[36]
Con đường Niết Bàn (II)
"Một con đường để thành đạt
lợi ích thế gian,
Một con đường khác dẫn đến Niết Bàn" -- Kinh Pháp Cú.
Tâm Định (Samadhi)
Đã vững vàng trên nền tảng
Giới luật, hành giả bước vào con đường cao thượng hơn - hành thiền - để tiến
đến tâm Định (samadhi), tức là kiểm soát và trao giồi tâm, giai đoạn thứ nhì
của con đường trong sạnh (Thanh Tịnh Đạo).
Định (samadhi) là giữ tâm an trụ
vào một điểm, gom tâm vào đề mục, và hoàn toàn không để ý gì khác, ngoài đề mục
ấy.
Theo Phật Giáo, có bốn mươi đề
mục thành thiền khác nhau, tùy tâm tánh của mỗi cá nhân. Bốn mươi đề mục hành thiền
là:
a.-- Mười đề mục để niệm (kasina, biến xứ): [1]
1. Dùng đất để làm đề mục, 2.
Dùng nước để làm đề mục, 3. Dùng lửa làm đề mục, 4. Dùng không khí làm đề mục,
5. Dùng vật có màu xanh làm đề mục, 6. Dùng vật có màu vàng làm đề mục, 7. Dùng
vật có màu đỏ để làm đề mục, 8. Dùng vật có màu trắng để làm đề mục, 9. Dùng
ánh sáng làm đề mục, 10. Dùng không gian làm đề mục.
b.-- Mười đề mục về tử thi (asubha, ô trược) [2], là mười loại tử thi kể
sau:
1. Tử thi sình (uddhumataka), 2.
Tử thi đã đổi màu sắc (vinolaka), 3. Tử thi đã rã ra, chảy nước (vipubbaka), 4.
Tử thi bị cắt đứt đoạn (vicchidaka), 5. Tử thi bị đục khoét ra từng mảnh
(vikkhayidaka), 6. Tử thi văng ra từng mảnh (vikkhittaka), 7. Tử thi bị cắt đứt
và rời ra vung vẩy tản mác (hatavikkhitaka), 8. Tử thi bị đẩm máu (lohitaka),
9. Tử thi bị vòi đục (pulapaka), và 10. Tử thi chỉ còn bộ xương (atthila)
c.-- Mười đề mục suy niệm (anussati, niệm niệm) [3]:
1. Niệm Phật (Buddhanussati), 2.
Niệm Pháp (Dhammanussati), 3. Niệm Tăng (Sanghanussati), 4. Niệm Giới
(Silanussati), 5. Niệm tâm bố thí (Caganussati), 6. Niệm chư Thiên
(Devatanussati), 7. Niệm trạng thái thanh bình an lạc (Upasamanussati), 8. Niệm
sự chết (Marananussati), tuần tự, và cùng với, 9. Niệm Thân (Kayagatasati), và
10. Niệm hơi thở (Anapanasati)
d.-- Tứ Vô Lượng Tâm, hay bốn phẩm hạnh cao thượng (Brahmavihara):
Từ, Bi, Hỷ và Xả
e.-- Một đề mục quán tưởng (Sanna, tưởng, tri giác):
Quán tưởng tánh cách ô trược của
vật thực [4].
f.-- Một đề mục phân tách (catudhatuvavatthana) [5]:
như phân tách bốn nguyên tố cấu tạo vật chất (Tứ Đại: đất, nước, lửa, gió).
g.-- Bốn Thiền Vô Sắc:
1. Cảnh giới Không Gian Vô Cùng
Tận (Akasanancayatana), 2. Cảnh giới Thức Vô Cùng Tận (Vinnanancayatana), 3.
Cảnh giới Hư Không (Akincannayatana), và 4. Cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
(N'eva sanna n'asannayatana).
Đề mục thích hợp với những bẩm tánh khác
nhau
Theo kinh sách, mười đề mục về
tử thi và niệm thân, như 32 phần ô trược, thích hợp với bẩm tánh tham ái, vì
những đề mục nầy có khuynh hướng tạo sự nhờm chán cơ thể vật chất mà giác quan
bám níu.
Tứ Vô Lượng Tâm và bốn Kasinas
màu,thích hợp với bẩm tánh sân hận.
Những đề mục suy niệm về Đức
Phật, v.v... thích hợp với bẩm tánh của người có nhiều đức tin.
Những đề mục suy niệm về sự
trạng thái thanh bình an lạc, quán tưởng đến sự nhàm chán vật thực, và phân
tách Tứ Đại, thích hợp với những bẩm tánh thiên về trí thức.
Những đề mục như suy niệm về Đức
Phật, tâm Từ, niệm thân và niệm về sự chết, thích hợp với tất cả bẩm tánh.
