CHƯƠNG 6
TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO
1.- Các Tông Phái Phật
Giáo Được
Phân Chia Như Thế Nào?
Đức Phật xuất
thế vì lòng đại bi, đem giáo pháp giải thoát chỉ dạy cho tất cả
mọi chúng sanh. Tùy theo căn cơ, lãnh vực của người thực hành
Phật giáo mà phân chia ra Tiểu-thừa hay Đại-thừa.
Sau
khi đức Phật
diệt độ, các chúng đệ tử ý thức rõ bổn phận của mình đã
tổ chức các kỳ kiết tập kinh điển. Có tất cả bốn lần trùng
tuyên giáo pháp của Như-Lai tại bốn địa điểm khác nhau :
- Lần
kiết tập
thức nhất tại thành Vương-Xá, do ngài Ma-ha Ca-Diếp triệu tập 500
vị
Đại-Đức Tỳ-kheo liền sau khi Phật nhập diệt để trùng tụng lại
những lời Phật đã giảng thuyết rải rác khắp nơi trong 49 năm, khi
Ngài còn tại thế. Lần kiết tập nầy không ghi chép lại bằng văn
tự mà do trí nhớ của những bậc hiền giả cao đức thuộc nằm
lòng những lời dạy thâm áo của Phật. Mặt khác, lúc bấy giờ
chưa có giấy mực cho việc in ấn, vì thế một phần lớn các kinh
điển được ghi trên lá bối nên gọi là : Bối-diệp kinh. Ngoài ra,
ngài Ba-Sư-Ca (Caspa) cũng triệu tập tăng chúng lại một địa điểm
khác để kết tập kinh điển, đó là nguyên nhân đầu tiên chia
thành hai bộ phái : Thượng-tọa-bộ và Đại-chúng-bộ.
- Lần
kiết tập
thứ hai, chuyên giải quyết về những nghi vấn trong giới luật, đã
diễn ra tại thành Tỳ-Xá-Ly gồm 700 vị Đại-Đức Tỳ-kheo, sau khi
Phật nhập Niết-Bàn 100 năm, do ngài Da-Xá chủ tọa.
- Lần
kiết tập
thứ ba vào năm 200 năm sau khi đức Bổn-Sư thị tịch, do vua A-Dục
triệu tập 1000 vị Đại-đức và các bậc Thiện-hữu-tri-thức tại
thành Hoa-Thị. Lần nầy kinh điển được tổ chức biên chép thành
bộ loại và ngài Mục-Kiền-Liên được bầu làm chủ tọa.
- Lần
kiết tập
thứ tư, sau khi Phật diệt độ 600 năm, do vua Ca-Nị-Sắc-Tra chủ
xướng
và nhóm họp tại thành Ca-Thấp-Di-La, gồm 1,500 người do ngài Hiếp
tôn giả và ngài Thế-Hữu chủ tọa. Việc ghi chép kinh điển bằng
hai thứ văn tự Pali và Sanskrit lần nầy có phần hoàn bị hơn trong
lần kiết tập thứ ba.
Mục
đích của
việc kiết tập giáo pháp của đức Phật là để quảng bá sâu
rộng tinh thần từ bi, vô ngã, lợi tha của Phật giáo đến khắp
mọi nơi.
Vào
thế kỷ thứ
8 và 9 có các ngài Long-Thọ, Di-Lặc, Vô-Trước thành lập các tông
như Trung-Quán, Du-Già, Duy-Thức cũng để truyền bá giáo pháp của
Phật-Đà sâu rộng theo nhu cầu của thời đại.
Việc
chia các tông
phái bắt nguồn từ Ấn-Độ, sau Phật giáo truyền vào Trung-Quốc
(thế kỷ 1 Tây-lịch, năm 67, niên hiệu Vĩnh-Bình thứ 10) và tinh
thần
Phật giáo cũng biến thái cho phù hợp với dân tộc, nên Phật
giáo lại chia ra thành 13 tông phái khác nhau như sau : Tỳ-Đàm,
Thành-Thật, Luật, Tam-Luận, Niết-Bàn, Địa-Luận, Tịnh-Độ, Thiền,
Nhiếp-Luận, Thiên-Thai, Hoa-Nghiêm, Pháp-Tướng và Chân-ngôn-tông.
Việc lập tông của Phật giáo Trung-Quốc lại ảnh hưởng dây chuyền
sang Phật giáo Nhật-Bản, vì Phật giáo Nhật-Bản ảnh hưởng sâu
đậm từ Phật giáo Trung-Quốc, và theo từng giai đoạn lại chi ra
thành 8 tông, 9 tông, 10 hoặc 12 tông như : Tam-Luận, Pháp-Tướng,
Pháp-Hoa, Câu-Xá, Thành-Thật, Luật, Thiên-Thai, Chơn-ngôn-tông và
sau
thêm vào Thiền-tông thành 9 tông phái và dần dà có thêm
Tịnh-độ là 10 tông. Ngoài ra, còn có thêm Tịnh-độ-chơn-tông và
Nhật-liên-tông tức là 12 tông phái tất cả.
Phật
giáo Việt-Nam
cũng chịu ảnh hưởng bởi Phật giáo Trung-Quốc, nhưng chỉ phái
Thiền-tông là được phổ thông hơn cả. Còn các tông khác như
Tịnh-Độ, Thiên-Thai ... cũng có người nghiên cứu và tu tập, nhưng
tầm ảnh hưởng không sâu rộng như Thiền-tông. Sau có tông
Tịnh-độ cũng gần như sát nhập vào với Thiền-tông làm một về
nội dung lẫn hình thức.
Ngày
nay các tông
phái thạnh hành nhất tại các nước theo Phật giáo như Nhật-Bản,
Trung-Quốc, Tây-Tạng, Thái-Lan, Tích-Lan ... là pháp môn tu thiền
định
mà tầm ảnh hưởng của nó cũng rất lớn mạnh ở khắp Âu,
Mỹ.
2.-
Câu Xá Tông Căn Cứ Vào Đâu Để Thành Lập Và Do Ai Khởi
Xướng ?
Bộ Luận-Câu-Xá
do ngài Thế-Thân tạo, nói cho đủ là "A-Tỳ-Đạt-Ma
Câu-Xá-Luận", có hai nhà dịch giả là ngài Trần-Chơn-Đế và
ngài Huyền-Trang.
Bản
dịch trước
đã bị thất truyền. Đến đời nhà Đường (thế kỷ thứ 7) ngài
Huyền-Trang sau khi đi tham học ở Ấn-Độ về mới dịch lại bộ Luận
Câu-Xá.
Tông
Câu-Xá hẳn
do ngài Trần-Chơn-Đế khởi xướng thành lập tông, nhưng không thấy
dấu hiệu phát triển. Bộ Luận-Câu-Xá gồm có 9 phẩm và 30 quyển.
Nội dung gồm 5 phần : 1- Giải thích, 2- Vạn loài, 3- nhân quả của
mê
lầm, 4- nhân quả của tỏ ngộ, 5- luận về vô ngã. Đây là bộ
Luận thuộc Tiểu-thừa mà ngài Thế-Thân Bồ-Tát lập để đối lại
lối lý luận của Tiểu-thừa về pháp Tứ-Đế và trạng thái an
lạc của Niết-Bàn. Ngài căn cứ vào bộ Luận Đại-Tỳ-Bà-Sa gồm
có 200 quyển để rút tỉa ra ý chính cho Câu-Xá-Luận.
