trí-Hữu trụ trì từ năm 1960 đến 1976. Thầy Thiện-Nguyện trụ trì từ năm 1977 đến nay. 

Vào năm 1939, bà Bản-Nhãn nữ sĩ vợ ông Tú-Quỳ viếng chùa có làm bài thơ vịnh cảnh chùa Non-Nước như sau : 

Cảnh trí nào hơn cảnh trí nầy, 

Bồng Lai thời cũng hẳn là đây. 

Núi chen sắc đá pha mầu gấm, 

Chùa nức hơi hương khói lẫn mây. 

Ngư phủ gác cần ngơ mặt nước. 

Tiều phu chống búa tựa lưng mây. 

Nước non một cõi xa trần tục 

Cảnh trí nào hơn cảnh trí nầy. 

Năm 1966, trên ngọn núi Ngũ-Hành, quân đội Mỹ dùng làm địa bàn hoạt động tại vùng núi và vùng biển. Ngôi chùa Linh-Ứng cũng đã bị dội bom tiêu điều, pho tượng Phật thờ trong chánh điện cũng bị thương tích, cột kèo, tường gạch đều xiêu vẹo, đỗ nát ... 

Đứng trước cảnh tang thương nầy, tác giả có làm bài "Non-Nước Chùa Xưa" qua mấy câu sau : 

Lòng bàng hoàng nhìn qua cảnh tiêu sơ, 

Chùa tiêu điều hàng cột cháy còn trơ 

Ngói gạch đỗ ngổn ngang chùa xiêu sụp, 

Tượng Phật lỗ dấu bom hờ mụt nát... 

Trong thời buổi chiến tranh, nhiều ngôi chùa ở miền Trung đều cùng trong cảnh ngộ. Linh-Ứng tự đã được trùng tu năm 1972 - 1973, nay rất khang trang thanh tịnh. 

33.- Sự Tích Quả Chuông Thần Chùa Thiên Ấn Ra Sao ?  

Câu chuyện xảy ra vào năm 1845 khi Tổ thứ ba của chùa Thiên-Ấn là Hòa-Thượng Bảo-Ấn trụ trì. Chùa do Thiền-sư Minh-Hải Phật-Bảo người Phúc-Kiến, Trung-Hoa, tức là Thiền-sư Pháp-Hoa khai sơn vào năm 1694.  Tổ thứ hai là ngài Khánh-Vân. 

Tích kể lại như sau : Một hôm trong giờ thiền định, ngài Bảo-Ấn thấy một vị Hộ-Pháp tới làm lễ và mách rằng tại làng Chú-Tượng (xã Đức-Thọ, quận Mộ-Đức, Quảng-Ngãi) có một quả Đại-hồng-chung để không ông nên đến đó mà thỉnh về chùa ! Khi xuất định, ông nhờ vị sư tên Điển-Tọa đến làng trên để dọ hỏi. Quả thật, dân chúng địa phương tại đấy nói rằng họ vừa đúc xong một quả chuông để dùng trong chùa làng, nhưng vì chuông không kêu nên ban tổ chức định phá ra để đúc lại. Sư bèn hỏi mua lại chuông cho chùa Thiên-Ấn và được dân làng thuận ý. Chuông được đưa về chùa. Hôm cử hành lễ khai chuông với bao nhiêu sự hồi họp của mọi người, vì ai cũng nghĩ rằng chuông sẽ không kêu. Nhưng Hòa-Thượng Bảo-Ấn vẫn nhất tâm chú nguyện ... Đến khi Ngài cầm dùi lên để khai chung thì tiếng ngân tròn và ấm vang vọng khắp núi đồi. Đó là một điều thần diệu thật đặc biệt ! Quả chuông hiện vẫn còn, có ghi tên làng Chú-Tượng được treo bên tả chánh điện của chùa Thiên-Ấn. 

Nguyễn-Cư-Trinh (1716 - 1767) có làm bài thơ vịnh cảnh chùa Thiên-Ấn và quả chuông thần như sau : 

Phong cảnh ta đây thật rất xinh, 

Niêm ha (1) có ấn của trời sinh. 

Xem kìa dấu tích còn vương vức. 

Nhắc lại non sông rõ dáng hình. 

Cách thức như in đồ cổ tự, 

Cỏ cây nào phụ tiếng chuông linh. 