Có sáu loại bẩm tánh (carita)
là:
1.
Bẩm tánh tham ái (ragacarita),
2. Bẩm tánh sân hận (dosacarita),
3. Bẩm tánh si mê (mohacarita),
4. Bẩm tánh có nhiều đức tin (saddhacarita),
5. Bẩm tánh thiên về trí thức (budhicarita), và
6. Bẩm tánh phóng dật (vitakkacarita).
"Carita" là bẩm tánh,
hay bản chất cố hữu của một người. Bản chất này biểu lộ khi ở trạng thái bình
thường, không có gì làm giao động. Bẩm tánh của mỗi người khác nhau là do nơi
hành động quá khứ, hay nghiệp khác nhau của mỗi người. Những hành động quen
thuộc có khuynh hướng tạo bẩm tánh riêng biệt.
Bên trong của một số người,
"raga" hay tham ái, có năng lực mạnh hơn các tánh kia, trong khi
"dosa" hay sân hận, oán ghét ác ý, trội hơn nơi người khác. Phần đông
chúng sanh thuộc về hai loại ấy. Có một phần ít, kém thông minh và ít nhiều si
mê (mohacarita). Gần với những hạng si mê có những người có bẩm tánh phóng dật,
không thể chú tâm vào một việc (vitakkacarita). Vài người lại có tâm đạo đặc
biệt nhiệt thành, đức tin vững chắc (saddhacarita), người khác thì đặc biệt
thông minh sáng suốt (buddhicarita).
Phối hợp những bẩm tánh ấy lại
với nhau có 63 loại. Tính chung với bẩm tánh khảo sát (ditthicarita) là 64
loại.
Những đề mục hành thiền có thể,
ít hay nhiều, thích hợp với mỗi bẩm tánh và mỗi hạng người.
Trước khi thực hành thiền tập,
hành giả nên thận trọng quan sát đề mục tham thiền. Thuở xưa, muốn hành thiền
phải tìm đến sự hướng dẫn của một vị thầy có khả năng và nhờ sự giúp đỡ của vị
này, chọn một đề mục thích hợp với bẩm tánh mình. Ngày nay, hành giả phải tự
mình xem xét lấy và chọn đề mục mà mình cho là thích hợp nhất.
Khi đề mục đã chọn, hành giả
phải rút vào một nơi yên tĩnh, càng ít bị giao động càng tốt. Một cụm rừng, một
hang đá, hoặc nơi vắng vẻ nào khác cũng có thể thích nghi. Ở những nơi ấy hành
giả ít bị phiền nhiễu trong khi hành thiền.
Nên biết rằng cảnh vắng lặng bên
trong của tất cả mọi người. Nếu tâm không an, dầu ở giữa rừng sâu tĩnh mịch
cũng không thích hợp. Nhưng nếu tâm không bị giao động thì ở trung tâm thành
phố cũng được. Khung cảnh chung quanh chỉ tác động một cách gián tiếp, giúp tâm
an trụ.
Điều kế đó mà hành giả phải
quyết định là giờ giấc, lúc mà hành giả và khung cảnh chung quanh có nhiều điều
kiện thuận tiện nhất để tham thiền.
Sáng sớm tâm trí còn tươi tĩnh,
hoặc tối, trước khi đi ngủ, nếu không quá mệt, thường là lúc thích hợp nhất để
hành hiền. Tuy nhiên, dầu thì giờ nào mà ta đã chọn, nên cố giữ đúng giờ ấy mỗi
ngày, để cho tâm được quen, có ảnh hưởng tốt đẹp đến pháp hành.
Cách ngồi cũng có thể giúp ích
cho việc gom tâm. Người phương Đông thường ngồi tréo chân mặt đặt trên vế trái
và chân trái đặt trên vế mặt, thân mình ngay thẳng. Đó là lối ngồi kiết già.
Nếu không quen ắt thấy khó ngồi như thế. Nhiều người ngồi bán già dễ dàng hơn.
Chỉ để chân mặt đặt trên vế trái, còn chân trái thì để dưới luôn, khỏi phải tréo
lên.
Khi ngồi theo điệu tam giác ấy
thì thân mình vững vàng. Tay mặt đặt trên tay
trái, cổ ngay, giữ mũi nằm trên một đường thẳng góc với rún. Lưỡi ép sát trên
nóc vọng. Sắp sửa quần áo ngay ngắn và lưng quần không nên thắt chặt lắm. Vài
người chịu nhắm mắt lại để không còn nhìn thấy gì nữa.
Nhắm kín mắt cũng có lợi, nhưng
thường hay làm buồn ngủ. Đến lúc muốn ngủ rồi thì hành giả không còn kiểm soát
được tâm nữa. Những tư tưởng bất định phát sanh, không còn giữ thân ngay ngắn,
vô tình mở mệng, chảy nước dãi và gục đầu.
