73. NGÀY THỨ BẢY MƯƠI BA:
Tính cách của Ðạo Phật
Vấn: Xin Sư khai thị cho chúng con
về tính cách của Ðạo Phật?
Ðáp: Tư tưởng Phật giáo như là một
hệ thống không gian vô tận phong phú, đa dạng, thấm nhuần trong cốt tủy chúng
sinh nơi đó có người, một khi có sự tiếp nhận đúng đắn về giáo pháp Ðức Phật,
thì chính đạo Phật là trái tim, là sự sống theo lý tưởng “bất sanh bất diệt”
xuất hiện trong thế giới loài người.
Ðứng trên phương diện không gian
thì đạo Phật vốn có từ vô thỉ, trải hằng sa vô lượng kiêp qua các tiền thân
Phật, Bồ Tát, nhân thân của Chư Phật, Chư vị Bồ tát, Chư vị Thánh Tăng kế tục
giáo hóa.
Kể từ khi con người tiến bộ, sáng
chế những thể thức mới, đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống theo thứ lớp, luôn luôn
có sự hoài vọng về quá khứ, truy tìm những cái hay cái đẹp của người xưa, rút
kinh nghiệm để làm chỉ nam cho người sau, điều tất yếu phải có một hệ thống kết
toán bằng thời gian, niên biểu của sự việc, để sắp xếp sự thành tựu cho từng
thời đại.
Cũng như thế sự xuất hiện của Phật
giáo trên thế gian, tuy mang tư tưởng giải thoát Niết bàn, nhưng không tách rời
xã hội và con người, mang lại niềm tin yêu cho thế giới và nhân loại, cho pháp
giới và chúng sanh, đó chính là yếu chỉ giải thoát thật sự, mà toàn bộ những
người đệ tử phật đã và đang kế thừa di sản, mà toàn bộ những người đệ tử Phật
đã và đang kế thừa di sản vô giá… kết tinh thành một hệ thông lịch sử vô vàn
bất tận.
Chúng ta có thể nói, tính cách nhân
bản thực tiển của đạo Phật đã thể hiện rõ nét nhất trong kinh điển Ðại thừa
“Chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật”, nếu chưa thấy tánh tức chưa thành
phật, nghĩa là chưa thức tĩnh toàn triệt, thì vĩnh viễn làm kẻ lạc loài giữa
muôn trùng ảo ảnh vô minh, lúc ấy mọi hạnh phúc lạc thú đều trở thành suối
nguồn đau khổ. Từ con người bằng xương bằng thịt. Biết tâm niệm mình như thật,
không bị ngoại cảnh lôi cuốn chi phối, là giác ngộ hiện tiền. Trong khoảnh khắc
niềm Cực Lạc Tây phương xa xăm được kết thành ngay nơi tự tánh thanh tịnh, là
thực hiện trọn vẹn nơi mỗi con người một cuốc sống dồi dào vật chất và phong
phú về tinh thần bình đẳng tinh khôi. Nói cách khác, chỉ với con người muôn vàn
hệ lụy, nếu biết làm hiển lộ hạt nhân năng động từ bi và trí huệ, lẵm liệt
chuyển hóa những thăng trầm trở thành chân thiện mỹ, ngõ hầu xây dựng cõi Niết
Bàn siêu việt giữa trần gian.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát
Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp
Giới Tam Bảo.
74. NGÀY THỨ BẢY MƯƠI BỐN:
Người Việt nam và Ðạo lý nhà Phật
Vấn: - Xin Sư giảng giải về nguồn
gốc người Việt nam có liên quan đến Ðạo Phật?
Ðáp: - Người Việt nam, người Việt ở
phương Nam là một dân tộc thông minh, lanh lợi, hiếu hòa, mến khách, đạo đức;
nhất là đạo đức đạo Phật. Sư sẽ giảng về nguồn gốc người Việt và đạo lý nhà
Phật.
Nước Việt Nam về đời Hồng
Bàng (2897-258 Tr công nguyên) gọi là nước Văn Lang.
Ðến đời Thục Phán An Dương Vương
(257-207 Tr công nguyên) gọi là Âu Lạc
Từ triều đại nhà Tần bên Trung Hoa,
(246-206 Tr công nguyên) nước ta chỉ được gọi là Tượng Quận
Sau nhà Hán (202 Tr công nguyên – 220 sau công nguyên) có 3 Châu, gọi là Giao
Chỉ hay Giao Châu, Châu Cửu Chân và Châu Nhật Nam.
Ðến đời nhà Ðông Hán 3 Châu trên
thống nhất lại gọi là Giao Châu.
Ðời nhà Ðường (618-907) gọi là An
Nam đô hộ phủ
Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh dẹp lọan 12
sứ quân, xưng đế lên ngôi lấy hiệu là Ðinh Tiên Hòang, đóng đô ở Hoa Lư (Tràng
An, Ninh Bình ngày nay). Ðất nước lúc bấy giờ hùng mạnh, được tự chủ, nhà Vua
đặt quốc hiệu là Ðại Cồ Việt (968-980).
Ðến đời nhà Lý, vua Lý Thánh Tông,
đặt tên nước là Ðại Việt, một nước Việt lớn mạnh, độc lập tự chủ chớ không phải
nước Việt Thường ở biên cương của Trung Hoa
Ðến đời vua Gia Long, sau khi thống
nhất sơn hà, đặt quốc hiệu là Việt Nam. người dân Việt hùng mạnh độc
lập tự chủ ở phương Nam.
Ở vào thời đại Hồ Chí Minh, đất
nước văn minh tiến bộ, nhưng luôn luôn phải chống giặc ngoại xâm Pháp, Nhựt rồi
Mỹ cho đến ngày 30.04.1975 mang lại hòa bình, thống nhất đất nước. Ðây là lần
thống nhất trọn vẹn lãnh thổ, cương giới lục địa, bờ biển, biển khơi rõ ràng,
đặt tên nước là Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Theo các nhà nhân chủng học người
Pháp, khi đến Việt Nam nghiên cứu từng giống dân trên địa cầu thì người Việt
Nam và người Thái là những di dân tìm cuộc sống xuất xứ từ cao nguyên Tây Tạng.
Người Việt Nam thì men theo đồng bằng sông Hồng Hà ra biển khơi, xuống phía
Ðông Nam, lập ra đất nước Việt Nam. còn người Thái thì đi sâu vào đại lục lập
ra các nước Siam, Campuchia,
Laos, Phù Nam…
Người Việt nam xưa có 2 ngón chân
cái giao lại với nhau, cho nên những cư dân ở phương Bắc gọi cư dân ở phương Nam (nước ta)
là người Giao chỉ (người có hai bàn chân bẹt ra và hai ngón chân cái giao chập
vào nhau).
Từ nay chúng ta biết được người
Việt Nam
không phải là giống dân Tam miêu theo quan niệm người Tàu. Như sách Việt Nam sử
yếu của Trần Trọng Kim đã dẫn, người Việt Nam là giống người có nguồn gốc đạo
đức thiêng liêng cổ kính và huyền bí, tức là có đạo đức thoát trần, thông minh
siêu phóng, ham thích thoát ly thế gian vững vàng từ trên nóc nhà thế giới
(dòng giống Tibet).
Năm 1960, Ðức Tôn sư Hòa Thượng
thượng Thiện hạ Phước, cứ mỗi lần giảng đạo, thì thường cân nhắc về dòng giống
Lạc Hồng, dòng giống Tiên Rồng, giống nòi Bàn cổ. Thật vậy, chúng tôi được tận
mắt nhìn Ông Năm Gò Thâm, tức cụ Trưởng lão Thích Từ Quang, Ông Tư Hùng Dũng,
một ít vị ở Tân trụ, Long an, người Phật Giáo Tứ Ấn và một số vị nữa tu tại
đỉnh thiêng Non Bồng có hai ngón chân cái “bẹt công vào” và giao nhau. Khi bước
đi lúc nào cũng gần như đụng vào nhau, đi rất vững vàng, xem như là họ có võ
nghệ cao cường lắm, mà that ra thì họ không có võ nghệ chi cả.
Ðức Tôn sư thường gọi những người
nầy là thuộc dòng giống Lạc Hồng còn sót lại (như chim Lạc luôn bay xa về
phương Nam tìm môi sinh, và định cư tại đồng bằng sông Hồng, tức là người xưa
của Việt Nam ta là như vậy). Dòng giống con Rồng con Tiên, Tiên thì lên núi,
Rồng thì xuống biển là thủy tổ của người Việt Nam
và đó là điểm đặc thù của Việt Nam,
có một không hai trên hành tinh trái đất. Từ đó mà chúng ta biết người Việt Nam
không phải là dòng dõi xuất phát từ Trung Hoa, cái gen của Người Việt Nam, đã
muôn đời không phải bị đồng hóa bởi người Trung Hoa, dù đã nhiều lần bị các dân
tộc lớn của Trung Hoa, như Hán, Mông Cổ, Mãn Thanh đô hộ suốt 1000 năm lịch sử,
mà cái gen của người Việt Nam là gen truyền thống Phật giáo, gem của vấn đề tâm
linh, thật phù hợp với đạo tự giác tự ngộ của Ðức Phật Thích Ca.