Châu sa đỏ dưới chân chờ mãi, 

Trấn chỉ sau lưng núi Cẫm-Thành (2) 

Tích chuông chùa Thiên-Ấn có nhiều người biết đến hay nghe kể lại, nhứt là những vị lớn tuổi hẳn còn rõ về câu chuyện quả chuông thần nầy. 

(1) Núi Thiên-Ấn vuông hình quả ấn, có nhiều đá son dùng như mực đỏ vậy. 

(2) Án ngữ sau núi Thiên-Ấn là núi Cẫm-Thành. 

34.- Sự Tích Chùa Thiên Hậu Gần Chợ Cầu Ông Lãnh, Sài Gòn  

Bà Mị-Châu, Bồ-Dương (xã Phúc-Kiến), sanh ngày 23, tháng 3 năm Giáp Thân (1044) đời vua Tống-Nhân-Tông. Tám tuổi đã thông suốt mọi việc, mười một tuổi bà tu theo đạo Phật, mười ba tuổi thọ lãnh thiên thơ : Thần Võ y xuống cho một bộ "nguyên vị bí quyết" và bà tìm được dưới giếng loạn một xấp cổ thư khác. Bà xem theo đó mà luyện tập rồi đắc đạo. 

Cha tên Lâm-Tích-Khanh, ngồi thuyền cùng hai anh của bà chở muối đi bán tỉnh Giang-Tây, giữa đường thuyền lâm nạn, bị bảo lớn làm lật nhào ... Cả ba người cùng té lặn hụp chới với giữa biển khơi ! Ngay lúc đó, Bà đang ngồi dệt vải bên cạnh mẹ ở nhà. Bên khung cửi, bà bỗng nhắm mắt lại, cắn nghiến hai hàm răng, hay tay đưa tới trước dường như đang trì niếu một vật gì nặng lắm. Mẹ ngồi gần thấy cử chỉ lạ lùng ấy phát sợ nên bèn gọi, bà vẫn lặng thinh khiến mẹ càng sợ thêm liền đến gần bà nắm vai vừa lắc vừa la lớn : "Sao vậy con ? Trả lời đi con ! Nói mau kẻ mẹ sợ lắm !" Bà mở mắt, ư một tiếng dài như vừa tỉnh giấc chiêm bao, bỗng òa lên khóc kể : "Mẹ ơi ! Thôi rồi, Cha đã mắc nạn lớn, thuyền bị bảo đắm chìm nay con không cứu cha được cũng chỉ vì mẹ một hai trục con về. Âu chẳng qua cũng tại số trời !" Rồi bà thuật lại đầu đuôi mọi việc. Lúc nãy bà làm như vậy là một tay bà nắm anh cả, một tay kéo anh thứ, vì cả hai đang chới với giữa ngọn ba đào. Trong lúc đang bối rối đó, bổng bà thấy cha đang lặn hụp dưới thủy triều và sắp bị nước cuốn trôi phăng nên bà vừa dùng răng cắn được chéo áo của cha, bà sắp cứu được cả ba thoát nạn giữ, chợt nghe mẹ kêu giựt dội một hay lay gọi ép bà trả lời. Bà vừa hở môi thì sóng cuốn cha mất dạng nên bà chỉ cứu được hai anh. Sau đó, hai người về thuật đúng như lời bà nói trước đó mấy hôm về cái chết của cha. 

Từ đó tin đồn truyền ra, uy tín của bà nổi lên như cồn, xa gần đều biết và mỗi khi ngoài biển thuyền bè bị đắm, nếu gọi vái đến Bà là tai qua nạn khỏi ngay. Về sau dân gian quá ngưỡng mộ danh Bà, mỗi khi có nguy hiểm, tai nạn gì đều van vái Bà, nhất là những khách buôn đi thuyền trên biển. Do đó, dân chúng người Hoa-Kiều khi đến sanh sống tại Sàigòn lập chùa mang tên Bà là Thiên-Hậu Tự để cầu nguyện cho mọi việc được tai qua nạn khỏi. 

(Theo "Sàigòn Năm Xưa" của Vương-Hồng-Sển Khai-Trí xuất bản năm 1969). 

35.- Chùa Quốc Ân Thành Lập Năm Nào, Do Ai Khai Sáng ?  

