[02]
Chiến đấu để thành đạt Đạo Quả
"Làm
việc xấu xa và vô ích thì dễ, Nhưng làm
được những điều hữu ích và tốt đẹp, quả thật là rất khó." -- Kinh
Pháp Cú.
Cuộc Chiến Đấu
Luôn luôn gặp trở ngại,
nhưng Đạo Sĩ Gotama không bao giờ nản chí. Với tinh thần bất khuất, nay đây mai
đó trong xóm Maghada (Ma Kiệt Đà) để tìm trạng thái Thanh Bình An Lạc và Chân
Lý tối thượng. Một ngày kia, Đạo Sĩ đến Uruvela, thị trấn của xứ Senani. Nơi
đây Ngài tìm ra một địa điểm giữa đám rừng tươi tốt, bên cạnh một dòng sông
ngoạn mục, uyển chuyển uốn mình trong lòng hai bãi cát trắng, không xa có xóm
làng thạnh vượng, hằng ngày có thể đến đó trì bình khất thực. Ngài nghĩ như
sau:
"Cảnh vật quả thật hữu
hình, cụm rừng đẹp đẽ, dòng sông thú vị với bãi cát trắng và thôn xóm không xa.
Ta có thể dễ dàng đến đó trì bình. Đối với những mầm non đạo đức quyết tâm cố
gắng hướng đến mục tiêu cao quý, thì đây quả thật là nơi thích hợp" [1].
Địa điểm thích nghi với công phu
hành thiền. Không khí an lành, cây cỏ sum suê, phong cảnh xanh tươi. Ngài nhất
định lưu lại đây để thành tựu nguyện vọng.
Khi hay tin Thái Tử Siddhattha
(Sĩ Đạt Ta) từ bỏ đền đài cung điện để ra đi sống đời tu sĩ, Kondanna (Kiều
Trần Như) là vị đạo sĩ Bà La Môn trẻ tuổi đã tiên đoán rằng về sau thái tử sẽ
đắc Quả Phật, cùng với bốn người con của bảy vị đạo sĩ khác tên Bhaddiya,
Vappa, Mahanama và Assaji cũng đi tìm Ngài để tu học.
Thuở bấy giờ người Ấn Độ rất
thiết tha trung thành với các nghi lễ, các hình thức khổ hạnh và các thể thức
cúng tế. Theo sự tin tưởng ấy, nếu không ghép mình vào nếp sống khắt khe khổ
hạnh thì không thể giải thoát. Trưởng thành trong tín ngưỡng này, Đạo Sĩ Gotama
(Cồ Đàm) và năm anh em Kondanna (Kiều Trần Như) bắt đầu cuộc chiến đấu phi
thường kéo dài sáu năm trường, tự khép mình vào nếp sống cực kỳ kham khổ cho
đến một ngày kia thân hình tráng kiện của Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) chỉ còn là bộ
xương bọc da. Càng ép xác khổ thân, Ngài càng lìa xa mục tiêu.
Nhiều bài kinh đã ghi chép lời
của chính Đức Phật, mô tả đầy đủ sự nỗ lực kiên trì, những phương pháp khác
nhau mà Ngài đã áp dụng, và sự thành công cuối cùng của Ngài, trong cuộc tranh
đấu vạn phần cam go đau khổ này.
Kinh Maha Saccaka Sutta [2] mô
tả hạnh tinh tấn của Bồ Tát như sau:
"Lúc ấy tư tưởng sau đây
phát sanh đến tôi:
"Hay là ta cắn chặt răng
lại, ép lưỡi sát vào nắp vọng, rồi dùng tâm (thiện) đè nén, chế ngự, và tiêu
diệt những tư tưởng (bất thiện)!
"Rồi tôi cắn chặt răng lại,
ép lưỡi sát vào nắp vọng, và nỗ lực đè nén, chế ngự, và tiêu diệt những tư
tưởng (bất thiện) bằng tâm (thiện). Lúc tôi chiến đấu như vậy thì mồ hôi từ
trong nách chảy tuôn ra.
