Mật tông
Các Bậc Đạo Sư Của Đại Thủ Ấn (Phần Một)
Nguyên tác : KEITH DOWMAN Minh họa : Hugh B.Downs Chuyển ngữ: Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng
17/03/2553 03:55 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng
Các Bậc Đạo Sư Của Đại Thủ Ấn (Phần Một)
Mục lục
Xem toàn bộ

ÐẠI SƯ THỨ 16

NAGARJUNA

(Long thọ bồ Tát- Hiền triết và nhà luyện kim) ^

 

Khi một con người si mê chưa giác ngộ

Mơ hồ tưởng mình là bậc thánh

Y hành sử như một tên đạo chích

Lẻn vào hoàng cung đánh cắp ngọc ngà

Khi một người còn si mê chưa giác ngộ

Y như một con voi bị kẹt giữa đám sình lầy.

 

Nagarjuna tức Long Thọ Bồ Tát,xuất thân từ dòng dõi Bà-la-môn thuộc vương quốc Càn chí (Kanci) miền đông Aán Ðộ.Thuở thiếu thời ngài là một con người gàn dở,thường hay nhũng nhiễu,cưỡng đoạt tài sản người khác.Số hộ nạn nhân lên đến 25.000 gia đình.Dân chúng trong vùng oán thán và các thầy tư tế Bà-la-môn cũng kinh hãi dời chỗ ở.

Về sau,Nagarjuna thấy hối hận về những hành vi tác tệ của mình,ngài đem trả lại tài sản đã cưỡng đoạt và phân chia tài sản riêng của chính mình cho những kẻ nghèo khó.rồi tự lưu đày mình sang xứ khác.

Rời Kahora, ngài đến tu viện Nalanda để tu học.Tại đây ngài trở thành một học tăng kiệt xuất về ngũ minh môn.Nhưng chẳng bao lâu ngài chán ngán môn này,quay sang tu thiền.Ngài thường trì tụng Long Nữ thần chú, (Tara mantra). Do sự cảm ứng,vị nữ thần này tuân theo sở nguyện của ngài nên ban cho tu viện luôn có đầy đủ vật thực cho 700 vị tăng của tu viện.Nhưng bản thân ngài sống cuộc đời du hành khất thực.Mỗi đêm khi ngã lưng nằm,ngài lại suy nghĩ:

-Ta thật là vô tích sự. Ta phải tìm phương tiện khéo để giúp đỡ chúng sinh.

Vì vậy, ngài đến vùng Rajagrha để nhập thất và dùng thần chú để triệu thỉnh thập nhị nữ Dạ-xoa Ðại tướng tức 12 vị thần chủ quản các nguyên tố Ðất,Nước, Lửa, Gió.

Khi ngài nhập đàn khởi trì thần chú,thì ngày thứ nhất động đất xảy ra,ngày thứ hai hạn hán,ngày thứ ba bão lửa,ngày thứ tư gió to, ngày thứ năm mưa gươm đao, ngày thứ sáu hằng hà sa số kim cương từ hư không rơi xuống. Ðến ngày thứ bảy,12 vị nữ Dạ-Xoa hợp lực tấn công ngài dữ dội nhưng ngài vẫn không động tâm.Sau đó,ngài dùng Hàng phục pháp (Kuyo) để nhiếp phục các nữ Dạ-xoa.

Chúng nữ Dạ-xoa hiện ra đảnh lễ,cung kính thưa:

-Thưa tôn sư ! Chúng đệ tử có mặt.

-Các ngươi ngày ngày hãy mang cho ta một ít vật thực.

Chúng thần lãnh mệnh lui đi.Mỗi ngày họ đều mang đến cúng dường cho ngài một nắm cơm và một nắm rau trong suốt 12 năm.Sau đó ngài lại thu nhiếp thêm 108 thần nữ Dược- xoa.

Ðể giúp đở chúng sinh,ngài định dùng thần thông biến núi Gandhasila thành núi vàng.Trước tiên, ngài dùng định lực biến ngọn núi lớn này thành núi sắt,từ sắt biến thành đồng,nhưng khi ngài định tiếp tục biến nó thành vàng thì Văn thù Bồ-Tát hiện ra ngăn lại:

-Chớ có làm thế ! Nếu tôn giả biến ngọn này núi thành vàng thì cũng chỉ tạo nên mâu thuẫn,tranh giành giữa chúng sanh mà thôi; khác gì tạo nghiệp ác cho họ.Chi bằng tôn giả ra sức giáo hoá cho chúng thoát khỏi tam đồ về nơi Niết bàn Cực lạc.

Vâng lời Bồ Tát, ngài Nagarjuna thôi không thi triển pháp thuật.Vì vậy cho đến ngày nay ngọn núi Gandhasila vẫn còn giữ nguyên màu tia tía của chất đồng.