Chư Phật thường ngồi kiết già,
hình đóa sen búp, mắt nhắm phân nửa, nhìn theo chót mũi đến chí đất, không xa
hơn lối một thước hai.
Người nào thấy lối ngồi kiết già
khó khăn, có thể thuận tiện ngồi trên ghế, hay chỗ nào khác, vừa đủ cao để hai
bàn chân gác trên mặt đất.
Thế ngồi không quan trọng. Hành
giả tùy tiện, ngồi thế nào cũng được, miễn là thấy thoải mái và dễ dàng là
được.
Người có chú nguyện cố gắng gom
tâm vào một điểm phải nỗ lực kiểm soát những tư tưởng ô nhiễm mỗi khi nó vừa
khởi sanh.
Hành giả có thể bị mười đạo binh
của Ma Vương tấn công như có ghi trong kinh Sutta Nipata [6]. Mười đạo binh ấy
là:
1. tham dục (kama),
2. nản chí (arati), 3. đói và khát (khuppipasa), 4. ái dục (tanha), 5. dã dượi
hôn trầm (thina-middha), 6. sợ sệt (bhaya), 7. hoài nghi (vicikiccha), 8. phỉ
báng, gièm pha và ngoan cố (makkha, thambha), 9. thâu đoạt một cách bất chánh
tiếng tốt, danh vọng, những lời tán dương khen tặng và lợi lộc (labha, siloka,
sakkara, micchayasa), và 10. tự phụ và khinh miệt kẻ khác
(attukkamsanaparavambhana).
Tùy trường hợp, những lời gợi ý
sau đây của Đức Phật về pháp hành thiền có thể bổ ích cho tất cả mọi người.
1. Cố tạo những tư tưởng tốt,
trái nghịch với tư tưởng trở ngại. Như bị lòng sân trở ngại, cố tạo tâm từ.
2. Suy niệm về hậu quả xấu có
thể xẩy ra. Như nghĩ rằng sân hận có thể đưa đến tội lỗi, sát nhân v.v...
3. Không để ý, cố lãng quên
những tư tưởng xấu ấy.
4. Đi ngược dòng tư tưởng, phăng
lần lên, tìm hiểu do đâu tư tưởng ô nhiễm ấy phát sanh và như vậy, trong tiến trình
ngược chiều ấy, hành giả quên dần điều xấu.
5. Gián tiếp vận dụng năng lực
vật chất. Cũng như một người mạnh mẽ tráng kiện khắc phục một người khác, suy
nhược yếu ớt, ta phải vận dụng sức lực của cơ thể để chế ngự những tư tưởng xấu
xa. Đức Phật khuyên: "Cắn chặt răng lại và ép lưỡi sát vào nóc vọng phía
trên, hành giả vận dụng hết năng lực để kiềm chế tâm và như vậy, khi cắn răng
lại và ép lưỡi sát phía trên, cưỡng bách và kiềm chế tâm, những tư tưởng xấu xa
và nguy hại sẽ suy nhược dần và tiêu tan. Do đó tâm sẽ lắng dịu, an trụ, thuần
nhất và định". [7]
Khi đã trải qua những giai đoạn
cần thiết ấy, hành giả tìm một nơi ẩn dật và đặt niềm tin vào ý chí quyết thành
tựu cho kỳ được mục tiêu, tận lực và tliên tục cố gắng phát triển tâm định.
Một vật để như hình tròn Kasina
chỉ có thể giúp hành giả đạt đến tâm định. Như một đức tánh như tâm từ có lợi
ích đặc biệt là tạo nên tâm tánh hay bản chất con người.
Trong lúc hành thiền, hành giả
có thể lặp lại một cách có thể hiểu biết những lời, hay những câu kệ đặc biệt,
vì những chữ hay gợi cho hành giả những lý tưởng mà nó tượng trưng.
Dầu quyết tâm nỗ lực đến đâu,
người hành giả còn sơ cơ vẫn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, những vấp
váp lúc ban đầu. "Tâm phóng, những ý tưởng ngoài đề mục sẽ phát sinh và
vẩn vơ trước mắt, cảm thấy sốt ruột, thấy tiến bộ chậm chạp lên nản lòng, do đó
mất nhẫn nại, kém cố gắng." Nhưng hành giả phải bền chí, không chịu thất
bại. Cố gắng thêm, thêm nữa, để khắc phục mọi trở ngại, vượt qua khó khăn để
nhìn thẳng vào đề mục và kềm giữ tâm không một giây xao lãng.