'Như người mạnh nắm lấy đầu hay
hai vai một người yếu rồi đè xuống, dùng sức cưỡng bách và khắc phục, không cho
ngóc lên, cũng dường thế ấy, tôi chiến đấu và khắc phục (những tư tưởng bất
thiện).
"Sự tinh tấn của tôi quả
thật kiên trì và bất khuất. Tâm niệm của tôi thật là vững chắc và không hề chao
động. Tuy nhiên, thân tôi mòn mỏi và không an lạc sau khi cố gắng một cách đau
khổ -- thể xác phải chịu khuất phục trước sự nỗ lực kiên trì. Mặc dầu những cảm
giác đau đớn phát sanh đến thân tôi, nó không làm tổn hại đến tâm tôi chút nào.
"Lúc ấy tôi nghĩ như sau:
Hay ta thử trau giồi pháp hành thiền nín thở!
"Rồi tôi kiểm soát chặt chẽ
hơi-thở-vô và hơi-thở-ra, từ miệng và mũi. Khi tôi kiểm soát hơi-thở-vô, thở-ra,
ở miệng và ở mũi, thì có luồng hơi thoát ra từ lỗ tai, tạo nên một thứ âm thanh
to lớn khác thường. Hơi gió thoát ra từ hai ống thụt của anh thợ rèn kêu như
thế nào thì lúc tôi ngừng thở, luồng hơi từ lỗ tai thoát ra tạo một âm thanh
cũng to như thế ấy.
"Dẫu sao, hạnh tinh tấn của
tôi vẫn kiên trì và bất khuất. Tâm niệm của tôi vẫn vững chắc và không hề chao
động. Tuy nhiên, thân tôi mòn mỏi và không an lạc sau khi cố gắng một cách đau
khổ -- thể xác phải chịu khuất phục trước sự nỗ lực kiên trì. Mặc dầu những cảm
giác đau đớn phát sanh đến thân tôi, nó không làm tổn hại đến tâm tôi chút nào.
"Rồi tư tưởng sau đây phát
sanh đến tôi: Hay là ta thử trau giồi pháp nín thở!
"Rồi tôi kiểm soát
hơi-thở-vô, thở ra từ miệng, mũi và tai. Lúc ngừng thở bằng miệng, mũi và tai
thì hơi (bị dồn ép) đập mạnh trong đầu tôi. Như có người thật mạnh khoan vào sọ
tôi một lưỡi khoan thật bén, khi tôi ngừng thở, hơi đập vào đầu tôi cũng làm
đau đớn như vậy. Mặc dầu những cảm giác đau đớn như vậy phát sanh ở thân tôi,
nó không ảnh hưởng đến tâm tôi chút nào.
"Lúc ấy tôi tự nghĩ: Hay ta
thử hành pháp thiền nín thở ấy một lần nữa!
"Rồi tôi kiểm soát
hơi-thở-vô, thở-ra từ miệng, mũi và tai. Và lúc tôi ngừng thở, đầu tôi nghe đau
bưng lên. Trạng thái đau đớn kinh khủng lúc bấy giờ giống như có một lực sĩ
dùng dây thừng siết chặt đầu tôi lại. Tuy nhiên, hạnh tinh tấn của tôi vẫn một
mực kiên trì. Những cảm giác đau đớn ấy không gây ảnh hởng đến tâm tôi.
"Lúc ấy tôi tự nghĩ: Hay ta
thử hành thiền về pháp nín thở một lần nữa!
"Rồi tôi ngưng thở bằng
miệng, mũi và tai. Khi tôi kiểm soát hơi thở như thế ấy thì một luồng hơi mạnh
thọc xuyên qua bụng tôi. Tên đồ tể, thiện nghệ hay mới tập sự, dùng dao bén
rạch một đường trên bụng, làm đau đớn thế nào thì luồng gió mạnh thọc xuyên qua
bụng làm tôi đau đớn dường ấy. Tuy nhiên tôi vẫn một mực kiên trì tinh tấn.
Những cảm giác đau đớn ấy không ảnh hưởng đến tâm tôi.
"Lần nữa tôi tự nghĩ: Hay
ta thử hành thiền thêm về pháp nín thở!
