CHƯƠNG 7
CHƯ
THÁNH, CÁC VỊ TỒ
1.- Đức Phật A-Di-Đà Và Những
Hạnh
Nguyện Của Ngài
Phật A-Di-Đà là
hình ảnh và danh hiệu quen thuộc đối với người tu hành theo pháp
môn Tịnh-độ.
A-Di-Đà Phật có 3
nghĩa như sau :
- Vô lượng
quang.
- Vô lượng
thọ.
- Vô lượng công
đức.
Có ý nói rằng
đức Phật A-Di-Đà tượng trưng cho ánh sáng vô lượng vô biên,
tuổi thọ mạng của Ngài cũng không hạn định và công đức không
thể nghĩ bàn. Vì sao, vì đức Phật A-Di-Đà có phát lời thệ
nguyện rộng lớn cứu độ khắp tất cả chúng sanh đều được giải
thoát, rồi sau Ngài mới vào Niết-Bàn. Ngài có phát 48 lời nguyện
với lòng từ bi vô bờ bến muốn cứu khổ cho mọi loài bị đọa
lạc nơi địa ngục được giải thoát để sanh về thế giới
Cực-Lạc, với một điều kiện duy nhất là hễ ai niệm đến danh
hiệu Ngài tới 10 niệm cho được thành tâm sẽ được cảm ứng. Do
đó, người Tăng sĩ mỗi khi gặp nhau hay người tín đồ, tại chùa
hay tại bất cứ một nơi nào, thường hay chấp tay chào hỏi nhau bằng
câu "Nam mô A-Di-Đà Phật" để nhắc nhở nơi mỗi người
Phật tử đều có sẵn lòng từ bi vô lượng, cũng như công đức
không thể nghĩ lường ở nơi tự tâm mình. Với ý nghĩa đó, mỗi
khi gặp gỡ nhau, người Phật tử không dùng lối bắt tay để chào
xã giao như cách chào của người Tây-phương mà hay dùng hình thức
niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà thật là đầy đủ và có một ý
nghĩa cao sâu.
Ngoài ra, người
Phật tử còn tin nơi lời nguyện thứ 19 của đức Phật A-Di-Đà
rằng mười phương chúng sanh phát Bồ-đề-tâm, tu các công đức
nguyện sanh về cõi Cực-Lạc, đến lúc lâm chung, nếu Ngài không
cùng với đại chúng hiện thân trước người đó, thì Ngài nguyện
không ở ngôi chánh giác, cho đến những việc thọ mạng còn hữu
hạn (nguyện thứ 15) lúc chết còn bị sa vào 3 đường ác (nguyện
thứ 2), trí sáng suốt còn bị hữu hạn (nguyện thứ 12) v.v... Ngài
nguyện không vào ngôi Chánh-giác. Với những lời nguyện cao cả
ấy đủ nói lên ý nghĩa danh hiệu của Ngài.
Muốn được giải
thoát mọi phiền não, ràng buộc, mỗi ngày chúng ta cố gắng thành
tâm niệm đức Phật A-Di-Đà cho được thường xuyên để nuôi
dưỡng lòng từ bi, nhờ đó trí huệ sáng suốt sẽ tỏa rạng sáng
ngời và làm áp đảo được mọi mê mờ tăm tối.
2.-
Sự Tích Và Ý Nghĩa Phật Quan Âm Hay Bồ Tát Quán Thế Âm
Sự tích đức
Phật Quan-Âm hay đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có 2 tích truyện rất
phổ thông, đã được người bình dân cũng như giới trí thức
Việt-Nam, không ai là không biết đến.
Đó là tích
Nam-Hải Quan-Âm và vở tuồng chèo Quan-Âm Thị-Kính. Trước hết về
tích Nam-Hải Quan-Âm, do một vị Tăng đời Nguyên (TH) sáng tác, rồi
truyền vào đất Việt khoảng thế kỷ 14-15, câu chuyện kể như sau :
Ngày xưa tại nước Hưng-Lâm (Tây-Trúc) có vua Diệu-Trang trị vì,
đã lớn tuổi, vua không có con trai để nối ngôi nên đến cầu tự
ở đền Tây-Nhạc-Đế. Lời cầu xin thành khẩn của vua cảm đến
Ngọc-Hoàng, vua được toại nguyện, nhưng sau lại chỉ hạ sanh được 3
người con đều là công chúa, đó là 3 người con trai con nhà họ
Thi có tiếng nhân đức sau khi chết đã được tái sanh thành
Diệu-Thanh, Diệu-Âm và Diệu-Thiện hay Chúa-Ba. Chúa-Ba sớm tin
kính
Phật, không chịu nghe theo lời cha về việc kết hôn, bèn bỏ nhà đi
tu. Vua quá giận cho người bắt giam. Nhưng không vì thế mà bà nãn
lòng, chí xuất gia đầu Phật lại càng mạnh mẽ hơn. Đức tin như có
sức mạnh phi thường không làm gì lay chuyển nổi. Vua cha càng
giận,
tìm hết mọi cách để thuyết phục rồi dùng áp lực cũng không
thể nào làm thay đổi chí hướng bà.
Sau cùng, vua ra lịnh
đốt chùa, Diệu-Thiện hóa phép cầu trời, rồng xuống phun nước
dập tắt ngọn lửa. Còn ni-cô bị xử chém, nhưng đao phủ vừa đưa
gươm tới cô Diệu-Thiện thì liền bị gãy đôi. Trời sấm chớp
nổi lên, đột nhiên một con mãnh hổ nhảy chòm tới mang Diệu-Thiện
đi mất dạng. Được biết, khi chết hồn ni-cô du xuống 18 cửa địa
ngục nơi địa phủ và chứng kiến các tội nhân đang bị hình phạt
đau đớn, bèn động lòng từ bi mới khẩn cầu :
Khẩn cầu tụng
chú, niệm kinh,
Ngọc-Hoàng cảm
động lòng thành tự nhiên.
Rồi hóa phép để
giải phóng các hồn oan đang bị tù tội, khiến vua Diêm-Vương thán
phục lòng độ lượng của ni-cô.
Sau đó, hồn ni-cô
trở lại dương thế, nhập lại vào xác và đến đất Giao-Châu,
tức lưu vực sông Nhị-Hà (Bắc Việt). Ở đấy, ni-cô quyết lòng tu
niệm. Phật tổ Như-Lai hóa phép thành một thanh niên tuấn tú để
thử lòng một lần sau chót, nhưng không có cách gì cám dỗ nổi
được bà. Đức Phật tổ bèn hiện ra nguyên hình và chỉ đường
cho ni-cô về chùa Hương-Tích. Nhờ tinh tấn tu hành, ni-cô
Diệu-Thiện
chứng thành chánh quả, tức là Phật Bà Quan-Âm. Phật Bà có 2
đệ tử là Thiện-Tài, chú bé mồ côi theo hầu một bên và bé
gái vốn giòng Long-Nữ, đội lốt lý ngư bị mắc nạn, được Phật
Bà cứu thoát nên theo Ngài luôn.
Chẳng may tin vua cha
mắc bịnh hiểm nghèo. Vua yết bảng tìm lương y và hứa trao ngôi báu
sau khi lành bịnh, các danh y đều chịu bó tay. Diệu-Thiện biến
thành
một lương y xin vào cứu vua. Đoán bịnh xong, lương y bảo : Bịnh
vua
muốn trị lành chỉ cần tới mắt và tay của vị tiên nữ tu trên núi
Hương-Tích thì chữa khỏi ngay. Vua bèn giữ lương y lại và cho
người lên chùa Hương-Tích theo lời dặn. Vì lòng từ bi Phật Bà
sẵn sàng hy sinh thân mạng để cứu người. Xin được mắt và tay
đem về trị bịnh vua được lành ngay như thần, theo đúng như lời vị
lương y chẩn mạch, cho toa. Liền sau khi lành bịnh vua định làm lễ
truyền ngôi cho lương y thì người đã biến mất dạng. Nhờ phép
thần thông, Phật Bà cứu được vua cha khỏi hiểm nạn, vừa hiện
hình lại đủ cả mắt và tay. Hai người đệ tử cũng đã dùng
thần thông cứu thoát hai chị của Phật Bà là Diệu-Âm và
Diệu-Thanh giác ngộ được đạo mầu giải thoát. Lúc lành bịnh, vua
cha mới tỉnh ngộ, tỏ lòng biết ơn đạo Phật đã cứu mình và
giải nguy cho cả nhà, cả nước. Cho tới lúc được thoát nạn, vua
vẫn chưa biết chính công chúa Ba, con mình đã đắc đạo có đủ
phép thần thông biến hóa như thế để làm tròn bổn phận của con
đối với cha mẹ, gia đình, của người dân đối với nước.
Sau khi toàn thể gia
đình vua Diệu-Trang-Vương gặp nhau ở chùa Hương-Tích, nói Chúa-Ba
đã thành Phật, thì cả nhà đều quy y theo Phật giáo :
Phật Bà phép chí
vô biên,
Một thân hóa mấy
mươi ngàn muôn thân.
... Thần thông
nghìn mắt nghìn tay,
Phổ môn biến để
độ loài ngu mông
Lấy câu sắc sắc
không không,
Giả làm nam tử
thử lòng người ta.
Bảo đèn sen chín
tầng hoa,
Gió nhân, mưa
phép khắp hòa chúng sanh.
Trên trời dưới
đất xoay quanh,
Bao nhiêu khổ nạn
tầm thanh hộ trì.
Tóm lại, người
xuất gia tu học Phật cũng có thể làm tròn đạo hiếu đối với gia
đình và thực hiện đầy đủ lòng nhân như việc cứu người, là
triết lý sống động, thực tiển, rất thích hợp với tâm lý của
người dân Việt.
3.-
Phật Di Lặc Tại Sao Có Người Gọi Là Bồ Tát Di Lặc !
Di-Lặc họ
A-Dật-Đa, tên là Di-Lặc hay Vô-Năng-Thắng, người Nam-Thiên-Trúc,
dòng Bà-la-môn. Di-Lặc nghĩa là Từ-Thị tức hiền lành. Ngài sẽ
kế vị đức Phật Thích-Ca và là vị Bồ-Tát bổ xứ.
Đức Phật Di-Lặc
có nhiều tên gọi khác nhau như Di-Đế-Lệ, Mai-Đế-Lệ, Mê-Đế-Lệ,
Mai-Hằng-Lệ, Mỗi-Hằng-Lý, Mai-Hằng-Lệ-Dược, Vị-Hằng-La-Duệ, Ông
mang đảy vải, Ông Phật bụng phệ ... để chỉ cho danh hiệu của
Ngài.
Trước khi đức
Phật Thích-Ca nhập diệt có nói rằng đức Phật Di-Lặc sinh ở nội
viện của cung trời Đâu-Suất trải qua 4000 năm sẽ hạ sanh vào cõi
đời nầy, nơi vườn Hoa-Lâm tại hội Long-Hoa để dẫn dắt chúng sanh
tu tập chánh pháp. Ngài tu pháp tam-muội từ-bi nên gọi là "Từ
Thị". Từ đó cho đến sau khi thành Phật Ngài mang tên nầy. Đức
Di-Lặc sẽ là vị Phật thứ 5 trong Hiền kiếp (Câu-Lưu-Tôn,
Câu-Nam-Hàm Mâu-Ni, Ca-Diếp, Thích-Ca và Phật Di-Lặc) sẽ ra đời kế
tiếp đức Phật Thích-Ca để truyền bá chánh pháp tại hội Long-Hoa
kỳ 3. Ngài sẽ thuyết pháp độ sanh cho cả trời và người.
Có nhiều bộ kinh
mang tên Ngài như : Di-Lặc Thượng kinh, Di-Lặc Hạ kinh, kinh
Di-Lặc
thành Phật, kinh Di-Lặc Đương Lai Hạ Sanh Thành Phật .... Ngài là
vị
Phật thể hiện lòng từ bi vô lượng. Bên cạnh chỗ Ngài ngồi
luôn luôn có 6 em bé theo quấy nhiễu như đứa chọc nách, đức móc
mắt, đứa vỗ mặt ... nhưng Ngài vẫn nở nụ cười hoan hỷ. Sáu
đứa nhỏ tượng trưng cho lục tặc tức sáu món giặc phiền não
(tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến) luôn quấy phá người tu hành,
nhưng Ngài vẫn an trụ tâm thanh tịnh không hễ nao núng trước
nghịch
cảnh.