Thí dụ như hành giả dùng Kasina
đất làm đề mục hành thiền (Kammatthana):
Trước tiên lấy đất sét nhồi làm
thành dĩa tròn bằng độ ba tấc bề kính, cạo gọt cho trơn bén, tô mặt thật láng
và đều đặn. Cái đĩa tròn Kasina để tham thiền này được gọi là đề mục sơ khởi
(parikamma nimitta). Đặt cái Kasina ấy cách chỗ mình ngồi một thước, hành giả
chăm chú nhìn vào đó và niệm "pathavi, pathavi" (đất, đất) cho đến
lúc tâm hoàn toàn an trụ, không còn ý tưởng ngoại lai nào khác. Và khi hành như
thế ít lâu - có khi vài tuần, có khi vài tháng, vài năm hay hơn nữa - hành giả
có thể hình dung đề mục nghĩa là lúc nhắm mắt vẫn còn thấy cái vòng Kasina. Đó
là hình ảnh của đề mục phát hiện trong tâm (uggaha nimitta). Tếp tục cố gắng,
hành giả chăm chú vào uggaha nimitta nầy và phát triển hình ảnh khái niệm của
đề mục (patibhaga nimitta).
Theo sách Thanh Tịnh Đạo
(Visuddhi Magga), sự khác biệt giữa hai hình ảnh ấy là: "Trong 'uggaha
nimitta' hành giả còn thấy rõ cái dĩa tròn kasina, tỷ như trên ấy có lồi lõm
vv... còn trong 'patibhaga nimitta' dĩa tròn kasina xuất hiện như một cái gương
tròn mới lấy từ trong bao ra, hoặc như vỏ ốc xa cừ trau giồi bóng loáng, hoặc
như mặt trăng rằm xuất lộ giữa những đám mây."
Hình ảnh khái niệm (patibhaga
nimitta) không có màu sắc, cũng không có hình thể. Nó chỉ là hình thức xuất lộ
do tri giác tạo nên.
Bấy giờ hành giả nỗ lực chú tâm
vào hình ảnh khái niệm trừu tượng ấy và đạt đến mức độ gọi là" cận
định" (upacara samadhi, tâm gần nhập định). Lúc ấy, năm chướng ngại tinh
thần cố hữu, dính liền với chúng sanh (nivarana, năm pháp triền cái, hay năm
pháp che lấp) tạm thời được khắc phục do tâm an trụ, hay nhất điểm tâm
(ekaggata), phỉ (pity), tầm (vitakka), lạc (sukha), và sát (vicara), kể theo
thứ tự. Lúc bấy giờ, có thể nhập toàn định và đắc thiền, thọ hưởng trạng thái
yên tĩnh và vắng lặng của tâm nhất điểm. Tâm nhất điểm này được thành tựu nhờ
hành giả đã vượt qua các pháp triền cái (nivarana), thành tựu trạng thái gọi là
cittavisuddhi (Tâm Tịnh), giai đoạn thứ nhì của Thanh Tịnh Đạo.
Nếu hành giả dùng kasina nước
làm đề mục hành thiền thì nên lấy một bát nước đầy chí miệng, tốt nhất là nước
mưa trong sạch, không màu sắc và chăm chú nhìn vào đấy, rồi niệm "apo,
apo" (nước, nước) cho đến khi tâm lắng dịu, an trụ vào đề mục nước.
Muốn dùng kasina lửa làm đề mục,
hành giả đốt một ngọn lửa nhỏ trước mặt mình rồi chăm chú nhìn vào đấy,xuyên
qua một cái lỗ cỡ bốn ngón tay bề kính trong một tấm vải, tấm đệm hay một tấm
da.
Với đề mục kasina gió, hành giả
nhìn vào ngọn gió thổi xuyên qua cửa sổ hoặc một cái lỗ trong vách và chăm chú
niệm "vayo, vayo" (gió, gió).
Nếu muốn hành đề mục dùng màu
sắc thì dùng cái đĩa tròn kasina có màu sắc như xanh, vàng, hoặc đỏ, hoặc trắng
rồi chăm chú nhìn vào và niệm màu sắc ấy như "xanh, xanh" (nilam,
nilam) cũng như đề mục đất v.v... Hành giả cũng có thể nhìn vào cành hoa hoặc
xanh, hoặc vàng v.v... để niệm màu sắc ấy.
Hành giả muốn niệm đề mục ánh
sáng có thể nhìn mặt trăng, hoặc một ngọn đèn không chao động, hoặc ánh sáng có
hình ảnh mặt trăng hay mặt trời, chiếu xuyên qua lá cây hay xuyên qua vách, in
trên tường hay dưới mặt đất, và niệm "aloka, aloka" (ánh sáng, ánh
sáng).
Có thể phát triển và trau giồi
đề mục không gian bằng cách nhìn lên trời, xuyên qua cái lỗ độ bốn ngón tay bề
kính, khoét trên vách, hay trên miếng vải hoặc miếng da.