Rời chốn ấy,Nagarjuna đi về phía nam.Nơi ấy có một con sông lớn chắn ngăn.Ngài nhờ những người chăn cừu quanh đấy chỉ giúp ngài chỗ cạn nhất để ngài có thể lội qua bờ kia.Nhưng họ lại đưa ngài đến khúc sông sâu và đầy cá sấu.May thay,một kẻ tốt bụng tình nguyện cõng ngài bơi qua sông.Ðến giữa sông,Nagarjuna dùng thần thông hoá ra một bầy cá sấu ra vẻ như đe doạ cả hai.

Người đàn ông tốt bụng vẫn giữ vẻ điềm nhiên:

-Ngài đừng sợ! Miễn là ta còn sống, ta sẽ cố đưa ngài an toàn sang sông.

Nghe nói thế,Sư lấy làm cảm phục,thâu phép lại:

-Ta là Arya–Nagarjuna. Ngươi nhận ra ta chăng ?

-Tôi có nghe đại danh của tôn sư nhưng lâu nay chưa từng gặp.

-Ngươi có công mang ta qua sông an toàn.Vậy ngươi ước nguyện điều chi,ta sẽ biến thành hiện thực.

-Vậy thì, xin tôn sư cho tôi được làm vua.

Sư toé nước vào một thân cây Sala, lập tức cây ấy thành con voi trắng cho Vua cỡi.

-Nhưng còn binh lính?

-Khi nào voi rống tức thời binh lính hiện ra.

Ðức vua lấy tên hiệu là Salabandha cai trị tám triệu bốn trăm ngàn hộ ở trên một vùng đất nguy nga tên là Bhabitan. Vua lập nàng Sindhi làm hoàng hậu.

Sau một vài năm trị vì vương quốc Bhabitan, vua Salabandha đâm ra chán ngán cuộc đời làm vua của mình,ông lại tìm đến Sriparvatta để tìm sự khuây khoả.Nhà vua tìm đến thầy mình và khẩn nài:

-Bạch thầy ! Làm vua chỉ được một ít lạc thú mà nhiều phiền não.Con muốn từ bỏ ngai vàng để được kề cận bên thầy.

-Ngươi chớ từ bỏ vương quốc  của mình. Hãy giữ lấy xâu chuỗi này.Nó sẽ bảo vệ vương quốc của ngươi,ban cho ngươi thứ rượu vô uý khiến tâm ngươi không kinh hãi khi đối mặt với thần chết.

Mặc dù không muốn trở về nhưng nhà vua phải vâng lời thầy.

Tất cả mọi thứ trong vương quốc Bhabitan từ cây cối đến chim muông đều tươi tốt khoẻ mạnh khiến quỹ thần ghen tị.Cho đến một ngày nọ,ánh sáng mặt trời,mặt trăng tự dưng biến mất; hoa quả chưa đến kỳ đơm bông kết trái đã lìa cành, bệnh tật hoành hành,rừng khô,cỏ úa.Chứng kiến những hiện tượng lạ thường như thế,vua Salabandha đoán biết thầy mình gặp nạn.Ngài liền trao quyền binh cho thái tử Cindhakumara rồi đem theo một ít tuỳ tùng đến vấn an  thầy.

Sư Nagarjuna hỏi:

-Này con ! Cớ sao con đến?

Nghe thầy hỏi, đức vua cất tiếng hát ai oán:

                                               

Ðịnh mệnh ôi trớ trêu

Phật pháp sao khó bày

Bóng tối che ánh sáng

Mây mù che trăng rằm

Thánh tăng còn phải luỵ

Sinh tử chia đôi đường

Con đến đây chỉ vì

Chợt thấy điềm bất tường

Cúi mong thầy từ bi

Ban cho cam lồ vị

 

Sư đáp:

 

Có sinh thời có diệt

Tụ tán lẽ thường tình

Trần gian là huyễn mộng

Chớ buồn rầu,sầu khổ

Rượu vô uý !Cạn ly ! 

Vua buồn rầu hỏi:

-Thưa Tôn sư ! Nếu như tôn sư  không còn có mặt trên đời này nữa thì rượu vô uý kia nào có vị chi?

Biết đã đến lúc phải trả nghiệp đời trước.ngài Nagarjuna phát nguyện bố thí tất cả những thứ mà ngài sở hữu. Phạm Thiên bèn hoá thành một người Bà-la-môn đến xin thủ cấp của ngài. Bồ tát hoan hỷ nhận lời.Vua Salabandha không nỡ chứng kiến cái chết của thầy, ngài tựa đầu vào chân sư rồi tắt thở. Dân chúng thấy vậy, nguyền rủa không tiếc lời cái ý muốn độc ác của kẻ kia. Nhưng vô ích, Sư  đã hứa cho đầu của mình. Ngài dùng ngọn cỏ Sula tự cắt lấy đầu rồi trao cho kẻ Bà-la-môn kia.Tức thời, muôn thú kêu vang thảm thiết,cây cối héo tàn. Tám nữ Dạ-xoa đại tướng hiện ra canh giữ  nhục thân của sư, không rời giây lát. Từ thi thể của sư  xuất ra một luồng ánh sáng bay vút lên cao nhập thẳng vào ngài Nagabhodi (Long Trí).

Kinh văn nói rằng khi đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật ra đời thì ngài Nagarjuna tái sinh để cứu độ chúng sinh.