Hình ảnh đức
Phật Di-Lặc rất gần gủi và thân thiện với trẻ con cũng như với
người bình dân. Người Nhật-Bản gọi đức Phật Di-Lặc là MIROKUNO
HOTOKE cũng hàm ý nghĩa từ bi nầy.
4.-
Đức Phật Dược Sư Có Những Hạnh Nguyện Gì ? Ngài Là Chủ Của
Thế Giới Nào ?
Đức Phật
Dược-Sư hay nói cho đủ là Dược-Sư Lưu-Ly-Quang Như-Lai hoặc còn
gọi là Phật Đại-Y-Vương, với tên là Y-Vương-Thiện-Thế
Phật.
Đức Phật
Dược-Sư là vị Giáo-chủ cõi Đông-phương Lưu-Ly Thanh-Tịnh. Phật
Di-Đà là Giáo-chủ cõi Tây-phương, Phật Thích-Ca là Giáo-chủ cõi
Ta-Bà tức là thế gian nơi chúng ta đang sống.
Sở dĩ đức Phật
Dược-Sư được xưng tán, vì Ngài là một đại y được làm chủ
cảnh giới Đông-phương. Ngài có phát 12 lời thệ nguyện rộng lớn
cứu độ hết tất cả chúng sanh nào mắc bịnh nan y, dù đã cầu
cứu tới nhiều vị danh y, nhưng bịnh vẫn không lành ; nếu kêu tới
danh hiệu của Ngài thì sẽ được toại nguyện. Sau đây là 12 lời
thệ nguyện của Ngài :
1- Nguyện đem thân
mình làm đuốc soi sáng cho kẻ khác.
2- Nguyện đem oai
đức cao cả che chở cho tất cả chúng sanh.
3- Nguyện làm cho
chúng sanh được no đủ như chỗ mong cầu đều được toại ý.
4- Nguyện dẫn dắt
chúng sanh tu theo pháp của Đại-thừa.
5- Khiến cho chúng
sanh thực hành hạnh thanh tịnh và giữ giới, tu tập các công đức
lành.
6- Nguyện làm cho
chúng sanh nào mà các căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân thể, chân
tay) không đầy đủ được trọn đủ.
7- Nguyện chữa
trừ các bệnh tật cho chúng sanh, khiến chúng thân tâm an lạc và
chứng được đạo quả Vô-thượng Bồ-đề.
8- Nguyện cho tất
cả chúng sanh chuyển thân nữ thành thân nam.
9- Khiến các loài
hữu tình thoát khỏi thiên ma, ma ba tuần, ngoại đạo và phá rừng
tà kiến để nhập vào chánh đạo.
10- Nguyện làm cho
chúng sanh giải thoát khỏi điều xấu ác bủa vây, hảm ngặt khó mong
ra khỏi.
11- Làm cho bịnh
đói khát của chúng sanh không còn và chỉ hưởng thức ăn thiền
định vui vẽ an lạc.
12- Nguyện cho
những người thiếu thốn y phục hoặc không đủ áo quần che thân
được y phục tốt đẹp.
Với những hạnh
nguyện cao cả ấy, đức Phật Dược-Sư luôn luôn được người
đời xưng tán như một vị danh y trong đời sống đa nạn nầy.
5.- Ngài
Văn
Thù Bồ Tát Có những Hạnh Nguyện Gì ?
Văn-Thù nói cho
đủ là Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hay còn gọi là Mạn-Thù-Thi-Lợi
hoặc Mạn-Thù-Thất-Lợi.
Văn-Thù theo cựu
và theo tân dịch đều có 6 nghĩa khác nhau như theo kinh
Vô-Lượng-Thọ
và kinh Niết-Bàn dịch là "Diệu-Đức", còn kinh Vô-Hành dịch
là "Diệu-Thủ", kinh Quán-Sát-Tam-Muội và kinh Đại-Tịnh
Pháp-Môn dịch là "Phổ-Thủ", kinh A-Mục-Khiếp Phổ-Siêu dịch
là "Nhu-Thủ", kinh Vô-Lượng-Môn-Triệt-Mật và kinh
Kim-Cương-Anh-Lạc dịch là "Kính-Thủ". Trở lên 5 nghĩa theo
cựu dịch, còn theo kinh Đại-Nhựt dịch là
"Diệu-Kiết-Tường". Vì chữ Văn-Thù hay Mạn-Thù đều có
nghĩa là "Diệu", còn chữ Sư-Lợi hay Thất-Lợi có nghĩa là
"Đức" tức có ý tốt đẹp trong nghĩa của chữ
Kiết-Tường. Ngài thường đứng hầu bên tay trái của đức Phật
Thích-Ca, tượng trưng bậc trí tuệ tuyệt vời, còn ngài Phổ-Hiền
tượng trưng lý tánh viên dung, vì giữa lý và trí tuệ tròn đủ
vô ngại của cả hai, nên thường đứng cạnh nhau. Tóc trên đỉnh
đầu Ngài kết thành 5 xoáy, biểu hiệu trí tuệ sáng suốt như mặt
trời chiếu sáng, tay cầm kiếm tượng trưng trí tuệ chiếu soi mọi
chướng ngại phiền não. Ngài ngồi trên lưng sư tử tượng trưng oai
dũng, do đó chữ Văn-Thù có nhiều nghĩa khác nhau và trong nhiều
bộ kinh dịch theo một cách khác tuy đồng một Văn-Thù. Ngài là vị
Bồ-Tát có trí tuệ bậc nhất, theo hầu cận như cánh tay trái của
Phật tổ để duy trì ủng hộ Phật Pháp. Ngài cùng với ngài
Phổ-Hiền là pháp hữu đồng tu và chứng đắc đạo quả tại hội
Long-Hoa, do đó, Văn-Thù còn được gọi là Văn-Thù Sư-Lợi
Pháp-Vương-Tử, có ý nói rằng Ngài là con của đấng Pháp-Vương
tức đức Như-Lai, do nương theo giáo pháp của Phật để tu và đạt
được đạo.
Ngài là vị
Bồ-Tát xứng đáng cho hàng đệ tử Phật lễ bái xưng tán danh
hiệu để noi theo trí sáng suốt qua mọi thời gian và không gian.
6.-
Ngài Phổ Hiền
Bồ Tát Và Những Lời Phát Nguyện Ra Sao ?
Phổ-Hiền tiếng
Phạn là Bật-Du-Bạt-Đà hay còn gọi là Tam-Mạn-Đa-Bạt-Đà-La và
người Tàu dịch chữ Phổ-Hiền là Biến-Kiết tức chỉ cho điều
lành trải rộng khắp.
Chính ngài
Phổ-Hiền tròn đầy lý tánh, đức tướng, lý hạnh, cùng với trí
đức như ngài Văn-Thù. Ngài Phổ-Hiền thường được gọi là bậc
hiệp sĩ đứng hầu bên phía tay phải của đức Phật Thích-Ca, cỡi
trên lưng con voi trắng. Voi trắng tượng trưng giữa lý trí và đức
hạnh tương dung, cũng như Tam-Muội và Bát-Nhã đều là pháp thân
biến chiếu khắp nơi của đức Phật Tỳ-Lô-Giá-Na. Kinh Hoa-Nghiêm
chứng minh rằng y theo đức Phật nầy (Tỳ-Lô) và pháp môn của 2 vị
Bồ-Tát (chỉ Văn-Thù và Phổ-Hiền) nên gọi là Hoa-Nghiêm Tam-Thánh
và lấy từ căn bản đức trí đó của ngài Phổ-Hiền mà lập nên
10 đại nguyện, là cái thể thật tướng của các pháp. Còn theo kinh
Pháp-Hoa thì do nguyện Tam-Muội mà ngài Phổ-Hiền hiện ra thân hình
thật tướng. Vì chữ Tam-Mạn-Đà có nghĩa là "phổ" tức
là cùng khắp hay phổ cập các nơi, còn Bạt-Đà-La là
"hiền" vậy. Ngoài ra, chữ Biến-Kiết cũng có cùng nghĩa
Biến là "phổ" và Kiết tức là "hiền". Theo người
Tàu có chú giải trong nhiều bộ kinh thì sự biến hóa không lường
gọi là phổ và tu chứng được bậc Á-Thánh nên gọi là
hiền.
Ở các chùa
thường thờ ngài Phổ-Hiền và ngài Văn-Thù ở hai bên tả hữu
đức Phật Thích-Ca. Ngài Văn-Thù thì ngồi trên mình sư tử bên
phía tay trái của đức Phật.
Đây là vị
Bồ-Tát hóa thân theo hầu cận Phật tổ để ủng hộ và giữ gìn
Phật Pháp trong 10 lời đại nguyện do Ngài phát ra (xem bài 10
nguyện
Phổ-Hiền).
7.- Ngài Ma Ha Ca
Diếp Dòng Dõi Và Việc Kế Thừa Tâm Pháp Ra Sao ?
Ma-Ha Ca-Diếp hay
còn gọi là Ma-Ha Ca-Diếp-Ba. Chữ Ma-Ha có nghĩa là lớn lao, vĩ đại
; chữ Ca-Diếp-Ba là sáng rỡ, nơi nương tựa, người dòng
Bà-la-môn, mang tên là Tát-Ba-La.
Cha mẹ Ngài kỳ
nguyện thần linh nơi cây Tát-Bát-La mà thọ sanh nên gọi tên
Tất-Bát-La, là con của một nhà giàu có, nhưng không màng thế giá,
phát tâm tu theo hạnh đầu đà, và là người biết rộng hiểu sâu.
Do đó Ngài mang tên Đại hay còn có biệt danh là Thập-Lực hoặc
Ưu-Lâu-Tần-La. Ngài là một trong 10 đệ tử gần gủi đức Phật
để thực hành theo hạnh Đầu-Đà, nên gọi là bậc Đầu-Đà đệ
nhất. Theo kinh Tăng-Nhứt A-Hàm, chỉ riêng ngài Ca-Diếp có nên còn
gọi là Đại Tỳ-kheo Ca-Diếp vậy.
Tương truyền rằng
khi đức Phật Thích-Ca thuyết pháp tại núi Linh-Sơn, một hôm Ngài
cầm hoa sen giơ lên giữa đại chúng có hơn 1000 người. Lúc bấy
giờ mọi người đều yên lặng, vì không ai lãnh hội được thâm
ý của Phật, nhưng chỉ có một mình ngài Ca-Diếp mĩm cười, Phật
biết cơ duyên đã đến, liền phó pháp cho Ngài và dặn dò những
lời tâm pháp : "Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết-Bàn diệu
tâm, Thật tướng Vô tướng là pháp vi diệu, không lập văn tự,
nhưng truyền rộng khắp nơi, vượt ra ngoài những lời chỉ dạy, nay
pháp ấy thuộc về ngươi".
Do những lời di
chúc truyền tâm pháp ấy, sau nầy Thiền-tông lấy đó làm kim chỉ nam
cho việc truyền pháp là dĩ tâm truyền tâm (lấy tâm truyền tâm)
tức là có sự cảm ứng giữa hai người với nhau mới hiểu
được. Việc nầy nói ở kinh nào và do ai truyền đạt, trong Đại
tạng kinh không thấy nói tới. Mãi cho tới đời Tùy, đời
Đường (618-907) có nhiều bậc Thiền đức cũng không thấy đề cập
tới. Nhưng vào đời Tống (960-1279), vua Tống-An-Thạch cho rằng
tích
lấy từ kinh "Đại-Phạm Thiên-Vương Vấn Phật Quyết Nghi" và
theo sách "Tông Môn Tạp Lục" có dẫn lời ngài Huệ-Tuyên
Thiền-sư cũng đồng một quan điểm như trên, lại còn cho biết rõ
thêm chi tiết rút ra từ bộ kinh ấy, quyển thứ ba.
Bộ kinh nầy bàn
phần nhiều những vấn đề do các vị vua hỏi Phật về chỗ tu hành
đạt ngộ chân lý, do đó, đã không được nhiều người biết
tới lai lịch (trong Phật tổ thống kỷ quyển 5 cũng có dẫn ra thuyết
nầy).
8.- Mục
Kiền Liên
Có Công Hạnh Gì Trong Phật Giáo ?
Mục-Kiền-Liên hay
Mục-Càng-Liên, trong kinh Di-Đà còn gọi là Ma-Ha Mục-Kiền-Liên
hoặc
Mục-Liên là một trong mười vị đại đệ tử của Phật có phép
thần thông bậc nhất.