Người Việt Nam luôn có đạo đức riêng của người Việt Nam, chỉ trừ sự tiếp cận
tiếp thu nền văn minh của đại lục Hoa Ấn thì lúc bấy giờ có tiếp thu nền đạo
đức của Tây trước hay Thiên trước, tức là Ðạo Phật. Do đó mà các sử gia Phật
giáo như: ngài Mật Thể, Mãn Giác, Nguyễn Lang, Vân Thanh, Duy Lực đều nói “Phật
giáo du nhập Việt Nam tại Trung Tâm Luy Lâu vừa là kinh đô tự chủ, vừa là kinh
đô Phật giáo. Phật giáo từ Tây trước mà trực tuyến truyền sang Luy Lâu, chớ
không phải truyền sang Trung hoa rồi mới đến Việt Nam là vậy…”
Việc của ngài Ma Ha Kỳ Vực, Khưu Ðà
La đưa Ðạo Phật vào Việt Nam chỉ là thời gian sau công nguyên (năm 188). Sách
Tôn giáo và Lịch sử văn minh nhân lọai (trang 12) nhận định thật phóng khóang
“Ðạo Phật du nhập Việt Nam năm 240 trước công nguyên, hoặc có thể Ðạo Phật du
nhập Việt Nam vào đời vua Hùng Vương thứ 3 (trước công nguyên 2879-258). Câu
chuyện Ðồng Tử, Tiên Dung con gái thứ 3 của vua Hùng gặp Nhà Sư và biết đến
việc quy y Ðạo Phật, đã làm cho chúng ta suy niệm đến sự có mặt của Phật Giáo thời
bay giờ là tiền đề Phật giáo đồng hành cùng dân tộc Việt Nam thời tiền sử.
Sách “Tôn giáo và văn minh nhân
lọai” có nhắc đến việc các nhà truyền giáo Phật giáo, các vị được sự tín ngưỡng
của những nhà làm thương buôn, cóc vị hộ trì, độ hộ cho họ được tai qua nạn
khỏi theo tâm nguyện, để được:
Băng đồng giao lưu mua bán từ đông
bán cầu sang Tây trước và xa hơn nữa, mua bán tơ lụa, hàng hóa nhu yếu, sư giao
lưu mua bán rất phồn thịnh. Một con đường khác nữa là đường Hồ tiêu (đường
biển, ngày xưa thương buôn tải hồ tiêu bằng đường biển). Biển sâu, sóng to, mưa
bão, mà đường thì xa xôi nguy hiểm, nên các vị thường xuyên thỉnh Sư đi theo tổ
chức lễ cầu nguyện đi đường xa tai qua nạn khỏi, mua mai bán đắc, không gặp
trộn cướp…nay là phương tiện hành đạo của các Sư ở Tây trước truyền giáo về
phương Ðông, rồi Ðông Nam, trên đồng bằng sông Hồng của Việt Nam.
Cho thấy ngay từ đầu về tình cảm
tín ngưỡng của con người Việt nam đến với Phật giáo luôn đầy thiện cảm, sự giao
lưu của người Phật giáo đến với mọi người là điềm lành, điều thánh thiện, họ
biết nghe lời các Sư lánh xa đường ác, không tưởng ác, không nghi ác, không làm
điều ác, giúp cho mọi người sở cầu như ý nguyện, chính là tiền đề tạo nên một
môi trường an lạc an sinh, tạo cho mọi người được an cư lạc nghiệp.
Sự giao lưu của Phật giáo, giáo lý
Phật giáo, con người Phật giáo trải suốt trên hai nghìn năm mà bản sắc thoát
tục, siêu thoát những khổ đau phiền não, siêu phóng niết bàn, Cực lạc Tây
phương không hề thay đổi.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát
Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp
Giới Tam Bảo.
75. NGÀY THỨ BẢY MƯƠI LĂM:
Khơi nguồn Phật giáo Việt nam
Vấn: - Xin Sư giảng tiếp tục về
khởi nguyên của Phật giáo Việt nam, Phật giáo đến với người Việt nam, sự tín
ngưỡng của người Việt nam với Phật giáo?
Ðáp: - Vâng, sự truyền giáo của
Phật giáo Việt nam thật phong phú và đa dạng trong nhiều tư cách hành đạo; cho
đến hôm nay các Nhà làm công tác Phật Học, các nhà nghiên cứu sử học Phật Giáo
Việt Nam chưa tìm ra đâu là lý lẻ thật sự chính xác về khởi nguyên tổ chức Tăng
đoàn Phật giáo Việt Nam.
Phật Giáo Việt Nam là một thực
thể được du nhập từ đất nước Aán Ðộ vĩ đại và huyền bí linh thiêng. Chư Tăng
sống trong các Tu Viện, cũng như trì bình khất thực, du tăng hành đạo từ ngàn
xưa cho đến hôm nay đều có một ý thức độc lập, tiêu cực với đời sống tổ chức
theo nguyên tắc, đi ngược lại với tổ chức tín điều xơ cứng của từng thế hệ, hơn
là chịu khó sống trong sự quản lý của Tăng Ðoàn.
Nhìn lại một số ít bản văn thuộc sử
liệu Phật Giáo, về cách thức truyền Ðạo của Tổ tông tiền bối ta vào năm 240
(trước tây lịch), tức là khoãng trên 2 thế kỷ trước của các Ngài Mahola, Khưu
Ðà La, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Chi Câu La Sấm…đến Huệ Thắng Ðại
sư…Các Ngài có bao giờ truyền giáo bằng tổ chức giáo đoàn đâu?. Một vài suy
niệm như sau, ta có thể thấy là đúng:
* Kinh tế Văn hóa Xã hội lạc hậu
* Con người nghèo nàn, đời sống
buổi sơ khai thật nghèo nàn, chỉ cần lo cái ăn chưa đủ no, cái mặc chưa đủ ấm,
là đã hết ngày giờ!
* Sự truyền giáo bằng cách đi theo
con đường làm ăm mua bán của các vị khách trú. Chư Tổ sư được các nhà thương
buôn thỉnh mời đi theo bằng con đường biển hay, băng qua sa mạc từ đông sang
tây hay ngược lại. Nhằm để đọc kinh cầu nguyện Phật Trời gia hộ cho việc mua
bán của họ được suông sẻ, tai qua nạn khỏi, được làm giàu. Nhân đó mà có cơ sở
truyền đạo; thì làm gì có việc rảng rang mà truyền bá sự nghiệp đạo pháp một
cách rộng rãi. Cho nên nguyên tắc tổ chức rất là hiếm, gần như không có.
Thử ghi lại một vài địa điểm chứng
nhân lịch sử buổi sơ nguyên của Phật giáo Việt Nam:
Theo Giáo sư Ngô Ðăng lợi, người cư
trú Hải Phòng viết:
* …những dấu ấn của thành Nê Lê là
chứng tích vào buổi hồng quang có Nhà sư hiệu là Mahola con Vua A Dục đưa Ðạo
Phật vào Việt Nam vào khoãng năm 240 (trước tây lịch) bằng đường biển, lúc bấy
giờ còn là Kinh đô Luy Lâu. Hiện nay Bảo Tháp Ngài Mahola vẫn còn tại Ðồ Sơn
(Bắc Ninh).
Tuy nhiên, theo sách Thuyền Uyển
Tập Anh ghi nhận cuộc đàm thoại giữa thiền sư Thông Biện và Bà ỷ Lan Thái Phi
(Phù thánh Linh Nhân), thời nhà Ðinh. Bà hỏi về nguồn gốc Phật giáo Việt Nam nhân một
buổi hội nghị tại chùa Khai Quốc (trấn Quốc), như sau: “Luy Lâu có 20 ngôi
chùa, 40 Tăng Sĩ, dịch 15 quyển Kinh. Vào lúc ấy có Nhà sư Khưu Ðà La, Ma Ha Kỳ
Vực (188), Mâu Tử (165-170), Nhà sư Khương Tăng Hội (200-247).
Ðạo Phật cũng được truyền bá vào
Việt Nam bằng một ngã khác, lịch sử Phật Giáo gọi là “đường băng đồng, đường
đồng cỏ” tức đi ngang qua các sa mạc, ốc đảo rộng mênh mông từ Ðông Bắc Aán đến
các nước vùng Trung Á – con đường buôn bán tơ lụa, vàng bạc, trần hương, quế,
tiêu, ngà voi… từ Lạc Dương đến Trung Á, Aâu Châu – từ Tây Tạng, thượng nguồn
sông Mê Kông đến Sông Hồng, Sông Ðà (miền Bắc Việt Nam) – từ Aán Ðộ sang đất
nước Lào vượt Trường Sơn đến Thanh Hóa, Nghệ An…
Trên đây chỉ là một chứng tích
truyền đạo của các Nhà sư được các nhà thương buôn thỉnh mời đi theo cầu nguyện
cho họ được “mua may bán đắc, tai qua nạn khỏi”. Nhưng cũng là cơ hội để Sư đem
truyền bá tư tưởng giáo lý Ðạo Phật vào Việt Nam.
I. ÐỜI SỐNG TĂNG ÐOÀN PGVN Ở THỜI KỲ
ÐẦU:
Vào đầu thế kỷ thứ hai, có các Nhà
sư như: Khưu Ðà La, Ma Ha Kỳ, Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, theo sử liệu
thì các Ngài từ các Vương quốc nằm ven biên thùy thuộc Ðông Bắc Ấn Ðộ, đem Ðạo
Phật đến với Việt Nam vào được Kinh Ðô Luy Lâu. Thời bấy giờ trải trên một vùng
bình nguyên rộng lớn từ vùng đất phương Bắc đến phương Nam, chiếm gần hết Châu
Á, mà chỉ có Trung Tâm Luy Lâu của Việt Nam là có Phật Pháp, có tổ chức Tăng
đoàn sớm nhất; còn lại là Kinh đô Lạc Dương và Bành Thành, thuộc đất đai nhà
Hán thì chưa có ai mang Ðạo Phật đến với họ (Trung Quốc).
Trong các Nhà sư kể trên, thì Nhà
sư Khang Tăng Hội có gốc tích tuy cha mẹ người nước Khương Cư, nhưng gần như là
sinh trưởng tại Việt Nam và cha mẹ mất lúc Ông 10 tuổi, Ông đi tu xuất gia tại
Giao Châu, Ngài rất thông minh trí tuệ tuyệt vời, có viết lời tựa trong quyển
An Ban Thủ Ý, như sau:”tôi sinh ra như dấu tích cuối cùng, vừa mới đủ sức vác
củi thì mẹ cha đều mất, bậc tam sư cũng viên tịch, nhìn lên mây trời buồn thấy
mình thiếu người chỉ dạy…”.