Tông
Câu-Xá bị
thất truyền ngay nơi phát nguyên ra, không phải lý do chính là
tông
chỉ lập tông thuộc Tiểu-thừa mà do thiếu người kế thừa. Mặc
dù không được truyền bá sang các nước khác như các tông phái
khác, tông Câu-Xá vẫn giữ một thế đứng độc tôn trong số 13
hệ phái Phật giáo ở Trung-Quốc trong hơn 10 thế kỷ.
Ngày
nay, tông
Câu-Xá chỉ còn được nhắc đến trong giới Phật giáo cũng chỉ
thuộc về phạm vi nghiên cứu hơn trên thực tế.
3.-
Tông Thiên Thai Phát Xuất Từ Đâu ? Do Ai Thành Lập Vào Thời Nào
Và Y Cứ Bộ Kinh Gì Lập Tông ?
Thiên-thai-tông
phát xuất từ Phật giáo Trung-Quốc, do ngài Thiên-Thai Trí-Giả
Đại-sư thành lập tại núi Thiên-Thai. Ngài mở đạo tràng giáo
hóa đồ chúng tại đó nên lấy tên là tông Thiên-Thai.
Vào
đời nhà
Tùy (thế kỷ 7 Tây-lịch) có ngài Thiên-Thai, tên tự là Đức-An,
một bậc danh Tăng cao đức mở trường giảng kinh Pháp-Hoa,
Luận-Trí-Độ, kinh Niết-Bàn ... cho nhiều người tu đắc và y cứ
vào đó Ngài lập tông Thiên-Thai. Tông Thiên-Thai lấy kinh Pháp-Hoa
làm căn bản, căn cứ vào bộ Luận-Trí-Độ làm kim chỉ nam và lấy
kinh Niết-Bàn làm điểm tựa. Ngài Thiên-Thai là người kế thừa
tông pháp của ngài Huệ-Văn Đại-sư. Đời Bắc-Tề (566) ngài
Huệ-Văn căn cứ vào bộ Luận-Trung-Quán để phát minh được cái
diệu lý của các pháp. Sau truyền xuống ngài Nam-Nhạc Huệ-Tư. Ngài
Huệ-Tư truyền xuống ngài Thiên-Thai Trí-Giả là người kế thừa
tông môn đời thứ 3. Sau khi ngài Trí-Giả Đại-sư viên tịch có
các ngài Chương-An tổ thứ 4 ; Thiên-Cung tổ thứ 5 ; Tả-Khê tổ
thứ 6 ; Tạm-Nhiên tổ thứ 7 ... kế tục nối dòng y pháp. Nhờ sự
triển khai rộng rãi trong tông môn của ngài Thiên-Thai mà tầm ảnh
hưởng rất lớn lao trong Phật giáo Trung-Quốc lúc bấy giờ.
Nhờ
đó tông
Thiên-Thai được truyền sang Nhật-Bản và duy trì được kế tục mãi
cho tới ngày nay.
Tại
Việt-Nam, tông
Thiên-Thai cũng được nhiều người biết đến, nhưng tầm ảnh
hưởng không mấy lớn rộng như Thiền-tông.
Việc
phân chia
tông phái trong Phật giáo chỉ có lợi khi nào các hàng đệ tử
của Phật biết cùng nhau tu dưỡng và phát huy tinh thần Phật giáo
để quảng bá sâu rộng trong dân gian ; còn như việc phân chia trong
tánh cách chia rẽ vì bè nhóm, địa phương, thầy tổ, óc kỳ thị, cố
chấp, hẹp hòi ... là những mối nguy cơ cho Phật giáo, không đưa
lại được một lợi ích nào cả.
Khi
nói đến tông
Thiên-Thai là người ta luôn nhắc tới tên ngài Trí-Giả, người
đã có công đầu trong việc toàn thành pháp môn tu tập mà chư tổ
đã di chúc nối dòng tông phái được duy trì bất tuyệt trong dân
gian.
4-.
Tông Hoa Nghiêm, Người Sáng Lập Và Dựa Vào Đâu Làm Tông Chỉ
?
Tông Hoa-Nghiêm
phát xuất từ Phật giáo Trung-Quốc vào đời nhà Đường (608-907) do
ngài Đế-Tâm Đỗ-Thuận sáng lập.
Dựa
vào bộ kinh
Hoa-Nghiêm để lập tông và có chia ra thành 5 hình thức giáo hóa
khác nhau gọi là Hoa-Nghiêm ngũ giáo như : Tiểu, thỉ, chung, đốn,
viên (tiểu thừa, đầu mối, cuối cùng, đạt đến đích và thành
chánh quả tức giải thoát).
Kế
truyền ngài
Đỗ-Thuận có các Ngài : Vân-Hoa Trí-Nghiêm Pháp-sư là tổ thứ 2,
ngài Hiền-Thủ Pháp Tạng Pháp-sư tổ thứ 3, ngài Thanh-Lương
Trừng-Quán tổ thứ 4 cho đến đời tổ thứ 5 là ngài Quế-Phong
Tông-Mật Thiền-sư.
Đến
đời nhà
Tống (thế kỷ 9 Tây-lịch) các ngài Mã-Minh, Long-Thọ tiếp nối
truyền
đăng giáo pháp của tông Hoa-Nghiêm và là tổ thứ 6 và thứ 7
vậy. Bộ kinh Hoa-Nghiêm được xem như là vua của các kinh. Theo
truyền
thuyết, kinh Hoa-Nghiêm đang còn nằm bí mật tại Long-Cung, được
ngài
Long-Thọ vận dụng sức thần thông đến đó lấy được quyển hạ
đem về truyền lưu trong dân gian. Chính Hòa-Thượng Đỗ-Thuận là Hóa
thân của ngài Văn-Thù Bồ-Tát đã căn cứ vào bộ kinh nầy để
thành lập tông Hoa-Nghiêm và là vị Sơ tổ kế truyền chánh pháp.
Tông Hoa-Nghiêm được truyền bá sâu rộng là nhờ sự biết triển
khai giáo lý Đại-thừa như thập huyền môn (1), lục tướng (2), ngũ
giáo để làm ra các sách luận giải nhiều vô số, nhất là lý
nghĩa sâu sắc của kinh Hoa-Nghiêm như ánh sáng mặt trời rọi chiếu
khắp không gian vô tận.
Giáo
lý Phật-Đà
gồm hai tính chất là khế-lý và khế-cơ tức là dù triển khai cách
nào đi nữa cũng phải cho phù với chân lý và hợp trình độ căn
cơ của người lãnh hội. Tông Hoa-Nghiêm cũng từ chỗ khế hợp
đó mà chánh pháp được truyền đăng là công đức không thể
nghĩ bàn mà chỉ có các bậc thiện căn ngộ đạo mới làm
được.
********
(1( và
(2) xem bài nói chương V
5.-
Tông Lâm Tế Được Truyền Thùa Ra Sao Và Ai Là Người Chủ Xướng
?
Tông Lâm-Tế là
một trong 5 tông thuộc về Thiền-tông. Tông Lâm-Tế từ lúc tổ
Huệ-Năng (đất Tào-Khê) truyền xuống tới các ngài Nam-Nhạc,
Mã-Tổ, Bách-Trượng, Hoàng-Mai tới ngài Lâm-Tế Nghĩa-Huyền là
tổ thứ 5 nối dòng tông pháp.
Nhưng
phải nói
chỗ phát nguyên của tông Lâm-Tế là do tổ Bồ-Đề Đạt-Ma, tổ 28
của Phật giáo Ấn-Độ sang truyền giáo tại Trung-Quốc vào đời nhà
Lương (thế kỷ 6 Tây-lịch) và phó pháp cho ngài Huệ-Khả. Từ ngài
Huệ-Khả kế tục truyền lưu dòng Thiền cho tới đời Lục-tổ
Huệ-Năng. Đời thứ 6 dòng Lâm-Tế là ngài Thạch-Sương-Viên
Thiền-sư, dưới Ngài lại chia ra làm hai phái là Dương-Chi và
Hoàng-Long.