Phật tử miền Trung dòng Lâm-Tế tại Bình-Định không thể nào quên được công ơn của người mang tông phái nầy từ Trung-Hoa sang Việt-Nam vào hậu bán thế kỷ thứ 17, đã lập chùa Thập-Tháp Di-Đà, sau đó người ra Huế lập chùa Hà-Trung và chùa Quốc-Ân. 

Chùa Quốc-Ân được thành lập vào năm Ất Tỵ, niên hiệu Cảnh-Trị thứ 3 đời chúa Nguyễn-Phúc-Tần, 1665 do Hòa-Thượng Nguyên-Thiều khai sáng. Chùa cách thành phố Huế chừng 3 cây số ở về phía Tây Nam, thuộc quận Hương-Thủy, tỉnh Thừa-Thiên. Quốc-Ân là ơn vua, ơn nước, hẳn ngài Thọ-Tôn Nguyên-Thiều đã được sự đãi ngộ đặc biệt của chúa Nguyễn, cũng như sự giúp đỡ trong việc tạo dựng ngôi chùa, vì nhớ công ơn đó mà ngôi chùa mang tên Quốc-Ân trong cảnh trí trước sân vườn chùa Quốc-Ân còn có ngọn tháp Phổ-Đồng cũng do ngài Nguyên-Thiều lập ngay sau ngôi chùa thành hình, nhưng tháp đã bị quân Tây-Sơn phá hủy, nay không còn lại di tích gì cả. Tuy nhiên, ngôi chùa Quốc-Ân vẫn còn tồn tại với tháng năm cho tới ngày nay, dù trải qua nhiều lần trùng tu lại. 

Sau khi Hòa-Thượng Nguyên-Thiều tịch vào năm Bảo-Thái thứ 10 ngày 19 tháng 10, đời nhà Lê, các đệ tử Ngài hợp nhau lại xây tháp Hóa-Môn để thờ phụng. Tháp được xây trên ngọn đồi, làng Dương-Xuân-Thượng, quận Hương-Thủy, Thừa-Thiên. 

Sách tham khảo : Hoàng-Lê Nhất-Thống-Chí, Tỉnh Thừa-Thiên. 

Phật Pháp của Minh-Châu, Thiên-Ân, Đức-Tâm, Chân-Trí. 

36.- Chùa Thuyền Tôn Lập Nên Từ Bao Giờ, Do Ai Khai Sáng ?  

Người Phú-Yên không ai không biết tới một vị danh tăng ở vào tiền bán thế kỷ thứ 18, xuất thân là người Sông-Cầu đã ra Huế lập nên chùa Thuyền-Tôn. 

Chùa Thuyền-Tôn do Hòa-Thượng Liễu-Quán khai sáng vào khoảng năm Vĩnh-Thạnh thứ tư 1708, đời Vua Lê-Dục-Tôn từ Phú-Yên, Ngài ra Huế cầu pháp với Hòa-Thượng Minh-Hoằng Tử-Dung, sau có lập nên một cái am nhỏ bằng tranh để làm nơi nương náu tu hành. Sau đó, nơi nầy dần trở thành ngôi tổ đình lịch sử trong các ngôi chùa danh tiếng ở Việt-Nam. Chùa cách thành phố Huế chừng 7 cây số, ở trên một ngọn đồi cao, thuộc làng An-Cựu, Huyện Hương-Thủy, tỉnh Thừa-Thiên. Chùa còn có một chiếc Đại-hồng-chung đề tạo năm Cảnh-Hưng thứ 8 và một bức biển lớn nay vẫn còn. 

Chùa Thuyền-Tôn là một ngôi tổ đình lớn ở Thừa-Thiên mà cũng là nơi căn nguyên của phái Liễu-Quán. Phái Liễu-Quán là một nhánh của dòng Lâm-Tế. Hiện nay tăng tín đồ từ Trung đến nam Trung Việt phần nhiều đều thuộc phái Lâm-Tế. Ngài Liễu-Quán là một vị danh tăng đầu tiên ở Trung Việt được thừa truyền tổ đạo. Ngài tịch năm Cảnh-Hưng thứ 3, tức năm 1742. 

Chùa Thuyền-Tôn là di sản tinh thần đầu tiên của dòng thiền phái Lâm-Tế đã được trùng tu nhiều lần. Đến năm 1943, Giáo-hội Tăng-già tỉnh Thừa-Thiên đứng ra trùng tu lại chùa nầy, Hòa-Thượng Giác-Nhiên, Tăng-Thống Giáo-hội, trụ trì cho đến năm 1976. 

