Mật tông
Các Bậc Đạo Sư Của Đại Thủ Ấn (Phần Một)
Nguyên tác : KEITH DOWMAN Minh họa : Hugh B.Downs Chuyển ngữ: Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng
17/03/2553 03:55 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng
Các Bậc Đạo Sư Của Đại Thủ Ấn (Phần Một)
Mục lục
Xem toàn bộ

Ðại sư thứ 2

LILAPA , Ðức vua ẩn sĩ ^

Trong cái vút nhanh của bốn trạng thái tâm cao thượng

Ðức vua-Nhà Du-già-Con sư tử chốn rừng già
Vương miện là năm chòm lông màu lam ngọc

Còn nhà Du-già kia

Vương miện là ngũ thanh tịnh thức

Với mười vuốt sắc

Con mãnh sư xé nát thịt con mồi

Mười hạnh tốt của nhà Du-già

Bén như gươm đao chặt đứt những quyền năng tiêu cực

Vì ngộ được chân lý này nên Lilapa giải thoát

 

Một ngày nọ trong khi vị quốc vương vùng Tây Aán đang tựa lưng ở bệ rồng,chợt có lính canh tâu rằng có một vị đạo sĩ muốn vào bái kiến.Nhìn vẻ cơ hàn và nét phong trần của đạo sĩ ,nhà vua tỏ vẻ ái ngại và thương xót cho vị đạo sĩ,vua phán :

“Sống rày đây mai đó,hẳn là thầy khổ lắm ?”

“Tâu bệ hạ,tôi không hề lấy đó làm khổ não.Có chăng chính bệ hạ mới là kẻ đau khổ,đáng thương.”,đạo sĩ ung dung đáp.

“Cớ sao thầy nói vậy?” Nhà vua sửng sốt hỏi.

“Trước hết,bệ hạ luôn sống trong nổi lo mất ngôi,mất nước.Lòng của bệ hạ lúc nào cũng canh cánh ngại cơn thịnh nộ của thần dân dễ đưa tới việc tạo phãn.Vì thế bệ hạ đau khổ.Còn như tôi đây,vào nước không chìm,vào lửa không cháy,độc không hại được,lại biết thuật trường sinh bất tử,ra khỏi luân hồi.”

Nghe qua lời đạo sĩ nói,nhà vua bồi hồi than rằng:

“Bạch thầy,làm thế nào quả nhân có thể bắt chước nếp sống rày đây mai đó cơ cực như thầy.Cúi xin thầy từ bi ban cho diệu pháp,có cách tu nào phù hợp với hoàn cảnh của quả nhân,không lìa ngôi báu,vợ đẹp,con xinh,cung điện mà vẫn tu thành chánh quả chăng?”

Bạch xong,vua phủ phục năm vóc sát đất khẩn cầu đạo sĩ truyền pháp.Ðạo sĩ hoan hỹ nhận lời,bèn trao tâm pháp và phép thuật cho nhà vua.Nghe xong pháp từ, vua liền vào định.

Kể từ đó nhà vua thường tu tập thiền định ngay trên ngai vàng và thậm chí trong khi cùng các phi tử  thưởng thức vũ nhạc.Nhà vua được mệnh danh là Lilapa vì tính ưa lạc thú và yêu thanh sắc của ngài.Cách tu của Lilapa là chú mục bất động vào chiếc nhẫn ngài đeo ở bàn tay phải.Sau khi đắc định,vua bèn quán thân tướng của thủ thần (Yidam)Hevajra cùng quyến thuộc của ngài.Lilapa ngộ được chân lý rốt ráo và đắc thần thông đại thủ ấn sau khi thành tựu pháp quán này.

*******

CHÚ GIẢI

Qua truyền thuyết của ngài Lilapa,ta thấy một khi giáo pháp của một bậc thầy khế hợp với căn cơ của người đệ tử thì người ấy không nhất thiết phải ly gia cắt ái,từ bỏ các thú vui ngũ dục mà vẫn có thể tu tập tập đạt tới cứu cánh niết bàn.

  Kim Cương Thừa trở nên ngày càng cực thịnh,trước hết là do khuynh hướng chung của xã hội Ấn Ðộ thời ấy,khi mà quyền lực của giai cấp Bà-la-môn bắt đầu suy sụp.Ða thần giáo phát triển rộng rãi trong các giai tầng thấp hơn,lối tu khổ hạnh không còn sức thu hút quần chúng và chủ nghĩa hưởng lạc xuất hiện.Kim Cương Thừa vừa là nhân vừa là quả của một sự kết hợp giữa dục-lạc và giãi thoát.Trong giáo pháp Kim Cương Thừa,triết học nhất nguyên (Vạn pháp duy tâm tạo) của Aán Ðộ đã đạt tới cái cùng tột của nó.Ðó là xem bản chất của hành vi con người cũng đồng với các bậc thánh.Tuy nhiên kẻ cầu đạo phải đủ đởm lược dám thừa nhận rằng mình vốn là Phật và cảnh giới quanh mình vốn là Phật Quốc.Ðiều quan thiết là y phải gặp được chân sư Vị chân sư này sẽ xem xét căn tính mà truyền pháp kế hợp với căn cơ của kẻ cầu đạo,hướng y tới chân lý giãi thoát rốt ráo để cứu độ chúng sinh với cái tâm vô ngã,chứ không hướng y tới cái Lạc (pleasure).Ngoài ra căn cơ của y cần phải ở giai đoạn chín mùi,nghĩa là y phải dốc một lòng cầu chân lý giải thoát.