Phật
giáo Việt-Nam
ảnh hưởng dòng Thiền-Lâm-Tế rất sớm, do ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi,
người Thiên-Trúc đến ruyền đạo tại Trung-Quốc, nhưng Phật giáo
ở đó lúc bấy giờ đang bị ách nạn vào đời Võ-Đế Bắc-Chu
(574 Tây-lịch), Ngài bèn đến Quảng-Châu (giáp giới Bắc Việt) để
dịch kinh Tượng-Đầu Báo-Nghiệp Sai-Biệt từ chữ Phạn sang chữ
Hán. Đời nhà Chu (580 Tây-lịch) niên hiệu Đại-Tường thứ 2, Ngài
sang Việt-Nam trụ tại chùa Pháp-Vân (tỉnh Hà-Đông) dịch kinh
Tổng-Trì. Năm 594 Ngài truyền tâm pháp cho ngài Pháp-Hiền rồi
tịch.
Dòng Lâm-Tế do ngài Pháp-Hiền kế truyền được cả thảy là 19
đời cho tới năm 1916 và được 31 vị kế thừa ngôi
Pháp-bảo.
Tại
Việt-Nam còn
một phái thiền thứ 2 do ngài Vô-Ngôn-Thông là sơ tổ. Ngài đến
nước ta vào đầu thế kỷ thứ 9 (820) ở chùa Kiến-Sơ (tỉnh
Bắc-Ninh). Sau truyền pháp cho ngài Cảm-Thành Thiền-sư rồi tịch
vào
năm 826, niên hiệu Bảo-Lịch đời Đường. Dòng Vô-Ngôn-Thông
truyền đến thế kỷ 13 là 15 đời pháp và 40 vị cao đức kế tục
truyền bá chánh pháp. Tông Lâm-Tế thạnh hành mãi và sau có các
ngài Minh-Hải Pháp-Bảo đến Hội-An, Quảng-Nam lập nên chùa
Chúc-Thánh để truyền pháp và dòng thiền Lâm-Tế Việt-Nam tới nay
truyền được là 44 đời pháp (ngài Minh-Hải đến Hội-An đời
chúa Nguyễn thế kỷ 17).
Tông
Lâm-Tế
không mấy thịnh hành tại Nhật-Bản, vì thiền Tào-Động với tầm
ảnh hưởng quá sâu rộng đã làm cho tông nầy không tìm ra thế
đứng trong giới Phật -giáo tại đây, nhưng lại thích hợp tại
Trung-Quốc, Việt-Nam ....
6.- Tông Pháp Tướng Là
Gì ? Dựa Vào Kinh Nào Và
Do Ai Khai Sáng ?
Tông Pháp-Tướng
là một trong 13 tông phái thuộc Phật giáo Trung-Quốc, lấy chỗ rốt
ráo tận cùng về tánh, tướng của vạn pháp để thành lập tông,
nên gọi là Pháp-Tướng.
Căn
cứ bộ kinh
Giải-Thâm-Mật, phẩm "Nhất thiết pháp tướng" và cũng dựa
vào luận Duy-thức, cho rằng vạn pháp do thức biến để tạo thành
nên tông Pháp-Tướng còn gọi là tông Duy-Thức.
Lấy
thâm ý của
phẩm Du-Già trong kinh Giải-Thâm-Mật thì cái lý của Không và Hữu
ứng nhiếp lẫn nhau tạo thành viên mãn chân thật. Đó cũng là
thâm ý của phẩm Thắng-Nghĩa-Đế trong kinh Giải-Thâm-Mật, nên có
một tên gọi khác cho tông Pháp-Tướng là Thừa-giáo, tức là ý
nghĩa đức Phật nói pháp lần thứ 3 trong các thời thuyết giảng
chánh pháp. Tông Pháp-Tướng đã được ngài Khoán-Cơ chùa
Từ-Ân Trung-Quốc khai sáng nên còn có tên là tông Từ-Ân. Tông
chỉ đều dựa vào bộ kinh cốt cán Giải-Thâm-Mật và các bộ luận
như Du-Già, Duy-Thức ... Căn nguyên sâu xa của tông Pháp-Tướng đã
phát nguyên từ Ấn-Độ, sau khi đức Phật nhập Niết-Bàn khoảng 1000
năm có ngài Bồ-Tát Vô-Trước từ nơi giảng đường thuộc nước
A-Du-Đà, hằng đêm thường lên cung trời Đâu-Suất để nghe Phật
Di-Lặc giảng luận Du-Già. Ngài Vô-Trước bèn giảng thuyết lại
luận Du-Già cho đại chúng và hình thành được 100 quyển. Sau ngài
Vô-Trước có em là Thế-Thân cũng làm ra luận Duy-Thức và đề cao
giáo nghĩa do anh chủ xướng nên lúc bấy giờ tông Pháp-Tướng
còn gọi là tông Du-Già.
Khi
ngài Huyền-Trang
đời Đường đến Tây-Thiên-Trúc và thọ giới ngài Giới-Hiền
ở chùa Na-Lan-Đà và tông Du-Già hay Pháp-Tướng được truyền sang
Trung-Quốc. Khi vào Trung-Quốc tông ý Pháp-Tướng được triển khai
do
tông môn của phái chùa Từ-Ân kế tục nối truyền.
Tông
Pháp-Tướng
thuộc về lý nên khó cho người có căn cơ trình độ thấp thực
hành. Ngày nay việc kế thừa tông pháp vì thế không còn được
phát huy sâu rộng trong giới Phật giáo nữa.
7.-
Tông Tịnh Độ : Người Sáng Lập Và Căn Cứ Vào Kinh Gì Để Tu
Chứng ?
Tông Tịnh-độ là
một tông phái có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian trong thời
kỳ mạt pháp để hướng dẫn hành giả con đường tu tắt cầu sanh
về thế giới Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà, sau khi chết.
Tông
Tịnh-độ từ
ngài Phổ-Hiền là sơ tổ. Ngài chuyên tu tập pháp môn niệm Phật
cầu vãng sanh về cảnh giới an lạc. Trong đời mạt pháp, pháp môn
tu tập dễ thực hành và chứng đắc nhất chỉ có tông Tịnh-độ.
Tại Trung-Quốc, Nhật-Bản, Việt-Nam pháp môn niệm Phật có nhiều
người tu tập, vì thế tư tưởng tông Tịnh-độ được xiển dương
rộng rãi và gần như đã gắn liền song song với Thiền-tông làm
một. Tại Trung-Quốc, vào đời nhà Tấn (381) có ngài Huệ-Viễn ở
núi Lô-Sơn chuyên việc đề xướng pháp môn tu Tịnh-độ và có
thành lập hội Tịnh-độ Liên-xã, đã kết nạp được 123 người
vào trong hội để thực hành Phật giáo. Đời Ngụy có ngài
Đàm-Loan, đời Đường ngài Đạo-Trác đều là những vị danh Tăng
thiền đức chuyên tu pháp môn Tịnh-độ. Tông Tịnh-độ còn có tên
khác là Liên-tông, cũng rất thạnh hành tại Nhật-Bản.
Tại
Việt-Nam, tông
Tịnh-độ vào đời Lý Trần (thế kỷ 10-12) đã được pha trộn với
Thiền-tông và mãi cho tới nay trong các thiền môn Việt-Nam còn
chịu
ảnh hưởng của hai luồng tư tưởng nầy như torng thời tụng kinh
Tịnh-độ buổi tối gồm các kinh Di-Đà, niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà,
chú Vãng-Sanh và Sám-Nguyện-Thập-Phương thuộc về Tịnh-độ và các
bài thần chú Đại-Bi, Bát-Nhã Tâm Kinh, danh hiệu chư Phật, Bồ-Tát,
thuộc về Thiền, và các bài thần chú thuộc Chơn-ngôn-tông.