37.- Chùa Giác Lâm Ngôi Cổ Tự Lâu Đời Tại Miền Nam  

Những ngôi chùa cổ ở Việt-Nam phần nhiều đều nằm ở miềm Bắc và miềm Trung, nhưng tại Nam Phần một trong những ngôi chùa cổ nhất vào giữa thế kỷ thứ 18 là chùa Giác-Lâm. 

Chùa Giác-Lâm còn có tên là "Cẩm-Sơn-Tự" do một người Tàu tên là Lý-Thoại-Long người Minh-Hương đứng ra vận động quyên góp tiền bạc và lập vào năm 1744 nhằm đời vua Thế-Tông, Nguyễn-Phúc-Khoát - chùa có lối kiến trúc thật đồ sộ nguy nga, với những đường nét chạm trỗ thật hết sức tinh vi. Nơi chánh điện thờ Phật là cả một công trình điêu khắc tuyệt sảo trong nghệ thuật cổ của người Trung-Hoa. Hòa-Thượng Hải-Tịnh tu ở chùa nầy hậu bán thế kỷ thứ 18, Ngài giao chùa nầy lại cho thầy Yết-Ma Phạm-Văn-Tiên để về trụ trì chùa Giác-Viên gần đó. Chùa tọa lạc trên một khu đất có chu vi vuông vức chừng 4000 m vuông, thuộc vùng Phú-Thọ-Hòa, quận Tân-Bình, Gia-Định. Trước sân chùa có trồng cây Bồ-Đề gốc Ấn-Độ của Tích-Lan, với cành lá sum xuê tỏa rộng và cho bóng mát rợp cả sân chùa. Thân cây to lớn với rễ đan chằn chịt nổi lên trên mặt đất, mặc dù cây ấy chỉ mới có từ năm 1951. 

Chùa cũng có thể ví như một thư viện lớn gồm có 3 dãy nhà ngang rộng rãi, khoảng mát. Trong mỗi phòng có kê nhiều bộ ván bằng gõ dày, đẹp và giá trị như một kho bảo vật của một viện bảo tàng vậy. Cảnh chùa thật yên tỉnh nên sinh viên, học sinh hễ gần đến mùa thi thường hay đến đó để học bài rất đông. 

Trước sân và sau vườn chùa cũng có nhiều ngôi tháp cổ bảy tầng hoặc năm tầng thờ các tổ kế nghiệp, như âm thầm chịu đựng qua tháng năm ... 

Con đường Hương lộ 14 nối liền từ Bình-Thới ra tới Ngã-Tư Bảy-Hiền ăn thông qua trước chùa, vào những năm trước đây rất bùn lầy, dơ bẩn. Từ năm 1969, con đường được tân trang trở lại, nay mang tên là đường Lạc-Long-Quân. 

Ngôi cổ tự Giác-Lâm chắc hẳn sẽ còn tồn tại mãi với thời gian cho dù chế độ chính trị có đổi thay, hưng phế ! 

38.- Chùa Giác Viên Hay Ngôi Tổ Đình Của Phật Giáo Cổ Sơn Phái  

Chùa Giác-Viên thuộc khu vực Bình-Thới, Gia-Định cũng chiếm một ưu thế trong các ngôi cổ tự của Việt-Nam, vì là ngôi tổ đình của tăng tín đồ Phật giáo Cổ sơn phái. 

Chùa Giác-Viên còn có tên là chùa Hồ-Đạt, thành lập vào năm 1803 đời vua Gia-Long. Trải qua nhiều lần tu bổ, chùa trở nên nguy nga tráng lệ đều do công lao của Hòa-Thượng Hải-Tịnh. Nguyên Hòa-Thượng tu ở chùa Giác-Lâm - cùng trong khu vực gần đó - vì nhận thấy chùa hư mục, đỗ nát nên Ngài phát nguyện về chùa Giác-Viên để tu bổ sửa lại. Sau khi Hòa-Thượng tịch, năm nào không thấy ghi rõ, chùa được đệ tử Ngài là Hòa-Thượng Hoằng-Ngại kế tục duy trì cho tới ngày Ngài viên tịch vào năm 1929. Trong khuôn viên chùa có 3 ngôi tháp mà ngôi của Hòa-Thượng Hoằng-Ngại mới xây năm 1930, nét kiến tạo đã pha lẫn hòa hài cả tân và cổ. Chùa Giác-Viên cho đến sau năm 1945 đã bị tàn phá bởi tàn tích của chiến tranh nên hư hại rất nhiều. Tết Mậu Thân (1968) chùa cũng bị dội bom, cả vườn chùa cây cối đều cháy nám, nhưng có một điều thật huyền diệu là ngôi chánh điện thờ Phật vẫn còn tồn tại nguyên vẹn. 

