THƯỢNG TỌA VIÊN HẠNH
Ở ÔN LĂNG THỈNH KHAI THỊ VỀ TỊNH ĐỘ
Sư bảo:
Hôm nay, do Thượng tọa Viên Hạnh ở am Bách Nguyên hướng dẫn các đạo hữu trong Liên Xã thiết lập trai đàn, mời Sơn tăng lên tòa khai thị pháp môn Tịnh độ. Sơn tăng tuy chủ trì tông môn, nhưng thật ra tu trì Tịnh nghiệp trọn vẹn.
Khổng Tử nói:
“Chí của ta ở nơi Xuân Thu, mà hạnh thì ở nơi Hiếu Kinh”.
Sơn tăng cũng trộm bảo:
“Chí của tôi ở Thiền tông, mà hạnh nơi Tịnh độ”.
Cho nên hôm nay, không quản ngại nhọc nhằn ở trước đại chúng, nhận lấy một phen bại trận, mặc cho người sáng mắt kiểm điểm. Đại chúng có biết hay chăng?
Tịnh độ của Phật A Di Đà, chư Phật trong mười phương đều cùng nhau khen ngợi. Các Tổ sư bao đời khác miệng chung lời, nói rằng: “Đây là con đường thẳng tắt về nhà rất an ổn”.
Không luận Tăng–tục, sang–hèn, nam–nữ, chỉ cần dốc hết tâm sức niệm Phật, thì nhất định được vãng sinh; vừa thấy Phật Di Đà liền vĩnh viễn bước lên hàng Bất thối chuyển, luôn luôn được nghe pháp, mỗi niệm mỗi niệm tiến đến Phật quả. Công đức lợi ích ấy thật chẳng thể nghĩ bàn!
Song, những người tham thiền gần đây không rõ ý chỉ, thường chấp Di Đà là tự tánh, Tịnh độ ở nơi tâm, không tin pháp môn Tịnh độ, thậm chí còn truyền rộng tà thuyết này hủy hoại lòng tin của mọi người. Những kẻ ấy không chỉ tự mình sai lầm mà còn làm cho người khác sai lầm theo.
Thế nên đương thời, Thiền sư Diên Thọ ở chùa Vĩnh Minh, từng răn dạy sâu sắc những người không chứng ngộ chớ nên xem thường Tịnh độ. Ngài còn làm Tứ Liệu Giản, bảo rằng:
1. Có Thiền, không Tịnh độ
Mười người, chín lạc lối
Lúc Ấm cảnh hiện ra
Liền theo đó mà đi.
Nghĩa là người chỉ thấu rõ lý Tánh, không phát nguyện vãng sinh. Ở lâu dài nơi Ta bà, thì có nỗi lo về Ấm cảnh, như năm mươi loại Ấm ma trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, chính là nói điều này.
2. Không Thiền, có Tịnh độ
Muôn tu, muôn vãng sinh
Chỉ được thấy Di Đà
Lo gì chẳng khai ngộ.
Nghĩa là người tuy chưa thấu rõ lý tánh, chỉ cần một lòng niệm Phật và phát nguyện vãng sinh, khi đã gặp Phật A Di Đà thì tự nhiên khai ngộ.
3. Có Thiền, có Tịnh độ
Như cọp mọc thêm sừng
Đời nay làm thầy người
Đời sau làm Phật Tổ.
Nghĩa là thấu rõ lý tánh lại tu Tịnh nghiệp, đây chính là nhân quả thù thắng vi diệu, lợi mình–lợi người đời đời kiếp kiếp.
4. Không Thiền, không Tịnh độ
Giường sắt với cột đồng
Trải muôn kiếp ngàn đời
Chẳng một ai nương tựa.
Nghĩa là đã không thấu rõ lý tánh, lại chẳng nguyện vãng sinh, mãi đắm chìm trong biển khổ, biết ngày nào ra khỏi.
Thiền sư Diên Thọ hết lời khuyên răn dạy bảo tới lui như thế, có thể thấy rằng: “Phật không thể không niệm, Tịnh độ không thể không vãng sinh”. Điều đó quá rõ ràng. Lẽ nào lại chấp suông vào sự hiểu biết cuồng dại, rồi tự để lại lo lắng cho mình về sau?
Trong đại chúng tương đối cũng có người tin tưởng hướng về, nhưng chẳng qua chỉ thả trôi qua ngày, miệng tuy nói về Tịnh độ nhưng tâm ràng buộc chốn Ta bà. Cho nên, người niệm Phật thì nhiều như lông trâu, mà người vãng sinh lại ít như sừng lân. Không phải bảo rằng hoàn toàn không có, nhưng rất là hiếm. Do đó, Sơn tăng thường khuyên đệ tử tu Tịnh nghiệp, phải có đủ ba loại tư lương:
Một là phát khởi lòng tin vững chắc.
Hai là tu hạnh chân thật.
Ba là phát nguyện rộng lớn.