Ngài còn có tên
là Ma-Ha Một-Đặc-Già-La, dịch là Đại-Tán-Tụng tương truyền rằng,
Ngài cùng với ngài Xá-Lợi-Phất lúc đầu đồng tu hành với sáu
vị thầy ngoại đạo, sau vì nhận thấy pháp tu của họ không thể giải
thoát rốt ráo được, nên chán bỏ đi và từ giả Xá-Lợi-Phất
để theo hầu cận đức Phật tinh tấn tu hành. Một hôm Xá-Lợi-Phất
đến thành Vương-Xá gặp được 5 thầy Tỳ-kheo trong đó có
Mục-Kiền-Liên dung nghi đạo mạo bèn hỏi lý do mới hay có Phật ra
đời, họ được nghe pháp mầu nên tâm được an vui trong chánh
niệm. Liền đó, Xá-Lợi-Phất xin theo các thầy Tỳ-kheo về đến tinh
xá Trúc-Lâm để gặp Phật. Tại đây, Xá-Lợi-Phất được nghe
Phật nói pháp và sau đó xin ở lại luôn cũng như xin làm đệ tử
Phật. Sau nhờ tinh tấn tu hành ngộ được chánh pháp và chứng
được trí huệ bậc nhất. Chính Xá-Lợi-Phất cùng với
Mục-Kiền-Liên là hai đệ tử trung tín đứng hai bên tả hữu của
đức Phật Thích-Ca.
Theo truyền thuyết
trước khi đức Phật nhập diệt, ngài Xá-Lợi-Phất và ngài
Mục-Kiền-Liên thưa thỉnh Phật giảng dạy về Niết-Bàn. Phật dặn dò
hai vị đệ tử thượng thủ rằng : Theo lẽ thường của chư Phật trong
ba đời quá-khứ, hiện-tại và vị-lai đều thị hiện ra đời và
tịch diệt, ta cũng theo thông lệ ấy mà hóa, các ngươi đừng vì lẽ
đó mà u sầu khổ não. Dù ta không còn trụ thế nhưng giáo pháp
còn tức là hình ảnh Như-Lai luôn luôn ở bên cạnh các ông. Lúc
bấy giờ ngài Mục-Kiền-Liên vào thành La-Duyệt khất thực, có
người Phạm-Chí thấy Mục-Kiền-Liên đến bèn dồn dập hỏi :
"Ngài có phải là đệ tử Sa-môn Cù-Đàm (tức đức Phật
Thích-Ca) không ?"
Ngài
Mục-Kiền-Liên biết mình sắp ngộ nạn, lặng thinh không đáp. Người
kia tự nghĩ, trong số các đệ tử của ông ấy không có ai như
người nầy cả. Chúng ta nên đánh và giết tên nầy ! Các người
Phạm-Chí cùng nhau xúm lại đả thương Mục-Kiền-Liên tới tấp. Lúc
đó, Mục-Kiền-Liên liền vận thần thông để về đến tinh xá
Kỳ-Hoàn tìm gặp Xá-Lợi-Phất và trình bày rõ mọi việc.
Xá-Lợi-Phất nói : Trong số các đệ tử của Phật, Ngài là bậc
thần túc thông bậc nhất sao không dùng thần túc để tránh né bọn
côn đồ ? Mục-Kiền-Liên trả lời, tôi vì nghiệp chướng quá sâu
dày nên việc sử dụng thần thông lúc đó không có hiệu quả gì
cả, cho nên thật lấy làm khổ não và hổ thẹn. Tôi đến đây để
từ biệt tôn huynh và vào Niết-Bàn trước để tu luyện.
Xá-Lợi-Phất nói : Nay Ngài thiếu duyên ở đời và muốn thoái
thác, vậy thì tôi xin vào Niết-Bàn trước. Nói xong Xá-Lợi-Phất
liền tiến đến chỗ đức Phật để từ giả, trong khi đó đức
Phật cũng sắp vào Niết-Bàn. Xá-Lợi-Phất đọc kệ rằng : Đi và
đến nơi đời, rồi thác sanh làm người, thân thích đồng hương,
nói pháp rồi diệt độ, ta nay cũng theo lẽ ấy mà thị tịch ... Ngài
Mục-Kiền-Liên cũng đến từ giả đức Thế-Tôn để an trụ vào
Niết-Bàn. Ngài Mục-Kiền-Liên lúc sanh tiền đã tỏ ra là người
con đại hiếu đối với mẹ. Bà Thanh-Đề lúc sống vì bỏn sẻn, nên
khi chết bị đọa vào trong kiếp ngạ quỷ phải chịu đủ mọi cực hình
đói khát. Mục-Kiền-Liên đã vận thần thông vào trong địa ngục
tìm thấy mẹ đang thọ cực hình. Quá thương xót, Mục-Liên muốn
cứu mẹ, nhưng không thể nào cứu được, bèn trở về bạch Phật
chỉ dạy cách cứu thoát cho mẹ ra khỏi cảnh khổ đói khát. Phật
dạy, vào ngày Rằm tháng Bảy chư Tăng sau ba tháng an-cư tâm được
thanh tịnh, nếu thành tâm cầu nguyện mọi việc sẽ được thành
tựu. Ông nên thiết lễ cúng dường Trai Tăng bằng cách sắm đồ
ăn, thức mặc, đủ vị đủ màu thỉnh cầu các bậc chư sơn Thiền
đức lại chú nguyện cho thì mẹ ngươi sẽ thoát được kiếp ngạ
quỷ. Thực hiện đúng theo lời Phật dạy, ngài Mục-Kiền-Liên đã
cứu được bà Thanh-Đề thoát qua hiểm nạn. Lễ Vu-Lan có bắt đầu
từ đó và mỗi năm vào ngày Rằm Trung-nguyên những người con
hiếu muốn đền đáp công ơn cha mẹ kẻ còn người mất đều
được lợi lạc nên tổ chức lễ thật trọng thể.
9.- Đại Thế Chí
Bồ Tát VÀ Hạnh Nguyện Ngài
Ở nhiều ngôi
chùa thờ 3 vị Phật ; Di-Đà chính giữa, Quán-Thế-Âm bên tả và
Đại-Thế-Chí bên hữu. Chính Bồ-Tát Đại-Thế-Chí biểu tượng cho
ánh sáng của trị tuệ biến chiếu khắp các cõi tối tăm.
Theo như kinh Bi-Hoa
phẩm Bồ-Tát Thọ Ký chép thì, lúc chưa xuất gia Ngài là con trai
thứ tư của vua Vô-Tránh-Niệm. Vua cha tin Phật và thường cúng
dường Phật cùng chư Tăng, do nhân duyên đó Ngài thường gần gũi
đức Phật Bảo-Tạng và phát nguyện xuất gia tu hành và đắc đạo
hiệu là Đại-Thế-Chí.
Nhờ trí tuệ
tuyệt vời, Ngài tu theo pháp môn niệm Phật tam-muội mà thành
Chánh-giác cứu độ muôn loài. Ngài cũng dùng ánh sáng trí giác
tu chứng soi sáng tâm địa cho chúng sanh trong các cõi tối tăm
được giải thoát.
Hình tượng
Bồ-Tát hiện thân là tướng người cư sĩ, nơi cổ có đeo chuỗi
ngọc anh lạc và trên tay cầm một hoa sen màu xanh, tượng trưng cho
sự thanh tịnh. Có ý rằng nhờ trí tuệ sáng suốt mà dứt sạch
được mọi phiền não mê lầm nơi tự thân và đưa tay cứu vớt
chúng sanh ra khỏi mê lầm, tội lỗi.
Trí tuệ là thanh
gươm tinh nhuệ cắt đứt mọi ràng buộc, vướng mắc trong cõi trần
ai mà đức Đại-Thế-Chí đã đạt được trải qua nhiều kiếp tu
hành tích lũy biết bao công phu !
Phương châm
thường dùng trong Phật giáo là Bi-Trí-Dũng, tức là từ bi, trí
tuệ và dũng mãnh cũng trong cùng một ý nầy.
10.- Địa Tạng
Bồ
Tát Với Lời Phát Nguyện Ra Sao ?
Người Phật tử
mỗi khi có người thân qua đời thường hay phát nguyện trì tụng
kinh Địa-Tạng. Việc làm nầy có liên hệ ra sao với Bồ-Tát
Địa-Tạng ?
Địa-Tạng là tên
của Bồ-Tát có nhiều nghĩa khác nhau : Nhẫn nại, như như bất động,
tư duy kín mật. Nhờ các đặc tính kia mà Ngài tu hành chứng đạo
và nguyện xả thân vào trong chốn địa ngục để cứu độ những
chúng sanh bị đọa lạc, khốn cùng. Bồ-Tát có phát lời nguyện
rộng lớn cứu độ tất cả chúng sanh trong chốn địa ngục và có
thệ rằng nếu còn một chúng sanh nào bị đọa lạc vào đường dữ
thì Ngài không thành đạo chứng Phật quả. Do nguyện lực kim cương
ấy đủ chứng minh cho hàng Phật tử tin tưởng nơi Ngài một cách
tuyệt đối. Mỗi khi ta niệm thành tâm danh hiệu Ngài hoặc trì kinh
Địa-Tạng cho chí thành sẽ cảm ứng tới Phật, vì có cảm ứng thì
đạo mới giao hòa được ...
Hình Ngài thường
đứng thẳng, mặc y mầu đỏ, tay phải cầm tích trượng (gậy chống)
có 12 khoen và, tay trái nâng hạt minh châu ; trên đầu có đội mão.
Tướng mạo trang nghiêm Ngài có thể ra vào tự tại trong chốn địa
ngục, với pháp 12 nhân duyên mà Ngài như đã thu gọn vào trong
lòng bàn tay bằng cây gậy chống, để dẫn đường cho chúng sanh
thoát bể khổ của vòng sanh tử.
Muốn cho việc lễ
bái, tụng niệm của chúng ta có kết quả thì cần phải chí tâm mới
đạt được mục đích mong cầu.
11.- Ngài A Nan
Và A Nan Đà Cùng Một Tên ?
A-Nan là con vua
Hộc-Phạn, em vua Tịnh-Phạn và là em họ với Phật Thích-Ca, sinh
nhằm
ngày với đức Phật Thích-Ca thành đạo, nên tên Ngài có nghĩa là
Khánh-Hỷ (vui mừng) mà tiếng Phạn là Ananda.
Được theo hầu
hạ Phật trong những cuộc đi du thuyết giáo hóa và lại có trí
tuyệt luân, cho đến khi Phật nhập diệt, ngài A-Nan cũng vẫn còn
hầu
cận một bên.
Ngài là một trong
số 10 đệ tử danh tiếng của Phật có trí tuệ sáng suốt và được
Phật tôn xưng là "đa văn đệ nhất". Sau khi Phật vào
Niết-Bàn, Ngài là người đứng ra vận động chư Tăng kiết tập
lại kinh điển lần thứ nhất tại núi Kỳ-Xà-Quật thuộc nước
Ma-Kiệt-Đà, ở thành Vương-Xá gồm có 500 người toàn là Tăng
sĩ. Tuy nhiên trong lần kiết tập đầu tiên kinh điển chưa biên chép
thành văn tự mà do trí nhớ của ngài A-Nan tuyên lại những lời
Phật đã giảng thuyết ở khắp các nơi cho đại chúng nghe. Thường
trong các kinh ở phần mở đầu đều bằng câu : "Như thị ngã
văn " (ta nghe như thế nầy), đó chính là lời ngài A-Nan tự
thuật vậy.
Ngài thường
được thờ chung với đức Phật Thích-Ca và bên phía tay mặt, trong
khi đó tượng ngài Ca-Diếp bên tay trái của Phật. Ngoài ra, ngài
A-Nan cũng là người đầu tiên bạch xin cho nữ giới xuất gia, tức
là bà Da-Du-Đà-La đã tu hành chứng quả A-la-hán.
Người Phật tử
luôn luôn học theo hạnh nguyện của Ngài để trí tuệ minh mẫn, đạo
tâm bền chặt.
12.- A Dục Vương
Có Công Gì Trong Phật Giáo Và Ở Thời Kỳ Nào ?
Vua A-Dục hay vua
Asoka có nghĩa là Vô-Ưu, sanh năm 321 trước Tây-lịch, là cháu của
vua Thi-Đà-Quật-Đa Đại-vương, người có công thống nhất toàn xứ
Ấn-Độ và bảo vệ cũng như truyền bá Phật giáo khắp nơi.