Nếu so với chùa Giác-Lâm thì chùa Giác-Viên kém về nét mỹ thuật chạm trổ và công trình kiến trúc, còn so với phạm vi đất đai thì chùa Giác-Viên rộng rãi hơn nhiều. 

Cho tới nay chùa Giác-Viên vẫn còn tồn tại, nhưng nét đỗ nát vẫn còn nguyên vẹn đó và chư Tăng hầu như thưa vắng ! 

39.- Việt Nam Quốc Tự Thành Lập Và Ý Hướng Thống Nhất Nền Phật Giáo Nước Nhà Của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam 

Sau những năm thăng trầm bị pháp nạn, Phật giáo Việt-Nam thật sự bắt tay vào việc xây dựng và củng cố khi Cách-Mạng 1/11/1963 thành công. Đúng như tinh thần thống nhất nền Phật giáo tại Việt-Nam theo bản hiến chương của giáo hội đã được 11 phái đoàn thuộc các giáo phái Phật giáo tại Việt-Nam ký nhận ngày 4/1/1964, Phật lịch 2508. 

Ngôi Việt-Nam Quốc-Tự theo lối kiến trúc thuần túy Việt-Nam để cho phù hợp với dân tộc tính. Địa điểm tại khu đất bên đại lộ Trần-Quốc-Toản và Petrus Ký, trung tâm của thủ đô Saigon. Ngôi chùa được dự định gồm 3 phần chính : Quốc-Tự, viện Tăng-Thống và viện Hóa-Đạo. Ngôi Quốc-Tự khi thành hình sẽ đáp ứng đủ cho nhu cầu lễ bái. Nơi tầng lầu thứ hai thiết lập chánh điện thờ Phật rộng rãi, chứa khoảng từ 2000 đến 5000 người. Tầng dưới dành riêng cho phần thiết trí về hành chánh như một đại giảng đường, văn phòng, trai đường, bưu điện ... 

Lễ đặt đá xây cất ngôi Quốc-Tự đã được tổ chức vào ngày 26/4/1964 thật vô cùng trọng thể, với những nhân vật quan trọng của quốc gia tham dự. Khu đất xây ngôi chùa rộng 45,000 m2. Giáo hội cũng đã cho khởi công xây cất ngôi chánh điện vào tháng 9 năm 1964 và dự trù hoàn thành trong vòng 2 năm. Vấn đề khó khăn thứ nhất để hoàn thành ngôi chùa không phải là về tài chánh mà về việc thống nhất nhân tâm chưa được hoàn bị. Trên danh nghĩa thì giáo hội Phật giáo Việt-Nam đã thống nhất thật sự, sau bản hiến chương đã được ký nhận vào đầu năm 1964, nhưng trên thực tế người ta chưa thấy có dấu hiệu nào chứng tỏ có sự thống nhất toàn diện. Từ năm 1964 trở đi mầm chia rẽ ngấm ngầm giữa hai phái Việt-Nam Quốc-Tự và Ấn-Quang đã bước tới giai đoạn trầm trọng khó hàn gắn lại được ! Công việc xây ngôi Quốc-Tự do đó cũng bị ảnh hưởng và làm ngưng trệ, dỡ dang. Mầm chia rẽ của các nhà lãnh đạo mỗi ngày càng bộc lộ rõ rệt. Thay vì dự trù hoàn tất ngôi chùa vào năm 1966, thì giáo hội PGVN đã bị sa lầy bởi các thế lực chính trị chi phối toàn diện. Từ vụ đưa bàn thờ Phật xuống đường, vụ đàn áp đẩm máu Phật tử tại miền Trung của chính quyền quân nhân lúc đó, đến việc tăng ni, Phật tử phái Ấn-Quang qua chiến dịch "thu hồi Việt-Nam Quốc-Tự" vào ngày 4/5/1970 v.v... là những bước cản trở khó khăn, khiến cho ý hướng muốn thống nhất Phật giáo tại Việt-Nam của giáo hội khó thực hiện được. 

