Chánh Niệm:Trái Tim Của Thiền Tập
Một trong những pháp môn tu tập rất quan trọng mà Đức Phật đã khám phá và để lại cho chúng ta đến ngày nay đó là pháp môn Thiền. Thiền nói cho đủ là Thiền Định (Dhyàna), là một trong pháp môn tu tập rất đặc thù và nổi bật trong đạo Phật, do Đức Phật khai sáng và các vị tổ sư, thiền sư truyền trì cho đến ngày nay. Thiền tập đã trở thành một truyền thống vô cùng sinh động trong đạo Phật. Mặc dù trải qua nhiều thời đại và quá trình chuyển biến của lịch sử nên Thiền đã có những sắc thái và phương thức hành trì khác nhau, nhưng cốt lõi và mục đích của Thiền vẫn không thay đổi. Thiền giúp con người khám phá chính mình để giải thoát mình ra khỏi những trói buộc hệ lụy và trở thành một con người an lạc, tự tại, thong dong ngay giữa cuộc đời này. Thiền giúp ta khôi phục ta trở thành một con người trọn vẹn, chân thật.
Trong truyền thống tu tập của đạo Phật thì Thiền đóng vai trò then chốt. Thực tập thiền có công năng giúp ta khôi phục trọn vẹn con người của ta, giúp ta trở thành tươi mát, định tĩnh, an lạc và chăm chú ta có thể nhìn sâu vào bản thân mình và hoàn cảnh. Chính cái thấy ấy giúp ta vượt thoát khổ đau và ràng buộc. Một khi chúng ta trở thành người có an lạc hơn, hạnh phúc hơn, chúng ta sẽ không còn làm đau khổ kẻ khác bằng cách cư xử và nói năng vụng về sai trái nữa, mà chúng ta bắt đầu chuyển hóa được hoàn cảnh xung quanh và giúp những người xung quanh được an lạc, hạnh phúc như ta.
Để có thể nhìn sâu vào lòng tự thân và hoàn cảnh xung quanh mình, chúng ta phải biết cách thức tu tập để khôi phục lại sự toàn vẹn của con người chúng ta, để làm cho mình trở thành an lạc, định tĩnh và chăm chú. Phương cách và nguồn năng lượng được sử dụng để thực tập rất cần thiết, mà trong các kinh Đức Phật thường đề cập đến, gọi là Chánh niệm.
Chánh niệm (Right mindfulness) là một trong tám chi phần của Bát Chánh Đạo. Chánh niệm là sự ý thức, sự có mặt của tâm ý một cách trọn vẹn và sáng tỏ ngay trong mỗi giây phút, ngay bây giờ và ở đây. Chánh niệm là khả năng giúp cho ta ý thức được những gì đang có mặt, đang xảy ra trong ta và quanh ta. Năng lượng của chánh niệm được ví như là nguồn điện năng chiếu rọi ánh sáng lên trên một đối tượng. Như chiếu rọi vào một tri giác sai lầm, một cảm thọ bất an, một động tác, một phản ứng, hoặc là một hiện tượng sinh lý hay vật lý, để làm cho đối tượng ấy trở nên sáng tỏ và linh động. Chánh niệm có khả năng giúp ta nhìn sâu và thấy rõ được bản tánh và gốc rễ của đối tượng mà ta quán chiếu. Thực tập chánh niệm không phải chỉ trong lúc ngồi thiền mà thôi, mà ta phải thực tập thường xuyên trong đời sống hàng ngày. Trong lúc đi, đứng, nằm và ngồi ta đều luôn ý thức rõ và làm chủ về mỗi động tác, mỗi cử chỉ và tâm ý của ta, không để cho bất cứ một hành động, một lời nói và ý nghĩ nào đi ra khỏi sự kiểm soát và giác tỉnh của tâm ý. Mọi động tác, ngôn ngữ và tư duy đều được đặt dưới ánh sáng của chánh niệm. Đây là công phu hành trì của thiền giả trong đời sống hằng ngày.