Căn cứ vào
truyện A-Dục-Vương thì lúc nhỏ vua tính cuồng bạo, cải lời vua cha
không thuận lập anh là Tu-Tư-Ma lên kế vị. Nhân trong nước có loạn
do nước Xoa-Thi-La đem quân sang gây hấn, ông phụng mạng lệnh cha
đi
dẹp loạn, nhưng không cần kiếm cung mà cần binh lực thuộc bốn binh
chủng (thủy, lục, mã, bộ binh, vì lúc đó chưa có không quân). Dẹp
yên được giặc uy tín vang lừng từ đó. Sau khi vua cha băng hà,
bèn giết anh Tu-Tư-Ma để lên ngôi vua. Nhưng theo Nam truyện và
căn
cứ vào bộ Đại-Sử chương 5 thì lời thuật có khác nhau là lúc
A-Dục chưa làm vua đã làm phó vương trông coi việc nuôi chim. Lúc
tại nhiệm ông chuyên lo việc kiếm cung, khi nghe tin cha mất liền
trở
về kinh đô và lập mưu giết anh Tu-Tư-Ma để lên kế ngôi. Trong hơn 4
năm liền cùng lập mưu với người anh trai của mẹ là Đế-Tu đã
giết tất cả những anh em trong giòng họ cả thảy 99 người và sau
đó lên làm vua vào năm 280, sau đức Phật nhập Niết-Bàn.
Cả hai thuyết đều
khác nhau, nhưng niên đại thì giống. Tánh vua hung bạo, chuyên
việc
giết hại và dưới tay vua vô số sanh linh bị chết một cách hàm oan.
Để đoái công chuộc tội, vua quy y theo Phật giáo và phát huy tinh
thần đại từ bi trong công việc nổ lực tuyên dương chánh pháp,
cũng như lập được 84,400 ngôi chùa và 84,400 ngôi tháp. Vua ở
ngôi trong 17 năm, có công trong việc nhóm họp đại chúng kết tập
kinh điển lần thứ 3 sau Phật nhập diệt 300 năm tại thành Hoa-Thị.
Trong lần kiết tập nầy ngài Mục-Kiền-Liên tử đế tu được bầu
làm chủ tọa.
Vua còn cho thiết
lập những di tích nơi đức Phật tu khổ hạnh, nơi thành đạo và nơi
nhập diệt mà ngày nay những trụ đá lịch sử nầy vẫn còn tồn
tại với thời gian tại Ấn-Độ.
13.-
Tổ Bồ
Đề Đạt Ma Xuất Thế, Dòng Dõi Và Truyền Pháp Ra Sao ?
Bồ-Đề Đạt-Ma
dịch là Pháp, tức quy tắc hay chấp trì. Ngài là sơ tổ của phái
Thiền-tông Trung-Quốc và là tổ thứ 28 của Phật giáo Ấn-Độ.
Ngài kế thừa Phật Pháp từ tổ Ca-Diếp là đệ nhất tổ.
Ngài người Nam
Thiên-Trúc dòng Sát-Đế-Lợi, con trai thứ ba của vua Hương-Chí,
với tên thật là Bồ-Đề-Đa-La. Sau khi gặp tổ thứ 27 là
Bác-Nhã-Đa-La và được nối dòng Tông pháp nên được đổi tên
từ Đa-La sang Đạt-Ma. Vào đời Lương (520) niên hiệu Phổ-Thông
nguyên niên, Ngài vượt biển cả, trải qua hàng ngàn dặm với
nhiều nguy khó và sau cùng đến đất Quảng-Châu. Tại đây ngài
được vua Võ-Đế đón về đất Kiến-Nghiệp, nhưng tiệt nhiên không
nói một lời nào cả. Sau khi ở Quảng-Châu một thời gian, Ngài
vượt sông sanh đất Ngụy, nhưng đến đời Hậu-Ngụy (?) năm
Chánh-Hiếu-Minh nguyên niên, Ngài dừng chân tại chùa Thiếu-Lâm,
suốt ngày ngồi xoay mặt vào vách mà tọa thiền nên người đương
thời gọi Ngài là tỵ quán (xoay mặt vào tường). Trong thời gian
ở chùa Thiếu-Lâm có nhiều thiền giả đến học đạo thiền với
Ngài, trong số đó có ngài Huệ-Khả, sau được truyền y bát.
Trước khi tịch Ngài truyền pháp cho ngài Huệ-Khả qua bài kệ sau
:
Ta đến từ đất
lành
Truyền pháp cứu
quần sanh,
Một hoa nở
năm cánh (*)
Quả mãn tự
nhiên thành.
(Ngô bổn lai tư
độ,
Truyền pháp cứu
quần sanh
Nhứt hoa khai ngũ
diệp
Kết quả tự
nhiên thành !)
Ngài tịch vào
năm 529 niên hiệu Đại-Thông năm thừ 2 đời nhà Lương. Hài cốt
được an táng tại núi Bi-Nhĩ - Vua Lương-Võ-Đế có khắc bia ghi
công hạnh Ngài. Đến đời Đường Đại-Tông vua sắc phong cho Ngài
là "Viên-Giác Đại-Sư".
*******
(*) Từ đời ngài
Đạt-Ma truyền dòng Thiền xuống tới đời ngài Huệ-Năng là 5
đời. Câu thứ ba trong bài kệ có ý nói dòng Thiền do Ngài sáng
lập sẽ kế tục được 5 đời truyền pháp. Đó là : Ngài
Huệ-Khả, ngài Tăng-Xáng, tổ Đạo-Tín, tổ Hoằng-Nhẫn và tổ
Huệ-Năng.
14.- Huệ Năng
Tổ Thứ Mấy Của Phật Giáo Trung Quốc ? Thân Thế Và Công Hạnh Ra
Sao ?
Ngài Huệ-Năng là
vị tổ thứ 6 nối dòng Thiền từ tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma thuộc Thiền
phái Lâm-Tế của Phật giáo Trung-Quốc.
Ngài họ Lư, lúc
nhỏ mồ côi cha. Gia đình lâm cảnh nghèo thiếu nên phải ngày ngày
vào rừng đốn củi lấy tiền về nuôi mẹ. Một hôm, khi đem củi
vào chợ bán, giữa đường nghe có người tụng kinh Kim-Cang tới
đoạn : "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm ..." Ngài dừng lại
để nghe và ngộ được thâm ý của bài kệ, bèn tìm tới yết
kiến ngũ tổ Hoằng-Nhẫn, lúc đó đang tu tại núi Hoàng-Mai ở đất
Quán-Châu. Tổ thấy người hơi lạ kỳ, bèn cho vào liêu (chái bếp
sau của chùa) làm việc giả gạo và từ đó mang tên là
Lư-Hành-Giả. Tại đây. Lư làm việc ròng rã 8 tháng. Một hôm, Tổ
biết cơ duyên đã đến, bèn họp đồ chúng lại và mỗi người
phải trình một bài kệ để được truyền tâm pháp. Lúc đó, ngài
Thần-Tú làm xong bài kệ đem trình tổ như sau :
Thân thị Bồ-đề
thọ,
Tâm như minh cảnh
đài.
Thời thời cần
phất thức
Vật sứ nhá trần
ai.
(Thân như cây
Bồ-đề,
Tâm như đài
gương sáng
Luôn phải năng lau
chùi,
Làm gì có bụi
bám.)
Ngài
Huệ-Năng đọc được thâm ý của bài kệ và biết rằng chính
người làm ra bài kệ nầy chưa đạt được tới chỗ thâm áo của
đạo Thiền. Ban đêm, trong lúc mọi người đang ngủ, Huệ-Năng nhờ
người viết bài kệ của mình lên vách, nội dung như sau :
Bồ-đề bổn vô
thọ
Minh cảnh diệc phi
đài
Bổn lai vô nhất
vật
Hà xứ nhá trần
ai ?
Tạm dịch :
Bồ-đề chẳng
thật phải cây,
Kiếng soi đâu hẳn
vật dày đài gương
Xưa nay vạn pháp
chẳng thường
Bụi trần há dễ
bám nương được nào ?
Tổ biết được
đó là bài do Huệ-Năng làm nên vào tận trong liêu hỏi :
- Gạo đã trắng
chưa ?
Huệ-Năng đáp
:
- Gạo trắng đã
từ lâu.
Tổ lấy gậy gỏ
miệng cối 3 cái rồi lui về phòng, Huệ-Năng ngộ được tâm ý Tổ
và chờ tới canh ba mới vào gõ cửa phòng của Tổ. Tổ truyền y
pháp và bảo phải mau ẩn lánh về phương Nam trong một thời gian,
nếu
không sẽ có kẻ ám hại.
Chia tay Tổ, Ngài
về phương Nam vào
tháng giêng năm Nghi-Phụng nguyên niên
và gặp được ngài Ấn-Tông Pháp-sư ở chùa Pháp-Tánh. Sư nghe qua
tông yếu Thiền của Ngài, bèn nhận cho làm đệ tử. Đúng vào
ngày 15 tháng ấy, Pháp-sư bèn nhóm họp các vị Đại-Đức lại để
làm lễ thế phát (cạo tóc) cho Huệ-Năng. Trong thời gian tu học tại
chùa Pháp-Tánh, Huệ-Năng tỏ ra tinh tấn và được Bổn-Sư để ý
cũng như Tăng chúng mến trọng, nên ngày mồng 8 tháng 2, xin thọ
giới Tỳ-kheo với ngài Trí-Quang Luật-sư. Sau đó, Ngài lui về đất
Tào-Khê. Ngài tịch vào ngày 3 tháng 8 niên hiệu Khai-Nguyên nguyên
niên đời Đường-Huyền-Tông (712) thọ được 76 tuổi.
Đến đời vua
Nguyên-Hòa năm thứ 10, vua sắc phong cho Ngài đạo hiệu là
"Đại-Giám Thiền-Sư".
15.- Ngài
Minh Hải
Pháp Bảo Hành Trạng VÀ Pháp Phái ?
Sử liệu không
thấy ghi rõ năm sinh và mất cũng như thời kỳ xuất gia của Ngài.
Chúng ta chỉ biết được hành trạng và phú pháp cho ngài Minh-Hải
còn truyền qua dòng kệ của hệ phái Lâm-Tế thuộc chùa Chúc-Thánh,
Quảng-Nam do Ngài sáng lập.
Ngài Minh-Hải
Pháp-Bảo người tỉnh Phúc-Kiến, Trung-Quốc, qua An-Nam vào năm
1687,
đời vua Anh-Tôn, tức là Ngài đến đồng thời với ngài
Nguyên-Thiều. Ngài Nguyên-Thiều phụng mệnh vua Anh-Tôn trở về
Trung-Quốc thỉnh chư Tăng và pháp bảo sang Việt-Nam. Một đại giới
đàn cũng được tổ chức tại chùa Thiên-Mụ trong thời gian nầy.
Ngoài ngài Minh-Hải ra, còn có các ngài Minh-Hoằng Tử-Dung,
Minh-Vật
Nhất-Trí, Minh-Hoằng Định-Nhiên ... đồng sang nước ta cũng một
lúc.
Ngài Minh-Hải sau khi đến Việt-Nam được mời chứng minh trong hàng
thập sư của đại giới đàn tại Huế. Sau đó, Ngài vào Quảng-Nam,
khai sơn chùa Chúc-Thánh, Hội-An. Lúc bấy giờ tại Bình-Định có
ngài Nguyên-Thiều đang ra sức xiển dương Phật Pháp, thì tại
Quảng-Nam ngài Minh-Hải Pháp-Bảo cũng tận lực đề xướng giáo
nghĩa của phái Thiền Lâm-Tế. Hệ phái Lâm-Tế do Ngài truyền xuống
tới đời ngài Trí-Thắng Bích-Dung là 41 đời. Các chùa Tam-Thai,
Linh-Ứng, Quan-Âm (Ngũ-Hành-Sơn, Non-Nước), chùa Long-Tuyền,
Phước-Lâm, Vạn-Đức, Viên-Giác ... (Hội-An) đều thuộc hệ phái
của ngài Minh-Hải. Các chùa thuộc tỉnh Quảng-Nam, mỗi năm chư Tăng
và tín đồ đều về chùa tổ đình Chúc-Thánh để làm lễ húy
nhật tổ thật trọng thể.
Ngài Minh-Hải là
tổ sáng lập ra phái Lâm-Tế ở Quảng-Nam, nhưng việc hành đạo trong
khoảng thời gian bao lâu, cũng như năm tịch của Ngài không được
sử sách ghi lại đầy đủ. Đây là một điều thiếu sót rất lớn
vậy.
16.-
Thiên Thai Trí
Giả Đại Sư Hành Trạng Và Truyền Pháp?