Pháp
môn tu
Tịnh-độ rất dễ thực hành và có thể áp dụng cho bất cứ hạng
tuổi nào, vì hành giả chỉ cần việc chuyên tâm chánh niệm là
đủ.
Đức
Phật Thích-Ca
đã nói kinh Di-Đà để dẫn dắt chúng sanh con đường tu nhanh chóng,
vậy thì hành giả nên thực hành pháp môn niệm Phật để được
vãng sanh Cực-Lạc.
8.-
Tông Thành Thật : Việc Truyền Pháp VÀ Tông Yếu Thế Nào ?
Tông Thành-Thật
phát nguyên từ Ấn-Độ, là tông sau cùng của việc thành lập tông
phái và lấy chỗ tánh tướng của Tiểu-thừa hay căn cứ vào bộ
"Thành-Thật-Luận" của ngài Ha-Lê-Bạt-Ma tạo để lập ra một
tông gọi là Thành-Thật.
Khởi
đi từ pháp
Tứ-Đế : Khổ, tập, diệt, đạo mà vạn vật hình thành. Người nào
muốn diệt khổ phải tinh tấn tu hành mới đạt được, là chân lý
đúng cho mọi hoàn cảnh, thời gian. Thành-Thật còn có nghĩa là
trung
tín với chính mình và thật tâm tự trọng đới với người. Hành
giả phải gạn lọc tâm phiền não để tu tập các pháp lành tức
là không tự dối mình và luôn luôn có tinh thần cầu tiến với
các đức tánh : Khoan dung, chân thật ... Người tu hành không tự
cao
ngã mạn mà cần phải hòa đồng vào trong đại chúng để học hỏi
kinh nghiệm và tu luyện trí, đức cho được vẹn toàn.
Tông
Thành-Thật
khi truyền đến Trung-Quốc lại chia ra thành 3 tông : Thành-Thật,
Nam-tông và Bắc-tông. Đến đời nhà Lương (thế kỷ 6) có ngài
Tam-Đại Pháp-sư cũng y cứ vào tông yếu tổ truyền để hành đạo
và triển khai thêm chỗ cốt yếu của tông môn mà thành.
Tại
Nhật-Bản và
Việt-Nam, tông Thành-Thật không được thạnh hành. Tuy nhiên, cho
tới nay tông Thành-Thật vẫn còn tồn tại, nhưng sự bành trướng
không được mạnh như các tông : Tào-Động, Lâm-Tế, Tịnh-Độ
...
9.- Tam
Luận Tông Căn Cứ Vào Đâu Để Thành Lập ? Do Ai Khai Sáng Ra Tông
Nầy ?
Tam-Luận-Tông y
cứ vào luận tạng để thành lập. Lấy 3 bộ luận : Trung-Luận do
ngài Long-Thọ tạo với 500 bài kệ và 27 phẩm ; Thập-Nhị-Môn-Luận
cũng do ngài Long-Thọ tạo. Trong ấy các pháp môn có chia ra thành
12
nên gọi là Thập-Nhị-Môn ; Bách Luận, do đệ tử ngài Long-Thọ là
ngài Đề-Bà tạo, gồm 20 phẩm, mỗi phẩm 5 bài kệ và tổng số là
100 bài kệ nên gọi là Bách Luận để thành hình tông chỉ của tông
nên gọi là Tam-Luận-Tông.
Tông
Tam-Luận
khởi nguyên từ Bồ-Tát Văn-Thù sau truyền đến ngài Mã-Minh và
ngài Long-Thọ là đời pháp thứ 3. Đến đời ngài Long-Thọ có 2
người đệ tử và được chia ra thành 2 nhánh : Nhánh thứ nhất
từ ngài Long-Thọ truyền xuống các ngài Long-Trí, Thanh-Biện,
Trí-Quang,
Sư-Tử-Quang ; nhánh thứ hai kể từ ngài Long-Thọ kế tục truyền
xuống ngài Đề-Bà, La-Hầu-La, Đa-Sa-Xa-Vương-Tử và ngài La-Thập.
Ngài La-Thập khi đến Trung-Quốc đã tận lực dịch bộ Tam-Luận. Đối
với Phật giáo Trung-Quốc về Tam-Luận-Tông thì ngài La-Thập là vị
cao tổ. Ngài truyền xuống cho đệ tử có hơn 3000 người. Trong số
đó đáng kể nhất là các ngài Đạo-Dung, Tăng-Thục, Tăng-Kích,
Đạo-Sanh đều là những vị trước thuật rất nhiều để xiển dương
giáo nghĩa của tông môn và được người đương thời gọi là
Tứ-Kiệt vậy. Kế ngài Đạo-Sanh có các ngài Đàm-Tế, Tăng-Cẩn,
Đạo-Thú. Sau ngài Đàm-Tế có ngài Đạo-Lãng. Kế ngài Đạo-Lãng
có ngài Tăng-Thuyên ở vào đầu đời Bắc-Tề và việc truyền lưu
tông pháp được liên tục không dứt. Sau ngài Tăng-Thuyên, các vị
cao tăng thay nhau kế tục truyền thừa tông pháp là các ngài
Pháp-Lãng, Biện-Công, Huệ-Dũng, Huệ-Bố đều lấy những tác phẩm
trước thuật của thầy làm tông yếu cho việc truyền pháp. Sau đó
có Đại-sư Gia-Tường y cứ vào 3 bộ luận căn bản nói trên để
xiển dương giáo nghĩa Đại-thừa của Tam-Luận-Tông và từ Ngài
trở về trước gọi là Cổ-Tam-Luận hay còn được gọi là Tam-Luận
của miền Bắc.
Tam-Luận-Tông
ngày
nay không thấy còn được duy trì, nhất là đối với Phật giáo
Nhật-Bản và Phật giáo Việt-Nam.
10.-
Địa Luận Tông Do Ai Thành Lập Và Việc Kế Truyền Tông Pháp ?
Địa-Luận-Tông
căn cứ vào Thập-Địa-Luận (*) để thành lập nên gọi tên theo chỗ
luận về các pháp viên dung vậy.
Phật
tánh đồng
nhất, nhưng theo tinh thần Hoa-Nghiêm lập thành 3 kỳ thành Phật mà
không cho rằng nhất niệm thành Phật, nên gọi là "phi viên
giáo". Thập-Địa-Luận trong kinh Hoa-Nghiêm hội thứ 6, phẩm thứ
nhất và phần luận thích kinh Thập-Địa biệt hạnh có các ngài
Luận-sư Kiên-Huệ, Kim-Cương-Quân và Thế-Thân cùng nhau luận giải
chỗ rốt ráo về lý tánh của vạn pháp. Ngày nay, căn cứ vào
Thập-Địa-Luận của ngài Thế-Thân làm luận dẫn cho việc thành lập
tông.
Đời
nhà Lương
có các ngài Quang-Thống, Huệ-Thuận, Đạo-Thận là những bậc danh
tăng đứng ra đề xướng giáo nghĩa của tông nầy. Tới đời
Đường, tông Hoa-Nghiêm thạnh hành, do đó tông Địa-Luận cơ hồ ít
được người lưu tâm tới.
