CHƯƠNG 9
PHẬT GIÁO THẾ GIỚI
1.-
Phật Giáo Ấn Độ : Khởi Nguyên Và Kế Truyền Ra Sao ?
Từ khi đức Phật
Thích-Ca xuất thế vào năm 624 năm trước Tây lịch, thì Phật giáo
bắt đầu thành hình tại Ấn-Độ.
Đức Phật ra
đời tại xã hội Ấn, vì Ngài nhận thấy sự bất công trong các
tầng lớp dân chúng, lúc bấy giờ có phân ra ít nhất là 4 giai
cấp như :
- Bà-la-môn
(Brahman) tức hàng giáo sĩ có học, nắm giữ tất cả mọi uy quyền
thế lực.
- Sát-đế-lợi
(Ksatrya) hay dòng dõi vua chúa.
- Phệ-xá (Vaisary)
thuộc hàng thương mãi
- Thủ-đà-la (Sudra)
thuộc đám dân lao động cùng khổ. Ngoài ra, còn một hạng tiện dân
(untouchables) hay nô lệ.
Đức Phật chủ
trương sau bằng tất cả các giai cấp, Ngài quan niệm mỗi người sanh
ra đều bình đẳng, vì "không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ
và trong giọt nước mắt cùng mặn". Từ đó, Ngài mở ra cho xã
hội Ấn-Độ một kỷ nguyên mới : Kỷ nguyên Phật giáo. Đức Phật
Thích-Ca sanh ở thành Ca-Tỳ-La-Vệ, con vua Tịnh-Phạn và Hoàng-hậu
Ma-Gia (Sudhadana and Maha-Maya), tên là Tất-Đạt-Đa (Siddharta),
họ là
Thích-Ca (Sakya). Sau khi thành Phật hiệu là Mâu-Ni hay Cồ-Đàm.
Ngài
sanh vào ngày mồng 8 tháng 4 đời Chiêu-Vương nhà Chu
(trước Tây lịch 624 năm). Do công phu tu
tập, Phật đã giác ngộ được. Sau khi chứng đắc đạo quả, Phật
đi chu du khắp xứ Ấn-Độ để truyền giáo cho đến năm 80 tuổi Ngài
nhập diệt vào ngày rằm tháng 2, tại rừng Câu-Thi-La. Giáo pháp
của Ngài sau đó được các chúng đệ tử kiết tập thành 4 kỳ
và chia ra thành nhiều bộ phái. Sau Phật diệt độ khoảng 300 năm có
vua A-Dục ra đời, ra sức phát huy chánh pháp nên Phật giáo rất
thịnh hành. Đến đầu kỷ nguyên Tây lịch, tại Bắc Ấn-Độ, ngài
Mã-Minh ra đời, xiển dương Phật giáo, đã được vua Ca-Nỵ Sắc-Tra
(Kaniska) hết sức ủng hộ và Phật giáo phái Đại-thừa được
thạnh hành từ đó. Cho tới thế kỷ thứ 9 - 10 Tây lịch có các
ngài Vô-Trước, Thế-Thân ra đời ở Bắc Ấn-Độ, sau đến Trung
Ấn khởi xướng Đại-thừa Phật giáo qua duy thức học.
Phật giáo mặc dù
phát nguồn từ Ấn-Độ nhưng không phát triển mấy. vào thế kỷ
thứ 11, Hồi-Giáo thắng thế. Quân Hồi tìm cách tiêu diệt Phật
giáo. Vào thế kỷ thứ 19, người Anh tìm tới xứ Ấn để nghiên
cứu Phật giáo. Năm 1893, Sarat Chaand Rodas, một người Anh, thành
lập
"Hội Nghiên Cứu Phật Giáo Ấn-Độ và Nhân Loại Học
Thuật". Năm 1891, "Hội Bồ-Đề" được thành lập có các
chi nhánh tại Nữu-Ước, Luân-Đôn ... và việc truyền bá Phật
giáo lan rộng khắp Âu Mỹ do những tác phẩm đã dịch được từ
kinh điển chữ Phạn. Có lẽ, nhờ vào các ảnh hưởng đó mà
người Tây-phương có dịp tiến gần hơn về Đông-phương để nghiên
cứu tìm hiểu tư tưởng Phật giáo.
Tuy nhiên, Phật
giáo Ấn-Độ hiện thời không còn được thạnh hành như ở vào
những kỷ nguyên trước mà chỉ còn lại trên hình thức cũng như
những di tích lịch sử cổ của Phật giáo mà thôi.
2.-
Phật Giáo Trung Quốc Thời Kỳ Du Nhập Và Sự Phát Triển Ra Sao ?
Theo sử liệu Phật
giáo Trung-Quốc có ghi rõ ràng đạo Phật đã truyền vào quốc độ
nầy trước kỷ nguyên Tây lịch, nhưng mãi đến năm 67 Tây lịch mới
sáng tỏ.
Hậu bán thế kỷ
thứ nhất (năm 67) niên hiệu Vĩnh-Bình năm thứ 10, vào đời Đông
Hán. Phật giáo mới thực sự được xiển dương sâu rộng do vua
Minh-Đế khởi xướng. Vua Hán Minh-Đế đã cử người sang
Tây-Thiên-Trúc (Ấn-Độ) mời được các vị sư như Ca-Diếp Ma-Đằng
và Trúc-Pháp-Lan qua Trung-Quốc truyền đạo và thỉnh được tượng
Phật cùng kinh điển đem về xứ sở. Ngoài ra, vua còn cho dựng chùa
Bạch-Mã ở Lạc-Dương để thờ Phật và mời hai vị sư người Ấn
về ở đó dịch kinh. Bộ kinh đầu tiên được dịch từ chữ Phạn
sang chữ Hán là kinh 42 Chương. Đó là giai đoạn mở đầu của Phật
giáo Trung-Quốc và đạo Phật dần dần có cơ hội bành trước mãi
đến nổi đã khiến đạo Lão gần mất hết cả thế đứng trong quần
chúng. Đạo Phật Trung-Quốc thời bấy giờ thịnh đạt một phần nhờ
kinh sách chữ Phạn đã được dịch hơn 300 bộ, mặt khác, nhờ ảnh
hưởng nơi các bậc cao Tăng như ngài An-Thế-Cao, Chi-Lâu-Ca-Sấm,
Chi-Diệu, Trúc-Phật-Sóc ... là những người từ Ấn-Độ sang truyền
giáo.
Đời Tam-Quốc :
NGỤY - THỤC -NGÔ (250-300) ngài Khương-Tăng-Hội từ Tây-Vực sang
truyền đạo tại Trung-Quốc. Vua Ngô-Tôn-Quyền đã quy y theo Phật
giáo. Vào năm 250, niên hiệu Gia-Bình thứ 2 đời Ngụy-Minh-Đế có
ngài Đàm-Ma-Ca-La từ trung Ấn-Độ sang Trung-Quốc mở giới đàn
truyền giới Tỳ-kheo.
Năm 310, niên hiệu
Vĩnh-Gia đời Tây-Tấn có vị tăng tên Phật-Đồ-Trừng từ
Tây-Vực sang giảng kinh thuyết pháp đã được dân chúng mến mộ
rất đông. Cũng trong khoảng thời gian nầy, ngài Cưu-Ma-La-Thập đã
dịch nhiều kinh chữ Phạn sang chữ Hán. Phật giáo bắt đầu chia ra
làm 2 tông phái : Thành-Thật và Tam-Luận-Tông.
Đến thế kỷ thứ
5 - 6 (420 - 588) đời Nam Bắc triều, Phật giáo càng thịnh đạt.
Ngài
Bồ-Đề Đạt-Ma đem Thiền-tông truyền vào Trung-Quốc cũng trong thời
kỳ nầy. Các tông Thiên-Thai, Niết-Bàn đều được thành lập đồng
thời với Thiền-tông.
Năm 446, Phật giáo
Trung-Quốc bị ách nạn lần thứ nhất vào đời vua Hậu Ngụy
Thái-Võ-Đế, còn gọi là "Tam Võ Nhất tôn chỉ ách". Vào
đầu thế kỷ thứ 6 (508) Phật giáo lại cực thịnh dưới đời vua
Tuyên-Võ-Đế. Chùa chiền mọc lên như nấm, Tăng sĩ tu rất đông.
Nhưng vào hậu bán thế kỷ (574) đời Võ-Đế Bắc-Chu, Phật giáo
lại bị ách nạn lần thứ 2. Sau đó, Phật giáo được phục hưng
trở lại và cực thịnh suốt trong đời nhà Đường (609 - 907) và
có thêm các tông như : Tịnh-Độ, Pháp-Tướng, Luật, Câu-Xá,
Hoa-Nghiêm, Chân-Ngôn được thành lập. Đến đời Ngũ-Đại (Hậu
Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu), Phật giáo suy vi do
chiến tranh và thời cuộc gây ra. Đời nhà Tấn Phật giáo lại
được phục hưng. Kế các đời nhà Nguyên và nhà Minh (?) cũng bảo
vệ Phật Pháp nhưng không có những hoạt động nổi bậc đáng
kể.
Đời nhà Thanh bị
nhiểm bởi làn sóng văn minh Tây-phương truyền vào Trung-Quốc, Phật
giáo càng trở nên suy yếu dần. Đầu thế kỷ 20 (1912), sau cuộc cách
mạng Tân-Hợi (1911), Tôn-Văn lên cầm quyền, Phật giáo cũng
được nhiều người tìm hiểu nghiên cứu.
Thời kỳ Trung -
Nhật chiến tranh (1940-1945), Phật giáo Trung-Quốc bị suy yếu. Đến
khi
cộng sản nhuộn đỏ toàn lục địa Trung-Hoa (1949), Phật giáo chỉ duy
trì được ở giai đoạn đầu (1950-1960). Năm 1966 có cuộc đại cách
mạng văn hóa, mọi giá trị tinh thần đều bị đem ra xét lại. Từ
đó, Phật giáo được xem như món đồ trang sức trong viện bảo tàng
hơn là trên thực tế.
Mãi tới cuốc
năm 1979, nhận thấy thời cơ thuận tiện, phó Thủ-Tướng
Đặng-Tiểu-Bình và chính quyền Trung-Quốc cho khôi phục lại Phật
giáo. Đây có tính cách như cái loa để tuyên truyền cho chính trị
hơn là thuần túy muốn chấn hưng Phật giáo đúng nghĩa.
3.-
Phật Giáo Nhật Bản Có Từ Lúc Nào Và Do Ai Truyền Tới ?
Suốt trong mấy thế
kỷ đầu của lịch sử, dân tộc Nhật-Bản chưa có một tôn giáo
nào khác hơn Thần đạo. Mãi cho đến thế kỷ thứ 6 Tây lịch Phật
giáo mới có cơ hội truyền vào đất nước nầy.
Thánh-Đức
Thái-tử (Shotoku Taishi : 574-622) đã nghiên cứu các tư tương cổ
điển của Khổng, Lão vào Phật giáo trong nền văn minh cổ Trung-Hoa
về những yếu tố hình thành guồng máy xây dựng quốc gia, xã hội.
Đặc biệt ông có thảo 17 điều trần tình mà trong đó tư tưởng
Phật giáo được xem như những nguyên lý căn bản để xây dựng
công bằng xã hội. Mặt khác, ông còn khuyến khích nhiều học giả,
nghệ sĩ và nhất là tu sĩ Phật giáo trong việc sáng tác. Ngoài ra,
hai ngôi chùa danh tiếng ngày nay tại Kyoto như chùa Pháp-Long
(HORYU JI)
đã được Thái-tử cho thành lập vào đầu thế kỷ thứ 7 (năm
621) và chùa Tứ-Thiên-Vương (Shiten o ji) thành lập năm 623.
Thánh-Đức Thái-tử cũng còn khuyến khích các Tăng sĩ sang du học
Trung-Quốc. Năm 606, trước triều đình, ông luận về kinh Pháp-Cú,
phẩm Liên-Hoa đã gây được ảnh hưởng sâu rộng trong chánh giới
Nhật-Bản lúc bấy giờ. Ông từ trần năm 624. Trong đời
Thánh-Đức đã tạo được 46 ngôi chùa và 816 Tăng sĩ cùng với
569 Ni-cô. Nhưng, Phật giáo đã truyền vào Nhật-Bản bằng hình thức
nào ? Có nhiều thuyết khác nhau và điều chắc chắn phải nói rằng
Phật giáo Nhật-Bản chịu ảnh hưởng sâu đậm, trực tiếp từ Phật
giáo Trung-Quốc. Những tác phẩm Phật giáo mà người Nhật đã
nghiên cứu lúc đó là những bản dịch từ chữ Hán sang.
Thời kỳ Nara
(625-754) Phật giáo đã phát triển cũng như đặt nền móng về cơ
sở tri thức cho dân tộc bản xứ, nhất là việc nghiên cứu sâu
rộng giáo nghĩa Phật-Đà.
Năm 754,
Hòa-Thượng Giám-Chân (Kanzin Wazo) người Trung-Quốc đã đặt chân
tới Nhật-Bản và làm cho Phật giáo thêm phần khởi sắc nhờ công
hạnh đạo đức và tài năng xuất chúng của bậc chân tu đại
Thánh nhân nầy. Chùa Đông-Đại Tự (Todai Ji) tại vùng Nara, Kyoto
đã được xây cất vào năm 754. Tương truyền rằng chính
Hòa-Thượng Giám-Chân (lúc đó đã bị mù lòa cả 2 mắt do bảo
tố trên đường từ Trung-Quốc tới Nhật-Bản gây nên) là người
xem địa hình cho việc thiết lập ngôi chánh điện chùa nầy.
Thời đại Bình-An
(Heian : 793-800) có 2 vị tăng sĩ là Truyền giáo Đại-sư (Dengyo
đaishi)
tên là Tối-Trừng : 767-822, Sơ tổ của tông Thiên-Thai và
Hoằng-Pháp Đại-sư (Kobo daishi) tên Không-Hải : 774-835 là Sơ tổ
tông
Chân-Ngôn, đã ra sức phát huy Phật giáo và nhờ đó ảnh hưởng
rất sâu rộng trong quần chúng. Tư tưởng Thiền đồng thời cũng
được phát huy kể từ thời kỳ nầy.
Vào đầu thế kỷ
13 có các ngài Nhật-Liên đại thánh nhân (Nichi ren : 1222-1282)
xuất
hiện đã mang lại cho Phật giáo Nhật-Bản một sinh khí mới về cách
tu chứng và sự khế cơ của Phật giáo vào đời sống xã hội.
Ngoài ra còn có ngài Đạo-Nguyên Thiền-sư (Dogen : 1200-1253) cũng
là
một bông hoa khởi sắc mở đầu cho Thiền-tông (Zen) tại Nhật-Bản.
Dogen đã sang du học Trung-Quốc về môn Thiền Phật giáo tông
Tào-Động trong thời gian 5 năm. Sau khi về nước, ngài lập ra phái
Thiền Tào-Động tại Nhật-Bản vào năm 1227, vào thời kỳ
Kamakura.
Từ thế kỷ 14 - 17
chiến tranh liên tiếp xảy ra, nhất là những cuộc nội chiến, khiến
cho Phật giáo phải bị đình đốn. Vào hậu bán thế kỷ 17 và tiền
bán thế kỷ 18 có những cuộc chiến tranh tôn giáo diễn ra vào
thời kỳ các võ sĩ đạo và tướng quân tranh quyền hành ở mỗi
địa phương. Lúc bấy giờ đã có những tư tưởng cấp tiến, có
nhiều học giả chống lại việc nghiên cứu hệ thống triết học
Trung-Quốc, nhưng tư tưởng Phật giáo vẫn được tôn trọng.