Thiên-Thai Trí-Giả
Đại-sư hay còn gọi là Thiên-Thai Đại-sư, tên tự Đức-An, họ
Trần.
Năm lên bảy tuổi
có cơ hội gần gũi nơi Già-Lam (chùa) và nghe vị Tăng tại chùa
tụng kinh Pháp-Hoa phẩm Phổ-Môn một lần, sau đó liền thuộc nằm
lòng. Năm lên 18 tuổi xuất gia ở chùa Quả-Nguyện, đất
Tương-Châu. Năm 20 tuổi, thọ giới Tỳ-kheo. Trước tiên theo học
luật với ngài Huệ-Khoáng Thiền-sư và tinh thông các kinh điển,
nhất là kinh Phương-Đẳng. Đời Trần-Văn-Đế, niên hiệu Gia-Nguyên
năm đầu (?) có Tư Thiền-sư tu tại núi Đại-Tô đất Quý-Châu,
Ngài tìm lên tới đỉnh núi để lễ bái. Thiền-Sư nói : Ngày
trước tại hội Linh-Sơn tôi với Ngài đã có túc duyên nghe kinh
Pháp-Hoa phẩm "An-Lạc-Hạnh". Khi về, Trí-Giả suốt ngày đêm
chuyên tụng kinh Pháp-Hoa trải qua 27 ngày, khi đọc tới đoạn nói
về
ngộ được kinh Pháp-Hoa như "thị chơn tinh tấn, thị danh chơn pháp
cúng dường Như-Lai, thân tâm thoát nhiên nhập định chiếu liễu
Pháp-Hoa" bèn khoan khoái reo lên : Không phải ngươi không chứng,
không phải ta không biết chỗ sâu sắc của việc nhập định Pháp-Hoa
Tam-Muội, pháp phương tiện, nơi phát sinh công đức đầu tiên là
Đà-La-Ni vậy. Do đó, Ngài nhóm họp 100,000 người lại để biện
luận. Tất cả đều tôn Ngài là bậc thượng thặng thứ nhất và
đem lòng kính phục. Đời Trần, niên hiệu Quang-Đại-Nguyên niên,
Ngài cùng với các bạn đồng tu 27 người đến kinh đô Kim-Lăng. Sau
đó, Ngài được mời vào chùa Ngỏa-Quang để giảng kinh Pháp-Hoa,
vào năm thứ 30 niên hiệu Đại-Kiến-Nguyên Niên. Ngài giảng qua bộ
đại Trí-Độ-Luận và thứ lớp của pháp môn tu thiền định. Đời
Trần, niên hiệu Đại-Kiến thứ 7, tháng 9 vào mùa thu, Ngài vào
núi Thiên-Thai để an cư. Hai năm sau, vua nghe danh mới cho xây
cất
chùa để Ngài ở tu. Niên hiệu Đại-Kiến thứ 10, vua Trần một
mực muốn thỉnh Ngài về Kim-Lăng. Buộc lòng Ngài phải nghe theo và
dừng chân tại chùa Linh-Siêu đất Kim-Lăng để giảng kinh luận,
cũng như giảng kinh Bát-Nhã ở điện Thái-Cực cho hoàng phái, sau
dời về chùa Quang-Trạch, nhưng bị thất bại nên các cuộc giảng
pháp không còn tiếp tục được nữa. Ngài lui về an dưỡng tại
núi Lư-Sơn. Đời Tùy (581-617) niên hiệu Khai-Hoàng thứ 11, vua Tấn
là Trần-Kiến-Khương cho người tới Kim-Lăng (núi Lư-Sơn) thỉnh
Ngài, Ngài nói : Ta với vua Tấn vốn có duyên lành từ trước nên
mới được gặp nhau lại đây và chấp thuận theo lời mời. Vào
ngày 23 tháng 11 năm đó, vua thiết lễ Trai Tăng cho 1000 vị
Đại-Đức
tại điện Kim-Thánh và chính vua xin thọ giới Bồ-Tát. Sau, vua cho
lập
tinh-xá tại núi Ngọc-Tuyền để Ngài giảng kinh truyền đạo. Các bộ
kinh Pháp-Hoa Huyền-Nghĩa và kinh Ma-Ha Chỉ-Quán đều được giảng
tại
chùa Ngọc-Tuyền.
Sau một thời gian
hành đạo tại đấy, Ngài từ giả đồ chúng vào núi Thiên-Thai
để tu niệm, nhưng vua cho người vào tận núi Thiên-Thai thỉnh Ngài
về kinh đô để truyền bá Phật Pháp. Do lời khẩn khoản của vua theo
lời sứ giả, Ngài phải trở lại Kim-Lăng một lần nữa. Vì tuổi
già sức yếu, nên khi trên đường về mới tới Thạch-Thành thì
bị phát bịnh Ngài liền tịch ngay tại đó, vào ngày 24 tháng 11 năm
Khai-Hoàng thứ 17 (?) thọ được 60 tuổi.
Ngài là người
khai sáng ra tông Thiên-Thai, một trong số 13 tông phái lớn của
Phật
giáo Trung-Quốc còn truyền thừa cho đến ngày nay, nên được
người đời tôn xưng luôn tên Ngài là Thiên-Thai Trí-Giả
Đại-sư.
******
Sách tham khảo
:
- Thật dụng tối
tân Phật học từ điển của nhà xuất bản Tân-Văn-Phong -
Đài-Bắc.
- Cao-Tăng
truyện.
- Betonamu no minsoku
shoshi của Nobuhiro Matsumito. 1969.
****
17.-
Cưu Ma
La Thập Là Người Có Công GÌ Trong Phật Giáo ?
Cưu-Ma-La-Thập nói
cho đủ là Cự-Ma-La-Thập-Bà, Cưu-Ma-La-Thời-Bà hay Cưu-Ma-La-Kỳ-Bà
có nghĩa là Đồng-Thọ, tức có ý nói người tuổi trẻ nhưng chí
lớn vô cùng.
Cha Ngài tên là
Cưu-Ma-La-Viêm, người Thiên-Trúc, sau dời nhà đến nước Quy-Tư,
kết hôn với em gái vua Quy-Tư sanh là La-Thập. Sau đó mẹ La-Thập
xuất gia tu hành và chứng được đạo quả. Khi lên 7 tuổi La-Thập
xuất gia theo mẹ và đi du phương tòng học tại nước Tây-Vức
(Ấn-Độ), thấu suốt được chỗ thâm áo của Đại-thừa. Lúc bấy
giờ nước Quy-Tư có loạn do vua Tần là Phù-Kiên, năm Kiến-Nguyên
thứ 19 đem quân sang chinh phạt nước Quy-Tư. Tình thế bất an khiến
La-Thập phải trở về cố quốc. Khi về đến đất Lương-Châu nghe tin
Phù-Kiên bại trận bèn dừng lại đó. Sau đó vua Diêu-Tần đem binh
khôi phục lại được đất Lương-Châu. La-Thập vào đất Trường-An
để hành đạo, tiếng tăm lừng lẫy và được tôn làm bậc
Quốc-sư, vua mời Ngài vào cung Tây-Minh-Cát và Triệu-Dao-Viên để
ở dịch kinh. Ngài là người đầu tiên dịch nhiều bộ kinh nổi tiếng
như Pháp-Hoa, Di-Đà Kinh trên 380 quyển còn truyền tới nay. Ngài
tịch
tại Trường-An năm thứ 11 đời Tần-Thỉ-Hoàng, niên hiệu
Tấn-Khương-Ninh năm thứ 5 (410 ?)
Trong các bộ kinh do
Ngài dịch, ở phần mở đầu có ghi : Diêu-Tần Tam-Tạng Pháp-Sư
Cưu-Ma-La-Thập, phụng chiếu dịch. (Đời Diêu-Tần, ngài Tam-Tạng
Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng theo lời vua để dịch), tức là lúc ở
trong cung nhà vua thỉnh Ngài làm việc phiên dịch nầy.
Kinh điển Phật
giáo lưu truyền ngày nay bằng chữ Hán là do công của hai ngài
La-Thập và Huyền-Trang phiên dịch. Những kinh điển do ngài La-Thập
dịch gọi là cựu dịch, còn kinh điển ngài Huyền-Trang dịch gọi là
tân dịch. Tại sao cùng là văn tự chữ Hán lại phân cựu và tân
? Cựu ngoài cái nghĩa là lâu, còn có ý chỉ cho văn thể theo lối
cổ, không được bóng bảy êm xuôi ; còn tân là văn hiện đại
nên được nhiều người đọc hiểu.
Các kinh sách của
Phật giáo được lưu truyền rộng rãi khắp Trung-Quốc, Nhật-Bản,
Triều-Tiên, Việt-Nam ... một phần lớn đều do những người phiên
dịch từ Phạn-văn sang Hán-văn mà ngài La-Thập là một trong số
các nhà đại dịch giả lúc bấy giờ.
18.- Ngài
Huyền
Trang Có Công Gì Trong Phật Giáo ?
Trong bộ
"Đại-Đường Tây-Vức Ký" có chép rằng một vị Thánh
Tăng từ Đông-Độ sang Tây-Trúc thỉnh kinh Phật đã trải qua nhiều
nguy hiểm, sau cùng cũng đạt được mục đích để trở về xứ sở
trong vinh quang ròng rã suốt 16 năm, đó là ngài
Đường-Tam-Tạng.
Ngài Huyền-Trang hay
Đường-Tam-Tạng họ Trần, ở chùa Đại-Từ-Ân đời nhà Đường
(618-907). Ngài xuất gia học Phật năm lên 13 tuổi ở chùa Tịnh-Độ
đất Lạc-Dương. Sau tìm đến kinh đô Trường-An để tham học với
các bậc cao đức như ngài Huệ-Hưu, Triệu-Châu ... nhưng chưa ngộ
được chỗ thâm áo của các kinh luận nhiếp Đại-thừa,
A-Tỳ-Đạt-Ma, Câu-Xá ... bèn tỏ ý muốn sang Ấn-Độ để tầm học.
Không được chấp thuận, nhưng Ngài không thối chí, vào năm
Trinh-Quán thứ 3, đời Đường-Cao-Tông (629) Ngài băng rừng, vượt
núi, đi bộ trải qua hàng ngàn dặm đường khó khăn nguy hiểm suốt
bốn năn ròng rã. Năm Trinh-Quán thứ 7 (632) Ngài mới tới được
đất Ấn-Độ. Tại đây Ngài chiêm bái nhiều nơi Phật tích như chỗ
đức Phật Đản-Sanh, nơi Phật nhập Niết-Bàn, vườn Lộc-Uyển và
xứ Ma-Kiệt-Đà, nơi có cây Bồ-Đề và tòa kim-cương, chỗ đức
Phật đã ngồi tu cho đến khi chứng quả khi xưa. Ngài cũng đến
chiếm bái núi Kỳ-Xà-Quật, nơi kiết tập kinh điển lần thứ 2 và
tinh-xá Trúc-Lâm là những nơi đất Thánh của Phật giáo. Sau cùng
Ngài tới viếng chùa Na-Lan-Đà. Tại đây, Ngài được ngài
Giới-Hiền nhận làm đệ tử và được học qua Luận Du-Già.
Ngài làm được
cả thảy 3000 bài tụng phá đổ tà thuyết để lập chánh giáo, trong
số đó có 1600 bài tụng bênh vực lý thuyết Đại-thừa để trả
lời lại 700 bài tụng phá lập luận Đại-thừa tại Ấn-Độ lúc
bấy giờ. Nhờ cuộc biện luận nầy thành công, Ngài được vua
Giới-Nhật kính trọng rất thâm hậu và cho mở đại hội tại thành
Khúc-Nữ. Ngài được mời làm chủ tọa đại hội. Ngài đăng
đàn luận giải, chuyên tán dương luận Đại-thừa, nhưng không một
ai trong đại hội bắt bẻ được những lời lẽ lý luận mạch lạc
của nhà đại luận sự với nhiều sự biện bác giỏi như
Ngài.
Sau đó, Ngài chia
tay vua Giới-Nhật để trở về nước vào năm Trinh-Quán thứ 19 (645)
đời Đường Thái-Tôn. Khi Ngài về tới kinh đô Trường-An có mang
theo được cả thảy là 75 bộ kinh Phật bằng chữ Phạn hiến cho nhà
vua. Được vua Thái-Tôn triệu Ngài đến ở chùa Hoằng-Phước để
phiên dịch các bộ kinh nầy từ chữ Phạn sang chữ Hán. Vào đời
vua Cao-Tông, niên hiệu Vĩnh-Triệt thứ ba cho thỉnh Ngài vào triều
ở
chùa Từ-Ân để giảng pháp. Năm Hiển-Thánh thứ tư, vua Cao-Tông
lại cho xử dụng cung Ngọc-Hoa sửa lại thành chùa và mời Ngài về
ở đó. Năm sau, Ngài bắt đầu dịch bộ kinh Đại-Bát-Nhã tại
đây.