Đề mục Tử thi (Asubha)
Ở Ấn Độ thời xưa, người ta không
chôn người chết, cũng không hỏa thiêu mà chỉ đem ra để ngoài nghĩa địa. Do đó,
có mười loại tử thi làm đề mục hành thiền. Ngày nay, phong tục ấy không còn
nữa. Như vậy, mười đề mục tham thiền về tử thi không thể đặt thành vấn đề.
Niệm về Hồng ân của Đức Phật
(Buddhanussati)
Là suy niệm về các phẩm hạnh của
Đức Phật như sau:
"Đức Thế Tôn hẳn thật là
bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.".
Niệm về những đặc tánh của Giáo Pháp
(Dhammanussati)
Là suy niệm về các đặc tánh của
Giáo Pháp như sau:
"Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn
khéo giảng dạy và được truyền bá đầy đủ là để tự chứng ngộ, có hiệu năng tức
khắc, khuyến khích sự tìm tòi suy gẫm, dẫn đến nơi (Niết Bàn), để bậc thiện trí
an hiểu, mỗi người cho riêng mình."
Niệm về Tăng Già (Sanghanussati)
Là suy niệm về phẩm hạnh tinh
khiết của các hội viên Giáo Hội như sau:
"Giáo Hội của các đệ tử của
Đức Thế Tôn có đức hạnh toàn hảo. Các Ngài có phẩm hạnh bậc trí tuệ. Các Ngài
là những vị đã thành đạt bốn Đạo và bốn Quả Thánh. Giáo Hội của các đệ tử của
Đức Thế Tôn là bậc xứng đáng lãnh nhận những vật cúng dường và chỗ ở. Các Ngài
là bậc xứng đáng được lễ bái, là phước điền vô thượng trên thế gian."
Niệm về Giới đức (Silanussati)
Là suy niệm về phẩm hạnh có tính
hoàn hảo của chính mình.
Niệm về tâm bố thí (Caganussati)
Là suy niệm về bản chất khoan
hồng rộng lượng của chính mình.
Niệm về chư thiên (Devanussati)
Là suy niệm như sau:
"Các vị trời đã sanh vào
những cảnh giới đáng phấn khởiấy do nhờ niềm tin và những đức tánh khác của các
Ngài. Ta cũng có những đức tánh ấy".
Suy niệm như thế nhiều lần.
Niệm về những đặc tính của Niết Bàn
(Upasamanussati)
Là suy nệm về đặc tính tịch tịnh
của Niết Bàn, như chấm dứt đau khổ và tương tự.
Niệm về sự chết (Marananussati)
Là suy niệm về sự chấm dứt đời
sống tâm-vật-lý. Quán tưởng về cái chết giúp hành giả thấu hiểu bản chất tạm bợ
của đời sống. Khi quán triệt rằng chết là điều chắc chắn phải đến và sống là
tạm bợ, nhất thời, hành giả sẽ cố gắng tận dụng kiếp sống nầy để tự trau giồi,
tự phát triển và giúp kẻ khác mở mang, thay vì phung phí thì giờ trong dục lạc,
dễ duôi. Kiên trì hành thiền, suy niệm cái chết không làm cho hành giả trở
thành bi quan yếm thế và sống tiêu cực mà trái lại, càng tích cực và tinh tấn
hơn. Ngoài ra, hành giả còn có thể ứng phó với cái chết một cách bình tĩnh,
thản nhiên. Khi quán tưởng sự chết, hành giả có thể suy niệm rằng đời sống như
ngọn đèn dầu, hoặc suy niệm rằng cái được gọi chúng sanh chỉ là sự biểu hiện
tạm thời và bề ngoài của luồng nghiệp lực vô hình, không khác nào ánh sáng của
ngọn đèn điện là biểu hiện tạm thời của luồng điện lực vô hình ở trong sợi dây
điện.
Hành giả có thể hình dung đời
sống theo nhiều lối khác, quán tưởng về tánh cách vô thường cùa kiếp nhân sinh
và sự kiện hiển nhiên chắc chắn là cái chết phải đến.
Niệm Thân (Kayagatasati)
Là suy niệm về ba mươi hai phần
ô trược của cơ thể như tóc, lông, móng tay, móng chân, răng, da, thịt, gân,
xương, tủy, tận, tim, gan, lá lách, mật, phổi, ruột, bao tử v.v...
Quán tưởng về tánh cách ô trược
của cơ thể giúp hành giả chế ngự tâm luyến ái đối với bản thân mình. Nhiều vị
tỳ khưu thời Đức Phật đã đắc quả A La Hán nhờ hành thiền với đề mục này.