Nhà sư Khang Tăng Hội, lúc đi tu
thọ giới theo phép “Thập Nhân Thọ”, có đầy đủ tam sư, thất chứng. Cho thấy ở
vào buổi bình minh của Phật Giáo Việt Nam đã có tổ chức Tăng Ðoàn nghiêm
túc đến bậc nào
Trong sách Lý Hoặc Luận của Mâu Bác
viết về những tệ trạng của Tăng sĩ Giao Châu vào hạ bán thế kỷ thứ hai:”Sa Môn
ngày nay có kẻ lại thích uống rượu ngon, có khi có vợ con, biết cất giữ tiền
bạc, của quý, lại chuyên môn lừa dối…”. Như vậy ta biết rằng tổ chức Tăng đoàn
Giao Châu thời đó đã khá đông đảo, vì chỉ có khi nào quá đông đảo mới có tệ nạn
phức tạp xảy ra (Việt Nam Phật Giáo Sử Luận – Nguyễn Lang, trang 27)
Chư Tăng sống trong Tăng Ðoàn của
Ðạo Phật dù sống bất cứ nơi đâu, hành đạo ở cương vị nào cũng dựa vào giới luật
của Ðức Phật quy định mà tổ chức, sắp xếp thành các điều khoản quy chế, nội
quy, hiến chế, hiến chương, những quy ước về hành chánh giấy tờ, quy định chức
việc Tăng Cang, Tăng Lục, Tăng Thống.
Những hành trạng trên cho chúng ta
thấy Phật Giáo Việt Nam
ở thời kỳ đầu cũng đã có tổ chức Tăng Ðoàn và thật nghiêm minh, tu học hành đạo
thống nhất cùng một chiều hướng theo giới luật Phật, lấy giới luật Phật làm
cương lĩnh tổ chức Tăng Ðoàn.
Cho đến ngày nay, các hệ phái môn
phong vẫn còn áp dụng triệt để giới luật Phật để làm quy tắc nếp sống tòng lâm,
để thống lý đại chúng, quản chúng sống trong tổ chức Nhà Phật.
II. THỐNG NHẤT TỔ CHỨC TĂNG ÐOÀN:
Theo sách Thuyền Uyển Tập Anh, thì
vào thế kỷ thứ 6 Thiền Sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi, nghe lời Tam tổ Tăng Xán xuống
phương Nam hành đạo và do đó đã dịch các kinh Tượng Ðầu và Nghiệp Báo Sai Biệt
tại Chùa Chế Chỉ ở quảng Châu và sau khi tới chùa Pháp Vân ở làng Cổ Châu, Long
biên, mới bắt đầu dịch kinh Tổng Trì.
Thiền Sư đến chùa Pháp Vân vào
tháng 3 năm Canh Tý (580) và ở lại đây giáo hóa đồ chúng cho đến năm Giáp Dần
(594) thì viên tịch. Thời gian Thiền Sư hóa đạo tại Việt Nam là 14 năm.
Sự truyền thừa học phái thiền Tỳ Ni
Ða Lưu Chi cũng chính là tổ chức Phật Giáo thời bấy giờ của Phật Giáo Việt Nam.
19 thế hệ của thiền phái Tỳ Ni Ða
Lưu Chi:
1/ Thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi (tịch
594)
2/ Thiền sư Pháp Hiền (tịch năm
626)
3/ Thiền sư Huệ Nghiêm
4/ Thiền sư Thanh Biện (tịch năm
686)
5/ Thất truyền
6/ Thất truyền
7/ Thiền sư Long Tuyền, chùa Nam
Dương
8/ Thiền sư Ðịnh Không (tịch năm
808)
9/ Thiền sư Thông Biện.
10/ Thiền sư La quý An (tịch năm
936) – Pháp thuận (tịch năm 991) – Mahamaya (tịch năm 1029) và thiền sư Vô Ngại.
11/ Thiền sư Thiền Ông (tịch năm
979) – Thiền sư Sùng Phạm (tịch năm 1087)
12/ Thiền sư Vạn Hạnh (tịch năm
1018) – Thiền sư Ðịnh Tuệ – Thiền sư Ðạo Hạnh (tịch năm 1112) – Thiền sư Trì
Bát (tịch năm 1117) – Thiền sư Thuần Chân (tịch năm 1101).
13/ Thiền sư Huệ Sinh (tịch năm
1063) – Thiền sư Thiền Nham (tịch năm 1163) – Thiền sư Minh không (tịch năm
1141) – Thiền sư Bản Tịch (tịch năm 1140)
14/ Thiền sư Khánh Hỷ (tịch năm
1142)
15/ Thiền sư Giới Không – Thiền sư
Pháp Dung (tịch năm 1174)
16/ Thiền sư Trí – thiền sư Chân
Không (tịch năm 1100) – Thiền sư Ðạo Lâm (tịch năm 1203)
17/ Thiền sư Diệu Nhân (tịch năm
1113) – Thiền sư Viên Học (tịch năm 1136) – Thiền sư Tỉnh thiền (tịch năm 1193).
18/ Thiền sư Viên Thông (tịch năm
1151) – Thiền sư Ðịnh Hương
19/ Thiền sư Y Sơn (tịch năm 1213) ngoài ra còn có những Thiền phái khác như:
Thiền phái Vô Ngôn Thông, chùa Kiến
Sơ (Hà Bắc) vào năm 780, truyền thừa 17 thế hệ.
Thiền phái Thảo Ðường, chùa Khai
Quốc – Thăng Long (năm 1069), truyền được 6 thế hệ.
Qua sự truyền thừa trên, cho chúng
ta thấy tổ chức Tăng đoàn của chư vị Thiền sư, là một thực thể lãnh đạo PGVN
chúng ta thời xa xưa rất có nguyên tắc và chặt chẽ. Học phái thiền Tổ sư Tỳ Ni
Ða Lưu Chi cũng chính là tổ chức Tăng đoàn, được thống nhất công việc tu học
hành đạo trong tổ chức Tăng đoàn vào thế kỷ thứ VI (562-594).
Vào đầu thế kỷ thứ 13, các thiền
phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Ðường được thống nhất thành một tổ
chức trong thiền phái Trúc Lâm, núi Yên Tử (1299). Do ảnh hưởng của Thiền sư
Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ, nên vào thời đại nầy có thể gọi là thời
kỳ Phật Giáo được thống nhất trong một tổ chức, được thừa kế như sau:
1/ Thiền sư Hiện Quang
2/ Thiền sư Ðạo Viên – Trần Thái
Tông
3/ Thiền sư Ðại Ðăng – Trần Thánh
Tông
4/ Thiền sư Tiêu Diêu – Tuệ Trung
Thượng Sĩ – Trúc Lâm (Nhân Tông)
5/ Thiền sư Huệ Tuệ
6/ Thiền sư Trúc Lâm (Trần Nhân
Tông,1258-1368) – Bảo Phác
7/ Thiền sư Trúc Lâm (Trần Nhân
Tông,1258-1368) – Thiền sư Bảo Phác - Thiền sư Pháp Loa
8/ Thiền sư Huyền Quang
9/ Thiền sư An Tâm
10/ Thiền sư Tĩnh Lự Phù Vân
11/ Thiền sư Vô trước
12/ Thiền sư Quốc Nhất
13/ Thiền sư Viên Minh
14/ Thiền sư Ðạo Ngộ
15/ Thiền sư Viên Tuệ
16/ Thiền sư Tổng Trì
17/ Thiền sư Khuê Tham
18/ Thiền sư Sơn Ðẳng
19/ Thiền sư Hương Sơn
20/ Thiền sư Trí Dung
21/ Thiền sư Tuệ Quang
22/ Thiền sư Chân Trú
23/ Thiền sư Vô Phiền
Theo sách Thuyền Uyển Tập Anh,
Thiền sư Hiện Quang khai sơn núi Yên Tử mở đầu cho Phật giáo Trúc Lâm (tịch năm
1220), mở đường cho nền Phật giáo thống nhất đời Trần.
Thiền sư Thường Chiếu có thể được
gọi là người khởi đầu cho sự tổng hợp giữa ba thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô
Ngôn Thông và Thảo Ðường cũng là gạch nối giữa Phật Giáo đời Lý và Phật Giáo
đời Trần thống nhất thành một tổ chức tu hành.
Công cuộc truyền thừa trong giới
thiền gia, lúc bấy giờ được xem như là một tổ chức có quy củ. Danh từ truyền
tâm ấn, hay tâm ấn tâm có nghĩa là cung cách làm việc với một đối tượng, cũng
chính là sự trao truyền trực tiếp từ Thầy sang Trò.
Sự trao truyền bằng sự giác ngộ
được thực hiện bằng tâm, được thực hiện giữa tâm với tâm, không cần đi qua bất
cứ một không gian nào, đó gọi là tâm ấn.
Ấn còn có nghĩa là quyết định hay
là khuôn dấu tượng trưng cho sự chân truyền và chính thống. (theo dẫn giải
trong Quyển Việt Nam Phật Giáo Sử Luận – Nguyễn Lang)
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát
Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp
Giới Tam Bảo.
76. NGÀY THỨ BẢY MƯƠI SÁU:
Thời điểm cực thịnh của Phật giáo
Vấn: Khi còn học ở nhà trường Phổ thông,
chúng con được nghe Thầy giáo giảng về một thời Phật giáo cực thịnh của các
triều đại nhà Ðinh, Tiền Lê, Lý, Trần trên cả 600 năm. Tuy nhiên lúc bấy giờ
chỉ được học những nét đại cương trong sử học Việt nam. Nay trở thành những
Phật tử thuần thành, chúng con muốn được nghe Sư giảng giải tỉ mỉ chi tiết về
một thời cực thịnh của Phật giáo Việt nam?