Ngài tịch vào năm
Kiền-Đức nguyên niên, ngày mồng 5 tháng 2 thọ được 65 tuổi.
Cuộc đời ngài
Huyền-Trang gắn liền như một trang sử Phật giáo sáng chói do việc
phiên dịch kinh điển. Ngài dịch được cả thảy là 75 bộ kinh gồm
1335 quyển. Những bản kinh của Ngài dịch, người sau gọi là "tân
dịch", so với các bản dịch trước của ngài La-Thập thì có văn
vẽ dễ hiểu.
*****
Tài liệu tham khảo
:
Đại-Đường
Tây-Vức Ký - Quảng-Hoằng-Minh tập Tục Cao Tăng truyện quyển 4 -
Tam
Tạng Pháp sư truyện - Phật tổ thống tải quyển 12 - Thật dụng tối
tân Phật học tự điển - Việt Nam Phật giáo sử lược của
Thượng-tọa Mật-Thể.
19.- Ngài Vô Ngôn
Thông Và Phật Giáo Phái Thiền Tông Tại Việt Nam
Ngài
Vô-Ngôn-Thông họ Trịnh, người Quảng-Châu, Trung-Quốc, xuất gia từ
nhỏ ở chùa Song-Lâm (Chiết-Giang). Tánh tình điềm đạm, ít nói,
nhưng hiểu tất cả mọi việc về sự lý, nên người đời đặt cho
hiệu là Vô-Ngôn-Thông.
Năm Canh-Tý niên
hiệu Nguyên-Hòa thứ 15 đời Đường (820) Ngài qua An-Nam, trú tại
chùa Kiến-Sơ (tỉnh Bắc Ninh) trọn ngày lo việc thiền định. Chỉ có
Cảm-Thành Thiền-sư biết được hạnh nguyện của bậc cao Tăng đắc
đạo nên đem lòng kính phục và thờ làm bậc thầy.
Ngài tịch năm 826,
niên hiệu Bảo-Lịch đời Đường. Trước khi tịch, Ngài có truyền
thi kệ cho ngài Cảm-Thành Thiền-sư và dạy rằng :
Ngày xưa Tổ Sư
là ngài Nam-Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại mấy lời:
"Nhất thiết
chư pháp, giai tùng tâm sanh,
Tâm vô sở sanh,
pháp vô sở đắc,
Nhược đạt tâm
địa, sở trụ vô ngại,
Phi ngộ thượng
căn, thận vật khinh hứa".
(Hết thảy các
pháp đều do tâm sanh, nếu tâm không sanh, pháp cũng không thể có
được ; khi hiểu được như thế thì làm việc gì cũng không trở
ngại (với cái tâm ấy), nếu không gặp được người hiền tài
thì chớ nên truyền bậy) nay ta cũng dặn lại ngươi câu ấy. Đọc
xong kệ, Ngài an nhiên mà hóa.
Phái Thiền tông
thứ nhất tại Việt-Nam do ngài Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi (580) làm Sơ tổ,
đến
đời ngài Vô-Ngôn-Thông (820) lại có thêm phái Thiền thứ hai do
Ngài là Sơ tổ truyền pháp. Pháp phái dòng Thiền Vô-Ngôn-Thông
truyền xuống được 15 đời. Danh hiệu và hành tích của những vị
kế thừa cộng là 40 người. Đến đời cư sĩ Ứng-Thuận (1221) là
người cuối của phái Thiền nầy.
Hiện tháp mộ của
ngài Vô-Ngôn-Thông còn tại núi Tiên-Du, tỉnh Bắc-Ninh (Bắc Việt).
Ngài là vị tổ đã đem lại nguồn Thiền Tư-Duy (meditation) cho người
Phật tử Việt-Nam ngày nay.
20.-
Ngài Tỳ
Ni Đa Lưu Chi Và Thiền Phái Của Ngài Tại Việt Nam
Theo sách "Cổ
Câu Pháp Vân Phật Bổn Hạnh Ngữ Lục" và "Đại Nam Thuyền
Uyển Tập Anh" chép : Vào đời Đông-Hán, niên hiệu Tả-Kiến
(569-582) có một Pháp-sư tên là Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, người Ấn-Độ
nhân biết có Phật giáo ở Nam-Việt liền qua trú tại chùa
Pháp-Vân để giảng Phật Pháp.
Phật giáo bắt
đầu thạnh hành từ đó. Ngoài ra, sách Tập-Anh còn dẫn lời ngài
Thông-Biện Thiền-sư nói : "Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi là Sơ tổ của
Thiền-tông ở nước ta". Ngài tên chữ Phạn là Vinitaruci,
người Nam Thiên-Trúc, sang Tây Thiên-Trúc để tham khảo đạo Phật,
nhưng cơ duyên chưa gặp, nên Ngài qua cõi Đông-Độ, tiến vào
Trung-Quốc và đến đất Trường-An năm 574. Lúc bấy giờ Phật giáo
ở Tàu đang bị bài xích, nhằm đời Võ-Đế Bắc-Chu. Ngài muốn qua
đất Nghiệp (tỉnh Hồ-Nam bây giờ), may gặp được ngài Tăng-Xáng,
Tổ thứ ba của Phật giáo Trung-Quốc, tu ở núi Tử-Không. Ngài
liền đem lòng kính mộ và xin theo làm đệ tử, Tổ thuận cho và sau
đó khuyên Ngài qua An-Nam mà tiếp độ chúng sanh, chớ không nên ở
đây làm gì. Ngài bèn từ giả thầy ra đi đến Quảng-Châu, Ngài
trụ tại chùa Chế-Chỉ và dịch bộ kinh "Tượng-Đầu Báo-Nghiệp
Sai-Biệt" chữ Phạn sang chữ Hán, năm Canh-Tý, niên hiệu
Đại-Tường thứ 2 vào đời nhà Chu (580), Ngài qua Nam Việt trụ trì
ở chùa Pháp-Vân (tỉnh Hà-Đông), dịch bộ kinh "Tổng Trì". Uy
danh Ngài chẳng bao lâu đã lừng lẫy khắp nơi. Vua Lý-Thái-Tông
(1028 - 1054) sau có làm bài tán ngưỡng Ngài như sau:
Sáng tự nam lai
quốc
Văn quân cửu
tập thiền
Ứng khai chư Phật
tín
Viễn hợp nhất
tâm nguyên
Hạo hạo lăng già
nguyệt
Phân phân bát
nhã liên
Hà thời hạnh
tương kiến
Tương dữ thoại
trùng huyền
Nghĩa:
Nhớ từ mới
đến nước Nam
Nghe đồn sư vốn
lòng ham mùi thuyền
Mở đường tin
Phật khắp miền,
Xa xa hợp lại tâm
nguyên một dòng
Lăng già (1) bóng
nguyệt sáng trong
Đóa sen Bát Nhã
(2) hương nồng nơi nơi
Bao giờ lại
được gặp người
Cùng nhau trò
chuyện cơ thời huyền vi !
Vào đời nhà
Tùy, năm Quý Sữu niên hiệu Khai-Hoàng thứ 14 (594), Ngài truyền
tâm ấn cho ngài Pháp-Hiền rồi tịch.
Theo sách
Thiền-Uyển Tập-Anh, ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi người nước Thiên-Trúc
qua Trung-Hoa vào năm Nhâm Ngọ (562), niên hiệu Đại Kiến thứ 6 nhà
Trần, tại đất Trường-An.
Khi Phật giáo
Trung-Quốc bị Võ-Đế dàn áp (574), ông đi về đất Hồ-Nam, nơi đây
Tổ thứ 3 của Thiền-tông, ngài Tăng-Xáng đang lánh nạn và ẩn tu
tại núi Tư-Không. Hai người đã có duyên Phật Pháp, Tổ khuyên
Ngài nên đi về phương Nam, mà
tiếp xúc với đồ chúng. Nghe lời
Tổ, Ngài tới đất Quảng-Châu ở chùa Chế-Chỉ. Tại đây,
Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi đã dịch được các bộ kinh như Tượng-Đầu
Báo-Nghiệp Sai Biệt chữ Phạn sang chữ Hán. Vào năm 580, niên hiệu,
Đại-Tường thứ hai, tháng 3 năm Canh-Tý, Ngài đến nước ta, trụ
tại chùa Pháp-Vân và dịch bộ kinh "Tổng-Trì", rồi tịch vào
năm 594. Khi Ngài đến ở chùa Pháp-Vân thì đã có một Thiền-sư
người Việt-Nam tên là Quán-Duyên đang mở lớp dạy thiền cho tăng
đồ tại đây. Ngài trụ tại đó trong một thời gian, sau chọn
Thiền-sư Pháp-Hiền làm đệ tử. Ngài Pháp-Hiền vốn là học trò
của ngài Quán-Duyên.
Việc truyền thừa
của phái thiền Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi được cả thảy 19 thế hệ như
sau:
1- Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi
(594)
2- Pháp-Hiền
(626)
3- Huệ-Nghiêm
(?)
4- Thanh-Biện
(686) HUỆ-SINH (?)
5- Khuyết-Lục
6- Khuyết-Lục
7- Long-Tuyền
8- Định-Không
(808) 2 người khuyết lục
9- Thông-Thiện
(?) 2 người khuyết
lục
10- La-Quý-An (936): -
Pháp-Thuận (991)
- Mahamaya (1029)
- 1 người khuyết lục
11- Thiền-Ông (979):
- Sùng-Phạm (1087)
- 2 người khuyết lục
12- Vạn-Hạnh
(1018):
- Định-Tuệ (?)
- Đạo-Hạnh (1112)
- Trì-Bát (1117)
- Thuần-Chân (1101)
- 2 người khuyết lục
13- Huệ-Sinh (1063): -
Thiên-Nham (1163)
- Minh-Không (1141) -
Bản-Tịch (1140)
- 2
người khuyết lục.
14- Khánh-Ty (1142): -
4 người khuyết lục
15- Giới-Không (?):
- Pháp-Dung (1174)
- 1 người khuyết
lục
16- Nhất-Trí (?):
Chân-Không (1100) -
- Đạo-Lâm
(1203)
17- Diệu-Nhân
(1113): - Viên-Học (1136)
- Tĩnh-Thiền (1193) -
1 người khuyết lục
18- Viên-Thông
(1151): 1 người khuyết lục
19- Y-Sơn (1213): - 1
người khuyết lục.
********
(1) Lăng-già: Phật
Lăng-Già ở bờ bể Nam-Hải, theo tiếng Trung-Hoa là không thể đến
nơi được mà chỉ có bậc chân tu mới nhìn thấy được, chứng và
đạt ngộ.
(2) Bát-Nhã: tức
trí tuệ dùng để chỉ cho bậc đã giác ngộ sáng suốt.
*********
Sách
tham khảo :
Việt Nam
Phật Giáo Sử Lược của Mật-Thể
Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của
Nguyễn-Lang
21.-
Ngài Khương Tăng Hội Với Thiền Tông Tại Việt Nam
Ngài
Khương-Tăng-Hội là vị Tổ khai sáng phải Thiền đầu tiên tại
Việt-Nam vào đầu thế kỷ thứ 3 Tây lịch.
Theo sách "Cao
Tăng Truyện", Khương-Tăng-Hội cha mẹ mất sớm lúc mới lên 10
tuổi. Khi lớn lên Tăng-Hội xuất gia tu Phật rất tinh tấn. Vốn
người Thiên-Trúc, nhưng ông rất giỏi tiếng Việt, do đó được
nhiều người tin kính. Sau khi đã ở Việt-Nam một thời gian, Ông
đến đất Nghiệp thuộc nước Ngô (tức Nam-Kinh) vào năm Xích-Ô
thứ 10, Tây lịch năm 255, và ở lại đấy cho tới khi mất vào năm
280, niên hiệu Thái-Khương năm thứ nhất, đời nhà Tấn.