Minh-Trị Duy Tân
(1868), Phật giáo lần hồi được tái hưng và từ đó tới nay Phật
giáo Nhật-Bản giữ một vài trò quan trọng dẫn đạo về mặt tư
tưởng cho dân tộc bản xứ và nếp sinh hoạt chùa chiền tại
Nhật-Bản cũng khác hẳn với các nước Phật giáo thuộc vùng Á
châu.
4.-
Phật Giáo Việt Nam Có Từ Thời Kỳ Nào ? Do Ai Truyền Tới Và Ảnh
Hưởng ?
Thời kỳ Phật
giáo du nhập vào Việt-Nam có nhiều thuyết khác nhau. Sớm nhất Phật
giáo cũng đã được truyền vào nước ta vào cuối thế kỷ thứ 2
hay đầu thế kỷ thứ 3 Tây lịch.
Dựa vào mấy lý
do sau đây để có thể giải thích sự có mặt của đạo Phật tại
Việt-Nam vào thời kỳ du nhập :
- Những thế kỷ
đầu của lịch sử hẳn ta chưa có môn sử hay nói khác hơn là chưa
có ai quan tâm tới sử học, cũng như chưa kinh nghiệm khoa học về
sử liệu, do đó những gì diễn ra trên đất nước cũng chỉ được
ghi nhớ và biên chép sơ sài thôi.
- Còn một điều
nữa là vào những thế kỷ đầu của lịch sử, nước ta có nhiều
người ngoại quốc lui tới buôn bán. Các tăng sĩ cũng theo thuyền
buôn đến truyền đạo ở trong nước từ Thuận-Hóa trở ra Bắc.
Lúc bấy giờ cũng chưa có cơ quan thông tin nghị luận gì để phổ
biến tin tức cả, do đó việc các tăng sĩ người Ấn, Hoa-Kiều ...
dù có đến hay đi, cũng ít có người quan tâm tới. Đó là những
nguyên nhân khiến chúng ta không biết đích xác được đạo Phật
vào nước ta đúng vào năm nào.
Theo truyền thuyết,
Phật giáo du nhập vào Việt-Nam từ thế kỷ thứ 2, do ngài
Khương-Tăng-Hội và Ma-Ha-Kỳ-Vực là người Ấn-Độ đem tới.
Ngoài ra, còn có thuyết cho rằng Phật giáo truyền vào đất
Giao-Châu
từ thế kỷ thứ nhất, tức là đồng một lúc với thời kỳ Phật
giáo du nhập vào Trung-Quốc, nhưng chỉ có các thuyết cho rằng Phật
giáo tới An-Nam vào cuối thế kỷ thứ 2 là hợp hơn cả. Theo sách
Le Bouddhisme en Annam của Trần-Văn-Giáp thì vào khoảng năm
194-195 có
ngài tên là Mâu-Tử người Ấn-Độ sang Giao-Châu truyền bá đạo
Phật và đã được người trong nước bắt chước tin theo rất
nhiều. Dần dà ở những thế kỷ sau có nhiều vị sư ngoại quốc
đến và phát huy tinh thần Phật giáo tại đây.
Năm 580 có ngài
Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, người Ấn-Độ sang truyền Phật giáo phái thiền
tại nước ta.
Năm 820, ngài
Vô-Ngôn-Thông, người Tàu đem truyền Thiền-tông vào đất nước
Việt và chính ngài được tôn lên tổ Thiền phái thứ 2. Dòng
Thiền Vô-Ngôn-Thông truyền xuống được 15 đời, gồm 40 người kế
nghiệp cho tới đời thứ 15 : Ứng-Vương (1221) là dứt.
Đời Tiền-Lê
(Lê-Đại-Hành) ngài Khuông-Việt là một vị thiền sư nổi tiếng.
Niên hiệu Thái-Bình thứ hai (năm 971) vua phong chức "Khuông-Việt
Thái-sư".
Đời vua
Lý-Thái-Tổ (1010 - 1028) Vạn-Hạnh Thiền-sư là một bậc cao tăng tài
đức kiêm toàn, đã đem tư tưởng Đại-thừa Phật giáo phục vụ
quốc gia dân tộc, nên lúc bấy giờ nước nhà được thạnh trị
và dân tộc thái bình. Chính Vạn-Hạnh Thiền-sư, được vua Lê tôn
lên làm bậc Quốc-sư. Ngài tịch vào năm 1018.
Đời
Lý-Thái-Tôn (1028-1054) cũng sùng mộ đạo Phật, có lập được 95
ngôi chùa và ảnh hưởng của Phật giáo cũng khá lớn mạnh.
Đời
Lý-Thánh-Tông (1054-1072) có thêm phái Thảo-Đường, do ngài
Thảo-Đường người Tàu, nhân là một tù binh theo thầy qua
Chiêm-Thành bị vua Thánh-Tông bắt được trong lúc đánh với
Chiêm-Thành. Sau vì biết rõ được tông tích Ngài qua tài năng
vượt chúng, vua phong chức Quốc-sư. Phái Thảo-Đường truyền xuống
được 18 dời, do vua Thánh-Tông là Sơ tổ. Chùa Diên-Hựu (chùa
Một-Cột) do vua lập nên 1049, niên hiệu Sùng-Hưng-Đại-Bảo nguyên
niên. Vua Thánh-Tông là đệ tử ngài Thảo-Đường thuộc dòng
thiền thứ 3 tại Việt-Nam.
Đời Trần (1225 -
1400), Phật giáo cũng được truyền bá nhưng không có tầm ảnh
hưởng sâu rộng bằng Phật giáo đời nhà Lý. Vua Trần-Nhân-Tông
(1278 - 1308) là vị chân tu. Vua xuất gia năm 1299 và là Sơ tổ của
phái Trúc-Lâm Yên-Tử do Ngài sáng lập. Phái Trúc-Lâm truyền
được 4 đời cho 20 vị tiếp tục kế truyền tông pháp.
Trần-Anh-Tông (1239
- 1314) cũng là người rất sùng tín đạo Phật, là đệ tử của
Thiền-sư Pháp-Loa.
Phật giáo Việt-Nam
đời Lý - Trần rất cực thịnh.
Các đời vua đều
cho dựng chùa, xây tháp, đúc chuông, tô tượng và xiển dương
Phật giáo, vì thế trong nước dân chúng được an cư lạc
nghiệp.
Phật giáo Việt-Nam
vào thế kỷ 15-17, trở nên suy yếu. Một phần bị chiến tranh
Chiêm-Việt ; mặt khác, các triều vua không phải là những Phật tử
thuần túy biết nhiệt tâm vì đạo.
Đến hậu bán thế
kỷ 17 (1665), ngài Nguyên-Thiều, người Tàu qua An-Nam lập chùa
Thập-Tháp (Bình-Định) và ảnh hưởng cũng rất lớn lao.
Chùa Thiên-Mụ
(Linh-Mụ - Huế) được chúa Nguyễn-Hoàng cho xây vào năm 1601 và
đến đời Nguyễn-Phúc-Chu (1691) chùa mới hoàn thành.
Đời Nguyễn (1802 -
1884) các vua cũng cho lập chùa xây tháp. Tháp chuông chùa
Thiên-Mụ
được vua Thiệu-Trị cho xây 7 tầng vào năm 1844 gọi tháp Từ-Nhân
hay Phước-Duyên. Nhưng Phật giáo thời nầy không lấy gì làm thạnh
cho lắm.
Thời cận và
hiện đại, Phật giáo trải qua nhiều lần bị pháp nạn và chiến tranh
chi phối. Vào đệ nhất và đệ nhị thế chiến, Phật giáo phải bị
đình đốn.
Từ năm 1925-1945,
phong trào chấn hưng Phật giáo thành hình. Các trường Phật học nổi
lên khắp nơi Bắc Trung Nam, nhưng đến năm 1945 cũng phải ngưng
hoạt
động. Từ năm 1945-1951, Phật giáo hầu như chỉ còn ảnh hưởng rất
ít trong quần chúng. Mãi cho đến năm 1952, làn sinh khí Phật giáo
lại
tiếp tục được hồi sinh.
Thời Ngô
(1954-1963), vì vấn đề kỳ thị tôn giáo, Phật giáo bị pháp nạn năm
1963 rất khốc liệt. Sau đó, toàn dân nổi lên làm cuộc cách mạng
lật đỗ chế độ bạo tàn Ngô-Đình-Diệm vào ngày 1/11/1963. Một
trang sử mới lật qua, Phật giáo lại phải đương đầu với một giai
đoạn mới.
Năm 1964, Hiến
Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt-Nam Thống Nhất ra đời, kết
nạp các tông phái lại thành một khối để đủ uy tín duy trì pháp
âm của Phật-Đà. Nhưng mầm chia rẽ giữa 2 khối Phật giáo :
Ấn-Quang - Việt-Nam Quốc-Tự nhen nhúm thành hình.
Năm 1975, cộng sản
lên cướp chính quyền miền Nam vào ngày 30/4/75, mọi sinh hoạt của
Phật giáo đều bị ngưng trệ. Từ đó đến nay, Phật giáo đứng
trước gông cùm của bạo quyền cộng sản, chỉ còn chờ thái độ
của người Phật tử đối với đạo pháp và dân tộc.
5.-
Phật Giáo Pháp Quốc Buổi Bình Minh Của Tư Tưởng Đạo Phật Truyền
Vào Pháp Vào Năm Nào Và Do Ai ?
Phật giáo tại
Pháp chịu ảnh hưởng rất sâu đậm từ Phật giáo Trung-Quốc. Nổi
bậc nhất là sự hình thành hội "Liên Hữu Phật Giáo" (les
amis du Bouddhisme) vào năm 1929. Hai sáng lập viên là Thượng-Tọa
Tai-Hsu người Trung-Hoa và cô G. Constant Lounsbery, người Anh.
Thượng-Tọa Tai-Hsu
chu du sang Âu Châu năm 1928. Trong thời gian lưu trú tại Paris đã
tặng
cho Viện Bảo Tàng Guimet một số kinh điển Phật giáo đã dịch sang
tiếng Pháp. Đồng thời trong cùng năm sách Phật giáo dịch sang
Anh-ngữ cũng đã được xuất bản tại Paris. Nhờ duyên hạnh ngộ
đó mà cô G. Constant Lounsbery mới bắt tay cộng tác trong việc
Phật
sự. Lúc đó cô đang nghiên cứu Phật giáo và thực hành thiền
định. Cả hai người cùng nhau lập hội Phật giáo tại Pháp vào năm
1929. Ta có thể nói được rằng đây là buổi bình minh của tư
tưởng Phật giáo được truyền vào đất Pháp ? Phật giáo hẳn đã
có mặt từ trước tại đây rồi, nhưng chưa có một hoạt động cụ
thể nào nổi bậc và đến giai đoạn nầy là thời kỳ chín muồi
để cho hình thức tiêu biểu Phật giáo kết duyên lành với người
bản xứ !
Hội Phật giáo
tại Pháp hoạt động không ngừng. Từ năm 1940 trở đi do sự trực
tiếp điều hành của cô Suzanne Karpeles và sự cộng tác của cố thi
hào Mauric Margre (mất năm 1942). Hội cũng đã xuất bản một số sách
Phật giáo đáng kể như : Les Meditations Bouddhique của cô
Lounsbery, La
Parole Bouddha do cô Lafuente dịch từ sách chữ Phạn.
Năm 1939 hội Phật
giáo Pháp có xuất bản tờ tạp chí tên là "La Pensée
Bouddhique" và cho đăng tải phần giáo lý các bài dịch từ chữ
Pali sáng tiếng Pháp.
Ảnh hưởng của
tờ báo rất sâu rộng trong học giới Tây-phương. Các vị
Thượng-Tọa, Đại-Đức, nhiều học giả Âu Mỹ, Trung-Hoa, Nhật-Bản
và ngay cả hội Viễn-Đông Bác-Cổ Hà-Nội đều cộng tác. Hội
Phật giáo Pháp với cơ quan ngôn luận mở rộng, là nơi gặp gở
thuận tiện giữa các nước Phật giáo như Lào, Thái và đặc biệt
hơn cả có ảnh hưởng tới Phật giáo Việt-Nam trong giai đoạn
nầy.
Hội hoạt động
đều đặn và mỗi năm đều có tổ chức ngày lễ đức Phật
Đản-Sanh và ngày Phật Thành-Đạo. Năm 1950 hội Phật giáo Pháp
chính thức được mời tham dự đại hội Phật giáo thế giới lần
đầu tiên tại Tích-Lan với 27 quốc gia hội viên tham gia, do cô
Lounsbery làm Trưởng phái đoàn và cũng là Phó hội trưởng hội
Phật giáo Pháp-quốc. Các kỳ đại hội Phật giáo thế giới kế
tiếp được tổ chức tại Tokyo (1952), Ngưỡng-Quang (1954), Nepal
(1956),
hội đều có tham dự.
Từ năm 1950 hội
đã mời được Thượng-Tọa tiến-sĩ Rahula vào chức hội trưởng.
Từ đó hội đã thu nạp được nhiều hội viên, tổ chức các lễ
lộc quan trọng trong năm, cũng như mỗi tuần đều có giảng kinh,
thuyết pháp.
Hy vọng rằng, ngày
nay với tầm hoạt động lớn mạnh của các tổ chức Phật giáo
Việt-Nam tại Pháp, là cơ hội tốt cho người bản xứ có được
cái nhìn toàn vẹn và việc tìm hiểu Phật giáo hẳn dễ dàng và
sâu rộng hơn.
6.-
Phật Giáo Hoa Kỳ : Việc Truyền Bá Và Phát Triển Ra Sao ?
Hoa-Kỳ có thể
nói là một nước mà đạo Thiên-chúa đã sớm được truyền
vào, với một số người tin theo. Như thế, đạo Phật làm sao có
thể vào được xứ sở vốn cá dân số tạp chủng nhất thế giới
nầy ?
Chính người
Nhật-Bản và người Trung-Hoa đã tiền phong trong việc đem đạo Phật
vào xứ sở Hiệp-Chủng-Quốc. Cho tới nay chúng ta chưa biết đích
xác được Phật giáo đã có mặt tại đây vào đúng năm nào,
nhưng có lẽ buổi bình minh của Phật giáo tại Hiệp-Chủng-Quốc sau
đệ nhị thế chiến năm 1946-1950.
Hội Phật giáo
Mỹ-Nhật đã được thành lập rải rác trong các Tiểu-bang Hoa-Kỳ
như Hawaii, Seattle, San Francisco, Fresno. Los Angeles ... Ngôi
chùa Phật giáo
ở Honolulu là trung tâm du lịch đã được thiết lập ngay giữa ánh
sáng của đô thị. Đại học Phật giáo mới tại New York được xây
đối diện với sông Hudson là nơi thuộc vùng ảnh hưởng Phật giáo
quan trọng nhất thuộc về bờ biển phía Tây. Ngoài ra, còn có những
trung tâm Phật giáo thế giới và những ngôi chùa Thiền do người
Nhật thành lập trong hơn 30 năm trước đây tại Nữu-Ước. Tại New
Jersey còn có một ngôi chùa Mông-Cổ hay một vài chùa Phật giáo
Trung-Hoa ở Los Angeles và vài năm sau vào năm 1973 Viện Đại-học
Đông-Phương (College of Oriental Studies) cũng được thành hình tại
thành phố nầy. Hai nơi nầy đã quy tụ được một số người bản
xứ theo học Thiền và nghiên cứu Phật giáo. Ngoài ra, các ngôi
chùa Phật giáo Việt-Nam cũng được thành lập tại Washington D.C. và
rải rác khắp các tiểu bang.