Ðáp: Phật giáo Việt nam là đạo của
dân tộc Việt nam, trên thế giới, người Việt nam vừa sinh ra đời là đã có tín
ngưỡng, lớn lên trước nhất là biết tín ngưỡng, tín ngưỡng Thần Thánh, tín
ngưỡng Ông Bà, tín ngưỡng Thần Phật, tín ngưỡng Trời Phật, tín ngưỡng đức Phật
Thích ca, Phật A Di Ðà, Bồ tát Quan Aâm…Ơû Việt nam dù người không có Ðạo, hoặc
theo Ðạo khác, nhưng họ vẫn biết Ðạo Phật có nguồn gốc sâu xa ngay từ thời kỳ
đầu lập quốc Việt nam; nên dù không theo đạo Phật, nhưng họ cũng không dám xem
thường Ðạo Phật, hay tin vào những chuyện xưa tích cũ theo Ðạo lý nhà Phật.
Nói đến nhà Phật là mọi người mọi
giới liền nghĩ đến hình ảnh hoa sen; trong giáo lý nhà Phật hoa sen là biểu
tượng giải thoát của chư Phật, của các bậc Bồ tát. Hoa sen là biểu tượng của
nhà Phật, đạo lý nhà Phật, nơi tôn nghiêm, nơi thờ Phật, chùa chiền, Tu viện,
Thiền viện…Hoa sen cũng là hình ảnh của nhà Phật tồn tại trải suốt trên 2555
năm nay trên đất nước Ấn độ, các nước theo Phật giáo Nam truyền, các nước theo
Phật giáo Bắc truyền và các cộng đồng cư dân Phật tử trên thế giới.
Tại Việt nam nói đến Phật giáo là
hình dung đến hoa sen, nhìn hoa sen người ta nghĩ ngay đến Phật giáo. Logo Air Việt
nam là hình ảnh “cánh bằng, hạt bay qua ánh trăng” được chuyển đổi thành logo
hoa sen, theo lời của vị lãnh đạo Cty Air VN thì đến Việt nam trước nhất người
nước ngoài sẽ được các Cty du lịch hướng dẫn giới thiệu viếng Chùa lạy Phật;
viếng Chùa lạy Phật là chương trình chính của người nước ngòai khi du lịch Việt
nam, Việt nam là Phật giáo, Phật giáo là Việt nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt nam cũng yêu chuộng hình thái hoa sen, luôn dành những đóa sen cao
quý dâng lên Bác Hồ vĩ đại, Bác Hồ Chí Minh đứng trên hoa sen, biểu hiện vị
lãnh tụ lớn, một thiên tài, một vĩ nhân trên thế giới, hoa sen là Bác hồ, Bác
Hồ là hoa sen. Mặt trận Tổ quốc Việt nam biểu hiện cho ý chí cao đẹp của các
đoàn thể yêu nước cùng sống chung trong đại gia đình tổ quốc Việt nam lại có
huy hiệu hoa sen nhiều cánh.
Phật giáo Việt nam có năm thời kỳ
phát triển cực thịnh từ chất lẫn lượng: - thời kỳ thứ nhất thuộc triều nhà Ðinh
- thời kỳ thứ hai thuộc triều đại nhà tiền Lê - thời kỳ thứ ba thuộc triều đại
nhà Lý - thời kỳ thứ tư thuộc triều đại nhà Trần - thời kỳ thứ năm thuộc thời
đại Hồ Chí Minh.
Quý Phật tử sẽ được nghe giảng về một thời cực thịnh của Phật giáo Việt nam vào
triều đại nhà Lý. Nhưng trước nhất sẽ nói về sáng tổ đại nghiệp nhà Lý, triều
đại phong kiến nhà Lý.
Nói đến cuộc đời của Lý Công Uẩn,
sáng tổ nhà Lý, tức là chúng ta sẽ nhắc lại về một đế đô xa xưa đã được tạo
dựng và vị thế đời đời bền vững với thời gian, ngày nay trở thành thủ đô của
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam, trái tim của tổ quốc thân yêu hình
cong chữ S trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau.
Ðấy là những nét chấm phá thật hào
hùng của cha ông đã dày công bồi đắp cho giang sơn gấm vóc Việt Nam và đi vào
lịch sử, mà trong đó có những nét văn hóa dân tộc, văn hóa Phật giáo, những
lịch sử dã sử, chân phương, hiện thực, cụ thể hóa nền văn học Việt, trở thành
đề tài nghiên cứu cho nhiều sử gia trong nước và thế giới.
1/ Thân thế:
Vào triều đại nhà Ðinh, trong hương
Cổ pháp, làng Dương lôi (Tiên sơn, Bắc ninh) có bà Phạm Thị Ngà, hằng ngày đi
làm công quả ở chùa Ứng Thiên. Mỗi ngày, Bà quét dọn chùa, gánh nước tưới cây,
giữ vườn. Bà làm việc suốt ngày đến đêm khuya cho quên sự đời cô độc, nghèo khó
của mình, mà không bao giờ dám cất lời than van với ai. Bà cũng rất siêng niệm
Phật tự an ủi: “được làm công quả cho chùa, cho Phật Pháp là phước đức ba đời
ông cha để lại, đây cũng là hạnh lành tu nhân tích đức. Lúc nào cũng gần Phật,
khi tuổi già về ở chùa với Phật, lúc trăm tuổi cũng được thấy Phật, Bà nghĩ như
thế!
Một đêm mùa hạ tối trời, bà Phạm
Thị đun bếp xong, mệt quá, nằm ngủ luôn bên bếp. Thần báo mộng điềm lành chấp
nhận ý nguyện của Bà, từ đó đến sau về nhà tự nhiên Bà thụ thai.
Một hôm trời đã tối sẩm, Bà không
còm dám đến công quả chùa Ứng Thiên nữa, nên cố bách bộ đến chùa Qui Châu cùng
làng xin ở nhờ qua đêm. Ðược nhà chùa cho phép, bà yên tâm, nghỉ ngơi ở phòng
Ni cô. Ðêm khuya bà trở dạ, bổng trời nổi mưa to gió lớn, có ba bà mụ hiện đến
ban thuốc thang và đỡ đẻ cho Bà. Bà sinh một cậu con trai khôi ngô tuấn tú, lúc
bấy giờ vào ngày 12 tháng 02 năm Giáp Tuất (974) (Nhân vật lịch sử Ðinh Lê, của
Trương Ðình Tưởng, NXB Văn Hóa Dân Tộc, trang 25 và Việt Nam Sử Lược của Trần
Trọng Kim, NXB Tân Việt,1964, trang 95). Ðời sống quá vất vả, sinh con mà không
có gì để ăn, phải đi xin từ hạt gạo chén cơm ăn cho đỡ đói qua ngày. Ðược bảy
ngày sau, không còn gì để ăn, bà liền đem con trở lại chùa Cổ Pháp.
Sư Lý Khánh Vân Trụ trì hỏi sự
tình, biết đứa trẻ vừa sinh ở chùa Qui Châu, bèn xin đứa trẻ làm con nuôi. Bà
Phạm Thị Ngà nghĩ phận mình quá khó khăn, không thể nuôi con, lại gởi được con
ở gần Phật, sẽ có ngày trở lại đón con về.
Một thuyết khác nói thân sinh ra Lý
Công Uẩn nhà nghèo đi làm ruộng thuê ở chùa Tiên Sơn (An Phong, Bắc Ninh) phải
lòng một thiếu nữ và làm nàng có mang. Nhà chùa thấy thế đuổi đi nơi khác. Hai
vợ chồng dẫn nhau đến khu rừng bàng, mệt mỏi dừng lại nghỉ, chồng khát nước đến
chỗ giếng nước giữa rừng uống, chẳng may sẩy chân chết đuối. Vợ chờ lâu không
thấy, nhưng khi đi tìm đến nơi thì đất mối đùn lên thành ngôi mộ táng chồng lâu
rồi. Sau đó đến xin ở nhờ vào chùa Ứng Tâm, cho đến ngày nở nhụy khai hoa.
Một đêm khu tam quan chùa bỗng có
hào quang sáng choang, thấy người đàn bà hạ sinh một trai, hai bàn tay có bốn
chữ “sơn hà xã tắc”. Sau khi sinh, mẹ cũng qua đời, nhà chùa đem chú bé vào
nuôi cho đến tám tuổi, chín tuổi nhà sư chùa Ứng Tâm đem giao cho Nhà Sư Vạn
Hạnh, được Sư đặt tên là Lý Công Uẩn.
2/ Tuổi trẻ ở Chùa:
Sư Lý Khánh Vân nuôi trẻ tận tình
và đặt tên là Lý Công Uẩn. Khi Lý Công Uẩn lên 6 tuổi, Lý Khánh Vân đưa đến gởi
Sư huynh là Sư Vạn Hạnh, Trụ trì chùa Lục Tổ để làm chú Tiểu học đạo, lúc bấy
giờ Sư Vạn Hạnh đương kim Quốc Sư triều vua Lê Ðại Hành.
Năm Lý Công Uẩn được 17 tuổi, được
Sư Vạn Hạnh (có thuyết nói là cha ruột của Lý Công Uẩn, còn Lý Khánh Vân là chú)
quan tâm nuôi dạy giáo lý Phật, nghề văn nghiệp võ kỹ lưỡng trở thành người
Phật tử thuần thành, tinh thông Phật Pháp, luôn tỏ rõ là một người thông minh,
có khí lượng, tài kiêm văn võ, Sư Vạn Hạnh vào cung Hoa Lư tiến cử với vua Lê
Ðại Hành, nhờ có học nên được cử làm Tứ Sương Quân (chỉ huy lính coi bốn cửa
thành) về sau thăng đến chức Tả Thân Vệ Tướng Quân Ðiện Tiền Chỉ Huy Sứ (Truyền
thuyết Ðinh Lê, của Trương Ðình Tưởng, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, trang
196).