Người không thích hợp với tất cà
ba mươi hai phần ô trược có thể chọn một vài phần như xương, thịt, da cũng
được. Bên trong thân này là bộ xương. Đầy bên ngoài bộ xương là thịt, và bên
ngoài, chỉ là một lớp da bao bọc lấy thịt và xương. Khi suy niệm như thế về cơ
thể vật chất, hành giả dần dần giảm bớt luyến ái thân mình.
Đối với người không chú trọng
đến nhục dục, đề mục nầy có thể không thích hợp. Hành giả có thể quán tưởng khả
năng tạo tác cố hữu của guồng máy phức tạp này mà ta gọi là con người.
Niệm hơi thở (Anapanasati)
Là pháp suy niệm về hơi thở, Ana
có nghĩa là thở vô, Apana là thở ra.
Tham thiền, niệm hơi thở là
phương pháp luyện tập cho tâm an trụ, đồng thời giúp hành giả chứng ngộ minh
sát tuệ và dẫn đến Đạo Quả A La Hán.
Đây là đề mục hành thiền rất lợi
ích và có thể thích hợp với tất cả mọi người. Xưa kia Đức Phật cũng đã áp dụng
pháp hành thiền về Sổ Tức Quán nầy trước khi Ngài đắc quả Chánh Đẳng Chánh
Giác.
Kinh Satipatthana Sutta (Tứ Niệm
Xứ) và sách Thanh Tịnh Đạo có trình bày pháp môn bổ ích này với đầy đủ chi
tiết.
Sau đây là một vài điều cho
người hành giả sơ cơ:
Nên chọn lối ngồi thích hợp. Giữ
thân hình ngay ngắn. Đặt tay mặt lên tay trái. Mắt nhắm hoặc mở hi hí.
Trước khi khởi niệm, từ từ thở
ra dài bằng miệng, rồi ngậm lại. Kế đó thở vô bằng mũi, như thường, không cố
sức thở mạnh quá mà cũng không yếu quá. Lúc thở vô đếm thầm, Một. Rồi thở ra,
đếm Hai. Luôn luôn chú tâm theo hơi thở, không tưởng nhớ đến điều chi khác. Và
cứ thở vô đếm Ba, thở ra đếm Bốn, như thế đến Mười. Trong khi niệm, tâm hành
giả có thể xao lãng phóng túng. Nhưng không nên ngã lòng. Hãy cố gắng cho đến
khi kềm giữ được tâm vào hơi thở. Từ từ hành giả có thể tăng thêm loạt số, như
đếm đi đếm lại đủ năm loạt từ Một đến Mười chẳng hạn. Về sau, hành giả có thể
chú tâm vào hơi thở mà không cần đếm. Có người thích đếm, vì đếm gom tâm được
dễ dàng. Cũng có nhiều người không thích. Điều chánh yếu là gom tâm. Đếm là phụ
thuộc.
Khi thực hành pháp thiền này,
hành giả cảm thấy thân nhẹ nhàng và rất an lạc. Sau khi khi kinh nghiệm một
thời gian, ngày kia hành giả thông hiểu được rằng cái mà người ta gọi là thân
đây chỉ sống nhờ vào hơi thở, và khi hơi thở chấm dứt thì thân này phải chết.
Tức khắc hành giả nhận định lý Vô thường của vạn hữu. Nơi nào biến đổi vô
thường thì nơi ấy không thể có thực tồn, hay linh hồn bất diệt. Chừng ấy tuệ
minh sát được triển khai để chứng ngộ Đạo Quả A La Hán.
Điều này rõ ràng chứng tỏ rằng
mục tiêu của pháp hành thiền về hơi thở chẳng những là trau giồi tâm an trụ mà
còn khai thông minh sát tuệ để thành đạt giải thoát cuối cùng.
Đây là phương pháp giản tiện và
vô hại mà tất cả mọi người đều có thể thực hành.
Để có đầy đủ chi tiết, đọc giả
có thể tham khảo bộ Visuddhi Magga (Thanh Tịnh Đạo).
Theo Kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana),
pháp niệm hơi thở có thể thực hành như sau:
"Thở vô, hành giả ghi nhận
thở vô. Thở ra, hành giả ghi nhận thở ra.
1.- "Khi thở vô dài, hành
giả biết: 'Ta thở vô dài'. Khi thở ra dài, hành giả biết: 'Ta thở dài'.
2.- "Khi thở vô ngắn, hành
giả biết: 'Ta thở vô ngắn'. Khi thở ra ngắn, hành giả biết: 'Ta thở ra ngắn'.
3.- "Tri giác rõ ràng và
trọn vẹn tiến trình của hơi thở (tức chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối), 'ta
sẽ thở vô' hành giả tự luyện tập lấy như thế; tri giác rõ ràng và trọn vẹn tiến
trình của hơi thở, 'ta sẽ thở ra', và hành giả tự luyện tập lấy như thế.