Ngày nay, người
Hoa-Kỳ để ý đến việc nghiên cứu tư tưởng Phật giáo là dấu
hiệu cho thấy nền văn minh Tây-phương đã không đáp ứng được
nhu cầu cho cuộc sống tinh thân của con người một cách trọn
vẹn.
7.-
Phật Giáo Đức Quốc Thời Kỳ Du Nhập Và Tầm Ảnh Hưởng
Khi đề cập tới
Phật giáo ở phương trời Tây, người ta đặc biệt lưu tâm tới
dân tộc Đức nhiều hơn từ sau đệ nhất thế chiến chấm dứt. Và
cũng kể từ đó Phật giáo có cơ hội nẩy nở tại đất nước
nầy.
Tại sao tôi xác
quyết như vậy ? Căn cứ vào bài viết của Max Hoppe, người Đức
đã đăng trong tạp san Pháp Á (France-Asie) xuất bản vào năm 1959
tại
Sàigòn, thì chính tiến-sĩ George Grimm là người đầu tiên khai sáng
ra Hội Phật giáo tại Đức lấy tên là : Alt Buddhistisch Gemeinde"
(Old Buddhist Commuty) vào năm 1921 và đã quy tụ được hàng ngàn
hội
viên cùng nhau tu học và nghiên cứu Phật giáo. Chính Dr. George
Grimm
cũng đã viết những cuốn sách về Phật giáo như : Die Lebredes
Buddha
(The Doctrine of The Buddha), Die Religion der Vernunft und der
Meditation (The Religion
of Reason and Meditation), đã được cơ sở Hoble Verlag xuất bản.
Các
sách ấy hiện nay cũng đã được K.E. Neumann dịch sang tiếng Anh để
phổ biến sâu rộng khắp các nơi. Đặc biệt, cả Grimm và Neumann lúc
tuổi trẻ có nghiên cứu về A. Schopenhauer. Chính Schopenhauer tự
nói
mình là một Phật tử chân chính, hiểu rất nhiều về giáo lý của
đức Phật. Tại nhà có thờ một pho tượng Phật mạ vàng vĩ đại.
Cuộc đời của Schopenhauer được xem như là vị Đại-Đức có đức
hạnh sáng ngời.
Ngoài ra dân tộc
Đức còn đọc sách về Phật giáo của Friedrich Zimmermann (1857-1917)
như
: Buddhist Catechism đồng thời được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nhiều
học giả khác như tiến-sĩ Karl Seidenstiicker (1876-1936) có nghiên
cứu
về tư tưởng Đông-phương. Đặc biệt những sách dịch kinh điển
Phật gtíao từ tiếng Pali sang tiếng Đức của ông cũng được xuất
bản vào năm 1923. Mục đích của hội Phật giáo là nghiên cứu
triết học tôn giáo và tìm những nguyên lý cho cuộc sống, mà giáo
lý của đạo Phật như là sự hướng dẫn cần thiết cho con người
trong xã hội hiện đại.
Hội Phật giáo
Đức đã nổ lực hoạt động và duy trì được cho tới ngày nay.
Sau khi George Grimm qua đời vào ngày 26/8/1945, thọ được 78 tuổi,
thì
người con gái là bà Maya Keller Grimm kế tục phát triển công việc
của cha cho hội Phật giáo.
Ngôi nhà, trụ
sở của hội Phật giáo Đức tại Utting on-Ammersee (upper Bavaria)
mang
tên là George Grimm. Hiện nay, cơ sở ấy trở thành nơi thờ phụng
và cũng là một địa điểm hành hương cho du khách các nơi đến
thăm viếng.
Từ năm 1950, các
sách của George Grimm như Ewige Fragen (Eternal Questions), Die
Botschaft des buddha,
der Schliissel Zur Unster Blichkeit (the Message of the Buddha,
the Key to Immortality),
Der Buddha Weg fiir Dich (the Buddha way for you) đã được xuất
bản.
Năm 1955, Hội Phật
giáo thứ hai tại Đức được thành lập tại Franckfurt-am-Main lấy
tên là "Deutsche Buddhistische Gesellschaft (German Buddhist
Society) và các
chi hội được thành lập tại Hamburg, Munchen, Berlin ...
Dân tộc Đức
ngày nay đang hướng về Đông-phương để tìm hiểu mà tư tưởng
Thiền của Phật giáo đặc biệt được chú trọng hơn cả.
8.-
Phật Giáo Miến Điện : Việc Truyền Bá Và Phát Triển Ra Sao ?
Khó có ai xác
định đúng thời kỳ và niên đại nào Phật giáo đã du nhập vào
Miến-Điện (Burma) được cả.
Theo sử liệu cho
biết thì vào thế kỷ thứ 5, tức là thời kỳ Thiri Khettara đã có
những tăng sĩ Phật giáo thuộc phái Đại-thừa (Mahayanists) từ
phương Bắc (chỉ Ấn-Độ) đã đem Phật giáo vào xứ nầy rồi.
Ngoài ra, vào
tháng 12 năm 1952 chùa Shway Sandaw thuộc miền Đông đã khám phá ra
được thánh tích của chiếc răng Phật bằng vàng và nhiều tượng
Phật đồng hay bằng vàng khác. Những chi tiết trên, chứng tỏ cho
thấy, Phật giáo đã có mặt tại Miến-Điện rất sớm, từ hàng
ngàn năm trước. Ngôi chùa vừa nêu do vua Dvattabaung thành lập
(?).
Do đó, Miến-Điện còn gọi là xứ Kim-Xỉ (răng vàng) cũng do dựa
vào di tích lịch sử nầy mà thành hình. Phật giáo phái Theravada
truyền vào Miến-Điện do vua Anoratha vào năm 1044. Ta có thể nói
được rằng Phật giáo Miến-Điện chịu ảnh hưởng bởi hai luồng tư
tưởng Đại-thừa và Tiểu-thừa hay bằng đường bộ và đường
thủy. Nhưng chỉ có phái Phật giáo Theravada là thích hợp hơn
cả.
Năm 1622-1629 vua
Sawlu lên thay vua Anoratha, nhưng suốt trong thời kỳ tại vị, ông
không
có một hoạt động nào nổi bậc đáng kể cho Phật giáo, ngoài việc
xây dựng 2 ngôi chùa ở vùng Monywa và Minbu.
Năm 1629 vua
Kyansittha lên kế vị hoàn thành việc xây cất ngôi chùa Shwe
see-khon
đã được vua Anoratha xây cất dở dang. Ông nổ lực trong việc
truyền bá phật giáo cũng như việc xây dựng chùa chiền.
Năm 1635 ông xây
chùa Ananda ở Pagan, là một di tích lịch sử rất nổi tiếng. Vua
Kyansittha là người đầu tiên cho lập nhiều chùa nhứt và còn
thiết lập các tự viện nổi tiếng như chùa Myazedi và tháp chuông
Myazedi.
Năm 1657 vua
Alaungsithu lên thay. Năm 1686, chùa That-Byin-Nyu được xây theo
lối kiến
trúc kiểu Ấn-Độ.
Suốt trong hai triều
vua Narathu (1712-1715) và Naratheinkha (1715-1718) không có một
hoạt động
Phật giáo nào đáng kể.
Năm 1818, vua Nara
Pati-Sithu lên thay, là người rất sùng kính Phật giáo ra sức
truyền
bá giáo lý đạo Phật. Miến-Điện ngày nay là một trung tâm du lịch
nổi tiếng về những di tích lịch sử Phật giáo hơn là sự phát
triển của đạo Phật.
9.-
Phật Giáo Bỉ Quốc Như Thế Nào ?
Bỉ là một quốc
gia rất đặc biệt về địa lý cũng như về mọi mặt sinh hoạt khác.
Trong toàn quốc chia ra làm 2 phần : Phần một gồm những người
Fanders
khoảng chừng 8,500,000 người nói được tiếng Đức và 80% đều là
Thiên-chúa-giáo. Trong khi đó tất cả những vùng còn lại nói
tiếng Pháp. Wallony là vùng kỷ nghệ có độ 6,500,000 người và chỉ
có chừng 40% theo đạo Thiên-chúa. Như thế Phật giáo truyền vào
xứ nầy bằng cách nào ?
Nhờ nghiên cứu
những tác phẩm viết về Phật giáo mà nhiều người Bỉ đã hiểu
được giáo lý của đạo Phật và họ bắt đầu tiếp xúc với Á
Châu bằng tinh thần Phật giáo. Một Hội Phật giáo được thành lập
tại Bruxelles lấy tên là "Eglise Bouddhique Universelle" (Societe
Bouddhique Belge) vào khoảng năm 1940. Năm 1944, ở Liberation một
số
người Bỉ có khuynh hướng cấp tiến đã lập nên một Hội Phật
tử mang tên là "Buddhist Group" để tu học, tức là Hội Phật
giáo thứ hai tiếp theo hội đã thành lập tại Bruxelles.
Vào khoảng năm
1956 có một nhà sư người Tây-Tạng đến đây và truyền bá Phật
giáo rộng rải tại Bỉ quốc. Ông có mở trường và dạy đạo cho
người bản xứ. Nhờ đó tinh thần Phật giáo ngày càng ảnh
hưởng sâu rộng trong quần chúng. Những tổ chức Phật giáo được
thành lập bởi người Bỉ hay do các tăng sĩ ngoại quốc. Một trung
tâm Phật giáo được thành lập tại Bruxelles sau hội Buddhist Group
là
do một người Anh, ông Ficher chủ trương. Hội cũng đã có những
hoạt động Phật giáo rất tích cực. Ngoài ra, ông Kiere (người Bỉ)
thành lập hội nghiên cứu Phật giáo vào khoảng từ 1950-1960 bên
cạnh tổ chức Mission Bouddhique Belge.
Tóm lại, người
Bỉ có dịp tiếp xúc với nền văn minh Đông-phương qua tư tưởng
Phật giáo là nhờ những kinh sách và người ngoại quốc đem đạo
Phật truyền bá tại đây như một luồng sinh khí mới thổi vào trong
mọi sinh hoạt cho dân tộc bản xứ.
10.-
Phật Giáo Cambodge Thành Hình Và Phát Triển Như Thế Nào ?
Campuchia sớm ảnh
hưởng nền văn minh Ấn-Độ. Vì thế đạo Bà-la-môn và đạo Phật
là 2 tôn giáo thiết lập những yếu tố cần thiết cho nền văn minh
Ấn, hẳn đã chịu tiếp thu tư tưởng Phật giáo lâu đời.
Buổi sơ khai, dân
tộc Khmer tin vào thiên nhiên như các thần linh : Lửa, gió, sấm,
sét
và những tín ngưỡng dân gian khác ở từng địa phương. Đó là
lý do khiến cho Phật giáo hòa nhập được dễ dàng tại đây.
Có nhiều giả
thuyết cho rằng, Phật giáo đã có mặt tại Campuchia vào thế kỷ
thứ 3 Tây lịch, do các vị tăng sĩ theo các nhà hàng hải Ấn-Độ
đến từ các hải cảng phía nam của xứ Phù-Nam (tên củ ?) Campuchia
còn gọi là xứ vàng (Pays de l'Or, the land of Gold) hay Kin-lin
hoặc
"Muraille de l'Or". Theo tài liệu nghiên cứu của Tích-Lan thì
Phật giáo đã được thiết lập tại Campuchia vào năm 309 Tây lịch.
Xứ Khmer lúc bấy giờ là một phần của Đông dương Suvarnadhumi hay
miền Đông-Nam-Á. Lúc đó người bản xứ tự cho mình là vua của
miền rừng núi, nhưng người Trung-Hoa gọi họ là Fou-nam (Phù-Nam).
Kinh
đô đặt tại T'O-mou tức là Dalmark và có nghĩa là "Chasseur"
(người thợ săn).
Vua Tchen-La chinh
phục đất Phù-Nam lên ngôi gọi là Bhavavarman đệ I vào giữa thế
kỷ thứ 6, mở ra kỷ nguyên cho triều đại Tchen-La. Phật giáo
Theravada
cũng như đạo Bà-la-môn cùng phát triển song song ở vào thời kỳ
nầy.
Năm 802, vua
Jayavarman đệ II nối ngôi và dời kinh đô từ Siem-Reap sang
Phnom-Kulin,
mặc dù vua không theo đạo nào, nhưng Phật giáo vẫn tiếp tục tồn
tại.
Năm 1811, vua
Jayavarman đệ VII lên thay, mở ra một kỷ nguyên mới cho Campuchia,
vì
là một Phật tử thuần thành, ông biết đem áp dụng đạo Phật vào
việc trị quốc an dân.
Từ thế kỷ thứ
15 cho tới nay, Phật giáo mất dần ảnh hưởng. Một phần lớn các
chùa đều bị hư mục bởi chiến tranh gây ra, một phần do sự chậm
tiến của dân tộc Khmer không theo kịp nền văn minh hiện đại. Phần
nhiều các ngôi chùa tại Cambodge đều có nóc nhọn chỉa lên trời
và phần đông các tăng sĩ đều quấn y vàng. Có lẽ cũng vì lý do
nầy mà người ngoại quốc ưa gọi xứ Miên là xứ Chùa Tháp hay
là xứ của nhà tu Phật áo vàng vậy.
Còn một điểm son
đáng kể là người dân Campuchia từ vua, quan, dân giả đều chịu
sự giáo dục của Phật giáo từ nhỏ. Lúc lên 12 tuổi nam giới
phải vào ở chùa 2 năm và gọi là lễ Samanera. Năm 20 tuổi hay 21
tuổi những người bạn trẻ ấy nếu tiếp tục tu luôn ở chùa sẽ
được thọ giới Tỳ-kheo (tức 250 giới để lên hàng
Đại-Đức).
Bất cứ một
người Miên nào, nếu chưa một lần vào chùa tu thì không được
xã hội thừa nhận. Đây chính là một dân tộc biết áp dụng triệt
để tinh thần hòa bình, từ bi, lợi tha của Phật giáo trong việc trị
quốc an dân. Vì họ tin theo lý nhân quả tất định : Ai gây nhân
lành
sẽ được hưởng quả tốt (Qui fait lebien recoit le bien ; qui fait
le mal
recoit le mal)
Mặc dù vậy, nhưng
đến đầu năm 1975, dân tộc xứ Khmer bị nhuộm đỏ dưới chế độ
độc tài cộng sản và họ hiện đang thoi thóp kêu gọi sự cứu
trợ của thế giới tự do, cho những người dân xứ Chùa-Tháp
khổ đau bằng tinh thần cứu khổ của đạo Phật.
11.-
Phật Giáo Nam Dương Có Từ Bao Giờ Và Tầm Ảnh Hưởng Ra Sao ?
Nam-Dương là một
xứ quần đảo cheo leo nằm ngoài biển và ít có sự liên lạc với
đất liền. Muốn biết rõ Phật giáo có mặt tại đây đích vào năm
nào cho tới nay chưa có ai trả lời được cả.
Căn cứ vào
những tác phẩm Phật giáo bằng tiếng Pali đã được đưa vào
Nam-Dương cuối thế kỷ thứ 3 Tây lịch, theo truyền thuyết. Ngoài ra
cũng còn có thuyết cho rằng vào thời vua Gunavarma (420-424) Phật
giáo
mới thật sự có mặt tại Java (tên cũ).