Ngôi Việt-Nam Quốc-Tự nếu được hoàn thành sẽ đồ sộ nguy nga và là nơi trang nghiêm để phụng sự Phật Pháp. Các vị Thánh tăng, chư Thánh-tử-đạo cũng có được nơi thờ tự khang trang ấm cúng. Ngoài ra, nơi đây cũng còn là nơi đủ tiện nghi thiết lập văn phòng lãnh đạo tối cao của hai viện Tăng-Thống và viện Hóa-Đạo của giáo hội PGVNTN và các cơ quan liên hệ. Nhưng công việc tạo dựng chùa đi chưa tới đâu thì những mầm chia rẽ phá hoại lại đến. Mọi công tác xây cất hoàn toàn bị đình trệ. Ngay cả ngôi chánh điện cũng chưa hoàn thành. Bên cạnh chánh điện còn có ngôi bảo tháp cao 12 tầng cũng đã được xây dang dỡ. Cho đến khi cộng sản vào chiếm miền Nam (30/4/75) ngôi Quốc-Tự đã bị trưng dụng vào việc làm văn phòng cho cơ quan hành chánh của nhà nước. Tài liệu, vật dụng cũng bị tháo gỡ để cán bộ dùng làm của riêng. 

Bao nhiêu mồ hôi, xương máu và nước mắt của tăng ni, tín đồ Phật giáo đã đổ xuống để tạo nên cơ sở nầy, rồi một sớm đã bị ma vương hiện về quấy phá, ước mong ý hướng xây ngôi Quốc-Tự nơi mỗi Phật tử chúng ta vẫn còn được tiếp nối cho tới khi nào hoàn thành viên mãn ! 

40.- Sơ Lược Vài Nét Về Thánh Tích Thích Ca Phật Đài Vũng Tàu  

Những danh lam (các ngôi chùa nổi tiếng), thắng cảnh (cảnh đẹp nổi tiếng), một phần do thiên nhiên hình thành, một phần do con người tu tạo mà có. Ở Việt-Nam vào những năm sau chiến tranh, khi nói tới một thắng cảnh nổi tiếng miền Nam, không ai là không biết tới thánh tích Thích-Ca Phật đài tại Vũng-Tàu. 

Thích-Ca Phật đài nằm trên bãi sau của thị xã Vũng-Tàu. Cảnh trí rất nên thơ, vì được thiết lập trên một khu triền núi trông ra mặt biển. Pho tượng đức Phật Thích-Ca trong tư thế ngồi kiết già lộ thiên, cao 2 mét, chưa kể tòa sen, mặt hướng ra biển và vùng thị xã Vũng-Tàu. Tượng Phật có thể nói là đẹp vào bậc nhất nhì so với tượng đức Phật Thích-Ca nơi chánh điện của chùa Xá-Lợi, Sàigòn. Tượng được sơn màu bạch kim trông thật sáng sủa. Chung quanh Phật tích toàn cây cối rậm rạp. Phía dưới bao bọc bởi nước biển mầu biếc, bên trên phản chiếu bầy trời xanh lơ như dãi lụa mỏng căn phồng thành nhiều lượn trong gió sớm, nắng chiều. Khi nào có sương mù, pho tượng Phật trở nên như tỏa hào quang sáng rõ cả một góc chân trời, quyện lẫn mây nước thành mầu khói lam tuyệt mỹ ! Thánh tích lịch sử nầy do Phật giáo Nam-tông, tức là phái Nguyên-Thủy thành lập vào năm 1962 và hoàn thành vào đầu năm 1963. Lễ Khánh-Thành đã được tổ chức thật trọng thể vào hai ngày 9 và 10 tháng 3 năm 1963, với sự tham dự đông đảo của chư Hòa-Thượng thuộc các giáo phái Phật giáo, cũng như hàng Phật tử và cơ quan chính quyền. 

Từ lúc thành hình thánh tích, Vũng-Tàu đã đẹp, nhờ cảnh trí Thích-Ca Phật đài lại trở nên thơ mộng hơn trước. Nhiều du khách ngoại quốc khi viếng Vũng-Tàu đều ghé qua viếng ngôi Phật tích kỳ quan nầy. 

--- o0o ---