Tư tưởng Thiền
của Khương-Tăng-Hội đã được kinh "Tứ-Thập-Nhị Chương"
nói tới trong đoạn mở đầu : "Quán thiên địa, niệm vô
thường", là một phép thiền quán về lý vô thường của vũ
trụ vạn hữu. Ngoài ra, trong bài tựa của sách (An Ban Thủ Ý Kinh),
Tăng- Hội nói : "Trong thời gian búng ngón tay, tâm ý ta có trải
qua 960 lần chuyển niệm : Trong thời gian một ngày một đêm, ta có
thể trải qua 13 ức ý niệm. Dùng phương pháp đếm hơi thở ... ta
có thể khử bỏ 13 ức ý niệm không trong sạch ấy", vì ảnh
hưởng sâu đậm của giáo lý KHÔNG và CHÂN NHƯ của Đại-thừa
Phật giáo mà Khương-Tăng-Hội đã nói về tâm : Tâm không hình
sắc, không có âm thanh, không tiền hậu, tâm thâm sâu vi tế không
tóc tơ hình tướng, cho nên Phạm-Thiên, Đế-Thích và các Tiên
Thánh khác cũng không thể thấy được. Kẻ phàm tục không thể
thấy được sự hóa sinh từ hình thức này sang hình thức khác
của các chủng tử, khi thì minh hiển, khi thì trầm mặc trong tâm.
Đó gọi là "ấm" vậy".
Chính ngài
Khương-Tăng-Hội đã chỉ cái diệu tâm như bản thể giác ngộ của
Thiền Đại-thừa. Ngài mở màn ngành Thiền bằng cách nói về cái
tâm uyên nguyên, cũng như cái "Chân Như" của vạn pháp mà
Phật giáo Việt-Nam đã chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng này
trong mấy thế kỷ đầu, lúc Phật giáo mới du nhập vào nước
ta.
22.-
Khuôn Việt Thiền Sư
Vào giữa thế kỷ
thứ 10 đất nước ta lật qua một trang sử mới, vua Đinh-Tiên-Hoàng
đã dẹp yên được giặc giả, và đồng thời là thời điểm ra
đời của ngài Khuông-Việt.
Ngài sinh năm 930
tại thôn Cát-Lỵ, quận Thường-Lạc, họ Ngô tên Chân-Lưu và là
bà con với vua Thuận-Đế.
Lúc nhỏ theo học
Nho, sau ngài theo học Phật với Thiền-sư Vân-Phong tại thiền đường
Khai-Quốc-Tự. Năm Ngài 30 tuổi được Bổn-Sư truyền y bát và từ
đó trở thành Tổ thứ 40 của dòng thiền phái Vô-Ngôn-Thông.
Năm Thái-Bình
nguyên niên (970) vua Đinh-Tiên-Hoàng thỉnh Ngài vào cung giảng
đạo.
Được học phép mầu vi diệu, vua đem lòng kính phục và sắc phong
ngài làm Tăng-Thống. Việt-Nam, lần đầu tiên một Thiền-sư mang
chức Tăng-Thống trong lịch sử Phật giáo bắt đầu từ đấy.
Đến đời vua
Lê-Đại-Hành, Đại-sư Khuông-Việt (chức vị do vua Đinh ban sau khi
nhận chức Tăng-Thống) cùng với ngài Đỗ-Thuận Pháp-sư và
Thiền-sư Vạn-Hạnh đã giúp vua Lê kế hoạch phá tan quân xâm lăng
nhà Tống.
Cuối đời
Lê-Đại-Hành, Ngài lui về núi Du-Kỷ dựng chùa, dạy chúng và học
trò theo học rất đông. Trong số đó nổi tiếng có ngài Đa- Bảo,
nên sau được truyền y bát.
Ngài tịch vào
ngày 15 tháng 2 năm Thuận-Thiên thứ 2 (1011). Trước khi biết mình
sắp vào Niết-bàn, Ngài họp đại chúng lại rồi ngồi kiết già
tọa thiền, đọc bài thị kệ và yên lặng mà hóa. Ngài trụ thế
được 82 năm.
23.-
Ngài Mãn Giác Thiền Sư, Quê Hương Và Bút Tích
Mãn-Giác Thiền-sư
tên là Nguyễn-Tràng, người xã An-Cách, thôn Lũng-Triều, tại
Bắc-Việt, sanh vào cuối thế kỷ XI. Con trai quan Trung-Thư
Viên-ngoại-lang tên là Nguyễn-Hoài-Tố.
Khi vua Nhân-Tông
(1072-1127) chưa trị vì, có tuyển con nhà danh giá vào làm thị vệ,
ông
được trúng tuyển. Nhưng sau khi vua lên ngôi thì ông lại đi tu,
thực hành theo hạnh du phương bố giáo (đem giáo pháp ban bố đến
các nơi cho mọi người được thấm nhuần Phật đạo). Suốt ngày,
chỉ giử một bình bát và một gậy trúc, Ngài chu du khắp thiên hạ,
đi tới đâu Ngài cũng được tôn kính, cúng dường. Trước
khi tịch Ngài có để lại bài kệ như sau:
Cáo tật thị chúng
Xuân khứ bách hoa
lạc
Xuân đáo bách hoa
khai
Sự trục nhãn
tiền quá
Lão tùng đầu
thương lai
Mạc vị xuân tàn
hoa lạc tân
Đình tiền tạc dạ
nhất chi mai
Dịch nghĩa:
Cáo bịnh để dạy
bảo chúng
Xuân đi hoa rụng
tơi bời,
Xuân về hoa lại
tươi cười nở hoa
Việc theo trước
mắt trôi qua,
Mái đầu điểm
tuyết, cái già theo chân
Đừng lo hoa rụng
hết xuân
Đêm qua mai nở
trước sân một cành.
Lý vô thường
đã được dùng để diễn tả việc đời đi đến đến di thật
đúng mức. Mọi việc đều qua đi và chỉ còn lại có một, đó là
cái chân tinh thần sáng sạch như gương, nếu không tu hành thì
chúng
ta khó mà đạt đến.
24.-
Ngài Nguyên Thiều, Dòng Dõi Và Truyền Pháp
Ngài họ Tạ, quê
ở Trinh-Hương, huyện Triều-Châu, tỉnh Quảng-Đông. Ngài xuất gia
năm
19 tuổi tu ở chùa Báo-Tư, thọ giáo với ngài Bổn-Khoa Khoán-Viên
Hòa-Thượng.
Niên hiệu
Cảnh-Trị năm thứ ba đời Lê-Huyền-Tôn (năm Ất-Tỵ thứ 17 đời
chúa Nguyễn-Phúc-Tần 1665), Ngài theo tàu buôn qua An-Nam (tên
nước ta
lúc bấy giờ), trụ ở Bình-Định và lập chùa Thập-Tháp Di-Đà,
cũng như mở trường đào tạo tăng tài, rồi ra Thuận-Hóa lập
chùa Hà-Trung, Ngài đến Huế lập chùa Quốc-Ân và dựng tháp Phổ-
Đồng (tháp đã bị quân Tây-Sơn phá hủy).
Sau Ngài về lại
Quảng-Đông mời được Thạch-Liêm Hòa-Thượng và nhiều vị danh
tăng khác, cũng như thỉnh được một số kinh điển tượng khí đem
sang nước ta. Chúa Nguyễn-Phúc-Trăng (1687-1691) liền sắc mở giới
đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên-Mụ (Huế). Ngoài ra,
chúa Nguyễn còn sắc ban cho Ngài chức trụ trì chùa Hà-Trung. Dấu
chân hoằng hóa của Ngài từ miền Trung Trung-phần ra Bắc
Trung-phần,
ở những nơi nào có trường đào tạo tăng tài đều được Ngài
lưu tâm trợ lực. Ngài rất có công đối với việc chấn hưng
Phật-giáo miền Trung, cũng như lãnh chủ giảng Phật Pháp cho chư
tăng, ni, tín-đồ tại Huế trong nhiều năm, nhất là Tăng
Học-Đường chùa Báo-Quốc.
Trước khi tịch
Ngài còn để lại bài thị kệ để nhắc nhở đồ chúng như sau:
Tịch Tịch cảnh vô
ảnh
Minh minh châu bất
dung
Đường đường
vật phi vật
Liêu liêu không
vật không
Tạm dịch:
Pháp thân sáng
sạch như gương,
Minh châu ngọc báu
tỏ tường làu thông
Hiển bày sự vật
ngàn muôn
Tánh không vắng
lặng in tuồng là không
Ngài tịch ngày 19
tháng 10 niên hiệu Bảo-Thái thứ 10, nhà Lê. Đệ tử Ngài họp nhau
lại xây tháp Hóa-Môn để dung nạp hài cốt (tháp này hiện vẫn
còn ở làng Dương-Xuân-Thượng, Thuận-Hóa) phụng thờ.
25.-
Ngài Liễu Quán Dòng Dõi Và Phó Pháp Ra Sao ?
Ngài Liễu-Quán
họ Lê, húy Thiệt-Diệu, người làng Bạc-Mã, huyện Đồng-Xuân,
tỉnh Phú-Yên (sông-Cầu), Trung Việt.
Lúc 6 tuổi mồ
côi mẹ, cha đem đến chùa Hội-Tôn cho thọ giới với ngài Tế-Viên
Hòa-Thượng (người Tàu). Sau Ngài ra Thuận-Hóa (Thừa- Thiên) xin
theo học với Hòa-Thượng Giác-Phong chùa Báo-Quốc. Năm Tân-Mùi
(1691), Ngài phải trở về phụng dưỡng cha già trong việc đốn củi
để kiếm tiền giúp đỡ việc chi tiêu trong gia đình. Năm Ất Hợi
(1695) cha chết, Ngài lại trở ra Huế thọ giới Sa-di với ngài
Thạch-Liêm Hòa-Thượng. Năm Đinh Sửu (1697) Ngài thọ giới Tỳ-kheo
với Hòa-Thượng Từ-Lâm. Ngài tìm đến các vị Hòa-Thượng giỏi
để học đạo thiền. Từ năm 1699 cho tới năm 1702 (Nhâm Ngọ) mới
gặp được ngài Minh-Hoằng Tử-Dung để xin theo học phép tham thiền.
Được Hòa-Thượng dạy câu : Vạn pháp qui nhất, nhứt qui hà xứ
(muôn pháp đều qui về một, một qui về đâu ?) Ngài tham cứu câu
này ròng rã suốt 8, 9 năm mà chưa tỏ ngộ được, nên luôn luôn
cảm thấy hỗ thẹn. Nhưng nhân duyên đến, Ngài nhân đọc truyện
(Truyền-Đăng-Lục) đến câu "Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội
xứ", thoạt nhiên ngộ được chân tâm. Năm Mậu Tý (1708) Ngài
trở ra Huế để cầu Hòa-Thượng ấn chứng.
Hòa-Thượng
(Minh-Hoằng) đọc câu : Huyền thời triệt thủ, tự khang thừa đương,
tuyệt hậu tái tô khi quân bất đắc,
nghĩa là : Phải
bước ra bỏ vỏ mà buông tay, chết sống tự mình chịu lấy, ngất đi
mà sống lại mới khỏi bị người dối gạt.
Liền đó, Ngài
vỗ tay cười.
Hòa-Thượng bảo :
Chưa nhằm.
Ngài đáp : Bình
trung nguyên thị thiết : Trái cân vốn là sắt.
Hòa-Thượng lại
bảo : Chưa nhằm.
Ngày hôm sau,
Hòa-Thượng gọi Ngài đến bảo : Chuyện ngày qua chưa xong, nói lại
xem ?
Ngài đáp : Tảo
tri đăng thị hỏa, phạn thục dĩ đa thời : Sớm biết đèn là lửa,
cơm chín đã lâu rồi.
Bấy giờ
Hòa-Thượng mới khen ngợi ...
Năm Nhâm Tý (1742)
Ngài dặn dò môn đồ bài kệ sau đây rồi tịch :
Thất thập dư niên
thế giới trung,
Không không sắc
sắc diệt dung thông.
Kim triêu nguyện
mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn man
vấn tổ tông
Nghĩa:
Ngoài bảy mươi
năm trong thế giới,
Không không sắc
sắc thảy dung thông
Ngày nay nguyện
mãn về nơi cũ,
Nào phải ân cần
hỏi tổ tông.
26.-
Vua Trần Nhân Tông Có Công Gì Với Phật Giáo ?
Vua Trần-Nhân-Tông
là Thái-tử Khâm-Tín, con vua Trần-Thánh-Tông. Lên trị vì năm 1278,
lúc Ngài mới 16 tuổi.