Năm 665 có một tu
sĩ Phật giáo người Trung-Hoa là Houei-neng sang Java và ở lại đây
trong 3 năm để hướng dẩn cho Phật tử những sinh hoạt cần thiết.
Nhất là tư tưởng Phật giáo sớm ảnh hưởng trong dân tộc bản
xứ qua văn hóa Á-Châu.
Năm 671 lại một
vị sư người Trung-Hoa tên là Yi-Tsing sang Ấn-Độ du học Na-Lan-Đà,
lúc trở về có ghé lại Sri Wijaya (thủ đô) trong 4 năm từ năm
685-689.
Năm 717 có một
tăng sĩ người Tích-Lan (Ceylan) là Vajrabodhi trên đường đi
Trung-Hoa
có ghé lại Sri Wijaya trong 5 tháng để dò xét đường đi và được
nghe kể lại rằng hơn 50 năm về trước ngoài Yi-Tsing ra, còn có 20
tăng sĩ người ngoại quốc khác đã có mặt tại Nam-Dương. Trong số
đó phần nhiều đều là người Trung-Hoa, với một vị tăng người
Việt-Nam và 2 người Đại-Hàn đã sống tại Java. Chính Yi-Tsing và
nhiều đoàn hành hương khác đã đặt chân tới Sri Wijaya để nghiên
cứu tiếng Sanskrit trước khi tiếp tục sang Ấn-Độ. Sri Wijaya, vì
thế
có thể nói là trung tâm cho việc nghiên cứu Phật giáo, đồng
thời cũng là thủ đô của Nam-Dương.
Ngày nay tại Java,
trong số những lâu đài Phật giáo cổ kính nhất đều nằm nơi đảo
Candi Sari. Tất cả những tác phẩm nghệ thuật Phật giáo ngày nay
đều được bảo tồn tại Viện-Bảo-Tàng Jakarta.
Tư tưởng Phật
giáo đã bám rễ sâu vào lòng dân tộc Nam-Dương. Cho tới ngày nay,
dân chúng bản xứ sống trong hòa bình được là nhờ ảnh hưởng
nơi Phật giáo về tinh thần từ bi và bình đẳng.
12.-
Phật Giáo Thái Lan Hình Thành Và Phát Triển Như Thế Nào ?
Phật giáo truyền
vào Thái-Lan lúc nào và do ai mang đến, có lẽ cho tới nay không ai
còn thắc mắc nữa, vì chính Thái-Lan đã sống trong tinh thần Phật
giáo và giáo lý đạo Phật được triển khai áp dụng một cách
rộng rãi và cỡi mở tại đây.
Nói về Phật giáo
Thái-Lan, chúng ta căn cứ vào 4 thời kỳ như sau:
Thời kỳ thứ
nhất : Phật giáo Tiểu-thừa hay Hinayana mà hiện nay tại Nakon
Pathom pho
tượng Phật Chuyển-Pháp-Luân (Dharma Chakra, Wheel of Law) ngồi
trên tòa
sen vẫn còn. Theo truyền thuyết, Phật giáo đã có mặt tại Thái-Lan
từ thế kỷ thứ 5, trước Tây lịch, vào thời đại vua Asoka
(Ấn-Độ). Đây là một hình thức Phật giáo thuộc phái Theravada
đến từ con đường phía Nam.
Thời kỳ thứ hai
: Phái Đại-thừa hay Phật giáo Bắc truyền, cũng ảnh hưởng trực
tiếp từ Ấn-Độ. Năm 757, vua Srivijaya lên trị vì lấy tinh thần lợi
tha của Phật giáo làm căn bản.
Thời kỳ thứ ba :
Chịu ảnh hưởng Phật giáo Miến-Điện. Vào năm 1050 vua Amurudh của
Miến-Điện là một Phật tử, mở mối bang giao chặc chẻ với
Thái-Lan, và Phật giáo Theravada cũng được đưa tới các vùng như
Chiengmai, Lopbari và Nakon Pathom ngày nay đều thuộc phái
Tiểu-thừa.
Điều nầy có nghĩa là Phật giáo miền Bắc Thái chịu ảnh hưởng
của Tiểu-thừa, trong khi đó miền Nam thuộc Đại-thừa.
Thời kỳ thứ tư
: Ảnh hưởng Phật giáo Tích-Lan năm 1696, vua Parakramabahu cai trị
Tích-Lan
dưới ảnh hưởng lớn của Phật giáo. Vua là người đứng ra tổ
chức một hội nghị Phật giáo thế giới tại Maha Kassappa Thera
(Tích-Lan). Nhiều tăng sĩ từ Miến-Điện Pegu, Kambuja, Lào đều được
trao đổi sang Thái-Lan để học Phật giáo.
Năm 1300, sau khi
học ở Tích-Lan về, những tăng sĩ Thái-Lan, trước hết thiết lập
tại Nakon Sri Thammarath (miền Nam) nhiều trường Phật giáo chịu
ảnh
hưởng nền giáo dục theo Phật giáo Tích-Lan. Do đó, Phật giáo
Tích-Lan đã được phổ cập tại đất Thái-Lan.
Như vậy, Phật
giáo Thái-Lan trước đây chịu ảnh hưởng từ Ấn-Độ, sau dần dần
chuyển hướng sang Phật giáo Miến-Điện và cuối cùng ảnh hưởng
sâu đậm bởi Phật giáo Tích-Lan cho tới ngày nay. Phật giáo vẫn
được duy trì và phát triển với những ngôi Quốc-Tự tại đây,
với những Tăng sĩ A-xà-lê (A-Chan) và tinh thần Phật giáo đã
thấm nhập vào văn hóa, tư tưởng của dân tộc Thái-Lan qua tinh
thần Đại-thừa và Tiểu-thừa Phật giáo.
13.-
Phật Giáo Tây Tạng Có Từ Bao Giờ, Sự Phát Triền Ra Sao ?
Lịch sử Phật
giáo Tây-Tạng chỉ mới bắt đầu từ hậu bán thế kỷ thứ 7 và
đầu thế kỷ thứ 8. Vợ vua Srong-Tsan-Gam-Po là Hoàng-hậu xứ Nepal,
bà Bhrikuti và một người Trung-Hoa, bà Wang-Chen, là những Phật
tử.
Đây là giai đoạn mở đầu cho Phật giáo vào Tây-Tạng ở thế kỷ
thứ 7.
Vua Ti-Srong sang du
lịch Ấn-Độ và viếng các nơi Thánh tích Phật giáo, cũng như đã
mang về nước một số tác phẩm Phật giáo bằng tiếng Sanckri để
truyền bá cho dân chúng. Phật giáo Tây-Tạng ảnh hưởng từ Phật
giáo Ấn-Độ.
Triều đại
Ti-Srong-De-Tseu vào thế kỷ thứ 8, với việc tranh chấp quyền lực
quân sự đã diễn ra. Vua có ý hướng tôn quân như bậc
Thiên-tử, nên chống lại tôn giáo và gây khó khăn cho những
Tăng sĩ Ấn-Độ đang hành đạo tại Tây-Tạng. Em vợ vua là
Padmasam-bhava là một Phật tử thuần thành và là một trong những
giáo sư nổi tiếng của đại học Nalanda. Ông đến Tây-Tạng vào năm
747 và truyền bá đạo Phật, nhất là việc lập lại trật tự tôn
giáo, phương pháp tư duy ... đã được dân chúng nhiệt tình ủng
hộ. Vua Ti-Srong từ trần vào năm 786.
Một nhóm 7 Tăng
sĩ Tây-Tạng đã làm việc phiên dịch kinh Phật từ tiếng Phạn sang
tiếng Tây-Tạng. Một vị nỗi danh trong số đó là Vairocana, đã dịch
một số lớn những sách Phật nổi tiếng. Việc trao đổi quan hệ
giữa Ấn-Độ - Tây-Tạng nhờ những tác phẩm phiên dịch kia mà
thành tốt đẹp.
Những tác phẩm
của Thế-Thân, Vô-Trước, Long-Thọ Bồ-Tát, nhất là phần
Duy-Thức-Học đều đã được dịch sang tiếng Tây-Tạng. Người cháu
vua Ti-Srong-De-Tseu là Bons là một Phật tử lên kế vị năm 900,
nhưng
không nhiệt tâm ủng hộ và Phật giáo phải chịu đình trệ trong 2
thế kỷ.
Năm 1122, có Marpa
cũng như Padmasambhava đều không phải là tu sĩ Phật giáo, nhưng họ
là những người được dân chúng coi như bậc Tôn-sư hướng dẫn
tinh thần.
Năm 1575, nhà sử
gia nổi tiếng là Taranatha lập một chi nhánh của trường phái
Sa-skya-pa được điều hành bởi vị Thánh sống Ourga "Jetsun
Dampa" (Saint Reverend).
Vào những năm
đầu thế kỷ 16, vị đại thánh Lama d'Ourge đã từ trần. Lúc bấy
giờ trật tự, xã hội, chính trị trong nước trở nên rối ren.
Năm 1356, vua
Tsong-kha-pa thành lập triều đại Dge-lugs-pa là một hình thức tôn
giáo quốc gia và đây là thời kỳ mở đầu cho chế độ Đạt-Lai
Lạt-Ma, chúng ta ưa gọi là những vị Phật sống tại Tây-Tạng.
Từ khi có các vị
Đạt-Lai Lạt-Ma, Phật giáo dưới triều Dge-lugs-pa bành trướng rất
mạnh. Giáo pháp Đại-thừa được xiển dương rộng rãi. Những
Tăng sĩ được sự khuyến khích giúp đở, nhờ đó dân tộc
Tây-Tạng thấm nhuần được giáo lý đạo Phật như món ăn tinh
thần cần thiết.
Ngày nay nhìn vào
Phật giáo Tây-Tạng, người ta nghĩ ngay tới hình ảnh sống thực
của những vị Đạt-Lai Lạt-Ma mà chính dân tộc bản xứ cũng coi như
những vị Bồ-Tát hóa thân vậy.
phật giáo
Tây-Tạng được xem như là quốc giáo vì biết áp dụng tinh thần
từ bi, hùng lực của tôn giáo vào việc xây dựng quốc gia, đã
đem lại được cho toàn dân một nền hòa bình an lạc.
Bất hạnh thay năm
1959, Tây-Tạng bị Trung-Cộng đàn áp. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đời
thứ 14 phải lánh nạn sang Ấn-Độ, có đem theo khoảng 100,000 dân,
lập thành trung tâm Phật giáo. Từ đó đến nay đức Đạt-Lai
Lạt-Ma không ngừng vận động dư luận quốc tế cho dân tộc
Tây-Tạng thoát ách thống trị Trung-Hoa, đòi độc lập tự do.
14.-
Phật Giáo Úc Đại Lợi Có Từ Lúc Nào Và Sự Phát Triển?
Lịch sử Phật
giáo Úc là một câu chuyện ly kỳ khó tin nhưng đó là việc có
thật còn truyền lại nơi sử liệu : Một Tăng sĩ quốc tịch Hoa-Kỳ
muốn tranh tài với các người chị mạo hiểm đi từ Tích-Lan sang
Trung-Quốc vào thế kỷ thứ 18 như một chuyến du lịch không ngày về,
sau cũng đến Úc. Đó là Đại-Đức Dhammadina.
Dân tộc Úc chưa
biết gì nhiều về Phật giáo, ngoài việc đọc được một số các
sách dịch sang tiếng Anh, tư tưởng Đông-phương của chính những tác
giả người Âu Mỹ.
Đại-Đức
Dhammadina đã mở những cuộc vận động tinh thần rộng rãi, vì thế
đạo học Đông-phương, nhất là Phật giáo sớm ảnh hưởng tại
xứ nầy. Dưới sự bảo trợ của ông ta, nhiều Hội Thiền được
thành lập tại các đô thị lớn. Nhờ đó dân chúng hiểu biết về
Phật Pháp và cách thức thực hành Phật giáo. Đại-Đức Dhammadina
đã mở màn kỷ nguyên mới cho xứ Úc bằng tinh thần Phật giáo.
Vào những thế kỷ sau, nhất là ở thế kỷ 19 các Tăng sĩ Tích-Lan,
Miến-Điện, Thái-Lan cũng đã lần lượt đặt chân tới Úc. Họ
là những người mang đến tinh thần hòa bình, lợi tha của Phật
giáo. Dân tộc Úc ngày nay đã làm quen với các sinh hoạt Phật
giáo nhờ những cuộc vận động, lễ bái qua nghi thức Phật giáo
hằng năm.
Hiện nay tại Úc
có 3 Hội Phật giáo thành hình. Tổng số hội viên gồm cả trên 1000
người đang nghiên tu Phật giáo. Đó là Hội Thanh Niên Phật tử Úc
tại Victoria, Hội Phật giáo tại New South Wales. Hội có ra tờ bán
nguyệt san để phổ biến giáo lý Phật-Đà. Hội Phật giáo tại
Victoria và New South Wales họp thành liên minh Phật tử để thống
nhất
đường lối cũng như giúp đở nhau trong tinh thần từ bi, bình đẳng.
Hội cũng đã ra tờ bản tin "Metta" để truyền thông những
sinh hoạt cần thiết và một ít bài giáo lý căn bản. Tờ tạp chí
ấy nay cải danh thành Buddhism Today.
Trong tương lai,
Phật giáo Úc-Đại-Lợi như thế nào ? Từ năm 1970, số Việt kiều
mỗi ngày tới định cư tại Úc càng đông, trong số đó đa số là
Phật tử. Năm 1980, hai Hội Phật giáo Việt-Nam được thành lập tại
Sydney và Brisbane là Vietnamese Buddhist Society, cũng như hội
Phật giáo
vừa mới thành hình tại miền Tây Úc và số tín đồ ngày càng
đông hơn.
Với đà hoạt
động của các hội Phật giáo rầm rộ như thế, chắc chắn Phật giáo
còn lớn mạnh hơn tại xứ Úc. Theo như thống kê của Bộ Di Trú
Úc, số tín đồ Phật giáo vào năm 1994 là 150,000 người, và còn
tiếp tục gia tăng.
15.-
Phật Giáo Anh Quốc
Anh-Quốc cũng như
các nước Tây-phương khác, chưa biết nhiều về Phật giáo, mãi
đến thế kỷ thứ 19, dân tộc bản xứ mới có dịp tiếp xúc với
nền văn minh Đôn- phương qua các sách dịch kinh điển sang tiếng
Anh
và Pháp.
Ảnh hưởng mạnh
nhất là Thiền-sư D.T. Suzuki (người Nhật-Bản ở vào tiền bán thế
kỷ thứ 19), đã viết những tác phẩm về Phật giáo như "Essays
in Zen Buddhism", "Zen", và một trường Theravada do giáo sư Rhys
Davids thành lập vào năm 1927.
Đầu tiên ánh
sáng đạo Phật truyền vào Tây-phương như là một trong 5 tôn giáo
lớn của thế giới (Phật giáo, Thiên-chúa-giáo, Tin-lành,
Bà-la-môn và Hồi-giáo hay đạo Islam). Tuy nhiên, cho tới giữa thế
kỷ thứ 18, hai tôn giáo Lão và Khổng vẫn được xem như là những
tôn giáo lớn, rồi dần dần bị mất hết ảnh hưởng. Mãi tới nay
đạo Lão và đạo Khổng không còn đóng một vai trò gì đáng kể
trong sinh hoạt tinh thần nữa.
Năm 1907-1908, nhiều
học giả người Anh theo nghiên cứu kinh điển Đại-thừa. Đặc biệt
năm 1902, ông Robe thành lập hội Phật giáo lần đầu tiên tại xứ
nầy.