"Rồi tôi kiểm soát
hơi-thở-ra, thở-vào từ miệng, mũi và tai. Và khi nín thở như vậy tôi cảm giác
như có một ngọn lửa to khủng khiếp bừng lên và bao trùm lấy tôi. Như có người
mạnh nắm chặt một người yếu và đặt lên ống lửa than đang cháy đỏ cho đến lúc
hoàn toàn thiêu rụi, lửa thiêu đốt thân tôi lúc ngừng thở cũng nóng dường thế
ấy. Tuy nhiên, tôi vẫn kiên trì tinh tấn. Những cảm giác đau đớn không gây tổn
hại đến tâm tôi.
"Lúc ấy có những vị Trời
thấy tôi vậy thì nói với nhau: Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) đã chết! Vài vị khác ghi
nhận: Đạo Sĩ Gotama chưa chết hẳn, nhưng đang chết dần! Trong lúc ấy cũng có vị
nói: Đạo Sĩ Gotama chưa chết hẳn cũng không phải đang chết dần. Ngài là một vị
A La Hán. Đây là lối sống của một vị A La Hán."
Thay đổi phương pháp: Tuyệt Thực
"Rồi tôi nghĩ: Hay ta thử
hành pháp tuyệt thực!
"Lúc ấy có những vị Trời
gần tôi và nói: "Bạch Ngài, xin Ngài chớ nên hành pháp tuyệt thực. Nếu
Ngài tuyệt đối không dùng vật thực nữa thì chúng tôi sẽ rót trên thân Ngài
những chất bổ của cảnh Trời để cho nó thấm vào lỗ chân lông và nuôi sống
Ngài."
"Và tôi nghĩ: Nếu ta hành
pháp tuyệt thực mà các vị Trời lại rót chất bổ của cảnh Trời để nuôi sống thân
này thì quả là một điều gian dối, nên tôi từ chối rằng: "Điều ấy không cần
thiết".
"Lúc ấy tôi suy nghĩ như
sau: Hay ta thử dùng chút ít vật thực, mỗi lần chỉ một chút thôi, một ít nước
đậu xanh hay rau cỏ, hay đậu đỏ, hay đậu trắng.
"Khi mà tôi chỉ dùng thật
ít vật thực như thế, ở thể đặc hay tể lỏng, thì thân tôi trở nên cực kỳ gầy
yếu. Vì thiếu vật thực, những bộ phận lớn và nhỏ trong thân tôi ốm gầy không
khác nào những cọng cỏ ống hay những cây đăng tam thảo. Bàn tọa của tôi chỉ còn
bằng cái móng của con lạc đà. Xương sống tôi cũng như một xâu chuỗi dựng đứng
lên và cong vào. Xương sườn tôi tựa như một cái sườn nhà bị sụp đổ. Trong mắt
tôi không khác nào hình ảnh của những ngôi sao mà ta có thể thấy dưới một cái
giếng sâu. Trái mướp đắng cắt ra lúc còn tươi rồi đem phơi, gió và nắng làm da
mướp teo lại, nhăn nhó và héo tàn thế nào thì da đầu tôi lúc ấy, vì thiếu chất
dinh dưỡng, cũng nhăn nhó và héo tàn như thế ấy. Khi muốn rờ da bụng thì tôi
đụng nhằm xương sống. Và khi muốn rờ xương sống thì tôi lại đụng nhằm da bụng.
Vì thiếu vật thực, da bụng tôi ép sát vào xương sống và, lúc muốn đứng dậy đi
tiểu tiện, thì tôi luống cuống té ngã xuống. Tôi đập nhẹ trên chân, tay để làm
cho thân mình sống lại. Than ôi, lúc đập như thế, lông trên mình tôi lả tả rơi
xuống đất vì đã chết gốc. Thấy tôi như vậy, có người nói: 'Đạo Sĩ Gotama đen'.
Vài người nói: 'Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) không đen mà xanh dương'. Cũng có người
nói: 'Đạo Sĩ Gotama không đen mà cũng không xanh dương mà nâu sậm'. Màu da sáng
sủa và trong trẻo của tôi tàn tệ đến như thế ấy vì thiếu vật thực.