4.- "Làm cho hơi thở êm
dịu, 'ta sẽ thở vô', hành giả tự luyện tập lấy như thế. Làm cho hơi thở êm dịu,
'ta sẽ thở ra', hành giả tự luyện tập như thế."
Tứ Vô Lượng Tâm (Brahmavihara)
Nơi đây Brahma có nghĩa là cao
thượng, hay cao nhã như trong danh từ "brahmacariya" (lối sống cao
thượng).Vihara có nghĩa là phương thức hay trạng thái của phẩm hạnh, hay trạng
thái của đời sống. Những trạng thái này cũng được gọi là "appamanna",
vô lượng, vô biên. Bởi vì những tư tưởng này được rải khắp cho tất cả chúng
sanh, không có giới hạn, không có sự ngăn trở.
Metta (sanskrit là
"maitri") tâm từ, lòng từ ái, hảo tâm, thiện ý, được định nghĩa là
cái gì làm cho tâm êm dịu. Tâm Từ (metta) không phải là tình thương có liên
quan đến nhục dục ngũ trần hay lòng trìu mến cá nhân đối với một người nào. Kẻ
thù trực tiếp của tâm từ là sân hận, oán ghét, hay ta không ưa thích, bực mình
(kodha). Kẻ thù gián tiếp là lòng trìu mến cá nhân (pema). Tâm Từ bao trùm tất
cả chúng sanh, không loại bỏ và không phân biệt chúng sanh nào. Đến mức cùng
tột, tâm Từ là tự đồng hóa tất cả chúng sanh (sabbattata), tự mình chan hòa
trong toàn thể, thấy vạn vật và mình là một. Tâm Từ là lòng chân thành ước mong
cho tất cả chúng sanh đều được an lành vui vẻ. Thái độ từ ái là đặc điểm chánh
yếu của tâm Từ. Tâm Từ lánh xa sân hận, oán ghét.
Tâm Bi (karuna) là cái gì cho ta
rung động trước sự đau khổ của kẻ khác, là cái gì thoa dịu nỗi khổ của người.
Đặc tính của tâm Bi (karuna) là ý muốn giúp người khác thoát ra một cảnh khổ.
Kẻ thù trực tiếp của tâm Bi là sự ươn hèn suy nhược (himsa), và kẻ thù gián
tiếp là ưu sầu, phiền muộn (domanassa). Tâm Bi bao trùm những chúng sanh đau
khổ và tiêu trừ mọi hành động độc ác tàn bạo.
Tâm Hỷ (Mudita) không phải là
trạng thái thỏa thích suông, mà là lòng hoan hỷ, có thiện cảm, trước hạnh phúc
của người khác. Ganh tỵ (issa) là kẻ thù trực tiếp của tâm Hỷ, và thái độ hỷ hạ
vui vẻ là kẻ thù gián tiếp. Đặc điểm chánh yếu của tâm Hỷ là hoan hỷ với sự thạnh
vượng và thành công (anumodana) của người khác. Tâm Hỷ bao trùm những chúng
sanh hữu hạnh. Tâm Hỷ là đức tánh thành thật chung vui, chung mừng và ngợi
khen. Tâm Hỷ loại trừ mọi hình thức bất mãn (arati) trước sự thạnh vượng của
người khác.
Tâm Xả (Upekkha) theo sát nghĩa,
là nhận định vô tư, tức không luyến ái cũng không ghét bỏ. Xả không phải là
lạnh lùng, lãnh đạm mà trạng thái thản nhiên, hoàn toàn không chao động, là tâm
tuyệt đối quân bình. Đây là tâm trạng bình thản của tâm giữa những hoàn cảnh thăng
trầm của đời sống, như tán dương và khiển trách, hạnh phúc và đau khổ, được và
thua, danh thơm và tiếng xấu. Người thù trực tiếp của tâm Xả là luyến ái
(raga), và kẻ thù gián tiếp là thái độ lạnh lùng, vô tình. Thái độ vô tư là đặc
điểm chánh yếu của tâm Xả (Upekkha).
Ở đây, danh từ Upekkha không có
nghĩa là tâm vô ký, không-hạnh-phúc - không-phiền-não, mà rõ ràng hàm xúc ý
nghĩa một phẩm hạnh. Bình thản, tâm quân bình được xem như sát nghĩa nhất. Tâm
Xả bao trùm cả tốt lẫn xấu, những điều khả ái và khả ố, thích thú cũng như
nghịch lòng.
Sách Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi
Magga) mô tả với đầy đủ chi tiết phương pháp phát triển Tứ Vô Lượng Tâm để phát
triển các tầng Thiền-na (jhana).