Mỗi
tông phái
được thành lập là do công trình nghiên cứu, áp dụng và quảng
bá của người sáng lập, rồi sau đó truyền lưu cho các thế hệ kế
tiếp kế tục duy trì và phát triển thì tông môn mới được tồn
tại. Tông Địa-Luận, căn cứ vào chỗ thâm áo của các bộ luận
của ngài Thế-Thân tạo để hình thành. Khi đến Trung-Quốc, tông
phái nầy chỉ được kế thừa trong một giai đoạn rồi phải bị đình
thoái mà nguyên nhân chính hẳn giáo nghĩa quá cao sâu không theo
kịp
với trình độ của người tu tập.
Tông
Địa-Luận cho
tới nay chỉ còn lại trên danh nghĩa và sử liệu truyền pháp, còn
trên thực tế không có dấu hiệu nào cho thấy sự tồn tại, ngay
chính nơi phát tích ra tông như Trung-Quốc cũng vậy.
--------
(*) Thập
địa : Hoan-hỷ địa, ly-cấu địa, phát-quang địa, diệm-huệ địa,
cực-nan-thắng địa, hiện-tiền địa, viễn-hành địa, bất-động địa,
thiện-huệ địa, và pháp-vân địa. Ngoài ra còn có 2 các phân biệt
khác nhau theo Tiểu-thừa và theo bộ luận Trí-Độ cũng đều chỉ các
giai đoạn tu đạt đạo của các hàng Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát
vậy.
11.-
Nhiếp Luận Tông Do Ai Sáng Lập Và Việc Kế Truyền Ra Sao ?
Nhiếp-Luận-Tông
lấy từ bộ luận Nhiếp-Đại-Thừa của ngài Vô-Trước. Sau đó hai
ngài Thế-Thân và Vô-Tánh đều có tạo thêm luận Nhiếp-Địa-Thừa
và tông nầy được thành lập căn cứ vào bộ luận nói
trên.
Đời
nhà Lương,
ngài Chân-Đế dịch bộ luận của ngài Vô-Trước và của ngài
Thế-Thân. Đời nhà Đường, ngài Huyền-Trang cũng dịch bộ luận
của ngài Vô-Trước và của 2 ngài Thế-Thân, Vô-Tánh. Chánh pháp
được truyền lưu y cứ vào các bộ luận dịch nầy mà truyền bá
rộng ra là Nhiếp-Luận-Tông. Đương thời có ngài Huệ-Khoảng thân
cận để nghe ngài Chân-Đế giảng bộ luận Nhiếp-Đại-Thừa và
đồng thời còn có các vị sa-môn như Pháp-Thường, Trí-Nghiễm cũng
nghiên cứu bộ luận nầy. Sau đó những vị Thiền-đức kế tục con
đường nghiên cứu là các ngài Đạo-Khuyết, Huệ-Hưu ở vào
đời Trần, đời Tùy đều đề xướng giáo nghĩa của tông nầy.
Nhưng đến khi tông Pháp-Tướng được đề xướng, thì tông chỉ
của Nhiếp-Luận-Tông không còn nữa. Có phải chăng giáo pháp tùy
duyên nhưng bất biến và vì thế mà danh nghĩa của tông có đổi thay,
song việc hoằng truyền chánh pháp không thay đổi.
Các
bản dịch của
ngài Chân-Đế gọi là cựu dịch, trong khi đó bản dịch của ngài
Huyền-Trang gọi là tân dịch. Căn cứ vào văn mạch và tánh cách
để truyền thông giáo nghĩa Phật-Đà mà người đời gọi như thế,
cũng có phần nào đúng theo ngôn ngữ thông thường ngày nay.
Như
vậy,
Nhiếp-Luận-Tông là một trong 13 tông phái thuộc Phật giáo
Trung-Quốc
mà không phổ cập được ở các nước theo Phật giáo Đại-thừa
như các tông khác.
12.-
Tông Chơn Ngôn Căn Cứ Vào Bộ Kinh Gì Để thành Lập Và Do Ai Chủ
Xướng ?
Chơn-ngôn là tông
phái thuộc Đại-thừa Phật giáo vừa có tính cách bí mật lại
vừa có tính cách siêu hình, nên vượt ra ngoài việc nghĩ bàn của
chúng ta.
Phật
là bậc đã
giác ngộ, tu đạt được chánh quả mới hiểu thấu suốt được
chỗ sâu sắc của những lời mật ngữ, do đó, tông Chơn-ngôn còn
có tên khác gọi là Chơn-ngôn Đà-la-ni.
Các
tông thuộc
Đại-thừa Phật giáo như Pháp-Tướng y cứ vào phẩm "Pháp
Tướng" trong kinh Giải-Thâm-Mật. Trong khi đó, Tam-Luận-Tông y cứ
vào chỗ lý luận biện chứng trong giáo lý để lập tông ; còn
tông Thiên-Thai lại căn cứ vào chỗ trụ xứ nơi chánh bổn của
kinh Hoa-Nghiêm để lập tông, tông Chơn-ngôn lại do nơi mật ngữ
(lời lẽ bí mật khó diễn tả) trong tam mật ngữ để thành lập
tông chỉ.
Tam
mật là gì ?
Đó là ngữ mật, thân mật và tâm mật. Theo truyền thuyết, quan
niệm cho rằng đức Phật Đại-Nhựt Như-Lai một thuở nọ đã vượt
qua cõi tam giới ở cõi trời Sắc-cứu-cánh và chứng ngộ được
Kim-cang-tát-đỏa, do nơi nội tâm phát ra, tức là thành Phật và
chính Ngài nói kinh Đại-Nhựt để giáo hóa quần sanh mà tông
Chơn-ngôn y cứ vào kinh nầy để lập tông.
Cũng
như tông
Niết-Bàn, tông Chơn-ngôn không được truyền bá thạnh hành tại
Việt-Nam, Trung-Quốc mà chỉ có Phật giáo Nhật-Bản ngày nay còn duy
trì và phát triển tông phái Chơn-ngôn. Tổng bổn sơn của tông
Chơn-ngôn đặt tại Cao-Dã-Sơn thuộc huyện Wakayama ở miền nam nước
Nhật. Nơi đây có cả một làng Phật giáo gồm 6 ngôi tổ đình trên
núi như một làng du lịch nổi tiếng cho du khách từ nhiều nơi đến
viếng thăm Nhật-Bản vào những dịp nghỉ hè.
Tông
Chơn-ngôn
trong cách hành trì cũng có phần nào khác với các tông
Tào-Động, Lâm-Tế ... vì trong tự thể của nó đã có phần bí mật
mà hành giả tin rằng chỉ có niềm cảm ứng thì đạo mới giao hòa
được.
13.-
Luật Tông Do Ai Thành Lập VÀ Căn Cứ Vào Đâu Hình Thành ?
Luật tông căn
cứ vào giới luật để thành lập. Luật là một trong 3 tạng kinh
điển của Phật giáo, nhờ giới luật mà duy trì được mạng mạch
của người tu hành.
Luật-tông,
người
khởi xướng là ngài Đạo-Tuyên tu ở núi Nam-Sơn vào đời nhà
Đường, y cứ vào bộ Luật-Tứ-Phần (xem bài riêng) để hoằng
truyền giới pháp nên gọi là Luật-tông. Nguyên lai của bộ
Luật-Tứ-Phần có từ sau Phật nhập Niết-Bàn khoảng 100 năm (444
năm trước Tây-lịch), ngài La-Hán Đàm-Vô-Đức lập riêng thành
một bộ. Khi Phật giáo truyền đến Trung-Quốc thì bộ Luật-Tứ-Phần
được dịch sang tiếng Trung-Hoa, cho đến đời Đường, ngài Nam-Sơn
mới hệ thống hóa lại và lập nên một tông phái. Đương thời
có 3 nhà Luật-sư chuyên đề xướng bộ Luật-Tứ-Phần là ngài
Pháp-Khoáng chùa Nhật-Quang, đất Tương-Châu, y cứ vào bộ
Luận-Thành-Thật để tạo ra bộ Luật-Tứ-Phần sớ gồm có 10 quyển
; ngài Đạo-Tuyên căn cứ vào Luận-Duy-Thức làm ra bộ
Luật-Tứ-Phần hành sự sao, 3 quyển vào ngài Hoài-Tố chùa
Tây-Thái-Nguyên tạo ra bộ Luật-Tứ-Phần khai thông ký, gồm 10
cuốn. Cả 3 nhà Luật-sư trên đều ở vào đời Đường, đã có
sự tranh chấp nhau chỗ thành lập tông bất đồng nên gọi là 3 nhà
Luật-sư vậy.