Sao gọi là lòng tin vững chắc?
Nghĩa là phải tin cõi Ta bà rõ ràng đau khổ, cõi Tây phương chắc chắn an vui. Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Âm, Thế Chí hiện đang ở thế giới Ta bà này thâu nhận chúng sinh niệm Phật vãng sinh Tịnh độ, điều đó thật sự không giả dối.
Lại phải tin rằng Phật A Di Đà là thân pháp giới ở khắp trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh. Khi chúng sinh niệm Phật thì: “Tâm này tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Như trong Kinh Hoa Nghiêm, Trưởng giả Giải Thoát nói:
“Nếu ta muốn thấy Phật A Di Đà ở thế giới An lạc, tùy ý liền thấy ngay”.
Tin được như thế mới là lòng tin vững chắc.
Sao gọi là tu hạnh chân thật?
Nghĩa là người tu Tịnh nghiệp trước phải nhìn thấu được bản chất của thế gian, buông bỏ muôn duyên, suốt hai mươi bốn giờ, trong bốn oai nghi đem một câu A Di Đà Phật hết lòng trì niệm.
Điều quan trọng là niệm làm sao cho mỗi chữ, mỗi chữ rõ ràng; từng câu, từng câu liên tục. Niệm đến khi không còn phải nhớ niệm mà tự nơi tâm mình niệm, đó là niệm mà không niệm. Dù gặp đủ mọi cảnh duyên khác biệt, nhưng câu niệm Phật này vẫn rõ ràng hiện tiền. Trong sinh hoạt hằng ngày, niệm Phật như thế mới là hạnh chân thật.
Sao gọi là phát nguyện rộng lớn?
Trên hội Hoa Nghiêm, Bồ tát Phổ Hiền sau khi phát mười nguyện lớn rồi, lại còn phát nguyện rằng:
“Nguyện con đến lúc sắp lâm chung
Diệt trừ tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Đà
Liền được vãng sinh cõi Cực lạc.
Con đã vãng sinh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Tất cả tròn đầy không thiếu sót
Lợi lạc hết thảy các chúng sinh.
Chúng hội Phật ấy đều thanh tịnh
Con từ hoa sen nở sinh ra
Tận mắt thấy Phật Vô Lượng Quang
Hiện tiền thọ ký quả Bồ đề.
Con được Như Lai thọ ký rồi
Hóa thân vô số muôn ngàn ức
Trí lực rộng lớn khắp mười phương
Lợi ích tất cả các chúng sinh”.
Phát nguyện như thế mới gọi là rộng lớn.
Bởi vì nếu nguyện không rộng lớn tức là nguyện nhỏ hẹp; hạnh không chân thật tức là hạnh giả dối; lòng tin không vững chắc tức là lòng tin nông cạn. Người như thế muốn được vãng sinh, thật rất khó khăn.
Nếu lòng tin đã vững chắc, hạnh lại chân thật; phát nguyện được rộng lớn, giống như thuận buồm xuôi gió tiến thẳng đến bờ kia, có gì gian nan hiểm trở?
Lại cần phải biết, thế giới Ta bà, sáu nẻo luân hồi chịu mọi thứ đau khổ, chỉ vì một chữ “Ái”. Thế giới Cực lạc thọ hưởng đủ mọi niềm vui, nhất định tiến đến chỗ thành Phật là do một chữ “Tịnh”. Thế nên, bậc cao đức ngày xưa nói:
“Ái không nặng, không sinh Ta bà
Niệm không tịnh, không sinh Tịnh độ”.
Do đó, người tu Tịnh nghiệp cần phải mạnh mẽ cắt đứt duyên ái, siêng năng tu tập tịnh niệm. Lúc tịnh niệm thành tựu, cũng chính là lúc hoa nở thấy Phật, đã thấy Phật rồi mới biết tuy trọn ngày niệm Phật, mà chẳng trái với vô niệm, rõ ràng vãng sinh vốn không trái với vô sinh.
Phàm và Thánh đều ở nơi vị trí của mình, mà đạo cảm ứng qua lại. Đông–Tây chẳng lại qua, mà thần thức siêu sinh Tịnh độ. Nghiệp trói cột khổ đau chẳng thể buộc ràng, lửa trong kiếp thiêu chẳng thể đốt cháy. Trừ bỏ năm tướng suy hao trên cõi Trời, không còn tám nỗi khổ đau ở nhân thế. Gió thổi vi vu lay cành báu, sóng nước xao động lấp lánh ánh vàng. Thiên nhạc diễn thuyết pháp khổ–không, chim linh tuyên bày diệu pháp. Chẳng nhờ vào pháp thuật nào khác, chính là “quê xưa cảnh cũ” của chính mình. Các ông rõ biết hay chăng?
Tự chẳng muốn về, về liền đượcCảnh đẹp Ngũ Hồ có ai tranh?
Đại chúng đã đứng lâu rồi. Trân trọng!