"Rồi tư tưởng sau đây phát
sinh đến tôi: Dầu các đạo sĩ hay các nhà tu khổ hạnh trong quá khứ đã chịu
những cảm giác nhức nhối, đau đớn, dữ dội hay xót xa như thế nào, thì cũng đến
mức này là cùng, không thể hơn nữa. Dầu các đạo sĩ hay các nhà tu khổ hạnh
trong tương lai sẽ chịu những cảm giác nhức nhối, đau đớn, dữ dội hay xót xa
thế nào, thì cũng đến mức này là cùng, không thể hơn. Tuy nhiên, đã trải qua
bao nhiêu khắc khổ, khó khăn và đau đớn mà ta không đạt được điều chi tốt đẹp,
xứng đáng với sự giác nộ cao thượng và trí tuệ vượt hẳn những trạng thái cao
thượng của loài người. Hay là còn con đường nào khác dẫn đến Giác Ngộ
chăng?"
Ma Vương Ác Tâm Cám Dỗ
Ép xác khổ hạnh dưới đủ hình
thức, Đạo Sĩ Gotama vẫn không thu hoạch được kết quả cứu cánh, mà chỉ kiệt sức.
Mặc dầu, nhờ lúc thiếu thời sống trong cảnh đầy đủ ấm no sung túc nên có sức
lực dồi dào và thân hình tráng kiện, nhưng Ngài vẫn thấy không còn chịu đựng
được nữa. Vóc mình đẹp đẽ xưa kia nay đã trở nên gầy còm suy nhược, màu da vàng
tươi đã trở thành xanh lợt. Máu cạn, gân rút, thịt teo, mắt thụt và mờ dần.
Ngài chỉ còn là một bộ xương có sự sống. Nhưng cái chết đã gần kề.
Giữa tình trạng nguy ngập ấy,
trong khi ý chí vững chắc của Ngài ở mức độ cao nhất (Padhana), trong khi Ngài
vẫn ngồi bên bờ sông Neranjara (Ni-liên-thiền) nỗ lực kiên trì và suy niệm để
thành đạt cho được trạng thái châu toàn tuyệt đối thì Namuci [3] đến gần và nói
những lời sau đây [4]:
"Hỡi này Đạo Sĩ, người gầy
còm, thân hình tiều tụy, giờ chết đã đến.
"Một ngàn phần (trong thân
hình người) đã chết mòn, chỉ còn lại một phần sống. Hãy sống, hỡi Đạo Sĩ! Sống
là hơn. Có sống mới tạo được phước.
"Hãy sống độc thân và hằng
cúng tế Thần Lửa, người sẽ tạo được nhiều phước. Ép mình sống đời khổ hạnh như
thế này để làm gì? Con đường kiên trì nỗ lực quả thật kham khổ, khó khăn, và
không phải dễ thành tựu."
Ma Vương đứng trước mặt Đức Thế
Tôn, nói những lời như vậy. Để trả lời, Bồ Tát dạy:
"Này con người xấu xa quỉ
quyệt, thân quyến của tội lỗi và lười biếng! Ngươi đến đây vì lợi ích riêng của
ngươi.
"Đối với ngươi, phước báu
nào có giá trị gì, dầu bao nhiêu phước cũng vô ích. Nhưng bổn phận của ngươi là
phải nói như vậy.
"Với niềm tin vững chắc
(saddha), tự kiểm soát tâm chặt chẽ (tapo) [5], tinh tấn (viriya) và trí tuệ
(panna), ta tu hành như vậy. Ta đã quyết tâm như vậy, sao ngươi còn cật vấn ta
về đời sống?
"Gió thổi mãi, một ngày kia
cũng có thể làm cạn dòng suối, thì máu huyết của người tu ép xác khổ hạnh (nhịn
ăn, nhịn uống) làm gì khỏi bị khô dần?
"Máu cạn thì mật khô, thịt
cũng hao mòn. Thịt càng hao mòn thì tâm càng thanh tịnh. Tâm càng an tịnh, càng
an trụ, càng sáng suốt, thì tâm định càng vững chắc.