Luật-tông
lấy
giới luật làm đầu trong việc tu học và để răn cấm người tu
giữ gìn đúng luật. Mặt khác, tông nầy không được phổ cập
rộng rãi trong quần chúng, một phần vì bộ Luật-Tứ-Phần là giới
luật dành riêng cho hàng xuất gia, một phần vì sự tranh chấp nhau
giữa các nhà luật gia chủ trương, và do đó Luật-tông chỉ hình
thành được trong một giai đoạn mà không có tính cách lâu
dài.
Trên
phương diện
phân chia tông phái, Luật-tông cũng như một phần ưu thế trong cách
truyền pháp, tuy không gây được nhiều ảnh hưởng như các tông
Thiền, Tịnh-độ ....
14.-
Tông Niết Bàn Lấy Kinh GÌ Làm Tông Chỉ Và Do Ai Sáng Lập ?
Tông Niết-Bàn là
một trong số 13 tông thuộc Phật giáo Trung-Quốc. Tông Niết-Bàn y
cứ
vào bộ kinh Niết-Bàn để lập tông. Lập luận cho rằng Phật tánh
thường trụ bất biến theo đúng như tinh thần của kinh Niết-Bàn mà
đức Phật đã giảng dạy cho các hàng đệ tử trước khi Ngài
viên tịch. Vào đời Lương có ngài Đàm-Vô-Sấm là người đầu
tiên dịch bộ kinh Niết-Bàn từ chữ Phạn sang chữ Hán. Đến đời
nhà Tống (thế kỷ thứ 10) có các ngài Huệ-Thành, Đàm-Vô-Thanh,
Tăng-Trang, Đạo-Uông, Tĩnh-Lâm, Huệ-Định, Đàm-Võ, Siêu-Tấn,
Pháp-Đao, Đạo-Đăng, Đàm-Độ, Đạo-Thành là những vị cao tăng
thạc đức viết sách làm sớ văn truyền bá chánh pháp sâu rộng
bằng cách xiển dương giáo nghĩa và chỗ thâm áo của kinh Niết-Bàn.
Đời Tùy (581) thì có các ngài Tịnh-Ảnh, Trí-Huy, Pháp-Khoáng,
Đạo-Trác ... là những vị cao tăng lấy kinh Niết-Bàn làm tông chỉ
cho việc biện đạo nhiếp chúng. Đến đời Đường (608-907) có các
ngài Đạo-Tuyên, Pháp-Bảo, cũng đều y cứ vào lý thú của kinh
Niết-Bàn mà hoằng pháp lợi sanh. Tông Niết-Bàn sau nầy được
sát nhập vào với tông Thiên-Thai là một.
Ngày
nay tại
Trung-Quốc không lấy tông Niết-Bàn làm tông chỉ mà chỉ còn lại
tông Thiên-Thai. Việc thay đổi có nhiều lý do mà điều chính yếu
vẫn do nhân tâm không thấu đạt được diệu lý của kinh điển mà
thành.
Tông
Niết-Bàn
tại Nhật-Bản và Việt-Nam cũng không mấy phát triển. Tông nầy
được nhắc tới như là một sự nghiên cứu hơn là trên thực
tế. Có người còn cho rằng, tông Niết-Bàn là một tông phái kém
linh động, vì trước khi Phật sắp nhập diệt Ngài mới nói ra kinh
nầy. Điều nhận xét trên không đúng, vì việc truyền bá chánh
pháp là do chư Tổ kế thừa, còn giáo lý gồm trong 3 tạng kinh điển
của Phật luôn luôn vẫn là chân lý có một giá trị thực tiển
để xây dựng cho xã hội nhân gian một nền hòa bình an lạc và
pháp tu chứng đạt đạo.
Trong
Phật giáo
bất cứ tông phái nào biết áp dụng đúng mức tinh thần vị tha,
vô ngã để đem lạm lợi ích cho mình và người khác đều được
duy trì và phát triển lớn mạnh.
15.-
Phái Đại Thừa Phật Giáo Phát Triển Như Thế Nào Tại Các Nước
Trên Thế Giới Ngày Nay ?
Ngay sau khi đức
Phật Thích-Ca nhập Niết-Bàn, trong Phật giáo đã chia ra làm 2 bộ
phái là Thượng-tọa-bộ và Đại-chúng-bộ hay Tiểu-thừa và
Đại-thừa.
Sau
Phật nhập diệt
khoảng 100 năm, các bộ phái được chia thành 20 tông khác nhau. Từ
đó mỗi tông hay bộ phái đều giữ một đặc tính riêng trong việc
kế truyền Phật Pháp. Ngày nay, các tông như Lâm-Tế, Tào-Động,
Hoa-Nghiêm, Pháp-Tướng, Tịnh-Độ ... đều được duy trì và phát
triển tại các nước sớm ảnh hưởng Phật giáo như Nhật-Bản,
Trung-Quốc, Triều-Tiên, Tây-Tạng ... Điểm nổi bậc hơn cả là mỗi
tông trong Phật giáo đều chủ trương đạt ngộ chân tâm kiến tánh
thành phật theo như tinh thần vô ngã và vạn pháp đều vô tướng
(phá ngã chấp tức chấp chặt cái "TA" và pháp chấp
"TƯỚNG" như lớn, nhỏ, dài, ngắn ...) của Đại-thừa Phật
giáo để đưa người hành trì tới con đường giải thoát an vui. Do
từ chỗ phân phái đó mà các học giả Âu-Châu khi nghiên cứu
về Phật giáo có chia ra làm 2 lãnh vực là Nam-phương và
Bắc-phương hay Phật giáo truyền theo đường bộ và đường thủy.
Và cũng do từ quan niệm truyền giáo mà Phật giáo có Tiểu-thừa
và Đại-thừa. Vấn đề Tiểu-thừa hay Đại-thừa không phải là
điều quan trọng, vì Phật giáo Nam-phương căn cứ vào kinh điển bằng
văn tự tiếng Pali, trong khi đó, Phật giáo truyền theo Bắc-phương
theo
kinh điển bằng tiếng, Phạn, Sanskrit, điều cần thiết là chúng ta
có
biết áp dụng phương pháp đạo Phật vào đời sống hằng ngày hay
không, mới đáng luận bàn, phê phán.
Phật
giáo phát
nguyên từ Ấn-Độ, nhưng trải qua nhiều thời kỳ suy vong và bị đình
đốn, áp bức ... cho tới ngày nay tại Ấn chỉ còn lại một sống
những di tích lịch sử, tháp chuông, trụ đá kỷ niệm, những ngôi
chùa cổ, còn việc truyền bá Phật giáo hầu như không mấy thạnh
hành !