Ðiều cần lưu ý ở đây là từ khi sinh
ra, Lý Công Uẩn là người con tinh thần của Phật Giáo được nuôi dưỡng vào đào
tạo tại chùa Lục Tổ- Cổ Pháp, một trung tâm Phật giáo nằm giữa hai trung tâm
lớn nhất là Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh và Kiến Sơ, Phù Ðồng, Gia Lâm, Hà
Nội). Thời bấy giờ giáo dục và thi cử chưa được triều đình tổ chức, nên nhà
chùa không chỉ là trung tâm văn hóa-tôn giáo địa phương mà còn là trung tâm
giáo dục, nơi truyền bá kiến thức, học vấn và tăng lữ là tầng lớp trí thức, lực
lượng sáng tác văn học của xã hội.
Từ đó chúng ta có thể thấy Lý Công
Uẩn hoàn toàn được giáo dục bằng ý thức hệ Phật Giáo để lập lên một triều đại
trị quốc chăn dân lâu dài nhất trong các triều đại vua chúa Việt Nam. Phật giáo
lại trở thành Quốc giáo và đóng vai trò chính: “hộ quốc an dân”.
3/ Làm quan nhà Tiền Lê:
Lý Công Uẩn là một nhà Sư chuyển
sang nghiệp làm quan nhà Tiền Lê (vào thời Lê Trung Tông tức Hoàng tử Lê Long
Việt 1005). Lê Trung Tông làm vua mới 3 ngày bị em là Thái tử Lê Long Ðỉnh giết
cướp ngôi. Các quan trong triều sợ bỏ chạy, riêng Lý Công Uẩn ôm xác Lê Long
Việt đang đầm đìa máu chảy mà khóc. Lê Long Ðỉnh tức giận toan giết Lý Công
Uẩn, có cận thần là Lê Nhân Nghĩa (bạn của Lý Công Uẩn) can gián, Long Ðỉnh
nghe theo, sau khen Lý Công Uẩn là người nghĩa trung hiếu đạo. (Nhân vật lịch sử
thời Ðinh Lê của Trương Ðình Tưởng, NXB Văn Hóa Dân Tộc, trang 26)
Lê Long Ðỉnh, sinh năm 985, làm vua
được 5 năm, tức là từ năm 1005 đến 1009, vua có bệnh trỉ nên khi lâm triều chỉ
nằm mà nghe đình thần tâu rồi mà phán xét việc nước, nên gọi vua là Lê Ngọa
Triều.
Sư Vạn Hạnh và thần dân nhận thấy
nhà Tiền Lê tuy có công với nước, nhưng vua Lê Long Ðỉnh, lại quá bạo ngược,
độc ác, vô đạo, lại hoang dâm vô độ, là điềm báo nhà Tiền Lê suy vi, đây là
thời cơ có thể đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Lúc này triều thần là Ðào Cam Mộc (bạn
thân của Lý Công Uẩn) cũng bàn bạc với Sư Vạn Hạnh, khuyên Lý Công Uẩn hãy sẵn
sàng thay thế triều đại nhà Tiền Lê.
4/ Lập nên triều đại nhà Lý:
Ngày Tân Hợi, tháng Mười, năm Kỷ
Dậu (1009) vua Lê Ngọa Triều băng hà, lúc nầy Lý Công Uẩn cùng với Hữu Thân Vệ
Ðiện Tiền Chỉ huy Sứ Nguyễn Ðộ đem 500 quân lính vào kinh thành Hoa Lư trấn
giữ. Có cận thần là Ðào Cam Mộc, và Lê Thái Hậu (mẹ của vua Lê Ngọa Triều)
khuyên Lý Công Uẩn lên ngôi theo nguyện vọng của thần dân, cùng với sự ủng hộ
của bạn bè, sự hộ trì của Phật giáo cụ thể là Quốc Sư Vạn Hạnh, ứng với lời sấm
ký: “Nhà Lê sẽ mất, nhà Lý lên thay”.
Ngày Quý Sửu, tháng mười, năm Kỷ
Dậu (1009) sau hai ngày Lê Ngọa Triều băng hà, các quan trong triều tung hô tôn
Lý Công Uẩn lên ngôi thiên tử, với tôn hiệu:
“Phụng Thiên Chi Lý Ứng Vận Tự Tại
Thánh Minh Long Hiệu Duệ Văn Anh Vũ Sùng Nhân Quảng Hiếu Thiên Hạ. Thái Bình
Khâm Minh Quang Thạch. Chương Minh Vạn Ban Hiển Ứng Phù Cảm Uy Chân Phiên Man
Duệ Mưu Thần Trợ Thánh Trị Tắc Thiên Ðạo Chính Hoàng Ðế”.
Ðây là vị Hoàng Ðế có danh hiệu dài
nhất trong lịch sử Nhà nước phong kiến Việt Nam, lúc bấy giờ Ngài vừa tròn ba
mươi lăm tuổi
(Nhân vật lịch sử thời Ðinh Lê của
Trương Ðình Tưởng, NXB Văn Hóa Dân Tộc, trang 27)
5/ Những năm ở ngôi báu:
Lý Công Uẩn lên ngôi lấy niên hiệu
là Thuận Thiên, sắc chỉ mời Thiền sư Vạn Hạnh làm Quốc Sư trực tiếp tham gia
chính sự giúp ý kiến cho Vua. Vào tháng 7 năm 1010, nhận thấy kinh đô Hoa Lư là
một quân thành vững chắc nhưng quá chật hẹp, có ngõ vào mà không lối ra, đất
đai ẩm thấp, thường hay lụt lội, núi đá chiếm hết đồng bằng, nhân dân đói khổ,
kinh tế không phát triển, nhà vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô ra thành Ðại La.
Việc dời đô, nhà Vua có tham kiến
với Quốc Sư Vạn Hạnh để làm bài Chiếu Ðời Ðô, một áng văn chương xuất sắc, có
tầm nhìn địa hình kinh tế, chính trị, văn hóa, địa hình quân sự xứng đáng để
lại cho con cháu muôn đời sau nghiên cứu về đất Thăng Long:
CHIẾU DỜI ÐÔ: Xưa nhà Thương đến
vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua
Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình
mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở trung tâm, mưu toan nghiệp lớn,
tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy
thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà
hai nhà Ðinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo
dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại
không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được
thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.
Huống gì thành Ðại La, kinh đô cũ
của Cao Vương ở vào nơi trung tâm của trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi.
Ðã đúng ngôi Nam Bắc Ðông Tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Ðịa thế rộng
mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn
vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi nầy là thắng
địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô
bậc nhất của đế vương muôn đời”
(Trích Văn Thơ Lý Trần, NXB Khoa
Học Xã Hội – Hà Nội năm 1977, trang 229, 230 - Nguyễn Ðức Vân phiên dịch)
Cuộc dời đô của Lý Thái Tổ được
thực hiện vào thời gian tốt nhất, tức là vào tháng 7 âm lịch, đầu mùa thu năm
Canh Tuất (1010). Tháng 7 là tháng nước dâng, lên cao thuận tiện cho việc
chuyên chở bằng thuyền. Ðể vận chuyển nhiều cung điện nguy nga, nhiều đồ vật
quý hiếm, cùng các quan lại, cung tần, mỹ nữ, người hầu hạ phải dùng thuyền để
đi bằng đường thủy là chắc chắn. Ðoàn thuyền của nhà Vua Lý Thái Tổ khi dời đô
có nhiều loại khác nhau và đi lại trên 6 tuyến sông: sông Sào Khê, sông Hoàng
Long, sông Ðáy, sông Châu, sông Nhuệ, sô Tô Lịch, những sông nầy ngày nay vẫn
còn, riêng sông Tô Lịch và sông Nhuệ một số đoạn đã bị san lấp.
Khi dời đô, đoàn thuyền của nhà Vua
tới ngã ba sông Tô Lịch - Nhị Thủy, dưới chân thành, rồng vàng hiện lên rẽ sóng
tới gần thuyền Vua, rồi bay vút lên trời xanh, từ đó thành Ðại La đổi tên là
Thăng Long, tức thủ đô Hà Nội ngày nay. Ðất nước ta lúc bấy giờ có tên là Ðại
Việt (Cố đô Hoa Lư của Lã Ðăng Bật, NXB Văn Hóa Dân Tộc, trang 25, 26).
Việc Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về
Thăng Long là một công trình thuyên chuyển vĩ đại được các thần dân, nhân sĩ
Phật giáo, nho sĩ đương thời và các thời đại sau nầy, kể cả chúng ta ngày nay
đánh giá đúng là một thiên tài thao lược, quyết định đúng đắn, hoàn toàn vì lợi
ích chung của dân tộc, là sáng kiến độc đáo nhất vào thời quân chủ phong kiến.
Ngoài việc dời đô, Lý Thái Tổ còn
chỉnh đốn việc cai trị và hành chánh, như chia nước ra làm 24 bộ, đổi Hoa Lư
thành phủ Tràng An, làng Cổ Pháp quê hương của Ngài thành phủ Thiên Ðức, cho
xây dựng kinh thành Thăng Long, lập cung điện quy mô, phong Mẹ là Phạm Thị Ngà
là Minh Ðức Thái Hậu, thân sinh Ngài được tôn phong là Hiển Khánh Vương, cho
xứng với tầm vóc đất nước.