"Lúc ấy cơ thể ta đau đớn
vô cùng. Thể xác càng đau đớn, tâm hồn càng xa lìa tham ái. Chừng ấy ta biết rõ
thế nào là trạng thái trong sạch của một chúng sanh!
"Tham dục (Kama) là đạo binh số một của ngươi. Đạo binh thứ nhì là
Bất Mãn với đời sống thánh thiện (Arati). Ba là Đói và Khát (Khuppipasa) [6].
Bốn là Ái Dục (Tanha). Năm là Hôn Trầm Dã Dượi (Thina-Middha, uể oải, lười
biếng và hôn mê). Sáu là Sợ Hãi (Bhiru). Bảy là Hoài Nghi (Vicikiccha) [7]. Tám
là Phỉ Báng và Cố Chấp (Makkha-Thambha). Chín là Lợi Lộc (Labha), Khen Tặng
(Siloka), Vinh Dự (Sakkara) và Thinh Danh Bất Chánh (Yasa), và đạo binh số mười
là Sự Đánh Cao Quá Mức Giá Trị Của Mình và Khinh Rẻ Kẻ Khác
(Attukkamsanaparavambhana).
"Namuci, đó là quân đội của
ngươi. đó là khách luôn luôn lưu trú bên trong hạng người xấu xa quỷ quái.
Người hèn nhát ươn yếu thì không thắng nổi, nhưng ai chế ngự được những đạo
binh ấy là tìm ra hạnh phúc.
"Ta cột trên ngọn cờ của ta
chùm cỏ Munja [8]. Đời sống trên thế gian này rõ là khốn khổ. Thà ta chết trên
chiến trường còn hơn sống mà thất bại! [9]
"Kiểm soát chặt chẽ dòng tư
tưởng, và với chánh niệm kiên cố vững chắc, ta sẽ đi bất định từ nơi này đến
nơi khác, rèn luyện một số đông môn đệ.
"Chuyên cần tinh tấn, quyết
định, và thực hành giáo huấn của ta -- không quan tâm đến ngươi - những vị ấy
sẽ đến tận nơi mà không còn đau khổ."
Với những lời cương quyết ấy,
Đạo Sĩ Gotama cả thắng Ma Vương Tâm Ác, và nhất định thành đạt cho kỳ được mục
tiêu, Đạo Quả Phật.
Con Đường "Trung Đạo"
Sau sáu năm tự bản thân kinh
nghiệm, Đạo Sĩ Gotama đã nhận thức chắc chắn rằng lối tu khổ hạnh không thể đem
lại lợi ích, mặc dầu các triết gia và các tu sĩ thời bấy giờ quả quyết rằng đó
là nếp sống tối cần thiết để đạt đến cứu cánh. Thấy rằng khổ hạnh chỉ làm giảm
suy trí thức và mệt mỏi tinh thần, Ngài liền dứt khoát từ bỏ lối tu ấy, cũng
như trước kia đã từ bỏ lối sống lợi dưỡng, chỉ làm chậm trễ tiến bộ khoa học,
và chọn con đường "Trung Đạo" mà sau sẽ trở thành một trong những đặc
điểm của Giáo Lý Ngài.
Hồi tưởng lại khi còn thơ ấu, vào
một buổi lễ Hạ Điền kia, trong lúc vua cha và mọi người đang chăm chú cử hành
các cuộc vui, thì Ngài đã ngồi thế nào dưới tàng bóng mát mẻ của một cây trâm,
tham thiền, nhập định và đắc Sơ Thiền.
Đó mới thật là con đường dẫn đến
Giác Ngộ.
Ngài nhận định rằng vơí tấm thân
mòn mỏi không thể hoàn toàn sáng suốt, một sức khỏe thích nghi rất cần thiết để
thành đạt tiến bộ tinh thần, nên quyết định không nhịn đói nữa mà dùng những
vật thực thô sơ.
Năm vị tu sĩ thân tín bấy giờ
lâu nay theo hầu cận với bao nhiêu hy vọng, nay thấy Ngài đột ngột thay đổi
phương pháp tu tập như vậy thì lấy làm thối chí, bỏ đi Isipatana (Vườn Lộc Giả)
và nói rằng:
"Đạo Sĩ Cồ Đàm đã trở lại
ưa thích xa hoa, đã ngừng cố gắng, và đã quay về đời sống lợi dưỡng."