Tại
Trung-Hoa lục
địa, Phật giáo cũng bị ngưng trệ trải qua nhiều giai đoạn cam go,
nhấn là từ năm 1966, sau cuộc văn hóa đại cách mạng (thời kỳ
Mao-Trạch-Đông), Phật giáo được xem như một món đồ cổ để trang
sức trong viện bảo tàng cho du khách thập phương ! Vào cuối năm
1979
chính quyền Trung-Quốc tìm cách cho phục hồi Phật giáo trở lại,
nhưng đây lại là một thứ Phật giáo không thuần túy tôn giáo
cổ truyền mà đã pha trộn lẫn mầu sắc chính trị ...
Nhật-Bản
ngày nay,
Phật giáo không có dấu hiệu nào cho thấy đang trên đà phát triển
về mặt hình thức cả, nhưng đạo Phật đã bám sâu được gốc rễ
trong lòng dân tộc qua ngôn ngữ, văn tự, giáo dục, kiến trúc ...
thật hết sức đặc biệt. Đời sống trong các tự viện cũng đã
được cải cách hoàn toàn từ hơn 100 năm nay. Người Tăng sĩ Nhật
hầu hết đều có gia đình vợ con ở ngay trong chùa. mặc dù vậy
lòng tôn kính của người tín đồ vẫn không hề bị sút giảm. Ở
mỗi chùa đều có một đời sống kinh tế rất dồi dào sung túc.
Hẳn đây là nét nổi bậc hơn cả trong các nước Phật giáo, theo con
đường truyền giáo Bắc-phương mà chỉ có Nhật-Bản : Là dân tộc
đầu tiên áp dụng đạo Phật đi vào nhân gian một cách thành
công.
Riêng
tại
Việt-Nam, Phật giáo đã bị ách hại từ ngày Cộng-sản chiếm miền
Nam vào mùa xuân năm 1975, chùa chiền bị tàn phá, tượng Phật bị
hủy diệt, Tăng sĩ bị tù đày, hoàn tục, tín độ bị bắt bớ, hăm
dọa là dấu hiệu báo nguy cho thời đại của chúng ta hôm nay !
Một
điều hiển
nhiên mà ai cũng phải thành thật công nhận là Phật giáo đang có
khuynh hướng truyền bá rộng rãi ở khắp các nước Âu Mỹ ngày
nay.
16.-
Tông Tào Động Do Ai Sáng Lập Và Việc Kế Truyền Ra Sao ?
Tông Tào-Động
là một trong năm tông phái lớn và có tầm hoạt động lớn mạnh
ngày nay của Phật giáo phái Thiền-tông.
Người
sáng lập
tông do Thiền-sư Hy-Thiên, đệ tử của ngài Thanh-Nguyên, tu ở một
cái am dựng trên một tảng đá lớn thuộc núi Hoành-Sơn, nên
người đương thời ưa gọi ngài là Thạch-Đầu Hòa-Thượng. Ngài
Hy-Thiên truyền cho ngài Dược-Sơn, ngài Dược-Sơn truyền cho ngài
Vân-Nham, ngài Vân-Nham truyền cho ngài Lương-Giới, tu ở núi
Đông-Sơn, nên còn gọi là ngài Đông-Sơn, ngài Đông-Sơn truyền cho
ngài Bổn-Tịch ở núi Tào-Sơn thuộc đất Vũ-Châu, đó là việc
kế truyền trong hệ phái của tông Tào-Động.
Căn
cứ theo sách
"Tổ-Đình Sự-Uyển" thì ngài Bổn-Tịch (Tào-Sơn) là con kế
tự của Thiền-sư Đông-Sơn. Ngày nay khi nói tới Phật giáo
Tào-Động phần nhiều người chỉ biết có ngài Tào-Sơn mà không
tìm hiểu thấu chỗ phát khởi của tông môn. Tông Tào-Động rất
có ảnh hưởng tới Phật giáo các nước thuộc hệ tư tưởng
Đại-thừa.
Tại
Nhật-Bản có
ngài Hám-Sơn Thiền-sư cùng với ngài Đạo-Nguyên Thiền-sư là
những bậc cao tăng thạc đức đã đem ánh sáng đạo thiền soi sáng
trong dân chúng vào đầu thế kỷ thứ 12 Tây-lịch. Nhờ tinh thần
phóng khoáng biết dung hòa tư tưởng thiền, các Thiền-sư đã mang
lại niềm phấn khởi cho người hành trì. Thiền Tào-Động vì thế
còn sáng lạn trong lịch sử văn học Phật giáo Nhật-Bản mãi đến
ngày nay. Trong các tông phái thiền tại Nhật, có lẽ tông Tào-Động
phát triển mạnh nhất, rồi mới đến tông Lâm-Tế, Chơn-Ngôn,
Nhật-Liên ...
Ở một
số các
nước khác như Trung-Quốc, Việt-Nam ... tông Tào-Động không lớn
mạnh bằng tông Lâm-Tế, Tịnh-Độ .... nhưng vẫn còn được duy
trì.
17.-
Tông Chỉ Của Thiền Tông Trong Phật Giáo Ra Sao?
Trong Phật giáo có
chia ra thành Hiển-giáo và Mật-giáo. Y cứ theo kinh điển của Phật
thuyết, thiền lấy tâm truyền tâm, trực chỉ lòng người, thấy tánh
thành Phật ngay không lập thành văn tự. Đây gọi là giáo ngoại
biệt truyền.
Cũng
như người
dùng ngón tay chỉ mặt trăng, giáo lý chỉ là phương tiện để hiển
bày chân tánh. Chư Tổ không dùng ngôn ngữ mà lấy tâm truyền
tâm để đưa người hành trì ngộ được chân tâm của mình.
Theo
như kinh
Phạm-Thiên hỏi Phật về những điều nghi vấn thì khi đức Phật còn
tại thế, một hôm, Ngài đang thuyết pháp tại hội Linh-Sơn, giữa
đại chúng có hơn 1000 người. Phật không nói một lời mà cầm hoa
sen giơ cao lên trước đám thính chúng. Mọi người đều yên lặng,
duy chỉ ngài Ca-Diếp mĩm cười, vì ngộ được tôn ý của Phật.
Phật bèn truyền tâm ấn cho ngài Ma-Ha Ca-Diếp và dạy rằng : Ta có
Chánh pháp nhãn tạng, Niết-Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng,
nay giao phó lại cho ông ; Chánh pháp nhãn tạng, Niết-Bàn diệu tâm
là thấu rõ được nguyên lý cấu tạo nên vũ trụ vạn hữu.
Không quá lệ thuộc vào văn kinh cũng không bài bác ý kinh và
cũng không chấp chặt nơi văn tự, là ý chính của việc truyền tâm
pháp trong đạo thiền.
Bồ-Đề
Đạt-Ma
là tổ thứ 28 của Thiền-tông thuộc Phật giáo Ấn-Độ, khi qua
Trung-Quốc vào năm 520 đời Hậu-Ngụy vua Hiếu-Minh-Đế, niên hiệu
Chánh-Quang năm đầu. Sau Ngài tu ở chùa Thiếu-Lâm tại Tung-Sơn cho
đến khi ngộ đạo rồi truyền tâm pháp cho ngài Huệ-Khả, ngài
Huệ-Khả truyền cho ngài Tăng-Xáng, ngài Tăng-Xáng truyền cho ngài
Đạo-Tín, ngài Đạo-Tín truyền cho ngài Hoằng-Nhẫn, ngài Hoằng-Nhẫn
(602-675) truyền cho ngài Huệ-Năng. Đó là phát nguyên của phái
Thiền mà ngài Đạt-Ma là sơ tổ.
Phái
Thiền truyền
tới đời lục tổ Huệ-Năng lại chia ra thành nhiều tông khác như
Lâm-Tế, Tào-Động ... nhưng tôn chỉ Thiền vẫn là một.