Năm 1905, ông R.J.
Jackson là một Phật tử đã vận động và lập trường Theravada để
truyền bá giáo lý Phật-Đà cho dân tộc bản xứ.
Năm 1924, các hội
Phật giáo như "The Original Buddhist Society of Great Britain và
Ireland"
được thành lập. Tại London có hàng ngàn người biết qua tư
tưởng Phật giáo bằng các sách và chính họ cũng thực hành Phật
giáo như là Phật tử.
Năm 1926, A.C. March
thành lập hội Phật giáo "Buddhism in England". Hội đã cho xuất
bản cuốn sách "What is Buddhism ?" vào năm 1928. Theo thư tịch,
hiện tại nước Anh có trên 3000 tác phẩm viết về Phật giáo, nhất
là Phật giáo phái Thiền.
Trong tương lai,
Phật giáo nước Anh sẽ ra sao ? Việc nầy còn tùy thuộc vào thái
độ và thiện chí của tất cả những Phật tử không những người
Anh mà nhất là người Việt-Nam hiện có mặt tại Anh quốc trong vòng
10 năm nay.
16.-
Phật Giáo Tích Lan Thời Kỳ Du Nhập Và Ảnh Hưởng
Theo sử liệu
chứng minh thì Phật giáo đã truyền vào Tích-Lan vào thế kỷ thứ 3
trước kỷ nguyên Tây lịch, đời vua Devanampiya-Tissa (250-210 B.C).
Lúc
bấy giờ vua Asoka trị vì ở Ấn-Độ, ra sức xiển dương Phật giáo.
Một phái đoàn truyền giáo do Mahinda cầm đầu gồm có 11 người,
trong số có 4 vị Tăng Ni và 7 Cư-sĩ đã tới đảo Tích-Lan.
Sự hoạt động
của phái đoàn Mahinda rất được vua Tích-Lan kính phục. Họ tổ chức
giảng kinh thuyết pháp và các lễ quan trọng khác. Lần thuyết pháp
đầu tiên nói về kinh "Tiếu tượng tích dụ" vua rất lấy
làm mãn duyệt. Phái đoàn đã quy tụ được đông đảo tín đồ,
nên vua tặng một khu vườn để làm tinh-xá gọi là "Đại-Vân
Viên". Đây là buổi bình minh Phật giáo Tích-Lan có ngôi chùa
đầu tiên còn gọi là Đại-Tự-Viện hay Maha-Vihara thuộc cứ điểm
của Phật giáo phái Thượng-tọa-bộ trên bán đảo Tích-Lan (đảo
Tam-Bảo). Sa-di Smara cũng đã có đem theo được một phần Xá-Lợi
của Phật và bình bát từ Ấn-Độ sang. Ngoài ra, em gái của Mahinda,
là Ni-cô Sanga-Mitta cũng mang theo được một nhánh con của cây
Bồ-Đề, nơi đức Phật ngồi tham thiền và chứng đạo khi xưa đem
tới trồng tại Tích-Lan. Cây Bồ-Đề nầy nay vẫn còn và giữ một
vai trò quan trọng trong tín ngưỡng Phật giáo tại Tích-Lan. Đồng
thời sau đó, ngôi chùa Bồ-Đề cũng được thiết lập bên cạnh
cây Bồ-Đề để nói lên lòng khát ngưỡng và tôn sùng Phật
giáo của dân tộc bản xứ. Cũng như để đánh dấu buổi đầu Phật
giáo có mặt tại Tích-Lan. Mahinda đến Tích-Lan năm 32 tuổi và nỗ
lực truyền đạo không ngừng nên là bậc trưởng lão, người đã
có công với Tích-Lan, như một ân nhân mang ánh sáng tới cho họ,
tịch vào năm 80 tuổi, xác được hỏa thiêu tại đó.
Vào đầu kỷ
nguyên Tây lịch, Phật giáo phái Đại-thừa hưng thạnh trở lại ở
Ấn-Độ, nhưng tình trạng Phật giáo Tích-Lan lúc bấy giờ vẫn không
có sự thay đổi, một phần do tình thế bất ổn định, phần vì việc
ảnh hưởng khi tiếp xúc với Phật giáo phía Nam Ấn-Độ để mong đem
lại nền hòa bình cho chính quốc không mấy tiến triển tốt đẹp.
Nhưng các đời vua kế tiếp nhìn thấy sự quan trọng của Phật giáo
nên lần lượt cho thành lập các tinh-xá và xây tháp mới để
phụng thờ, cũng như khuyến khích nhiều người xuất gia tu học Phật ;
nhờ đó, Phật giáo Tích-Lan sớm được phục hồi trở lại như
xưa.
Đến thế kỷ thứ
ba thì Phật giáo phái Đại-thừa được toàn thịnh. Một tín đồ
Phật giáo, thuộc phái Đại-thừa từ Ấn-Độ đến đem theo kinh
Phương-Quảng và truyền rộng khắp nơi tại đây. Nhưng tới đời vua
Voharika-Tissa (214-236) ra sức bảo vệ phái Thượng-tọa-bộ và ra
lệnh
cho người điều tra sự hoạt động của phái Đại-thừa. Kết quả
phái Phương-Quảng được coi là tà thuyết dị đoan nên bị đàn áp
và cấm chỉ ! Mặc dù bị áp chế, cấm đoán phái Đại-thừa vẫn
âm thầm hoạt động. Đời vua Gothbhaya (253-266) cho phục hồi phái
Vô-Úy Sơn-Tự (Abhayagiri-vihara), trong đó có 60 vị Tỳ-kheo thuộc
phái
Đại-thừa bị truy nả đến tận bờ biển Ấn-Độ. Thời kỳ nầy
phái Đại-thừa coi như bị tiêu diệt ! Trong khi đó, 300 vị Tỳ-kheo
khác tách riêng ra lập chùa Dakkina để thành một bộ phái mới, là
phái Sagariya.
Đời vua Maha-Sena
(276-303) cũng tín kính các bậc Tăng sĩ Phật giáo, nhưng cũng đặt
kế hoặc triệt hạ phái Đại-thừa. Ai bảo hộ phái nầy như Tỳ-kheo
Sangha-Mitra và Vương-phi đều bị xử phạt nặng nề. Các sách của
phái Phương-Quảng cũng bị đốt sạch. Tới đời vua Siri Meghavanna
(303-331), lên ngôi và nối chí Phụ-vương, ra sức phục hưng Phật
giáo và cho tái thiết những nơi di tích bị hư hoại cũng như các
chùa cũ đã mục nát. Mỗi năm vua đều thiết lễ kỷ niệm những
ngày vía Phật quan trọng và tổ chức cúng dường Trai Tăng, vì thế
có thể nói thời kỳ nầy Phật giáo thạnh hành nhất, nên được
người đời sau gọi là thời "hoàng kim của chiếc răng
Phật". Tương truyền về chiếc răng Phật như sau : Khi vua ở ngôi
vào năm thứ 9 (311), có Hoàng-hậu nước Caringa của Ấn-Độ là
Hemamara, cùng chồng là Danta-Kumara đến đảo Tích-Lan và mang theo
được cái răng cửa bên trái của đức Phật biếu cho nhà vua. Vua
cho an trí đệ phụng thờ trong đền Danmachakka do vua Tissa lập. Từ
đó
phái Phật giáo chùa Vô-Úy-Sơn mỗi năm đều có thiết lễ tế
răng Phật. Lễ nầy sau đã trở thành quốc lễ của Tích-Lan và mỗi
năm đều có tổ chức rước linh đình từ đền thờ sang chùa
Vô-Úy-Sơn.
Vua Kassapa đệ nhất
(477-495) giết cha để lên ngôi, về sau vì muốn hối tội lỗi nên lập
tinh-xá và mời chư Tăng về ở tu học cũng như ra sức duy trì bảo
hộ phái Thượng-tọa-bộ.
Từ thế kỷ thứ
6 trở đi, Tích-Lan có những cuộc dấy loạn nổi lên, do đó tình
thế bất an. Phật giáo cũng không phát triển được. Đến thế kỷ
thứ 7, vua Dhatupa-Tissa đệ nhất cũng là người ủng hộ Phật giáo,
vua lấy việc cầu kinh và làm phước để trừ được tai họa làm
phương châm trị quốc. Đến thời Sena đệ nhị (853-887) cũng xiển
dương Phật giáo, tổ chức tế lễ cầu nguyện cây Bồ-Đề trường
thọ để cho tương lai Phật giáo Tích-Lan được sáng ngời !
Cuối thế kỷ thứ
9 và thế kỷ thứ 10, Phật giáo bị đàn áp, chùa chiền bị phá,
tăng ni bị sút giảm, một số phá giới phạm trai rất trầm trọng.
Đây là thời kỳ mà quân Cola của Ấn-Độ sang quấy nhiểu biên
giới Tích-Lan.
Năm 1055-1110, vua
Vizaya-bahu đệ nhất, lên ngôi mới dẹp được loạn quân Cola để
đem lại nền độc lập cho Tích-Lan, mở ra thời kỳ Polonnarwa, cũng
như
ra sức phục hưng lại Phật giáo. Ở ngôi được 55 năm là thời
kỳ dài nhất trong lịch sử trị vì, sau vì có sự tranh dành ảnh
hưởng trong phái quý tộc và vua chúa, theo đó Phật giáo cũng bị
ngưng trệ.
Parakkama-bahu đệ
nhất (1153-1186) cũng ra sức chấn chỉnh lại Phật giáo như việc cải
tổ lại toàn bộ và cho thống nhất cả ba phái : Đại-Tự phái,
Vô-Úy-Sơn phái Và Kỳ-Đà-Lâm phái thành một phái Đại-Tự duy
nhất. Phái nầy được coi như trung tâm của Phật giáo lúc bấy
giờ. Ngoài ra những vị tăng sĩ nào phạm trai, phá giới đều
được cho hoàn tục. Đây là một cuộc cải cách táo bạo, nhưng
cũng đạt được nhiều hiệu quả sáng giá trong lịch sử Phật giáo
tại Tích-Lan. Một số các chùa chiền cũ mục đã được xây cất
mới trở lại. Vua còn ban bố "qui luật tăng đoàn" để làm
đẹp đoàn thể xuất gia. Nhưng sau khi vua mất, tình trạng đất nước
lâm vào cảnh rối ren kéo dài gần hai thế kỷ và Phật giáo phải
chịu chung cảnh ngộ ấy.
Vào Hậu bán thế
kỷ thứ 13, đời vua Vizaya-bahu đệ tứ (1270-1272) cũng là một tín
đồ Phật giáo thuần thành. Vua cho mở đại giới đàn truyền giới
Tỳ-kheo cho những tăng sĩ ưu tú, có đủ điều kiện, và một số
hoạt động cho Phật giáo khác rất đáng kể như chính vua thọ giới
Bồ-Tát và lấy tư cách là một Phật tử để thi hành việc quốc
gia, do đó ảnh hưởng rất thuận lợi cho Phật giáo.
Vua Bhuvaneka-bahu đệ
nhị (1293-1302) lên ngôi để chấm dứt htời kỳ Polonnarwa và lập ra
thờ kỳ Kerne-Gara. Tiếp tới đời vua Parakkama-bahu đệ tứ
(1302-1326)
là những thời kỳ tái thống nhất xứ sở và cũng là giai đoạn
phục hưng lại nền Phật giáo cổ truyền. Nhưng tới đời vua
Vaneka-bahu đệ tứ (1341-1351) lại tin theo Ấn-Độ giáo (Hindus) nên
có
sự thờ tự lẫn lôn giữa Phật với thần, mặc dù không bài
xích Phật giáo, Vua vẫn có một tín ngưỡng khác, do đó Phật giáo
thời kỳ nầy không có dấu hiệu phát triển như ở các đời vua
trước.
Vào Hậu bán thể
kỷ thứ 15, vua Bhavaneka-bahu đệ lục (1470-1476) rất tích cực
trong việc
phát triển và bảo vệ Phật giáo. Lúc bấy giờ tại Miến-Điện, vua
Dammacedi (1472-1492) một mặt lo kiến thiết xứ sở, mặt khác vua
muốn
Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng, nên cử một phái đoàn tăng
sĩ sang Tích-Lan để nghiên cứu kinh điển Phật giáo bằng tiếng Pali
tại Colombo, thủ đô của Tích-Lan.
Thế kỷ thứ 16,
Tích-Lan bị Hòa-Lan (Holland) và Bồ-Đào-Nha (Portugal) chi phối,
đến nổi
tiếng Bồ-Đào-Nha trở thành chữ Quốc-ngữ và có sự pha trộn
huyết thống hỗn tạp giữa hai dân tộc. Bị Bồ-Đào-Nha chi phối hơn
100 năm, sau đó Tích-Lan lại rơi vào sự thống trị của Hòa-Lan. Đây
là thời kỳ Phật giáo bị triệt hạ vào thế kỷ thứ 18 và đầu
thế kỷ thứ 19, bởi người Hòa-Lan đem đạo Thiên-Chúa và đạo
Protestant (Tin-Lành) truyền vào Tích-Lan. Vì thấy sự mai một của
đạo
Phật cổ truyền, nên khi lên ngôi vua Kitti siri Razasihi
(1747-1781) có ý
hướng muốn chấn chỉnh trở lại. Do lời đề nghị, vua cử Sa-di
Velivita Saranankara sang Thái-Lan để thỉnh kinh và tượng Phật về
thờ,
vào năm 1650, được vua Thái lúc bấy giờ là Danmika cử một phái
đoàn gồm 15 người, do Tỳ-kheo trưởng lão Upali cầm đầu mang theo
nhiều kinh điển và tượng Phật bằng vàng để tặng cho Tích-Lan. Năm
1753 một Đại-giới-đàn cũng được mở tại Colombo để truyền
Tỳ-kheo-giới. Vua cho sửa đổi lại quy ước tăng đoàn và phong
tăng cho Sa-di Velivita Saranankara, người có công lao lớn nhất
trong
việc thỉnh được phái đoàn và pháp khí, tượng Phật về thờ
tại Tích-Lan, là tăng đoàn vương (Sangharaza) ; đây là thời kỳ
Phật giáo huy hoàng rực rỡ và còn ảnh hưởng cho tới nay một
phái gọi là phái Siam, do phái đoàn Thái-Lan lập.
Sau khi thoát khỏi
sự thống trị của Hòa-Lan, Tích-Lan lại rơi vào ách thống trị của
người Anh từ năm 1832. Trải qua hơn 100 năm cho tới năm 1948,
Tích-Lan
mới thoát được ách đô hộ của ngoại bang và tuyên bố độc
lập. Từ đó đến nay Tích-Lan tìm về tình tự dân tộc trong tinh
thần lợi tha bình đẳng của Phật giáo.
Năm 1950 kỳ đại
hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên được tổ chức tại
Sri-Lanka, Colombo gồm có 27 quốc gia hội viên tham dự, trong đó
có
phái đoàn Phật giáo Việt-Nam, là dấu hiệu cho thấy tinh thần Phật
giáo đã bắt được theo nhịp sống của dân tộc Tích-Lan.
Ngày nay, theo sự
điều tra của chánh phủ Tích-Lan vào năm 1971, so với dân số thì
Phật giáo đồ chiếm 2/3 tổng số và chia ra như sau : Phật giáo
67.4%,
Ấn-Độ giáo 17.6%, Thiên-Chúa giáo 7.8%, đạo Islam 7.1% ngoài ra,
độ
1% dân số Tích-Lan theo các tín ngưỡng phức tạp khác.