Trong lúc quyết định quan trọng
như vậy, sự hỗ trợ bên ngoài thật vô cùng khẩn thiết. Chính ngay lúc ấy, những
người bạn đồng tu lại bỏ ra đi. Nhưng Ngài không ngã lòng. Một mình, trong cảnh
cô đơn, giữa chốn rừng sâu, các bậc vĩ nhân thường chứng ngộ những chân lý cao
sâu thâm diệu và giải quyết được những vấn đề phức tạp, khó khăn.
Bình Minh Của Chân Lý
Sau khi độ một vài vật thực thô
sơ, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) phục hồi sức khỏe và dễ dàng nhập Sơ Thiền (Jhana),
tầng thiền mà Ngài đã thành tựu trong buổi thiếu thời [10]. Rồi từ đó dần dần
Ngài nhập Nhị Thiền rồi Tam và Tứ Thiền. Khi nhập thiền, tâm Ngài an trụ hoàn
toàn vững chắc vào một điểm, lắng dịu trong sáng như mặt gương lau chùi bóng
láng, và mọi sự vật đều có thể phản chiếu một cách vô cùng trung thực. Rồi tư
tưởng trở nên lắng dịu, tinh khiết, trong sạch, không còn ô nhiễm, dễ uốn nắn,
giác tỉnh, vững chắc và không thể lay chuyển, Ngài hướng tâm về tuệ giác có
liên quan đến trạng thái "Hồi Nhớ Những Kiếp Quá Khứ"
(Pubbe-nivasanussati Nana, Túc Mạng Minh, tuệ hồi nhớ tiền kiếp).
Ngài nhớ lại nhiều kiếp sống qúa
khứ như thế này: Đầu tiên một kiếp, hai kiếp, rồi ba kiếp, rồi bốn, năm, mười,
hai mươi, đến năm mươi, rồi một trăm, một ngàn, một trăm ngàn, rồi sự phân tán
của nhiều chu kỳ thế gian, rồi sự phát triển của nhiều chu kỳ thế gian, rồi cả
hai, sự phân tán và sự phát triển của nhiều chu kỳ thế gian. Ở đây Ngài tên gì,
sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui thích và
đau khổ thế nào, và chết cách nào. Từ cảnh ấy ra đi, Ngài tái sanh vào cảnh nào,
có tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui
thích và đau khổ thế nào và chết cách nào. Rồi từ đó ra đi, tái sanh vào cảnh
này.
Như thế ấy Ngài hồi nhớ cách
thức tái sanh và nhiều chi tiết về những kiếp sống quá khứ.
Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Đầu
Tiên mà Ngài chứng ngộ vào lúc canh một, đêm Thành Đạo.
Đã phá tan lớp vô minh có liên
quan đến qúa khứ, Ngài hướng tâm thanh tịnh về tuệ "Tri Giác hiện tượng
Diệt và Sanh của Chúng Sanh" (Cutupapata Nana, Thiên Nhãn Minh).
Với tuệ nhãn tinh khiết và siêu
phàm, Ngài nhận thấy chúng sanh chết từ kiếp này tái sanh vào một kiếp sống
khác.
Ngài chứng kiến cảnh tượng kẻ
sang người hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người đau khổ, tất cả đều trải
qua hiện tượng diệt và sanh, tùy hành vi tạo tác của mỗi người.
Ngài biết rằng người này, do
hành động, lời nói và tư tưởng bất thiện, nguyền rủa bậc Thiện Trí Cao Thượng,
tin tưởng không chân chánh và có nếp sống của người tà kiến, sau khi thể xác
phân tán và lìa đời, đã tái sanh vào những trạng thái bất hạnh.
Ngài biết rằng những người kia,
do hành động, lời nói và tư tưởng tốt đẹp, biết tôn trọng bậc Thiện Trí Cao
Thượng, có đức tin chân chánh và có nếp sống của người có chánh kiến, sau khi
thân hoại mạng chung, đã tái sanh vào những cảnh Trời an vui hạnh phúc.