18.-
Tông Quy Ngưỡng Trong Phật Giáo Có Phát Triển Như Các Tông Phái
Khác ?
Phật giáo khi
truyền đến Trung-Hoa một thời gian bốn năm thế kỷ lại chia ra
thành
nhiều tông phái.
Quy-Ngưỡng
là
một trong số 13 tông khác nhau và chỉ tồn tại được trong một thời
gian hữu hạn thôi.
Tổ
Bách-Trượng
Thiền-sư khai sơn ra tông Quy-Ngưỡng rồi truyền đến ngài Linh-Hiệu
ở núi Qui-Sơn đất Đàm-Châu, ngài Qui-Sơn truyền cho ngài
Ngưỡng-Sơn đất Viên-Châu. Đó là nguyên lai của việc kế thừa
tông phái. Ngài Ngưỡng-Sơn tu tại núi Qui-Sơn để tiếp tục thay
thầy duy trì tôn chỉ. Bách-Trượng Thiền-sư là người đầu tiên
trong học giới Thiền gia đề ra nguyên tắc "bất tác bất
thực", tức là không làm thì không có ăn để áp dụng trong
sơm môn cho chúng thiền sinh. Nguyên tắc tuy nghiêm khắc, nhưng
lại
phù hợp cho thời đại ngày nay, không những chỉ riêng tại
Trung-Quốc mà nó còn được áp dụng tại Nhật-Bản, Việt-Nam ... ở
một số những ngôi chùa còn giữ theo đúng phép tắc của một
thiền đường. Đó là phương pháp "chấp lao phục dịch" (phải
ra sức làm việc để bù lại được một số lợi tức xứng hợp)
mà Thiền-sư Vô-Ngôn-Thông đã đem thực hiện ở nước ta vào
thế kỷ thứ 9 Tây-lịch.
Tông
Quy-Ngưỡng
cũng như các tông phái khác, khi mới khai sanh ra thì được chính
người khởi xướng tận lực phát triển và truyền bá cho môn đệ
thừa hành. Sau một thời gian rồi do hoàn cảnh tạo nên một phần
và một phần đều căn cứ vào tông chỉ thành lập tông mà tồn
tại hay không.
Đó là
lý do tại
sao chúng ta không thấy tông Quy-Ngưỡng còn phát triển hay duy trì
được ở các nước sớm chịu ảnh hưởng Phật giáo.
19.-
Thế Nào Gọi Là Tiểu Thừa Phật Giáo ?
Vấn đề phân
phái Phật giáo đã có sau khi đức Phật Thích-Ca nhập Niết-Bàn, ngay
trong kỳ kiết tập kinh điển lần thứ nhất, đã có chia ra làm
Thượng-tọa-bộ và Đại-chúng-bộ, đó là nguồn gốc của
Đại-thừa và Tiểu-thừa Phật giáo sau này.
Qua
lần kiết tập
kinh điển lần thứ hai (sau Phật Niết-Bàn 100 năm) trong Phật giáo
lần lượt chia ra thành 20 bộ phái khác nhau. Mặc dầu có phân chia
ra
làm nhiều tông phái, nhưng tựu trung Phật giáo vẫn lấy việc giải
thoát độ sanh làm cứu cánh và vẫn tôn thờ đức Giáo-chủ
Thích-Ca Mâu-Ni làm thầy, cũng như tất cả các tông đều nương vào
nhưng lời dạy của Phật Tổ làm kim chỉ nam cho việc tu hành, chứng
đắc.
Do
đó, Phật giáo
được chia ra hai ngã truyền giáo là Bắc-phương và Nam-phương hay
theo
lối truyền theo đường bộ và đường thủy. Phật giáo truyền theo
ngã phía Bắc qua các nước Népal, Tây-Tạng, Trung-Quốc, Nhật-Bản,
Việt-Nam gọi là Đại-thừa Phật giáo và theo ngã phía Nam thuộc các
nước Tích-Lan (Ceylon), Miến-Điện, Thái-Lan, Lào, Cao-Miên gọi là
Tiểu-thừa Phật giáo. Nam-phương Phật giáo hay Tiểu-thừa theo kinh
điển tiếng Pali. Trong khi đó Bắc-phương Phật giáo hay Đại-thừa
theo
kinh điển tiếng Phạn (Sanskrit). Tiểu-thừa Phật giáo giữ nguyên
hình
thức cổ như chư Tăng quấn y vàng và hành theo hạnh khất thực,
ngày ăn một bửa giống như Phật lúc còn tại thế. Việc truyền
giáo của phái Tiểu-thừa lưu động, không chủ trương lập chùa
chiền, cơ sở nhiều mà chỉ cần một chiếc cà-sa với một bình bát
và tối lại người Tăng sĩ chỉ cần ngủ dưới gốc cây là
đủ.
Trong
lịch sử
truyền thừa Phật giáo từ Ấn-Độ, đức Giáo-chủ Thích-Ca Mâu-Ni
khai sáng đạo Phật năm 544 trước Tây-lịch. Tiếng pháp âm vi diệu
của Ngài được truyền đi khắp năm châu trên toàn thế giới. Mỗi
nơi tùy theo căn cơ của chúng sanh mà Phật giáo có Đại-thừa hay
Tiểu-thừa để duy trì mạng mạch đạo pháp trường tồn bất
diệt.
20.-
Hãy Nói Về 20 Bộ phái Trong Phật Giáo ?
Vấn đề phân
phái trong Phật giáo đã có từ sau khi đức Phật nhập Niết-Bàn 100
năm. Có hai phái bảo thủ và cấp tiến hay Đại-chúng-bộ và
Thượng-tọa-bộ, rồi phân thành 20 bộ phái khác nhau.
Hai
mươi bộ phái
trong Phật giáo là :
9 bộ
phái
Đại-thừa :
Đại-chúng-bộ
Nhất-thuyết-bộ
Thuyết-xuất-thế-bộ
Kê-dẫn-bộ
Đa-văn-bộ
Thuyết-giả-bộ
Chế-đa-sơn-bộ
Tây-sơn-trụ-bộ
Bắc-sơn-trụ-bộ
11
bộ phái
Tiểu-thừa :
Tuyết-sơn-bộ
Thuyết-nhất-thiết-hữu-bộ
Độc-tử-bộ
Pháp-thượng-bộ
Hiền-vị-bộ
Chánh-lượng-bộ
Mật-lâm-sơn-bộ
Hóa-địa-bộ
Pháp-tạng-bộ
Ẩm-quang-bộ
Kinh-lượng-bộ.
Các
bộ phái tuy
có phân chia và mỗi bên đều có một lối kiến giải khác nhau,
nhưng trên căn bản vẫn y cứ vào giáo lý giải thoát cứu cánh
của Phật tổ Thích-Ca đã chỉ dạy để tu hành. Một điều đáng tự
hào là trong Phật giáo từ khởi thủy cho đến ngày nay, trải qua hơn
2500 lịch sử, đạo Phật được truyền bá sâu rộng khắp nơi trên
thế giới, nhưng chưa có một cuộc thánh chiến đẫm máu nào xảy ra,
vì các nhà nghiên cứu Phật học, cũng như các hàng đệ tử của
Ngài đều biết dựa theo tinh thần từ bi, bình đẳng của Phật tổ
để truyền thừa giáo pháp.
Khi Phật giáo vào
Trung-Quốc, Nhật-Bản, Việt-Nam ... lại có lối phân phái khác nhau
mà
phái Thiền được coi như phổ thông hơn cả. Đây hẳn là phương
pháp tùy duyên nhi bất biến hay pháp tùy theo mỗi hoàn cảnh, quốc
độ để truyền thừa chánh pháp.
---
o0o
---