 Ngài Lilapa có đủ cơ duyên ấy,nên sau khi được điểm đạo,ngài đã say mê tu tập trụ tâm vào một điểm duy nhất (one-pointed samadhi).Ðây là việc khó làm đối với những ai có đời sống bận rộn hay chìm đắm trong dục lạc.Bởi ngay các hành giả mật tông (tantrikas) muốn nhất tâm quán điểm như thế cũng phải tìm nơi an tịnh như mật thất hay hang động hẻo lánh để tu luyện.  

Nhưng trong Kim Cương Thừa,một khi hành giả hội đủ các duyên và được chân sư khai ngộ thời việc xuất gia(denunciation)không theo thông nghĩa là ly gia cắt ái mà đó là một trạng thái của tâm( a state of mind) – trạng thái dứt bỏ vọng tưởng và đối đãi.Cái tâm an tịnh ấy là mật thất.An trú trong cái tâm an tịnh ấy,hành giả tự do quán sát cảnh giới di chuyển bên ngoài mà tâm vẫn không bị thôi thúc xô đẩy.Hành giả liền nhận biết rằng “KHÔNG” không lìa khỏi “SẮC” (Emptines is not separated from form).Ở đây nói trụ tâm vào một điểm tức là thâm nhập vào đối tượng (the one-pointed samadhi is absorption in the object).Trụ tâm vào một điểm chỉ là giai đoạn sơ khởi,vì như thế hành giả chỉ mới nhập vào đàn pháp (mandala).Lúc ấy,tướng của thủ thân Heruka và quyến thuộc của ngài chưa hiện rõ.Hành giả phải quán cho đến lúc thân tướng của vị thần này xuất hiện đầy đủ rõ ràng đến từng chi tiết,màu sắc phải phân minh.Sau đó,quán tưởng hai vị thủ thần nhập vào nhau giữa trung tâm đàn,đồng thời quán mười sáu vị Kim Cương Thủ vây quanh,mỗi mỗi hiện ra đầy đủ với các mầu sắc sai biệt.Thành tựu giai đoạn này tức thời hành giả đắc pháp.  

Phép quán này gọi là phép quán về tính hư vọng của SẮC (in substantialily),vì SẮC ấy (form) tức tướng của thủ thần cùng quyến thuộc vốn từ hư-không mà hiện ra. Trên mặt nhẫn của ngài Lilapa vốn không có tướng của các thủ thần;nay vì vận tâm quán tưởng mà có nên gọi SẮC ấy từ KHÔNG.Vì nghịch lý ấy,nên nói “Sắc tức thị không 

Ðây là Hevajra mạn-đà-la,Hevajra còn có tên là Heruka.Hevajra tantra tức Yoginitantra;chính là Tantra Mẹ.  

Trong bài kệ xưng tán đệ nhất nghĩa đế,Lilapa tán dương con tuyết sư là chủ tể bí mật của muôn loài.Con cái cho một thứ sữa mà ai uống vào thì được trường sinh bất tử.Nhưng loại sữa đặc biệt này chỉ được đựng trong bình ngọc mà thôi.Năm chòm lông xanh trên bờm con đực tượng trưng cho Ngũ Thanh Tịnh Thức.Mười vuốt chân tượng trưng cho Thập Ba-la-mật.Thành trì bất khả xâm phạm là Tứ Vô Lượng Tâm. Theo một số các tượng thường thấy thì tượng thủ thần Hevajra màu xanh có tám mặt,bốn tay và bốn chân trong tư thế ôm choàng minh phi của ngài là Nairatma có khuôn mặt trắng,hai tay và hai chân.Cả hai trong tư thế nhảy múa,một chân co,một chân duỗi.Có tượng vẽ ngài mười sáu tay,mỗi tay cầm một cái đầu lâu;còn Nairatma thì một tay cầm đầu lâu,một tay cầm câu liêm,trong dáng đứng uy vũ chống lại pháp thuật của bốn quỹ thần gồm Phạm Thiên,Visnu,Siva và Sakra (Ðế thích). 

Hình Phạm Thiên màu vàng,tượng trưng cho ngũ ma.

Hình Visnu màu xanh,tượng trưng cho nhục cảm.

Hình Siva màu trắng,tượng trưng cho sự huỷ diệt.

Hình Sakra màu trắng,tượng trưng cho kiêu mạn và tham dâm.