Một khi đã thành công phát triển
và trau giồi đầy đủ Thiền (jhana), hành giả có thể dễ dàng phát triển các năng
lực thần thông (abhinna) như thiên nhãn (dibacakkhu), thiên nhĩ (dibbasota),
hồi nhớ tiền kiếp (pubbe nivasanusstinana), tha tâm thông (paracittavijanana)
và nhiều năng lực thần thông khác (iddhividha).
Mặc đầu tâm định( samadhi) và
các năng lực tinh thần này chắc chắn đen lại nhiều lợi ích cho hành giả, ta lên
ghi nhận rằng đó không phải là điều chánh yếu để thành đạt Đạo Quả A La Hán. Có
những vị A La Hán gọi là Sukkhavipassaka, đi thẳng đường, và chứng đắc đạo Quả
A La Hán bằng cách hành thiền Minh sát (vipassana), không qua sự hỗ trợ của
Thiền-na (jhana). Nhiều người ở thời Đức Phật, nam cũng như nữ, đã đắc Quả A La
Hán mà không có đắc Thiền (jhana).
Chỉ có những vị đã đắc thiền mới
phát triển được năm loại năng lực thần thông (abhinna) là:
1) Dibbacakkhu, thiên nhãn, cũng
được gọi là huệ nhãn, là khả năng thấy được những việc ở cảnh việc ở cảnh trời
hay cảnh người, xa hay gần, mà ắt người không thể thấy.
2) Cutupapatanana, tri kiến có
liên quan đến cái chết và sự xuất hiện trở lại của chúng sanh, cũng đồng nghĩa
với thiên nhãn, hay nhãn thông. Anagatamsanana, tri kiến có liên quan đến tương
lai, và Yathkammupagatanana, tri kiến về sự ra đi của chúng sanh tùy hành động
thiện hay bất thiện,là hai loại hiểu biết nằm trong phân hạng nầy.
3) Dibbasota, thiên nhĩ, cũng
gọi là nhĩ thông hay huệ nhĩ, là khả năng nghe được những âm thanh, vi tế hay
thô kịch, xa hay gần.
4) Pubbenivasanussatinana, là
khả năng hồi nhớ các tiền kiếp, của mình và của người khác. Về điểm này, năng
lực của Đức Phật không có giới hạn. Ngài có thể nhớ được vô lượng tiền kiếp.
Nhưng đối với người khác thì năng lực này có giới hạn, tùy theo mức độ trau
giồi.
5) Paracittavijanana, tha tâm
thông, là năng lực tinh thần có thể đọc tư tưởng của người khác.
6) Iddhividha là những năng lực
thần thông như bay trên không trung, đi trên mặt nước, chun dưới đất, tạo những
hình thể mới v.v...
Chú thích:
[1] "Kasina" ở đây có
nghĩa là trọn vẹn, tất cả, đầy đủ. Gọi như vậy bởi vì ánh sáng tủa ra từ hình
ảnh khái niệm của đề mục "Kasina" phải bao trùm trọn vẹn, tất cả,
không giới hạn.
Trong trường hợp dùng đất làm đề
mục, ta phải làm một cái dĩa hình tròn, bề kính độ một gang bốn ngón tay. Lấy
đất sét màu da trời lúc bình minh, nhồi nhuyển, đắp lên, rồi cạo gọt thật kỹ,
thật láng. Nếu không có đủ đất màu da trời lúc bình minh thì làm mặt, rồi dùng
đất màu khác cũng được, để đắp phía dưới. Cái vật tròn bằng đất để suy niệm ấy
gọi là "kasina mandala".
Các loại Kasina khác cũng làm
tương tợ như vậy. Sách Thanh Tịnh Đạo có mô tả từng chi tiết. Cũng nên ghi nhận
rằng đề mục ánh sáng và không gian không có trong kinh điển. Nếu không kể hai
đề mục nầy, thì còn lại ba mươi tám đề mục hành thiền tất cả.
[2] Vào thời Đức Phật có nhiều
tử thi còn quàng lại trong các nghĩa địa, chờ ngày chôn hoặc thiêu, còn làm mồi
ngon cho thú và chim. Ngày nay, không thể có tử thi như vậy nữa để dùng làm đề
mục hành thiền.
[3] "Anussati" là niệm
niệm, không ngừng niệm.
[4] "Ahare
patikkulasanna" - như quán tưởng tánh cách ghê tởm của vật thực khi đi
tìm, lúc ăn, lúc tiết ra, lúc tiêu hóa, lúc thoát ra, v.v...
[5] Thí dụ như qua sát bốn yếu
tố: đất, có tánh cách duỗi ra (pathavi); nước, dính liền lại (apo); lửa, nóng
hay lạnh (tejo); và gi, di động (vajo). Xem xét những đặc tánh riêng biệt.
[6] Padhana Sutta, trang 28.
[7] Majjhima Nikaya, Vitakka
Santhana Sutta, số 20.