Vua Nhân-Tông rất
sùng tín đạo Phật, nên khi được cha truyền ngôi, bèn cố tìm cách
từ chối để nhường ngôi cho em, nhưng không được. Sau đó Ngài
trốn triều thần vào núi Yên-Tử tìm thầy học đạo thiền nhưng vua
cha hay tin, cho người đi đón về triều để đưa lên ngôi Thiên Tử.
Ở ngôi báu Ngài vẫn quyết chí tu hành và lo truyền bá Phật
Pháp.
Tuệ-Trung
Thượng-sĩ Thiền-sư là thầy học nên Ngài rất chuyên tâm vào
việc tu thiền.
Năm 1293, Ngài
truyền ngôi cho con là Anh-Tông để rãnh rỗi hầu lo việc tu niệm
lúc
về già. Đến năm 1299, Ngài quyết từ giả hoàng cung để thực
hiện xuất gia. Vào tu ở núi Yên-Tử, Ngài lấy hiệu là Hương-Vân
Đại-đầu-đà. Số tín đồ theo học đạo thiền với Ngài rất đông
có tới hàng vạn người.
Từ đó phái
Trúc-Lâm Yên-Tử trở thành một phái thiền đặc biệt thuần túy
Việt-Nam, do Ngài sáng lập.
Ngày nay trong lịch
sử Phật giáo Việt-Nam khi nhắc tới tên của một người đã biết
áp dụng đạo Phật đúng mức để tu hành đắc đạo, người ta
phải nêu danh vua Trần-Nhân-Tông như là một vì sao sáng.
27.-
Vua Lý Nhân Tông Đã Tán Ngưỡng Ngài Vạn Hạnh Thiền Sư Thế Nào
Qua Thi Văn ?
Trong lịch sử
Việt-Nam, đời Lý (1010-1225) là thời kỳ thái bình thịnh trị nhất,
Phật giáo được xem như là Quốc giáo. Vạn-Hạnh Thiền-sư là nhân
vật sáng giá trong giai đoạn này.
Vua Nhân-Tông húy
là Kiền-Đức hay Càng-Đức (1072-1127), tánh nhân từ và hiếu
hạnh. Ngài là con vua Thái-Tông (1028-1054), lên kế vị vua
Thánh-Tông.
Vua Thánh-Tông (1054-1072) đồng thời là một vị đạo sĩ, bỏ ngôi đi
tu và đắc đạo. Ngài là Sơ tổ phái Thảo-Đường tại Việt-Nam. Do
đó, Nhân-Tông lên ngôi lúc còn nhỏ, nhưng rất thông minh, anh
dũng, lại hâm mộ đạo Phật. Lúc bấy giờ ngài Vạn-Hạnh là một
tay cự phách giúp triều đình việc trị quốc an dân. Bài thơ
Lý-Nhân-Tông làm để tặng ngài Vạn-Hạnh như sau :
Tặng tăng
Vạn-Hạnh
Vạn-Hạnh dung tam
tế (1)
Chân phù cở sấm
thi
Lạng khai danh
Cổ-Pháp
Quải tích (2) trấn
Vương Kỳ
Nghĩa là : Sư
Vạn-Hạnh hiểu thấu được cả thiên văn, địa lý, và nhân tình,
thế sự (tam tế), thực phù hợp với câu sấm cổ. Quê nhà sư ở
làng Cổ-Pháp thuộc tỉnh Bắc-Ninh, nhưng luôn luôn chống gậy nhà tu
trấn giữ kinh đô nhà vua.
Thơ tặng sư
Vạn-Hạnh
Thiền sư Vạn-Hạnh
tuyệt vời
Dung hòa ba cõi in
lời sấm thi
Quê làng Cổ Pháp
gần kia,
Gậy tu trấn giữ
Vương Kỳ từ lâu.
Vua Nhân-Tông kế
nghiệp nhà Lý, đã làm cho quốc gia được hưng thịnh, đạo Phật
phát triển huy hoàng. Vua ở ngôi được 55 năm và mất năm 1127,
thọ được 63 tuổi.
*********
Chú
thích :
(1) Tam tế : trời, đất,
và
người
(2) Tích : gậy của nhà tu,
còn gọi là tích
trượng
28.- Thiền Sư Không Lộ Sự Truyền Đạo Và Hành
Trạng Ra Sao ?
Ngài Không-Lộ họ
Dương, người Hải-Thanh (Bắc-Việt), đã mấy đời chuyên về nghề
đánh cá, nhưng đến đời ông lại đổi nghề để sang học đạo
thiền Phật giáo.
Ông kết bạn với
Thiền-sư Giác-Hải, trụ trì chùa Hà-Trạch. Cả hai và nhất là ngài
Không-Lộ rất giỏi về pháp thuật nhà chùa, như ứng hiện những
truyện lạ kỳ mà người đời rất khó lường được, do đó
tiếng tăm Ngài được nhiều người biết đến. Ngài mất vào
khoảng niên hiệu Hội-Tường và Đại-Khánh (?), còn để lại bài
thơ "Ngôn Hoài" sau đây :
Ngôn Hoài
Cư đắc long đà
địa khả cư
Đa tình chung nhật
lạc vô dư
Hữu thời trúc
thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu
nhứt thanh hàm thái hư.
Nghĩa : Chọn
được nơi nhiều rồng rắn vẫn có thể ở được. Tối ngày vui
với cảnh thôn dã không gì hơn, có khi leo lên đỉnh núi thở dài
một tiếng, làm lạnh cả bầu trời.
Dịch theo văn vần
:
Đất rồng rắn ở
vẫn ung dung,
Vui thú thâu ngày
dạo cảnh đồng.
Có lúc trèo lên
đầu núi đứng,
Kêu dài một
tiếng lạnh bầu không.
Tại chùa Keo làng
Dũng-Nghĩa, tỉnh Thái-Bình có thờ tượng ngài Không-Lộ, pho tượng
bằng gỗ trầm hương không sơn phết, quanh năm mùi trầm bốc lên thơm
ngào ngạt khắp chùa ! Theo truyền thuyết, pho tượng không phải do
người đời tạc, mà khi Ngài tịch hóa thành Thánh tượng. Do sự
linh ứng đó, ngôi chùa Keo còn mang tên Thần-Quang-Tự là vì
vậy.
Được biết pho
tượng ngài Không-Lộ hiện nay, dưới chế độ cộng sản cũng đã
bị giam vào trong cung cấm. Có người còn cho hay rằng mặt mũi chân
tay Ngài khác thường lắm !
29.-
Giám Trai Sứ Giả Là Ai ? Các Chùa Thờ Hình Ngài Tượng Trưng Gì
?
Khi vào các chùa,
nơi trai đường (phòng ăn của chư Tăng) ta thường thấy hình tượng
của một người chống búa đứng trong tư thế đang nghỉ ngơi, đó là
ngài Giám Trai.
Giám Trai là một
bậc thiên thần coi sóc, giám hộ việc ăn uống cho Tăng chúng. Vì
Ngài thường lân mẫn làm việc công đức, nên được tôn xưng
là Giám-Trai sứ giả Bồ-Tát. Ngài thay thế các vị Bồ-Tát như một
đặc phái đến thử hộ (giữ gìn) chốn già lam (chùa). Trong nghi
thức cúng ngọ có danh hiệu của Ngài và mỗi khi chư Tăng dùng ngọ
trai đều vái niệm để cầu nguyện cho chùa được cát tường. Sự
tích Ngài phát xuất từ đâu không ai rõ, nhưng Phật giáo Trung-Hoa,
nhất là những chùa Tăng-học-viện, đều có thờ tôn tượng nơi
phòng thọ trai. Ở Việt-Nam có lẽ cũng chịu ảnh hưởng theo Phật
giáo Trung-Hoa, hình tượng Ngài có một số chùa đúc tạo để chiêm
bái. Tác giả có ở và đến thăm nhiều chùa Nhật, nhưng không
thấy thờ hình tượng Ngài, tuy nhiên theo bộ Phật giáo đại từ
điển của Chức-Điền Đắc-Năng (cách đọc) nơi trang 215, có tả
diện mạo Ngài như sau : "Giám-Trai Sứ-Giả là một thần nhân
giám hộ việc ăn uống cho chư Tăng. Ở các chùa Trung-Hoa gọi là
Giám-Trai Bồ-Tát. Ngài mặt xanh, tóc đỏ" (Đông-Kinh, Đại-Tạng
xuất bản lần thứ V ngày 20/1/80).
Chỉ cần đọc tên
Ngài cũng đủ nói lên được ý nghĩa là kẻ hổ trợ việc trai
đường rồi. Khi nào gặp tôn tượng vị Bồ-Tát như đã diễn tả
thờ ở nhà trai của chùa, chúng ta rất dễ nhận ra được.
30.-
Một Danh Tăng Làm Chấn Động Cả Thế Giới Trong Thời Cận Đại : Hư
Vân Lão Hòa Thượng
Sau thế chiến thứ
hai, trong giới Phật giáo không ai là không nghe đến tên tuổi của
bậc cao tăng tài đức Trung-Hoa, ngài Hư-Vân Lão Hòa-Thượng.
Hư-Vân là pháp
hiệu, còn tên Ngài là Cổ-Nghiêm và họ Tiêu, người làng
Tương-Châu tỉnh Hà-Nam. Cha Ngài làm quan Tri-phủ ở Tuyền-Châu
thuộc
tỉnh Phúc-Kiến. Ngài sanh vào ngày 30 tháng 7 (Bính Ngọ) năm 1846,
niên hiệu Đạo-Quang năm thứ 26, đời nhà Thanh.
Mang tâm niệm xuất
gia từ nhỏ, và xin phép cha Ngài không chấp thuận. Năm lên 18 tuổi
Ngài bèn trốn gia đình vào chùa thọ giới xuất gia với ngài
Diệu-Liên. Từ khi được thầy nhận làm đệ tử, Ngài tinh tấn tu
hành theo lối khổ hạnh, từ Đông chí Hạ chỉ dùng một cái nón và
một chiếc võng duy nhất hộ thân, thức ăn bằng cây rừng, thức
uống bằng suối nước thiên nhiên, suốt trong 3 năm liên tục kiên
trì, cho đến nổi râu tóc Ngài mọc dài ra trông tướng người dữ
tợn.
Qua năm thứ 4,
Ngài 22 tuổi, xin thầy vào núi Thiên-Thai học đạo với ngài
Hoa-Đình Pháp-sư. Được lão Pháp-sư dạy cho phương pháp tu thiền
định và Ngài thâm nhập say mê theo pháp tu quán trong mười năm.
Hạnh tu nhập thất của Ngài có một không hai trong thời cận đại.
Ở trong thất có khi một thất, khi ba, bốn thất, hoặc bảy - tám
thất
cũng có khi Ngài ở luôn trong thất suốt ba tháng mới xuất định.
Theo như lời truyền lại, lúc nhập thất Ngài quên cả ăn mà sức
khỏe vẫn bình phục, có lẽ do sức kiên định trong nhiếp tâm tu
thiền. Do đó, tiếng tăm Ngài lừng lẫy khắp nơi, đến nỗi
Trung-cộng sợ uy danh Ngài, nên khi chiếm được vùng Hoa-Nam, đã
bắt
nhốt và tra ấn Ngài thời gian 3, 4 tháng, chẳng cho ăn uống mà
tinh
thần Ngài vẫn không hề nao núng đổi thay !
Đối với
Cộng-sản, Ngài chỉ có một tội là tội ưa tham thiền nhập định.
Thấy uy hiếp tinh thần nhà tu hành chay lạt không thành, Cộng-sản
bèn nới tay cho Ngài hành đạo. Môn đồ, đệ tử Ngài độ được
rất đông.
Ngài tịch vào
ngày 13 tháng 9 năm 1959 tại chùa Vân-Môn, tỉnh Quảng-Đông. Hưởng
thọ 113 tuổi.
Trong khoảng từ
1960 đến 1965 các tờ báo Phật giáo tại Việt-Nam, như tờ Từ-Quang
(Nguyệt San) do ông Mai-Thọ-Truyền, hội Phật-Học Nam-Việt chủ
trương,
có viết liên tục nhiều loạt bài nói về công hạnh, đạo đức tu
chứng và những điều huyền diệu về cuộc đời tu hành của vị cao
tăng thoát tục trong thời đại hổn loạn lúc đó, để giới thiệu
Ngài như một ngôi sao sáng cho hàng Phật tử Việt-Nam.
Có thể nói, Ngài
là một Thánh Tăng hay vị Bồ-Tát hóa thân ra đời để dập tắt
lửa tham lam, hận thù, lòng si mê ... nên chẳng hề thay đổi trước
uy quyền, thế lực !
---
o0o
---