Người thực tập chánh niệm là người luôn làm chủ mình, không để cho tâm ý tán thất, trôi lăn theo những loạn tưởng, âm thanh, sắc tướng bên ngoài. Đức Phật được tôn xưng là bậc “Điều Ngự Trượng Phu” bởi vì Ngài đã nắm được chủ quyền về thân tâm và hoàn cảnh xung quanh một cách vững chải và thường xuyên. Ngài luôn an trú trong chánh niệm, trong sự tỉnh thức trọn vẹn. Nếu thực tập Chánh niệm một cách tinh cần, dần dần chúng ta sẽ đạt được những thành quả như Đức Phật đã đạt được.
Thực tập chánh niệm giúp ta trở thành một con người có chủ quyền và tự do. Chánh niệm giúp ta tiếp xúc với sự sống, giúp ta sống sâu sắc và trọn vẹn trong mỗi phút giây, giúp ta thực tập quán chiếu để nhìn sâu vào lòng thực tại, vào lòng người, để nhìn sâu vào lòng thực tại, vào lòng người để thấy và để hiểu. Hoa trái của sự thực tập chánh niệm, là sự thấy đạo, sự giác ngộ và giải thoát. Trong quá trình thực tập, những sợi giây ràng buộc (triền sử) từ tự được tháo mở, những nội kết khổ đau như: sợ hãi, hận thù, giận dữ, nghi kỵ, đam mê, v.v…. từ từ được chuyển hóa, biên giới của sự chia cách phân biệt từ được mở tung và mối liên hệ giữa ta và người trở nên dễ dàng, sự an lạc và niềm vui sống tự nhiên xuất hiện, hành giả sẽ cảm thấy mình như một đóa hoa đang từ từ hé mở.
Trong kinh Tứ Niệm Xứ (Satipathana Sutta), Đức Phật dạy: “Vị hành giả luôn an trú trong tỉnh thức và ý thức minh mẫn thường xuyên về những gì đang xảy ra trong cơ thể, trong tâm thức và trong cuộc sống hàng ngaỳ.” Thực hành thiền có nghĩa là chúng ta thắp lên ngọn đèn chánh niệm để có khả năng thấy, làm lắng yên và ngưng tụ tất cả mọi vọng niệm, loại tưởng để cho tâm ý của chúng ta trở nên định tĩnh, sáng tỏ. Sự thực tập và biểu hiện cụ thể của thiền, đó là đời sống có ý thức và có năng lượng của chánh niệm. Khi đang làm gì, ta có ý thức trọn vẹn về công việc ta đang làm. Bất cứ khi nào chúng ta có ý thức, có sự trầm tĩnh, là chúng ta đang có chánh niệm, có chủ quyền. Ngược lại, lúc làm mà chúng ta không biết là ta đang làm gì, lúc đi mà không biết mình đang đi v.v… tức là ta đang ở trong tình trạng thất niệm, quên lãng, vì tâm ý của ta không có mặt một cách trọn vẹn với giây phút đang là. Chánh niệm là nguồn năng lượng rất sáng đẹp và quý báu; nếu chúng ta không biết sống trọn vẹn với nguồn năng lượng ấy trong mỗi phút giây hiện tại thì chúng ta sẽ không thể chế tác ra nguồn an lạc, vững chải và hạnh phúc chân thật được.
Chánh niệm được xem là trái tim của thiền tập trong đạo Phật, là nguồn năng lượng để quán chiếu không thể thiếu của một thiền giả. Thực tập chánh niệm đưa đến định lực và tuệ giác. Thành tựu được định lực thì ta sẽ thành tựu được tuệ giác và nhờ tuệ giác mà ta thấy được chân tướng của sự vật và của cuộc đời. Ta có thể xây dựng đời sống an vui hạnh phúc cho chính mình và cho mọi người xung quanh.