Vốn sinh ra và lớn lên từ nhà chùa,
được các nhà sư lừng danh dạy dỗ, nên Lý Thái Tổ là vị vua trọng đãi tăng sĩ và
sư sãi, chú trọng việc đắp tượng Phật, đúc chuông, cho xây nhiều chùa, đưa đạo
Phật lên thành Quốc giáo, dựng chùa Hưng Thiên Tự nội Thành, chùa Vạn Tuế ngoại
thành, chùa Thắng Nghiêm, chùa Thiên Vương, chùa Cẩm Y, chùa Long Hưng, chùa
Thành Thọ, chùa Thiên Quang, chùa Thiên Ðức. Ngài sắc chỉ khắp nơi trong nước
nơi nào có chùa hư phải tu bổ lại. Năm 1019 Lý Thái Tổ sai sứ giả Phạm Hạc,
Nguyễn Ðạo Thành sang Trung Hoa thỉnh Ðại Tạng Kinh. Cũng trong năm nầy nhà vua
sắc chỉ Thiền sư Phi Trí sang Quảng Tây thỉnh thật nhiều kinh sách đem về tàng
trữ tại kinh thành.
Năm 1020, nhà vua sắc chỉ lập đại giảng
đường thuyết giảng Phật pháp, cho phép Tăng sĩ đi khắp nơi trong nước giảng đạo
truyền bá chánh pháp, sắc chỉ đúc chuông to để tại chùa Hưng Thiên, chùa Ðại
Giáo, chùa Thắng Nghiêm.
Năm 1024 lập chùa Chân Giáo trong
nội thành, sắc phong các Tăng già, Pháp Sư để giảng Phật pháp cho vua nghe.
Riêng Quốc Sư Vạn Hạnh trở thành một vị Thầy của hai vua Lê và vua Lý. Ðến khi
vua Lý Thái Tổ ở ngôi được 9 năm thì Quốc Sư Vạn Hạnh viên tịch tức là vào năm
1018 (Lược Khảo Phật giáo Sử Việt Nam, của Vân Thanh, XB tháng 3 - năm 1975,
trang 93, 94, 95)
Về sau nhà Vua Lý Nhân Tông có bài
truy tán Quốc Sư như sau:
Vạn Hạnh dung Tam thế
Châu phù hữu sấm thi
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trần Vương Kỳ
Dịch:
Vạn Hạnh thông ba học
Rành rành có sấm thi
Quê nhà tên Cổ Pháp
Gậy Phật, đất Vương Kỳ
(Nhân vật lịch sử thời Ðinh Lê, của
Trương Ðình Tưởng, NXB Văn Hóa Dân Tộc, trang 65)
Lý Thái Tổ là vị vua có nhiều chiến
công hiển hách, nhà Vua từng thân chinh đánh dẹp nhiều nơi như ở Tuyên Quang,
Nghệ An. Tài ngoại giao của nhà vua cũng xuất sắc, vua nhà Tống rất nể vì, tôn
trọng phong Vương. Các nước phía Nam như Chiêm Thành, Thủy Chân Lạp đều thần
phục và triều cống. Nhà vua giảm sưu cao, thuế nặng cho dân tình, nên đất nước
Ðại Việt lúc bấy giờ thật cường thịnh.
Phương ngôn có câu:
Ðời vua Thái Tổ, Thái Tông
Ngô, lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn.
Ngày 2 tháng 3 năm Mậu Thìn
(31.3.1028), nhà vua băng hà ở điện Long An, hưởng thọ 54 tuổi, ở ngôi 19 năm.
(Nhân vật lịch sử thời Ðinh Lê, của Trương Ðình Tưởng, NXB Văn Hóa Dân Tộc,
trang 30).
Hiện nay công trình nhà bia tưởng
niệm Vua Lý Thái Tổ được Ủy ban Nhân dân Tp.Hà Nội và Ủy ban Nhân dân tỉnh Ninh
Bình xây dựng ở khu di tích cố đô Hoa Lư thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư.
Ngày 29 tháng 9 năm 2000, nhân kỷ niệm 990 năm vua Lý thái Tổ dời đô từ Hoa Lư
ra Thăng Long (1010-2000) Nhà bia được khánh thành.
Trong Nhà bia, giáo sư anh hùng lao
động Vũ Khiêu có làm đôi liễn ca ngợi sự nghiệp của Lý Thái Tổ như sau:
“Xây Thăng Long Văn hiến, với tinh
thần Âu Lạc Văn Lang
“Dựng Ðại Việt cơ đồ, với khí thế
Sơn Tinh, Phù Ðổng
(Cố đô hoa Lư, tác giả Lã Ðăng Bật,
NXB Văn Hóa Dân Tộc, trang 37, 38)
6/ Nhận định về nhà vua Lý Thái Tổ:
Nhà vua Lý Thái Tổ từ khi sinh ra
được ở chùa gần Phật, nhỏ tuổi mà đã có khi tiết, khẳng khái, biết thân phận,
đến khi làm quan nhà Tiền Lê cũng gần Quốc Sư, đến khi làm vua cũng tạo điều
kiện cho mình gần Tam Bảo cho xây nhiều chùa. Vua Lý Thái Tổ lên ngôi vào năm
1009 đến 1028 thì băng hà. Nhà Vua là một Phật tử thuần thành trong đạo Phật
thời phong kiến, có đầy đủ đạo đức, có hiếu với mẹ, nghĩa với bạn, trung với
nước, là con nuôi của nhà chùa thành Vua thiên hạ.
Chịu khó học đạo, học đời, biết
theo Thầy lành (Sư Vạn Hạnh) bạn sáng (Ðào Cam Mộc, Nguyễn Ðệ, Lê Nhân Nghĩa);
được tiến cử làm quan triều Lê Trung Tôn. Tin Thầy, tin Bạn lập nên sự nghiệp
nhà Lý nối truyền nhau trị quốc chăn dân gần 300 năm.
Gìn giữ giang sơn gấm vóc biết phát
huy vị thế, dời đô, biết cách làm cho phát triển giang sơn, đưa đất nước đến
chỗ hùng mạnh cho con cháu muôn đời sau.
Ngoại giao giỏi, Vua nhà Tống nể
phục, phong vương cho Vua. Các lân bang Chiêm Thành, Thủy Chân Lạp không dám
quấy nhiễu, phủ phục triều cống.
Tin Phật trọn vẹn, nương vào vị thế
đưa Ðạo Phật thành Quốc giáo để hộ quốc an dân và hưng thịnh. Cho phép các
Thiền sư tham gia quốc chính, khiến cho thiên hạ thái bình thịnh trị suốt 19
năm nhà vua cai trị và báo hiệu cả một triều đại sẽ kéo dài gần 300 năm hưng
quốc.
Lý Thái Tổ là một ông vua yêu nước,
thương dân, một lòng vì đại nghĩa, là một công dân ưu tú trong suốt 2000 năm
dựng xây đất nước. Vua là một Phật tử tiêu biểu của Phật giáo Việt Nam trong
quá trình đồng hành cùng dân tộc; nên chính Phật giáo ở vào một thời điểm vừa
là phát triển cực thịnh, vừa nắm thế chủ động ủng hộ triều đình giữ vẹn giang
sơn gấm vóc tổ quốc Việt Nam.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát
Nguyện Ðộ Hàm Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp
Giới Tam Bảo.
77. NGÀY THỨ BẢY MƯƠI BẢY:
Thời kỳ chấn hưng Phật giáo
Vấn: Chúng con xin được học về thời
kỳ chấn hưng Phật giáo Việt nam; những tông môn pháp phái như: Thiền tông, Tịnh
độ tông, Thiên thai tông, Nam
tông, các hiệp hội lớn nhỏ góp phần công cuộc chấn hưng Phật giáo Việt nam; các
đạo giáo dân tộc mang đậm ý tưởng Phật giáo?
Ðáp: Sau triều đại nhà Trần, đến
triều đại nhà hậu Lê Phật giáo phải chịu nhiều ảnh hưởng chiến tranh, tương tàn
tương sát, người trong nước chia giang sơn thiên hạ, dành quyền trị quốc chăn
dân, sát phạt lẫn nhau, làm ảnh hưởng đến sinh họat tôn giáo, trong đó nhất là
Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo cũng từ đây mà phân hóa. Thêm vào đó người Tây
dương đến lấn chiếm đất đai đòi khai hóa dân Việt, đem đạo Kitô vào đất Việt,
truyền giáo bằng con đường chiến tranh, hủy diệt Phật giáo và các Tôn giáo dân
tộc yêu nước. Phật giáo Việt nam phải bị lu mờ trải trên một thế kỷ.
Ðến đầu thế kỷ 20, từ những năm
1920 – 1930 các bậc tôn túc, trưởng lão, các nhà trí thức Phật giáo, những nhà
Phật học cao cấp, các bậc tu hành có đẳng cấp, các cư sĩ có học thức, các bậc
siêu nhân kiệt xuất mới bắt đầu gầy dựng lại các tổ chức Phật giáo trong nước
theo chiều hướng phát triển của Phật giáo các quốc gia như Nhật Bản, Trung
Quốc, Ấn Ðộ, Myanmar và Tích Lan.
Nương theo tinh thần nầy, Phật Giáo
Việt Nam từ thành thị đến nông thôn, đến những nơi rừng núi, thâm sơn cùng cốc
các tổ chức phong trào chấn hưng, báo chí Phật, chùa chiền lớn, các tổ chức
giáo hội, tổ chức môn phong pháp phái được thành lập.
1/ Tại miền Bắc:
Năm 1934 thành lập “Bắc kỳ Phật
giáo Tổng hội”, tại Hà Nội - Trụ sở đặt tại chùa Quán Sứ – Hội xuất bản Báo
Phật Giáo cổ xúy phong trào chấn hưng, phát hành Tạp chí Ðuốc Tuệ (10.12.1935),
Báo Bồ Ðề Tân Thanh và Tiếng Chuông Sớm để hoằng dương chánh pháp. Hội mở
Trường Phật Học tiếp nhận chư Tăng tham vấn học đạo tại chùa Quán Sứ, Trường
Phật Học dành cho Ni tại chùa Bồ Ðề và chùa Bút Tháp.