Như vậy, với Thiên Nhãn Minh,
Ngài mục kích tình trạng phân tán và cấu hợp trở lại của chúng sanh.
Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Thứ
Nhì mà Ngài chứng ngộ trong canh giữa, đêm Thành Đạo.
Đã phá tan lớp vô minh có liên
quan đến tương lai, Ngài hướng tâm thanh tịnh về "Tuệ Hiểu Biết sự Chấm
Dứt các pháp Trầm Luân" (Asavakkhaya Nana, Lậu Tận Minh) [11]. Đúng với
thực tại, Ngài nhận thức: "Đây là Phiền Não", "Đây là sự Chấm
Dứt Phiền Não". "Đây là Con Đường dẫn chấm dứt Phiền Não".
Cùng một thế ấy, đúng với thực
tại Ngài nhận định: "Đây là Ô Nhiễm". " Đây là sự Chấm Dứt Ô
Nhiễm". "Đây là con đường dẫn đến Chấm Dứt Ô Nhiễm".
Nhận thức như thế, tâm Ngài giải
thoát ra khỏi dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), hữu lậu (ô nhiễm của sự luyến ái
đời sống) và vô minh lậu (ô nhiễm của vô minh).
Được giải thoát, Ngài biết rằng:
"Ta đã được giải thoát" [12] và Ngài nhận thức: "Tái sanh đã
chấm dứt, đời sống Phạm Hạnh đã được viên mãn, đã làm xong những việc cần phải
làm, không còn trở lại trạng thái này nữa." [13]
Đây là Tuệ Giác Thứ Ba mà Ngài
chứng ngộ trong canh ba, đêm Thành Đạo.
Màn vô minh đã được giải tỏa và
trí tuệ phát sanh. Đêm tối đã tan và ánh sáng đến.
Chú thích:
[1] Majjhima Nikaya, Trung A
-Hàm, Ariya-Pariyesana Sutta, số 26, Tập I, trang 166.
[2] Majjhima Nikaya - Trung
A-Hàm, số 36, Tập I, trang 242.
[3] Namuci là một tên khác của
Ma Vương (Mara). Theo kinh sách, có năm loại Ma Vương là: 1. Trời Ma Vương
(Devaputta), Khát vọng (Kilesa), 3. Hành (Abhisamkhara), 4. Uẩn (Khandha), và
5. Tử Thần (Maccu).
[4] Sutta Nipata, Padhana Suta,
trang 74.
[5] Tapo - trong bản thảo của
Pali Text Society, danh từ này viết là "Tato"
[6] Đói và Khát, do sự tự nguyện
nghèo khổ.
[7] Hoài nghi ở đây hàm ý là sự
bất định về mục tiêu. Xem Chương 37
[8] Thời bấy giờ, trước khi ra
trận người chiến sĩ cột trên ngọn giáo của mình chùm cỏ Munja, tỏ rằng không
bao giờ lùi bước trước quân địch.
[9] Sangame me matam seyyo - Yan
ce jive parajito.
[10] Jhana, xem chú thích về Lễ
Hạ Điền ở Chương 1
[11] Asavas, pháp trầm luân, là
những hoặc lậu, hay bợn nhơ trong tâm. Nhìn về phương diện cảnh giới, là những
ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm, trôi chảy theo luồng nghiệp cho đến các cảnh giới
cao nhất. Nhìn về phương diện luồng tâm, là những ô nhiễm ngủ ngầm, trôi chảy
theo luồng nghiệp đến trạng thái Gotrabhu (chuyển tánh). Có bốn pháp trầm luân
là: Dục (Kama), Hữu (Bhava), Tà Kiến (Ditthi) và Vô Minh (Avijja). Đoạn kinh
này chỉ đề cập đến ba pháp hoặc lậu mà thôi. Ở đây, Bhava hay Hữu có nghĩa là ý
muốn tái sanh vào những cảnh giới Sắc và Vô Sắc (Rupa và Arupa Bhava).
[12] Vimutto'smi
[13] Khina jati, vusitam
brahmacariyam, katam karaniyam, naparam itthattaya.