Về sinh hoạt của
giới Tăng sĩ Tích-Lan hầu hết đều quấn y vàng và thực hành hạnh
khất thực (Phật giáo phái Nguyên-thủy hay Thượng-tọa-bộ) như hình
thức của đức Phật khi còn tại thế. Mỗi ngày chư Tăng chia thì
giờ ra như : Trì bát (đi khất thực), đọc kinh, tọa thiền, thọ
thực, học tập, xem sách ...
Hiện tại có hai
hình thức tăng đoàn : Một hình thức tu trên núi và ít tiếp xúc
với các sinh hoạt xã hội và một hình thức Tăng sĩ tu tại các
trung tâm Phật giáo trong đô thị. Phái tu trên núi thỉnh thoảng
mới
đi khất thực, phần đông đều có bổn đạo trợ lực trong việc
nuôi dưỡng tăng chúng, vì người tín đồ tin vào việc "phước
điền" nên họ cố gieo trồng phước đức vào ruộng phước nơi
chư Tăng để mong được quả phước.
Tóm lại, Tích-Lan
lấy Phật giáo làm quốc giáo. Các đời vua đều biết khế hợp
giữa tôn giáo và chính trị để đem lại cho dân tộc bản xứ
hướng đi đúng theo tinh thần đại hùng, đại lực, đại từ bi,
nên đã được độc lập, tự chủ cho đến ngày nay.
17.-
Phật Giáo Hàn Quốc : Thời Kỳ Du Nhập Và Ảnh Hưởng Ra Sao ?
Triều-Tiên (Hàn
quốc) là nước sớm chịu ảnh hưởng Phật giáo cũng như các
nước thuộc vùng Á Châu khác. Con đường gần gủi nhất từ
Trung-Hoa sang, Phật giáo cũng theo đó mà vào Đại-hàn vào hậu bán
thế kỷ thứ 4 Tây lịch.
Nước Cao-Ly (Koryo)
tên cũ của Hàn-quốc, tức Bắc-Hàn ngày nay, năm 372 Tây lịch,
Phật giáo từ Trung-Quốc truyền vào do các nhà sư người Hoa đem
lại, và được dân chúng tại đây nhiệt liệt tin tưởng trong việc
cầu phước để dựng nước và giữ vững quốc gia. Tư tưởng nầy
đã được triều đình khuyến khích dân chúng nên được nhiều
người tin theo. Có thể nói thời kỳ Phật giáo rất thịnh hành và
được xem như là quốc giáo. Những ngôi chùa như : An-Hòa,
Hưng-Quốc, Quốc-Thanh, Hưng-Vương, Diên-Phước, Pháp-Vương,
Vương-Luân, Đại-Dư, Khai-Quốc, Nhật-Nguyệt, Báo-Ân, Quy-Pháp,
Chấn-Quán, Cam-Lồ, Quảng-Phước ... đều được thành lập vào
thời kỳ nầy. Tăng lữ tu học rất đông do nhà nước cung cấp mọi
vật dụng hàng ngày. Vua rất kính trọng các bậc Tăng già như phong
chức cho các vị Tăng-Thống, Vương-sư và Quốc-sư. Chính nhà vua đã
thọ giới Bồ-Tát và lập tòa Bạch-Cao, Đạo-Tràng, đền
Khổng-Tước, Tiêu-Tai đạo tràng và lập hội Vu-Lan. Tất cả những
chi phí đều lấy của nhà nước ra xử dụng. Ngoài ra vua còn tổ
chức cúng dường cho 30,000 tăng sĩ.
Bán đảo
Triều-Tiên lúc bấy giờ chia thành 3 nước : Phía Bắc là Cao-Ly,
phía
Đông là Tần-La (Shilla), phía Tây là Bách-Tế (Pekutie) do chế độ
bộ
tộc chia ra để cai trị. Đó là thời kỳ Tam-Quốc vào hậu bán thể
kỷ thứ tư Tây lịch tại Hàn-quốc.
Theo tại liệu
"Tam quốc sử ký" thì Phật giáo sơ kỳ của thời đại
Bách-Tế vào năm 384 Tây lịch, đã được phát triển mạnh tại
đây. Những nhà quý tộc tôn sùng đạo Phật và nhiều ngôi chùa
được thành lập, tượng Phật, tranh vẽ cũng được tạc, họa ở
khắp các nơi trong nước. Đây là thời kỳ mà mỹ thuật Phật giáo
nổi bật và phong phú nhất tại Triều-Tiên.
Phía Đông của
Tần-La (một phần của Triều-Tiên) bị Trung-Quốc đời nhà Đường
(thế kỷ thứ 7) chi phối. Mỗi năm phải gởi sứ bộ sang "Thiên
Triều" để lãnh mệnh lệnh. Ngoài ra, chính quền thuộc địa còn
phải gởi du học sinh, lưu học tăng sang Trung-Quốc để học về nền
văn minh của nhà Đường. Nhờ sự trao đổi đó mà thời kỳ nầy
Phật giáo phát triển rực rỡ. Mọi nguyên lý chỉ đạo quốc gia
đều dựa theo tinh thần hòa bình của đạo Phật. Những chùa chiền,
tượng Phật, tháp chuông đều do nhà nước bỏ tiền ra tạo lập.
Nhà nước còn cung cấp ruộng đất cho chùa làm tài sản để sinh
hoạt tự viện trong việc nuôi dưỡng tăng chúng. Nhưng đến cuối
thời nầy, phần nhiều việc tạo dựng chùa chiền đều bị giảm sút,
thay vào đó, đến đời vua Trang-Vương (806) lại ra lệnh cấm xây cất
chùa mới.
Nhờ ảnh hưởng
của thời đại Tần-La, nên giới quý tộc, vua chúa biết lấy giáo
pháp Phật giáo để bảo hộ việc trị quốc an dân, do đó trải qua
nhiều triều đại các vị vua chúa vẫn tôn sùng đạo Phật. Đời
Văn-Võ-Vương (661-681) khi chết cho đốt xác, tro tàn thả trôi
trong
biển Đông-Hải theo lời di chúc, do ảnh hưởng sâu đậm về Phật
giáo lúc vua còn sống. Mỹ thuật Phật giáo đã đạt được tới
chỗ tuyệt vời. Ngôi chùa Phật-Quốc tại Khánh-Châu được dựng
vào đời vua Pháp-Hưng năm thứ 22 (535), sau tới đời Cảnh-Đức
thứ 50 (756) mới cho kiến thiết ngôi quốc tự nầy trở lại, cho
tới nay vẫn còn, chùa có điện Đại-Hùng lớn rộng và những
điện khác như Cực-Lạc, điện Tỳ-Lư, điện Quan-Âm, điện
Văn-Thù, điện thờ 500 vị thánh, điện thờ 1000 đức Phật v.v...
Trong cảnh chùa còn có cầu Bạch-Vân, cầu Thất-Bảo cao 10 mét và
tháp Đa-Bảo bằng đá vân là những công trình mỹ thuật cổ rất
công phu.
Đời vua
Thiện-Đức nữ vương (632-646) dựa vào thuyết vũ trụ của Phật
giáo lập nên đài Thiên văn đầu tiên tại Khánh-Châu.
Nhưng đến đời
nhà Lý vào thế kỷ thứ 15, Phật giáo dần dần bị mất ảnh
hưởng. Vua Lý-Thái-Tổ bắt đánh thuế chùa và đất ruộng của
chùa. Tới đời Thái-Tông bài xích Phật giáo rõ rệt như việc
giới hạn đến mức tối đa các sinh hoạt Phật giáo. Đời
Lý-Thế-tông (1418-1450) việc bài xích Phật giáo lại càng dữ dội
hơn như hạng chế người xuất gia, ban hành lệnh nghiêm ngặt cấm
không cho cất chùa.
Các thời đại huy
hoàng của Phật giáo không còn nữa, giới tăng sĩ bị khủng hoảng,
hàng quý tộc không còn đất đứng và coi như mất nước nên họ
tìm cách lánh nạn sang Nhật-Bản mà trong số đó có đủ thành phần
: Vương tôn, quý tộc, học giả, tăng sĩ, các nhà nghệ thuật, kiến
trúc sư, nhà binh pháp ... Họ tới Nhật-Bản lập nghiệp bằng cách
khai khấn đất hoang, khai phá các ngành kim thuộc, khoáng chất, mỏ
quặng ươm tơ ... rất phát đạt.
Chúng ta không lấy
gì làm ngạc nhiên, ngày nay tại Nhật-Bản người Đại-Hàn sinh sống
rất đông, vì trải qua mấy đời lập nghiệp và đã mang lại cho dân
tộc xứ Phù-Tang tinh thần Phật giáo và mỹ thuật cổ truyền. Họ
có một đời sống dễ thở hơn các dân tộc khác về mặt pháp
lý.
Hàn-quốc ngày nay
vẫn còn bị chia đôi đất nước. Bắc-Hàn theo chủ nghĩa duy vật
Cộng-sản. Nam-Hàn theo chủ nghĩa tư bản. Phật giáo còn duy trì và
phát triển ở phía Nam Triều-Tiên.
18.-
Phật Giáo Lào Quốc Thời Kỳ Du Nhập Và Sự Phát Triển
Các nước sớm
chịu ảnh hưởng của Phật giáo, thuộc vùng Á-Đông mà trong số
đó Lào-Quốc là một quốc gia đã hấp thụ Phật giáo theo con
đường truyền giáo phía Nam, tức là Phật giáo truyền theo con
đường bộ hay còn gọi là Nam-phương Phật giáo.
Thời kỳ phật
giáo du nhập vào nước Lào, cho tới đây chưa có sử liệu nào
chứng minh xác thực được cả. Tuy nhiên, căn cứ vào những dữ
kiện sau đây để chúng ta có thể xác định được rằng Phật giáo
đã tuyền vào nước Lào từ thế kỷ thứ 4 và đầu thế kỷ thứ
5 Tây lịch.
Theo một số sử
liệu thì từ thế kỷ thứ 4, Phật giáo đã truyền vào xứ Phù-Nam
(founan), tức là tên của Lào thời cổ, những nhà truyền giáo từ
Trung-Hoa đã đến đây và đạo Phật đã được người địa phương
tôn sùng như việc lễ bái, cầu kinh và dân chúng cũng đã biết tin
vào việc phước báo, nhân quả, luân hồi. Vùng Tchen-La là một trung
tâm Phật giáo thứ hai thuộc ảnh hưởng của người Chàm, tức là
ở về phía Nam hay Nam Lào đã có nhiều tín đồ theo Phật giáo. Sự
kiện nầy đã có ghi rõ trên các bia khắc bằng đá và đã được
khám phá tại miền Kratie và K'Orat vào khoảng thế kỷ thứ 7, cũng
như những tác phẩm của Yi-Tsing đều là những chứng minh cần
thiết.
Trải qua nhiều thế
kỷ, Phật giáo đã bắt được gốc rể tại đó và dân chúng tin
vào thuyết luân hồi quả báo của đạo Phật trong kiếp sua, nên
được các đời vua duy trì và bảo hộ. Thêm một chứng minh rõ
ràng nhất là vào năm 1356 dưới triều vua Fa-Ngum, tín ngưỡng Phật
giáo đã được phát triển sâu rộng trong dân chúng. chính bà
Nang-Keo Lotfa, vợ của vua, yêu cầu cho người sang Cambogde thỉnh
chư
tăng sang Lào để dân chúng được dịp tiếp xúc và tìm hiểu thêm
Phật giáo nước láng giềng. Một phái đoàn Phật giáo thuộc hệ
phái Theravada, do P'ra Maha Pasaman Chao cầm đầu đã đến vương
quốc
Lang-Xang, tức là tên cũ của Vương quốc Lào, theo lời yêu cầu
để xiển dương Phật pháp.
Tại Lào, những
ngôi chùa cổ, những pho tượng Phật bằng đồng tại Vientiane, cũng
như các pho tượng Phật bằng gỗ còn tồn tại cho tới nay là những
bằng chứng cho thấy Phật giáo đã đặt nền móng đầu tiên tại
Bắc Lào rồi dần dần lan rộng ra trong toàn quốc, tùy thuộc vào các
yếu tố của mỗi địa phương. Ở những vùng Trấn-Ninh, Bassac,
Luang-Brabang, đều có những ngôi chùa nổi danh hiện nay vẫn còn.
Nhờ ảnh hưởng Phật giáo lâu đời, do đó tư tưởng Phật giáo
cũng đã thấm nhập vào văn hóa và các sinh hoạt khác như : Các
ngày tết, việc tế tự, ma chay tại Lào.
Từ thế kỷ 15
trở đi cho tới hiện nay, Phật giáo Lào không có dấu hiệu nào cho
thấy có sự tiến triển nổi bậc đáng kể. Dân tộc Lào vốn ít,
đất đai lại hẹp và có một nền văn minh thấp, nghĩa là chậm tiến
hơn các dân tộc khác trong vùng Á-Châu. Dân chúng phần đông sống
bằng nghề nông, nên họ đã bị các thế lực chính trị lớn mạnh
hơn đồng hóa. Thời Pháp (1884-1954), Lào là một nước thuộc địa
của Pháp trong vùng Đông-Dương. Sau khi thoát khỏi ách đô hộ của
người Pháp, Lại lại bị chi phối bởi hai thế lực : Quốc-gia và
Cộng-sản. Cuối cùng vào năm 1975, Cộng-sản thắng thế ở Việt-Nam,
rồi toàn thể xứ Lào cũng bị nhuộm đỏ bởi quân Phathet Lào nhân
danh giải phóng quê hương của họ do sự cố vấn của chính quyền
Hà-Nội.
Ngày nay, Phật
giáo Lào có còn chăng cũng chỉ là một số những ngôi chùa cổ
và các di tích lịch sử, nghĩa là trên hình thức , trên thực tế
người dân bị khống chế bởi thế lực chính trị vô minh quốc
tế.
19.-
Lá Cờ Phật Giáo Thế Giới Tượng Trưng Cho Ý Nghĩa Gì, Cũng Như
Nói Qua Sự Xuất Hiện ?
Là cờ Phật giáo
thế giới là biểu tượng cho linh hồn của Phật giáo qua sự hiện
hữu của đạo Phật trong cuộc đời nầy.
Một điều mới
lạ là cờ Phật giáo mới xuất hiện sau đệ nhị thế chiến, mặc
dầu đạo Phật đã có một lịch sử lâu dài trên 2500 năm ! Người
có sáng kiến phát họa lá cờ Phật giáo là một nhà quân sự
Hoa-Kỳ, ông Henry Steel Olcoltt (1832-1907). Là một học giả Phật
giáo
uyên thâm và là một ký giả tài ba, ông từng phục vụ với
chức vụ Đại-Tá trong quân lực Hoa-Kỳ. Là người đắc lực trong
việc chấn hưng Phật giáo tại Tích-Lan. Ông là tác giả lá cờ
Phật giáo thế giới có một giá trị lịch sử, vì thế trong kỳ đại
hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên tại Sri Lanka, Colombo, vào
năm 1950, được Thượng-Tọa tiến-sĩ Hikkduwe Susmangala Thera,
Giám-đốc
Viện Đại-học Phật giáo Tích-Lan chuẩn nhận,
Năm mầu cờ
tượng trưng cho 5 sắc hào quang của đức Phật hay 5 căn như : Xanh
đậm (Tín), vàng (Huệ), trắng (Niệm), đỏ (Định), hồng (Tấn), và
một mầu tổng hợp bằng 1/5 của lá cờ. Ngoài ý nghĩa tinh thần ra
lá cờ Phật giáo còn tiêu biểu cho màu da, chủng tộc và tượng
trưng cho năm Châu nối liền nhau không cách ngăn ranh giới.