Hội “Bắc Kỳ Phật Giáo Tổng Hội” do
Tổ Vĩnh Nghiêm được suy tôn làm Pháp Chủ.
Tổ Tuệ Tạng được cử làm Thượng Thủ
Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc nhiệm kỳ thứ nhất.
Ðại lão Hòa Thượng Mật Ứng, được
suy tôn làm Pháp Chủ Phật Giáo Bắc Việt.
Những vị hữu công trong thời kỳ
chấn hưng, thống nhất một số các tập đoàn Phật Giáo tại miền Bắc lúc bấy giờ là:
Hòa Thượng Thanh Ất, Trụ trì chùa
Trung Hậu, Phúc Yên – HT Trung Thứ, Trụ trì chùa Bằng Sở, Hà Ðông – HT Doãn Hà,
Trụ trì chùa Tế Cát, Hà Nam – HT Trụ trì chùa Hương Tích, Hà Ðông – HT Quang
Nghiêm, Trụ trì chùa Phú Ninh, Nam Ðịnh – HT Trụ trì chùa Quế Phương, Nam Ðịnh
– HT Trụ trì chùa Bộ La, Thái Bình – HT Thanh Thiệu, Trụ trì chùa Ðồng Ðắc,
Ninh Bình – TT Tố Liên, Chủ tịch Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt – TT Trí Hải – TT
Giải Ngạn – TT Tuệ Chiếu.
Những vị Cư sĩ trí thức Phật Giáo:
Cụ Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Năng
Quốc, Thiều Chửu, Cụ Bùi Kỹ, Dương Bá Trạc, Trần Trọng Kim, Phan Kế Bính, Văn
Quang Thùy, tức Tuệ Nhuận làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tờ báo Tạp Chí Bồ Ðề.
2/ Tại miền Trung:
Cũng trong năm 1932, quý Cụ Tổ
thành lập Hội An Nam Phật học, Trụ sở đặt tại Chùa Từ Ðàm (do Tổ Minh Hoằng –
Tử Dung sáng lập năm 1683, vào đời nhà Lê, năm Quí Vì) – xuất bản Tạp chí Viên
Âm (1934), do Tổ Giác Tiên, Viện chủ chùa Trúc Lâm và Cụ Bác sĩ Tâm Minh Lê
Ðình Thám làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút.
Hậu thân của Hội An Nam Phật Học,
cũng chính là Hội Phật Học Trung Việt
Hội còn khai mở Phật Học Ðường Báo
Quốc (1935), năm 1945 dời về Tòng Lâm Tu Viện Kim Sơn, chính nơi đây đào tạo
những vị lãnh tụ Phật Giáo như: HT Thiện Minh, HT Trí Quang, HT Thiện Siêu, HT
Trí Tịnh, TT Trí Thành…
Hội An Nam Phật Học thành lập thêm
Gia Ðình Phật Hóa Phổ, chính là tiền thân của Gia Ðình Phật tử ngày nay, Ðoàn
Thanh Niên Phật học Ðức Dục, Ðồng Ấu Phật Tử, nơi đây đào tạo những vị sau nầy
lãnh đạo Phật Giáo như: HT Thích Minh Châu, Giáo sư Võ Ðình Cường… Trường Bồ Ðề
đầu tiên cũng do Hội sáng lập tại Huế.
Phật Học Ðường Trúc Lâm, Tây Thiên:
Tổ Phước Huệ, Tổ Phổ Huệ hằng năm được quý Sư cụ vào chùa Thập Tháp – Bình Ðịnh
thỉnh ra Huế giảng Phật Pháp, Tổ Phước Huệ thường vào Hoàng cung giảng Phật
Pháp cho vua Thành Thái, vua Bảo Ðại nên được suy tôn là Quốc sư (quý Cụ HT Thiện
Hoa, HT Thiện Hòa, Cụ Lê Ðình Thám, Pháp Sư Trí Ðộ đều là học trò Tổ Phước
Huệ).
Nhờ những công đức cao cả trên mà
quý Sư Cụ ở Huế hợp nhau mở Trường Trung học Phật Giáo tại Chùa Trúc Lâm, sau
dời về chùa Tây Thiên. Còn Trường của Ni thì mở tại chùa Diệu Ðức.
Những vị có công chấn hưng Phật Giáo Miền Trung, tập hợp thành một tổ chức duy
nhất như Quốc sư Phước Huệ, Pháp sư Phổ Huệ, HT Thích Tịnh Khiết, HT Thiền Tôn,
Trúc Lâm, Tây Thiên, Từ Hiếu, Tra Am. Quý HT Mật Khế, Quy Thiện, Ðôn Hậu, Mật
Nguyện, Mật Hiển, Trí Thủ, Mật Thể.
Phật giáo Bình Ðịnh và Ðà Nẵng: Tại
tỉnh Bình Ðịnh có Hội Phật Học Tỉnh Bình Ðịnh (1932-1945), có Quốc sư Phước Huệ
(1920-1945) Pháp sư Phổ Huệ (1920-1935) Pháp sư Bích Liên, Liên Tôn, Trí Ðộ
(1930-1950).
Tại Ðà Nẳng có Hội Phật Học Ðà
Thành, xuất bản Tạp chí Tam Bảo do HT Bích Liên làm Chủ nhiệm.
3/ Tại miền Nam:
Năm 1920, quý cụ Tổ Khánh Hòa, Tổ
Chí Thiền vận động thành lập Hội Lục Hòa, xuất bản tờ báo Phật Giáo hiệu “Pháp
Âm” – Sư Thiện Chiếu cho xuất bản Tờ “Phật Hóa Tân Thanh Niên”, “Phật Học Tòng
Thơ”.
Ông Comis Chấn thành lập Hội Linh
Sơn Nghiên Cứu Phật Học, Trụ sở đặt tại Chùa Linh Sơn, đường Cô Bắc – Cô Giang,
Quận I, Saigon – Xuất bản Tờ Tạp Chí “Từ Bi Âm”, rất có giá trị trong làng Phật
học.
Năm 1931, Tổ Huệ Ðăng thành lập
Thiên Thai Giáo Quán Tông – Chủ xướng thành lập và xuất bản tờ “Bát Nhã Âm”.
Năm 1933, Liên Ðoàn Học Xã ra đời,
do Tổ Khánh Hòa, Tổ Huệ Quang, Tổ Khánh Anh (là vị Tổ có những đệ tử vào năm
1960 có về tại Tổ Ðình Linh Sơn nơi HT Thiện Phước khai Ðạo, truyền bá pháp môn
Niệm Phật, giảng dạy giáo lý Phật Học tại Phật Học Ðường Tây Phương Bồng Ðảo,
nơi xuất thân của HT Giác Quang), Tổ Pháp Hải giảng dạy.
Năm 1934, Quý cụ Tổ Khánh Hòa, Tổ
Huệ Quang, Tổ Khánh Anh kết hợp quý Cụ Giác Hãi, Liên Trì, Viên Giác, Kim Huê,
Vạn An, Bửu Chung thành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật Học, xuất bản tạp chí Duy Tâm
Phật Học, những vị xuất thân từ trường nầy hiện nay như: HT Thiện Hòa, HT Thiện
Hoa, HT Huyền Quang, HT Hành Trụ, HT Quảng Liên…
Cũng trong thời gian nầy tại
Saigon, có nhà trí thức Phật Giáo Sư Cụ Hồng Tại Ðoàn Trung Còn, thành lập Phật
Học Tòng Thơ, chủ trương phiên dịch kinh sách Phật, thành lập Phật Học Thơ Xã
xuất bản sách Tịnh Ðộ, sách Lão giáo và Khổng giáo, có khoảng trên 100 đầu sách
được Sư Cụ phiên dịch cho chư Tăng Ni, Phật tử nghiên cứu tu học. (Trang 42,
sách 50 chấn hưng Phật giáo của HT Thích Thiện Hoa)
Năm 1951 thành lập Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam, gồm có 6 tập đoàn: 03 Tập đoàn Tăng Già và 03 Tập đoàn Cư sĩ do
HT Thích Tịnh Khiết làm Hội Chủ – chủ trương xuất bản tờ “Phật giáo Việt Nam”.
4/ Tổ chức hội Phật giáo Tịnh độ
tông:
Năm 1955, Hội Phật Giáo Tịnh Ðộ
Tông thành lập do Sư Cụ Hồng Tại Ðoàn Trung Còn làm Hội Trưởng – Trụ sở đặt tại
Liên Tông Tự, đường Ðề Thám, quận Nhất, Saigon.
Hội Phật Giáo Tịnh Ðộ Tông Việt
Nam, mới đầu nghe ai cũng suy nghĩ là một Hội hữu tu hành của giới Cư sĩ. Tuy
nhiên Hội Phật Giáo Tịnh Ðộ Tông Việt Nam của Sư Cụ Hồng Tại Ðoàn Trung Còn,
(không phải Hội Tịnh Ðộ Cư Sĩ của Ngài Minh Trí) là một Giáo Hội có quy chế tổ
chức nhân sự Ban Chấp Sự Trung Ương, có quy chế lãnh đạo hai giới Xuất gia và
Cư sĩ. Tại mỗi Tỉnh, Quận, Thị xã, Phường Xã đều có tổ chức nhân sự Ban Chấp
hành Giáo hội của từng cấp lãnh đạo Tăng Ni, Phật Tử tại địa phương.
Năm 1957, môn phái Liên Tông Tịnh
Ðộ Non Bồng của Hòa Thượng Thích Thiện Phước hoạt động trong tổ chức nầy. Hòa
Thượng Thích Thiện Phước khai sơn môn phái Liên Tông Tịnh Ðộ Non Bồng, thành
lập Phật Giáo Từ Thiện miền Ðông Cô nhi viện Phước Lộc Thọ, Cô nhi viện Từ Ái,
Phật học Ðường Tây Phương Bồng Ðảo, Trường Gia giáo Phật học tại Long Sơn cổ
tự, Trường Trung Tiểu Học núi Dinh và Lâm Tỳ Ni, Bửu hòa.