CHÚ GIẢI:

Theo truyền thống mật tông, các bậc thánh và các đạo sư thường mang chung một tên.Ðây là sự khế hợp giữa tâm và tâm của vị đầu và vị sau.Việc này rất  thông thường đối với bậc tái sinh (Tulkus). Chính vì vậy,người đời sau thường nhầm lẫn. Có hai vị đạo sư mang đồng tên Nagarjuna tức Long Thọ:

Vị Long Thọ thứ nhất sinh vào khoảng thế kỷ thứ 2 ở miền nam Aán Ðộ(150-250 sau.Công Nguyên) thường được coi như là Ðệ nhị Thích Ca.Ngài là một triết gia vĩ đại,đã trước tác các bộ Luận và hệ thống biện chứng về Trung Quán (Madhyamika) 

Vị Long Thọ thứ  hai sinh vào thế kỷ thứ 9,vốn là vị tổ của hệ phái Guhyasamaja Tan tra, môn đệ của ngài Saraha.

Tiểu sử của ngài Ðệ nhất Long thọ được dịch sang Hoa văn vào năm 405 sau Công Nguyên , do công của một nhà sư truyền giáo tên là Kumarajiva (Cưu Ma La Thập).

Thuở thiếu thời, ngài Ðệ nhất Long Thọ đã chứng tỏ trí tuệ phi phàm.Chưa đầy 20 tuổi,ngài đã nỗi tiếng uyên bác về các kinh điển truyền thống của Bà-la-môn giáo. Nhưng sau đó ngài chán ngán và lăn mình vào các thú vui ngũ dục.Tương truyền rằng một đạo sĩ đã tặng ngài phép tàng hình có thể đi lại tự tại mà không ai thấy biết. Ngài đã cùng ba người bạn thâm nhập vào cung cấm để trêu chọc các công nương.Chẳng may sự việc bị phát giác, ba người bạn bị quan quân giết chết.Riêng ngài thoát được nhờ pháp ẩn thân đứng ngay bên cạnh nhà vua.

Ân hận vì cái chết của những người bạn, ngài đến Nalanda xuất gia học phật.ngài nhanh chóng quán triệt yếu nghĩa của tam tạng Kinh điển (Tripitaka) và các bộ kinh Ðại thừa (mahayana-sutra).Nhưng vì không thoả mãn với kiến thức ấy, ngài lại vân du khắp nơi để sưu tập các kinh điển bị thất truyền. Trong các cuộc tranh biện,ngài luôn luôn đánh bại lý luận của mọi đối phương,nên tỏ ra rất kiêu hãnh. Ngài phát minh các lý thuyết mới mẻ và sáng lập ra một hệ phái riêng dựa trên căn bản thực tại (non-rejection). Chính vì quan điểm này, đại long vương cảm thấy thương hại nên đưa ngài xuống  tàng kinh các ở long cung. Ðây chính là số kinh điển mà Phật Thích Ca phó thác cho đại long ïvương gìn giử để trao lại cho ngài Long Thọ.Với trí tuệ phi phàm,trong vòng 90 ngày, ngài đã nắm bắt được yếu nghĩa của tất cả kinh điển nơi này. Tuy nhiên, ngài hiểu rằng thân chứng (experience) giáo pháp mới gọi là sở đắc rốt ráo. Do đó ngài nhập định để tu pháp môn “Nhẫn nhục Ba-la-mật” (Patience of non-being). Xuất định, ngài trước tác bộ luận Trung Quán (Madhyamika) và nỗ lực hoằng dương đạo pháp.

Ngài kết thúc cuộc đời sau khi một đạo sĩ Bà-la-môn thách thức ngài thi triển pháp thuật.Nagarjuna hoá thành con bạch tượng chụp lấy kẻ kia và đả thương y, nhưng khi nhìn lại thấy đạo sĩ vẫn điềm nhiên ngồi trên cánh sen trong một cái hồ thiêng lộ vẻ khinh miệt.Thất bại,ngài tự nhốt mình trong thiền thất và đến khi một đệ tử của ngài phá cửa xông vào thì chẳng thấy gì ngoài một con ve sầu vụt bay thoát ra ngoài.

Thuyết nói rằng chính đại sư  Saraha làm lễ thí phát và điểm đạo cho ngài Long Thọ khiến ngài có thể nhập vào Mạn-đà-la của Phật Vô lượng thọ, đồng thời dạy ngài thần chú để nhiếp phục thần chết. Ðại sư Saraha còn dạy ngài về Guhyasamaya tantra và các môn Huyền thuật (Tantras) khác trước khi ngài được giáo thọ của ngài là sư Rahuhabhadra truyền tâm pháp.

Sự nghiệp tu học của ngài bị đứt đoạn và trục xuất khỏi Tu viện vì phạm vào qui củ của thiền viện. Ðó là khi Nagarjuna khám phá ra cách cất rượu từ vàng để phục vụ tăng đoàn trong thời kỳ đói kém, khi ấy ngài là vị tăng phục vụ trong nhà bếp của tu viện.