Phật giáo Việt-Nam
cũng như các nước Phật giáo thế giới ngày nay đều dùng thống
nhứt lá cờ Phật giáo 5 sắc và một màu tổng hợp nầy. Lần
đầu tiên tại kỳ đại hội Phật giáo Việt-Nam tại Hà-Nội (1951),
lá cờ Phật giáo thế giới tung bay trước đại hội, qua bài Phật
kỳ "Phật giáo Việt-Nam Thống Nhất Bắc Nam Trung từ nay ..." do
nhạc sĩ Lê-Cao-Phan sáng tác, đã đem lại cho người Phật tử niềm
phấn khởi, tin tưởng nơi các đại biểu Phật giáo toàn quốc.
Lá cờ Phật giáo
thế giới được dương cao lên ở bất cứ nơi nào, chứng tỏ
rằng ở đó chánh pháp được phát huy và con người thắm nhuần
trong giáo lý giải thoát, giác ngộ của đạo Phật vậy.
20.-
Tự Do Tôn Giáo. Thế Nào Là Tự Do Tôn Giáo ?
Trong bất cứ một
quốc gia nào mà tôn giáo bị cấm chỉ mọi hoạt động hay nhà cầm
quyền tìm đủ mọi cách để hạn chế sự sinh hoạt của đạo
giáo. Từ đó vấn đề tự do tôn giáo được đặt ra.
Không có tụ do
tôn giáo có nghĩa là tôn giáo không được quyền truyến bá sâu
rộng trong dân chúng tức là có hàm ý nghĩa mất cả sự tự do
thuộc lãnh vực tinh thần, một trong bốn quyền tự do căn bản như tư
tưởng, tín ngưỡng, ngôn luận và hội họp.
Tự Do Tôn Giáo
Và Tự Do Tín Ngưỡng Khác Hay Giống Nhau ?
Nhìn một cách
tổng quát thì tự do tín ngưỡng bao hàm một nghĩa rộng và nằm trong
khía cạnh chọn lựa. Bởi lẻ, mọi người khi sinh ra cho tới giai
đoạn biết nhận thức hay do truyền thống lâu đời, có quyền tin theo
bất cứ một vị giáo chủ của bất cứ một tôn giáo nào, kể cả
những vị thần linh, cho tới việc chú thuật, phù phép, đồng bóng,
luyện đơn, giáng cơ .., tức là tin theo những điều mà chính ta cho
là hợp lý và đúng thì không một ai nhân danh dưới bất cứ một
quyền lực hay danh nghĩa nào để tước đoạt được quyền tối
thượng nầy của con người cả. Từ đó, người ta mới phân biệt
được rằng tự do tín ngưỡng là giai đoạn còn đắn đo, cân nhắc
và lựa chọn mà con người phải có một thái độ dứt khoát
trước khi thực hiện đức tin. Trong khi đó, tự do tôn giáo mang
một ý nghĩa tích cực hơn thuộc về chiều sâu và đã nằm trong
khuôn khổ của lãnh vực tinh thần thuần lý tức là đức tin của
người tín đó đã đặt được cơ sở nơi tôn giáo mà họ đang
tôn thờ và tích cực bảo vệ, duy trì.
Bản tuyên ngôn
quốc tế nhân quyền được ban hành ngày 10/12/1948 nơi điều 18 cũng
đã qui định quyền tự do tín ngưỡng là một quyền thiêng liêng
bất khả xâm phạm. Tất cả mọi người sinh ra trên mặt trái đất
không phân biệt sang hèn, quí tiện, trai gái, già trẻ đều có quyền
chọn lựa đức tin thích hợp để tôn thờ như là một lý tưởng
cao cả của họ, không một ai có thể dùng thế lực để uy hiếp
buộc phải theo tôn giáo nầy hoặc tôn giáo khác.
Trước khi chưa có
bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và sau khi bản minh văn nầy ra
đời, quyền tự do tôn giáo có được tôn trọng một cách đúng
mức ?
Quyền tự do tín
ngưỡng (tôn giáo) đã bị đàn áp, tước đoạt dưới các chế
độ quân chủ chuyên chế, độc tài phát xít, cũng như ở nhiều nơi
trên thế giới, nhất là tại các nước Cộng-Sản nắm quyền. Do
đó, các nhà lãnh đạo các quốc gia yêu chuộng tự do trên thế
giới nhìn thấy tình trạng bi đát ấy và muốn cho quyền tự do tối
thượng của con người phải được tôn trọng, nên đã đồng ý
với nhau thảo soạn bản văn gồm các điều khoản căn bản của
quyền làm người mà vấn đề tôn giáo chiếm một phần quan trọng,
đã được ban hành 50 năm trước. Điều nầy cũng có nghĩa là từ
khi có mặt loài người trên mặt đất cho tới ngày nay đã trãi qua
một giai đoạn trường kỳ lịch sử, vấn đề giới hạn, ức chế,
đàn áp tôn giáo đã diễn ra nhiều nơi, nhưng vì con người chưa
đạt tời một trình độ văn minh đủ để nhận chân ra được đức
tin của mình đã bị tước đoạt phi lý. Hoặc giả, trong thời buổi
mà phương tiện truyền thông chưa được tinh vi ngày trước, con
người ở đâu có bị đàn áp cũng âm thầm lãnh nhận mọi hậu
quả và tiếng kêu cứu của họ, nếu có, quả thật rất bé bỏng
và vô hiệu !
Ngày nay, vấn đề
tự do tôn giáo không hẳn đã được tôn trọng đúng mức, nhất
là ở trong các chế độ độc tài, chuyên chính vô sản, chủ nghĩa
duy vật của người cộng sản phi nhân...vẫn còn bị cướp đoạt
quyền tối thượng nầy của người dân một cách quá đáng như tại
các nước Việt-Miên-Lào và một số quốc gia thuộc Á-Phi và
Châu-Mỹ La-Tinh.
Theo
Thích-Đức-Niệm, trong quyển "Nghiên Cứu Văn Học Việt-Nam Triều
Lý Và Văn Học Trung-Quốc" đã viết :
"Trong phạm vi
sinh hoạt của nhân loại được cấu thành bởi hai khía cạnh tâm linh
và cơ thể. Để cho đời sống được quân bình toàn vẹn thì giữa
đời sống vật chất và tín ngưỡng không thể thiếu một. Cũng như
loài chim phải đủ đôi cánh mới bay đi tự tại, loài người có
bộ chân mới đi lại được trong thiên hạ. Nguồn gốc của văn
hóa, triết học nhân loại đều từ tín ngưỡng tôn giáo mà thành.
Đạo Do-Thái (Thiên-Chúa) làm nẩy sinh ra Triết-học Tây-phương,
cũng
như đạo Nho, đạo Lão và đạo Phật là giềng mối của Triết-học
Đông-phương ..." (Luận án Tiến-sĩ Đại-học Sư-phạm Đài-Loan,
Thích-Đức-Niệm)
Vì thế, một khi
quyền tự do tôn giáo đã bị xâm phạm và tước đoạt, thì người
tín đồ của tôn giáo sẽ vùng lên tranh đấu bằng bất cứ giá
nào, để đòi cho được quyền nầy phải thuộc về toàn dân, kể
cả việc hy sinh thân mạng cho tôn giáo để được tự do, người ta
vẫn không tiếc đời sống vật chất tầm thường mà tinh thần bị
câu thúc, gò bó. Cũng vì nghĩa của hai chữ TỰ DO mà đã có
biết bao nhiêu vị Thánh-tử vì đạo đem đổi sinh mạng mình cho lý
tưởng của tôn giáo một cách hào hùng, bất khuất.
Vấn đề đời
sống tinh thần của con người càng bị chèn ép, ức chế, giới hạn
bao nhiêu, người ta càng vùng lên như một sức công phá ngấm ngầm
làm tan rả chế độ khát máu độc tài như lịch sử đã minh
chứng.
21.-
Việc Truyền Bá Của Phật Giáo Trên Thế Giới Ngày Nay Ra Sao ?
Phật giáo có một
lịch sử lâu dài nhất, phát xuất từ Ấn-Độ, do đức Phật
Thích-Ca Mâu-Ni làm giáo chủ từ năm 624 trước Tây lịch và tính cho
đến năm 1977 vừa đúng 2541 năm Phật lịch.
Phật giáo đã mang
lại cho nhân quần xã hội nói chung và các nước Phật giáo trên
thế giới nói riêng một sức sống tinh thần rất cao qua các lãnh
vực văn hóa, mỹ thuật, âm nhạc v.v... không phải nhỏ vậy. Phật
giáo có thể nói là một đạo hòa nhập vào xã hội loài người,
vì nơi nào ánh sáng chân lý được soi tới, nơi đó liền thích
hợp ngay với cơ duyên mà tồn tại. Tại các nước mà đạo Phật
đã truyền vào có một lịch sử lâu dài như Trung-Quốc, Nhật-Bản,
Triều-Tiên, Nam-Dương, Tích-Lan, Miến-Điện, Thái-Lan, Việt-Nam ...
đã
không ngừng thoát xác để thích nghi với từng hoàn cảnh của mỗi
nơi cho phù hợp với con người tại đó, đúng theo như tinh thần
tùy duyên nhi bất biến mà trong giáo lý đạo Phật có nêu ra. Đạo
Phật cũng biến thiên theo với dòng vận mệnh của các quốc gia,
tức là cùng trải qua những sự thăng trầm vinh nhục với tình
trạng chính trị mà đạo Phật đóng một vai trò quan trọng trong suốt
dòng lịch sử đấu tranh, nghĩa là cùng chia sớt nổi an nguy với
chính người trong cuộc. Nói như thế có nghĩa là đạo Phật không
rời dân tộc khi đã bắt tay vào xây dựng cho quốc gia hùng cường
và dân tộc thịnh vượng như Ấn-Độ thời Asoka, Nhật-Bản thời
Kamakura, Việt-Nam thời Lý-Trần.
Ngày nay Phật giáo
không phát triển rầm rộ ở chiều rộng mà có ảnh hưởng lớn
về bề sâu như một chất thẩm thấu sâu vào trong lòng dân tộc
không thể rời nhau được. Nếu có dịp đến Nhật, chúng ta sẽ thấy
tinh thần Phật giáo làm nhựa sống cho dân tộc xứ Phù-Tang. Thật
vậy, sự ngay thẳng, không tham lam, tính trung thành đã được giáo
dục cho con em từ thời kỳ mẩu giáo. Có người còn bảo : Nhật là
xứ "Cực-Lạc" cũng đúng phần nào. Mặt khác, Thiền Phật
giáo là môn học thực tiển đã được các học giả Tây phương
say sưa nghiên cứu và nhiều người Âu Mỹ đang thực hành Phật
giáo tại các trung tâm tu thiền quốc tế.
Phật giáo tiến
theo trào lưu của mọi thời đại mà tồn tại, chúng ta có thể nghĩ
rằng đạo Phật bị mai một dưới các xã hội chủ nghĩa, nhưng đó
chỉ là luồn sống ngầm chờ ngày thoát xác.
22.-
Hội Phật Giáo Thế Giới. Thành Lập - Mục Đích - Hệ Thống Tổ
Chức - Hoạt Động.
Phật giáo không
cần phô trương lực lượng, vì thế suốt hơn 2500 năm Phật lịch, kể
từ khi đức Phật Thích-Ca xuất thế, mới nhìn vào ta tưởng chừng
như Phật giáo thiếu sự tổ chức nhất trí. Do đó, các nhà nghiên
cứu Phật giáo muốn chứng tỏ một cách cụ thể, nên lập Hội
Phật Giáo Thế Giới.
- THÀNH LẬP :
Hội Phật giáo
thế giới (The World Fellowship of Buddhist : WFB) được thành lập
vào
ngày 25-5-1950 tại Sri Lanka, Colombo, thủ đô Tích-Lan, gồm có 27
quốc gia
hội viên thuộc Á Châu (1), Âu Châu và Bắc Mỹ. Đồng thời đây
cũng là đại hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên được tổ
chức tại một Quốc gia có truyền thống đạo Phật lâu đời.
- MỤC ĐÍCH :
Mục đích của Hội
Phật gGiáo Thế Giới là kết hợp rộng rãi các nước hội viên
Phật giáo trên toàn thế giới thành một khối duy nhất để trao
đổi những kinh nghiệm hoằng pháp giúp đỡ lẫn nhau trong tinh thần
từ bi, bao dung của Phật, để cùng nhau thực hành những lời Phật
dạy, cũng như để duy trì và phát triển Phật giáo ở khắp năm
Châu thuộc vùng ảnh hưởng của đạo Phật. Theo như tinh thần của
Bản Nội Quy được thành lập, Hội đã vạch đường hướng và
mục đích hoạt động :
- Đôn đốc việc
giữ gìn giới luật và thực hành theo lời Phật dạy.
- Thắc chặc tình
thân hữu huynh đệ giữa các nước Phật giáo thành một khối duy
nhất.
- Quảng bá sâu
rộng giáo lý Phật-Đà trong các môi trường sinh hoạt, đời sống
xã hội.
- Áp dụng Phật
giáo vào các lãnh vực xã hội, giáo dục, văn hóa và các phạm
vi nhân đạo khác.
- Đem lại nền hòa
bình thực sự cho con người và sự hạnh phúc cho nhân loại, cũng
như sẵn sàng hợp tác với những tổ chức có cùng một mục
đích.
- HỆ THỐNG TỒ
CHỨC.
Hội Phật Giáo
gồm có : Một Hội-trưởng và mười hai Hội-phó, hội trưởng
được chọn lựa trong số các đại biểu có uy tín nhất trong các
trung tâm Phật giáo địa phương, một Tổng-thư-ký, hai Phó
Tổng-thư-ký và một Thủ-quỷ. Văn phòng thường trực hay bổn bộ
của Hội PGTG không đặt cố định ở một nơi mà do các kỳ đại
hội được tổ chức hai năm một lần, quyết định. Từ năm 1950-1958
trụ sở của Hội PGTG đặt tại Colombo, thủ đô Tích-Lan (Sri Lanka).
Từ năm 1958-1963 văn phòng hội đặt tại Ngưỡng-Quang thủ đô
Miến-Điện (Burma), từ năm 1963 cho tới nay bổn bộ của hội đặt
tại Bangkok, thủ đô Thái-Lan.
- HOẠT ĐỘNG :
Hội Phật Giáo
Thế Giới hoạt động dựa theo các bộ môn sau đây :
- Tài chánh.
- Xuất bản, phiên
dịch, giáo dục, văn hóa và nghệ thuật.
- Hoằng pháp và
tổ chức.
- Xã hội.
- Hành chánh và
liên đới.
- Thanh niên.
Trưởng thành gần
50 năm (1950-1997). Hội Phật Giáo Thế Giới đã có những hoạt động
cụ thể như tổ chức được cho tới nay là 20 kỳ đại hội, gồm
các nước Phật giáo trên toàn thế giới tham dự tổ chức đại
hội. Đại hội PGTG được quy định tổ chức hai năm một lần để
kiểm điểm Phật sự đã qua và đặt kế hoạch hoạt động Phật sự
tại mỗi vùng hay mỗi trung tâm Phật giáo địa phương. Vào lần đại
hội thứ 5 tại Bangkok, năm 1958, HPGTG qui định ngày trăng tròn
tháng
tư âm lịch làm ngày Phật-Đản.