Hiện nay nói riêng cho hệ phái Tịnh
Ðộ Tông tại tỉnh Ðồng Nai (Liên tông Tịnh độ Non bồng) có 33 cơ sở Tự Viện,
Tịnh Xá, Tịnh Thất, Niệm Phật Ðường… sinh hoạt trong Giáo hội Phật giáo Việt
nam; cơ sở chính đặt tại Quan Âm Tu Viện và một Ban Quản trị để điều hành hệ
phái thuộc khu phố 3, đường Nguyễn Ái Quốc, Phường Bửu Hòa, Thành phố Biên Hòa.
5/ Tổ chức Phật giáo Nam tông:
Phật Giáo Nam Tông Việt Nam có hai phái:
1/ Một phái người Việt gốc Miên.
Phái nầy đã có từ lâu đời, nhưng không rõ du nhập Việt Nam vào năm nào? Và bắt
nguồn từ đâu? Có lẽ đồng thời với Phật Giáo Việt Nam và bắt nguồn từ Camboge.
Phái nầy gọi là Theravada, ngày nay gọi là Phật Giáo Nam Tông Khmer. (Trích 50
năm chấn hưng Phật Giáo của HT Thiện Hoa)
Phật Giáo Nam Tông Khmer có Tăng
Tín đồ rất đông, không có Nữ giới xuất gia. Chư Tăng có 17.661 vị, gồm Tỳ kheo
11.964, Sa di 5.697 vị. Tín đồ Phật Giáo chiếm 99%, toàn là người Miên (Việt
gốc Miên). Chùa rất nhiều và chỉ ở miền Nam, nhất là miền lục tỉnh, như ở các
tỉnh Châu Ðốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Vĩnh Bình…
Theo thống kê trước ngày hòa bình
thì dân số người Việt gốc Miên là 2 triệu người, đều theo Phật Giáo. Chư Tăng
được 20 ngàn vị, 500 ngôi chùa có mặt ở khắp 12 Tỉnh, Thành ở miền Nam.
Phật Giáo Nam Tông Khmer hành đạo rất ít tại Tỉnh Ðồng Nai, chỉ có 01 ngôi Chùa
hiệu là Hoa Sơn do giới Cư sĩ người Việt gốc Miên hoạt động tín ngưỡng tại Thị
xã Long Khánh.
2/ Một phái nữa thuộc về người Việt
Nam, do Ðức Tăng Thống Thiện Luật và Ðức Tăng Thống Hộ Tông sáng lập.
Ðức Tăng Thống Thiện Luật và Hộ
Tông du học giáo lý Nam tông Phật giáo tại Camboge. Sau thời gian tu học đạo ở
xứ người, quý Ngài trở về Việt Nam vào khoảng năm 1940 thành lập Giáo Hội, với
danh xưng Giáo Hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam, niên khóa đầu tiên do Ðại Ðức
Bửu Chơn làm Tăng Thống, Trụ sở đặt tại Chùa Kỳ Viên, Bàn Cờ, Saigon – Riêng về
Phật Học Viện đặt tại chùa Pháp Quang, cầu Băng Ky, Gia Ðịnh (1958) do Ðại Ðức
Hộ Giác làm Giám Ðốc.
Giáo Hội nầy có công đức kiến thiết
Thích Ca Phật Ðài ở Thành phố Vũng Tàu vào năm 1962.
Về bên cư sĩ hữu công với Giáo Hội
nầy có các Ông Nguyễn Văn Hiếu, Ông Hồ Ðắc Thắng, Bà Lưu Giang Hà.
Pháp nạn năm 1963, Phật giáo Việt
Nam bị chế độ gia đình trị Ngô Ðình Diệm bắt bớ tù đày, dự định hủy diệt Phật
Giáo, đưa Thiên Chúa giáo trở thành Tôn giáo của Nhà Nước, nên gọi danh xưng là
Công giáo. Ðồng thời Ông Diệm còn liên lạc với Vatican đề nghị tôn vinh Ông
(Ðức Cha) Nguyễn Ðình Thục làm Ðức Hồng Y Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, để có cơ
sở hủy diệt Phật giáo.
Trong khoảng thời gian nầy, Phật
giáo Nam Tông Việt Nam rất tích cực đấu tranh chống áp bức của gia đình Ông Ngô
Ðình Diệm, Ông Ngô Ðình Nhu và Bà Trần Lệ Xuân… Chư Tăng cùng đứng lên đòi trả
tự do cho các Nhà Sư bị bắt, yêu cầu cho tự do hoạt động Phật Giáo, được treo
cờ Phật giáo Quốc tế trong các ngày lễ Phật Giáo…
6/ Các giáo phái khác tại Ðồng nai:
1/ THIỀN TÔNG:
Do HT Thiền sư Thích Thanh Từ sáng
lập, hiện nay xiển dương pháp phái thiền Trúc Lâm Yên Tử của Tổ Sư Ðiều Ngự Giác
Hoàng Trần Nhân Tôn.
Thiền tông tại Ðồng Nai rất phát
triển tại Tổ đình Thiền Viện Thường Chiếu; hiện nay có đến 33 ngôi Thiền Viện,
Thiền Tự, Thiền Thất trực thuộc Thiền Viện Thường Chiếu dành cho các Thiền Sinh
thực tập tu hành. Tông phái Thiền Trúc Lâm có mặt khắp 3 miền Bắc Trung Nam.
2/ TỊNH ÐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI:
Người sáng lập là thiền sư Minh
Trí, thế danh Nguyễn Văn Bồng, sinh năm 1885 tại ấp Mương Ðiều, xã Tân Mỹ,
huyện Lai Vung, tỉnh Sa Ðéc (Ðồng Tháp ngày nay).
Năm 33 tuổi vân du tìm thuốc cứu dân
độ thế; đến năm 48 tuổi (1933) thành lập Hội Tịnh Ðộ Cư Sĩ, Trụ sở đặt tại Tân
Hưng Long Tự, Phú định, Chợ Lớn.
Hội nầy có xuất bản tạp chí “Pháp
Âm”, ra khoảng 14 số rồi đình bản. Hiện nay Hội được phép họat động trên diện
rộng tòan quốc, mỗi tỉnh đều có Tỉnh hội, có huyện hội, chi hội.
3/ PHẬT GIÁO HÒA HẢO:
Phật giáo Hòa Hảo do Ðức Thầy Huỳnh
Phú Sổ sáng lập, chủ trương tu tại gia, phụng thờ tứ trọng ân, yêu nước.
Ðức Huỳnh Phú Sổ, sinh năm 1919,
tại thôn Hòa Hảo (gần Vàm Nao), quận Tân Châu, tỉnh Châu Ðốc. Con của Cụ Huỳnh
Công Bộ và Bà Lê Thị Nhậm. Trong cuộc đời hành đạo của Ðức Huỳnh Phú Sổ có
thuyết giảng 6 tác phẩm chủ yếu khuyên người đời tu hành, không tranh danh đoạt
lợi, kêu gọi tín đồ phải có lòng yêu nước, yêu dân tộc, bảo vệ tổ quốc và dân
tộc.
Người tín đồ của Phật Giáo Hòa Hảo
tôn vinh Ðức Thầy của mình lên ngôi Giáo Chủ. Ở các Tỉnh miền Tây Nam Bộ thường
gọi là Huỳnh Giáo Chủ, không gọi tên tộc ngoài đời của Người.
Phật Giáo Hòa Hảo tôn thờ ngôi Tam
Bảo bằng tấm vải sắc “màu nâu”; biểu hiện cho việc “không chạy theo hình thức
thờ phượng, thờ tượng cốt”.
Hiện nay tín đồ Phật giáo Hòa Hảo
có khoảng 2.000.000 người có mặt trên khắp các Tỉnh miền Tây Nam Bộ và một ít ở
miền Ðông. Tại tỉnh Ðồng Nai mới vừa được UBND Tỉnh Ðồng Nai cho phép thành lập
Ban Trị sự Tỉnh Hội PG Hòa Hảo, đã tổ chức Ðại hội lần thứ nhất, làm lễ ra mắt
Ban Trị sự Tỉnh Hội tại một căn nhà tạm mượn của 01 tín đồ ở Thị trấn Ðịnh
Quán.
4/ HỘI PHẬT HỌC NAM VIỆT:
Hội Phật Học Nam Việt có trụ sở chính tại chùa
Xá Lợi, đường Bà huyện Thanh Quan, Sư Thiện Chiếu. Hội là một hệ phái trong
chín hệ phái thành lập Giáo hội Phật giáo Việt nam.
5/ PHẬT GIÁO BỬU SƠN KỲ HƯƠNG: của
Ðức Phật Thầy Tây an, Tổ đình Trung ương chùa Tây An, núi Sam, Châu đốc. Các
chùa của Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương không thờ Phật mà thờ tấm trần điều. Các
tín đồ đều là cư sĩ học Phật tu nhơn. Trong đạo, có ý hướng tôn vinh Ðức Phật
Thầy Tây An là hậu thân của Phật Hòang Trần Nhân Tông.
6/ PHẬT GIÁO TỨ ÂN HIẾU NGHĨA: Là
một tôn giáo dân tộc yêu nước, phát triển mạnh hiện có khõang trên 2.000.000
tín đồ, được Nhà nước cấp phép họat động, có trụ sở Trung ương, đặt tại chùa
lớn Tam Bảo Phi Lai, địa chỉ thị trấn Ba chúc, huyện Tri tôn, tỉnh An giang.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ
Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Ðộ Hàm
Linh, Ðại Từ, Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.