Trong chiều hướng
ấy, liệu hội PGTG có làm được gì để cứu nguy Phật giáo các
nước đang bị áp bức dưới chế độ bạo tàn của cộng sản như
Việt - Miên - Lào ?
Cho đến giờ phút
nầy, Phật giáo tại những nơi vừa nêu trên đã bị khống chế,
khủng bố, tiêu diệt bằng đủ mọi cách, dưới các chiêu bài lừa
bịp quần chúng Phật tử của người Cộng-Sản duy vật phi nhân, nhưng
chưa có dấu hiệu nào cho thấy hội PGTG tìm ra được một biện pháp
thích ứng cụ thể để giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả,
theo đúng với tinh thần tương hỗ mà hội đã vạch ra. Mặc dù, có
những thỉnh nguyện rất chính đáng như torng kỳ đại hội PGTH lần
thứ 12 nhóm họp tại Tokyo Nhật-Bản, từ ngày 1 đến 6 tháng 10 năm
1978, sáu vị tăng sĩ thuộc chi bộ Phật giáo Việt-Nam Thống-Nhất đã
tuyệt thực trước đại hội ba ngày để đưa những thỉnh nguyện
yêu cầu đại hội giải quyết :
- Yêu cầu đại
hội PGTG nỗ lực vận động cho hòa bình thế giới và nhân quyền
tại Việt - Miên - Lào.
- Yêu cầu đại
hội PGTG đưa vấn đề đàn áp nhân quyền và tôn giáo tại Việt-Nam
vào nghị trình đại hội.
- Yêu cầu đại
hội PGTG đề cử một phái đoàn quan sát sang Việt-Nam để gặp các
nhà lãnh đạo Phật giáo và các vị lãnh đạo tinh thần thuộc các
tôn giáo khác hiện đang bị giam giữ trong các lao tù Cộng-sản
Việt-Nam.
- Yêu cầu đại
hội PGTG can thiệp với chính quyền Cộng-sản Việt-Nam thả tức khắc
những tù nhân chính trị, tôn giáo và hàng trăm ngàn người yêu
nước khác đang ở trong các trại học tập cải tạo.
Đây là một vấn
đề mà ai cũng nghĩ là ngoài phạm vi của đại hội, nhưng ít ra các
khía cạnh liên quan tới tôn giáo phải được giải quyết tận gốc
với uy tín sẳn có của các nhà lãnh đạo PGTG.
Ngoài ra, Ủy ban
liên lạc Tăng Ni Việt-Nam tại Pháp cũng đặt ra ba điểm và yêu
cầu đại hội tìm biện pháp giải quyết :
- Vấn đề nhân
quyền phải được tôn trọng để mọi người trên thế giới góp
chung tiếng nói xây dựng cho nền hòa bình thực sự cho nhân
loại.
- Tìm cách can
thiệp với chính quyền ba nước Đông dương thả tức khắc các tăng
ni đã bị bắt giam trái phép cũng như các nhà lãnh đạo tinh thần
thuộc các tôn giáo khác. Ngăn chặn việc đập phá các tượng
Phật, chiếm đoạt chùa chiền một cách trái phép.
- Kêu gọi sự
họp tác chặt chẻ giữa các nước trên thế giới tìm cách giúp
đỡ hữu hiệu cho những người tị nạn đang còn lênh đênh trên
biển cả tìm tới đất liền nơi các nước tự do, đặc biệt là
các nước trong vùng Đông-Nam-Á.
Những thỉnh nguyện
đã được đại hội hứa giải quyết ổn thỏa, đã ghi vào bản
đúc kết của chương trình đại hội. Suốt trong thời gian một tuần
lễ, các đại biểu tham dự đại hội còn hứa sẽ vận động phong
trào địa phương ủng hộ cho công cuộc tranh đấu chính nghĩa của
chúng ta sớm đạt thành kết quả, chúng ta hãy chờ xem ...
GHI CHÚ
:
(1)
Kỳ
Đại Hội PGTG lần đầu tiên tổ chức tại Sri Lanka, Tích-Lan gồm có
27 nước hội viên tham dự, trong số đó có phái đoàn Phật giáo
Việt-Nam do Thượng-Tọa Tố-Liên làm trưởng đoàn phó hội. Lá
cờ PGTG được phổ cập tại Việt-Nam kể từ kỳ đại hội Phật
giáo toàn quốc năm 1951 tại Huế.
(2)
Các
kỳ Đại Hội PGTG đã được tổ chức tại các nước : Colombo,
Tích-Lan vào năm 1950, lần thứ nhất
- Tokyo, Nhật-Bản
lần thứ 2 vào năm 1952.
- Ngưỡng-Quang,
Miến-Điện lần thứ 3 vào năm 1954.
- Kathmandu, Nepal lần
thứ 4 vào năm 1956.
- Bangkok, Thái-Lan
lần thứ 5 vào năm 1958.
- Pnompenh, Cambodge
lần thứ 6 vào năm 1961.
- Sarnath, Ấn-Độ
lần thứ 7 vào năm 1964.
- Chieng Mai, Thái-Lan
lần thứ 8 vào năm 1966.
- Kuala Lumpur, Mã-Lai
lần thứ 9 vào năm 1969.
- Sri Lanka, Colombo
lần thứ 10 vào năm 1972.
- Bangkok, Thái-Lan
lần thứ 11 vào năm 1976.
- Tokyo và Kyoto,
Nhật-Bản lần thứ 12 vào năm 1978.
- Bangkok, Thái-Lan
lần thứ 13 vào năm 1980.
- Colombo, Tích-Lan
lần thứ 14 vào năm 1984.
- Kathmandu, Nepal lần
thứ 15 vào năm 1986.
- Los Angeles, Hoa-Kỳ
lần thứ 16 vào năm 1988.
- Seoul, Nam-Hàn lần
thứ 17 vào năm 1990.
- Taiwan, Đài-Loan
lần thứ 18 vào năm 1992.
- Bangkok, Thái-Lan
lần thứ 19 vào năm 1994.
- Dự định tổ
chức lần thứ 20 vào năm 1996 tại Tích-Lan, sau đó đổi sang Nam-Hàn
nhưng vì các biến cố chính trị tại 2 quốc gia nầy cho tới nay
(1997)
đại hội lần thứ 20 vẫn chưa triệu tập.
SÁCH
THAM KHẢO.
Hán-văn
:
1- Tối Tân Thật
Dụng Phật Học Tự Điển Đinh-Phước-Bảo, Hà-Tú-Bồi
Taipei 1976.
2- Trung-Quốc Phật
Giáo Sử và Phật Giáo Sử Tích Dương-Gia-Lạc Taiwan
1972.
3- Ấn-Độ Phật
Giáo Sử Lược Đạt-Danh biên Taipei 1970.
4- Lĩnh-Nam Chích
Quái Võ-Quỳnh hiệu đính.
5- Trung A-Hàm.
6- Trường
A-Hàm.
7- Tạp A-Hàm.
8- Tăng Nhất
A-Hàm.
9- Hán Việt Tự
Điển Thiều-Chữu.
10-
Tứ-Thập-Nhị-Chương Kinh.
11- Cao Tăng
Truyện Ven. Thích-Huệ-Đạo Taipei 1975.
12- Tân, Tục Cao
Tăng Truyện Hành-Dương, Dư-Vị-Am Taiwan 1973.
13- Tam-Tạng Pháp
Sư Truyện Thích-Huệ-Lập Taipei 1978.
14- Phật Học Ngũ
Thư Dương-Gia-Lạc Taiwan 1974.
15- Phật Học Đại
Cương Tạ-Mông Taiwan 1968.
16- Trung-Quốc Văn
Học Sử Việt-Nam Lý Triều Văn Học Chi Nghiên Cứu Ven. Dr.
Thích-Đức-Niệm Taiwan 1978.
Nhật-văn :
1- Shukyo Senshi Keitai
To Kiron Yanagawa Keiichi dịch 1972.
2- Betonamu No
Shukyo 1976.
3- Shukyo Gaku Hand
Book Mizunokogen & Shibatadoken 1976.
4- Bukkyo
Shi Yasuaki Nara 1979.
5- Nihonshi
Toro Sakamoto 1970.
6- Se
Kaizinmeijiten Kyogaku Kenkyusha 1980.
7- Sekai Zinmei
Jiten Naosuke Sato & Koji Hirata 1973.
8- Kodera
Junrei Eizaburo Saito 1980.
9- Kodai Jiin No
Seiritsu Masaji Shimizu 1979.
10- Kankoku Kodera
Hakkutsu Tomaru Katsumi 1980.
11- Tanbo Nihon No
Kodera 1980.
12- Bukkyo Shiso I &
II Mistu Yoshisaigusa 1975.
13- Toichi
Stushin Youshioka Roshi 1977-1980.
14- Bukkyo
Times Shoto Shu 1976.
15- Zen
Toichi Yoshi Oka 1978
16- Zen No
Tomo Shoto Shu 1975-1980.
17- Bukkyo
Daiziten Shikita.
Anh
Và Pháp-văn :
1- English - Japanese
dictionary Kenkyusha 1978.
2- La Rousse
Librairie Larousse 1979.
3- Presence du
Buddhisme France - Asie, Saigon 1959.
4- Essais sur le
Buddhisme Zen D.Z. Suzuki Paris 1954.
5- Buddhism & Zen in
Vietnam Ven. Thich-Thien-An Tokyo 1975.
6- Dialogue
Writers Laboi Saigon 1965.
7- Vietnamese Studies
& Their Relationships to Asian Studies.
8- L'art
Vietnamien Louis Bezacier Paris 1955.
9- History of Buddhist
Thought E.J. Thomas London 1933.
10- Le Buddhisme En
Annam, Des Origines Au 13e Siecle Tran-Van-Giap.
11- Beyond
Vietnam Edwin O. Reischauer Tokyo 1970.
12- Religions in
Japan William K. Bunce Tokyo 1959.
13- Buddhist Scriptures
Translated by Edward Conge London 1959.
14- Zen Philosophy, Zen
Practice Thich-Thien-An USA 1975.
Việt-văn :
1- Việt Nam Phật
Giáo Sử Lược T.T. Thích-Mật-Thể, Phật Học Viện Trung Phần
1960.
2- Việt Nam Phật
Giáo Sử Luận Nguyễn-Lang Paris 1978.
3- Hoàng-Việt Thi
Tuyển Đại học sư phạm Saigon.
4- Na-Tiên Tỳ-kheo
Kinh
5- Tứ-Phần Giới
Luật
6- Kinh
Pháp-Hoa T.T. Thích-Trí-Tịnh dịch 1966.
7- Phật Pháp
Thích-Minh-Châu, Thích-Thiên-Ân, Thích-Đức-Tâm, Thích-Chân-Trí
1959
8- Phật Học Phổ
Thông Thích-Thiện-Hoa
9- Đạo Phật Ngày
Nay Thích-Nhất-Hạnh
10- Đạo Phật Ngày
Mai B'sudanglu Saigon 1970
11- Đạo Phật Hiện
Đại Hóa Nhất-Hạnh Saigon 1965
12- Đạo Phật Đi
Vào Cuộc Đời Nhất-Hạnh Saigon 1964
13- Kinh
Pháp-Cú
14- Kinh Bác Đại
Nhân Giác Nhất-Hạnh dịch và chú giải Paris 1978
15- Tư Tưởng Việt
Nam Nguyễn-Đăng-Thục Khai-Trí 1964
16- Saigon Năm
Xưa Vương-Hồng-Sển Khai-Trí 1969
17- Sổ Tay Văn Hóa
Việt Nam Trương-Chính, Đặng-Đức-Siêu, Văn-Hóa 1978
18- 50 Năm Chấn
Hưng Phật Giáo Thích-Thiện-Hoa Saigon 1970
19- Văn Học Đời
Lý Ngô-Tất-Tố Khai-Trí 1960
20- Phật Giáo Việt
Nam Nguyễn-Đăng-Thục Saigon 1974
21- Thiền Học Việt
Nam Nguyễn-Đăng-Thục Saigon 1964
22- Thiền Học
Trần-Thái-Tông Nguyễn-Đăng-Thục Vạn-Hạnh
1971
23- Văn Học Sử
Phật Giáo Cao-Hữu-Đính Saigon 1971
24- Huyền Học Đạo
Phật và Thiên Chúa Giáo
25- Nghi Thức Tụng
Niệm
26- Tam Quy Ngũ
Giới Thích-Thanh-Từ
27- Nẽo Vào Thiền
Học Nhất-Hạnh
28- Chữ
Thời Kim-Định
29- Vấn Đề Quốc
Học Kim-Định Saigon 1971
30- Kim Cổ Kỳ
Quan
31- Việt Nam Văn
Hóa Sử Cương Đào-Duy-Anh Saigon 1971
32- Việt Nam Sử
Lược Trần-Trọng-Kim Bộ Giáo Dục 1968
33- Nho
Giáo Saigon 1971
34- Văn Minh Việt
Nam Lê-Văn-Siêu Saigon 1965
35- Tuấn, Chàng Trai
Nước Việt Nguyễn-Vỹ 1969
36- Từ Thực Dân
Đến Cộng Sản Hoàng-Văn-Chí NVTĐ Tokyo
1980
37- Một Cơn Gió
Bụi Trần-Trọng-Kim 1969
38- Việt Nam Phật
Giáo Tranh Đấu Sử Tuệ-Giác Saigon 1964
39- Tìm Về Dân
Tộc Học Lý-Chánh-Trung Saigon 1967
40- Phật Giáo Khái
Luận Mật-Thể, Minh-Đức 1971
41- Việt Nam Khảo
Cổ Tập San Bộ Quốc Gia Giáo Dục Saigon 1961
42- Dược Sư (Kinh
sám) Trí-Quang Saigon 1974
43- Thành Ngữ
Điển Tích Danh Nhân Từ Điển Trịnh-Văn-Thanh Saigon 1966
44- Hoàng-Lê Nhất
Thống Chí Nguyễn-Đức-Văn, Kiều-Thu-Hoạch dịch 1970
45- Nhận
Định Nguyễn-Văn-Trung Nam-Sơn 1966
46- Lược Sử
Triết Học Đông Phương Hoàng-Xuân-Việt Khai-Trí 1968
47- Đường Về
Cực-Lạc Thích-Trí-Tịnh 1970
48- Sám Giảng Thi
Văn Toàn Bộ Huỳnh-Phú-Sổ PG Hòa-Hão 1964
49- Ý Thức Mới
Trong Văn Nghệ và Triết Học Phạm-Công-Thiện, An-Tiêm 1966
50- Việt Nam Văn
Học Sử Yếu Dương-Quảng-Hàm Bộ Giáo Dục
1968
Các Tạp Chí
:
1- Hải Triều
Âm Tổng Vụ Văn Hóa Saigon
1973-1974
2- Phật Giáo Việt Nam
Tổng Hội PGVN Hoa-Kỳ 1978-1980
3-
Khuông-Việt Chi bộ PGVN Tokyo 1975-1980
4- Tư Tưởng Vạn
Hạnh Đại Học Vạn Hạnh 1964, 1970, 1973
5-
Khánh-Anh Chùa Khánh-Anh Paris 1976-1980
6- Dân
Tộc Sinh Viên Thụy Sĩ 1974-1980
7- Dân
Việt Hội Sinh Viên Tây Đức 1975
8- Young
East Hội Phật Giáo Tohokai Nhật 1977
9- Phổ
Thông Nguyễn-Vỹ Saigon
1962
10- Văn Hóa Á
Châu Hội Văn Hóa Á Châu Saigon
1956
11- Bản Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền 1948
12- Hiến Chương
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Saigon
1964
---
o0o
---