[Phụ Bản 4]
Tam Bảo Kinh
(Ratana Sutta)
[1]
1. Bất luận
ai tụ hội nơi đây, hoặc chúng sanh trên địa cầu hoặc chúng sanh ở cảnh Trời,
ngưỡng mong tất cả đều an lành hạnh phúc! Tất cả hãy chăm chú lắng nghe những
lời này [1].
2. Tất cả hãy chú tâm suy niệm;
hãy biểu lộ lòng từ ái đối với chúng sanh trong cảnh người; ngày đêm hằng dâng
cúng [2]. Hãy tận tình hộ trì những người ấy.
3. Dù kho tàng quý giá nào trên
đời hay trong một cảnh giới khác, dù châu báu [3] trong những cảnh Trời [4],
không có gì sánh bằng Đức Thế Tôn.
Đúng vậy, Đức Phật là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
4.
Bậc Thiện Trí [5] dòng Sakya (Thích Ca) đã viên mãn Chấm Dứt phiền não, Ly Dục
và thành đạt trạng thái Vô Sanh Bất Tử Vô Thượng. Không có gì sánh bằng Giáo
Pháp (Dhamma).
Đúng vậy, Giáo Pháp là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc.
5. Các bậc Thánh Nhân mà Đức
Phật Tối Thượng tán dương, được mô tả là "tâm an trụ không gián đoạn"
[6]. Không có gì như tâm an trụ ấy.
Đúng vậy, Giáo Pháp là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
6. Tám Vị Thánh ấy [7], hợp
thành bốn đôi, được bậc thiện trí tán dương; Các Ngài là những bậc đáng được
cúng dường, là đệ tử của Đấng Thiện Thệ - vật dâng cúng đến các Ngài sẽ đem lại
quả phúc dồi dào.
Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
7. Với ý chí kiên trì vững chắc,
sống trọn vẹn trong Giáo Huấn của Đức Gotana, không ái dục, các Ngài đã thành
đạt những gì cần thành đạt [8] và thể nhập quả vị Bất Tử, các Ngài an nhàn thọ
hưởng cảnh Thanh Bình An Lạc.
Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
8. Như trụ cột [9] chôn sâu
trong lòng đất không thể bị gió bốn phương lay chuyển, cùng thế ấy, Như Lai
tuyên ngôn, con người chánh trực đã chứng ngộ Tứ Thánh Đế cũng như vậy.
Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
9. Những bậc đã thấu đạt rõ ràng
các Thánh Đế mà bậc Trí Tuệ thậm thâm đã giáo truyền, dầu dể duôi phóng dật,
vẫn không tái sanh đến lần thứ tám [10].
Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
10. Người chứng ngộ Minh Sát
[11], ba điều kiện [12] nếu còn, sẽ được loại trừ, đó là - thân kiến [13], hoài
nghi [14], và giới cấm thủ. Không bao giờ sa đọa vào bốn khổ cảnh [15] và không
còn có thể vi phạm sáu trọng nghiệp bất thiện [16].
Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
11. Bất luận hành động nào mình
đã làm bằng thân, khẩu hay ý, bậc Thánh Nhân không thể giấu; bởi vì người đã
thấy Con Đường không thể còn phạm lỗi.
Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
12. Cũng dường như cây trong
rừng [17] đua nhau đâm chồi nở mọng trên ngọn [18] khi mùa hè bắt đầu ấm nóng
[19], Giáo Pháp Tối Thượng dẫn đến Niết Bàn đã được giáo truyền vì Lợi Ích Tối
Thượng cũng cùng thế ấy.
Đúng vậy, Giáo Pháp là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
13. Đức Thế Tôn Vô Thượng, bậc
Toàn Giác, bậc Thánh Nhân đã ban bố, bậc đã Đem Đến và Giáo Truyền Pháp Cao
Siêu Tối Thượng.
Đúng vậy, Đức Phật là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
14. Quá khứ đã chấm dứt, vị lai
không còn nữa, tâm không dính mắc trong một kiếp tái sanh vị lai, tham ái không
khởi sanh [20] - các bậc trí tuệ ấy siêu thoát như ngọn đèn kia chợt tắt [21].
Đúng vậy, Tăng Già là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
15. Chúng ta tụ hội nơi đây, dù
là chúng sanh ở địa cầu hay thiên giới, hãy đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc được chư
Thiên và nhân loại kỉnh mộ tôn vinh. Ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
16. Chúng ta tụ hội nơi đây, dù
là chúng sanh ở địa cầu hay thiên giới, hãy đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc được chư
Thiên và nhân loại kỉnh mộ tôn vinh. Ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
17. Chúng ta tụ hội nơi đây, dù
là chúng sanh ở địa cầu hay thiên giới, hãy đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc được chư
Thiên và nhân loại kỉnh mộ tôn vinh. Ngưỡng mong được an lành hạnh phúc! [22]
Chú Giải Tam Bảo Kinh:
[1] Bản Chú Giải mô tả trường
hợp Đức Thế Tôn giảng bài Kinh này như sau:
Vào một lúc nọ dân chúng trong
thị trấn Vesali trù phú cùng một lúc gặp phải ba thiên tai - nạn chết đói, nạn
bị ma quái phá rầy và nạn dịch hạch. Trước tiên, vì mùa màng thất thoát, những
người nghèo không đủ ăn, phải chết đói. Xác chết nằm la liệt, mùi hôi thúi thu
hút cảnh âm bất thiện, và sau cùng bệnh dịch hạch truyền nhiễm tai hại.
Trước những tai trời ách nước vô
cùng nguy hiểm này, trong lúc dân chúng đang xôn xao bấn loạn thì bỗng nhiên họ
nảy sanh ý nghĩ cung thỉnh Đức Phật, lúc ấy đang lưu ngụ tại thành Rajagaha
(Vương Xá) gần đó.
Hai vị quý tộc dòng Licchavi
hướng dẫn một phái đoàn hùng hậu liền lên đường sang Rajagaha hầu Phật và thuật
lại tình trạng đau thương vô cùng tuyệt vọng của họ. Đức Thế Tôn chấp nhận lời
thỉnh cầu và cùng Đức Ananda và đông đảo chư Tăng rời Rajagaha sang sông Ganges, đến Vesali.
Khi Đức Phật vừa đến thành
Vesali một trận mưa tầm tã ào xuống, quét sạch thành phố và thanh lọc ô nhiễm
trong không khí. Khi ấy Đức Phật giảng bài Ratana Sutta (Tam Bảo Kinh) cho Ngài
Ananda, rồi dạy Ngài cùng với chư Tăng và đông đảo dân chúng vừa đi khắp thị
trấn vừa đọc tụng Kinh này. Ngài Ananda ôm theo bình bát của chính Đức Phật,
đựng nước trong đó, và rải nước có đọc kinh cùng khắp. Bản Chú Giải ghi rằng
khi chư Tăng vừa đọc những chữ "yam kinci", thì các chúng sanh bất
thiện trong cõi âm hoảng sợ rút lui. Bệnh dịch hạch cũng dần dần tan biến. Sau
khi chư Tăng đọc kinh để bảo vệ dân chúng trong thành phố xong thì trở về Hội
Trường, có Đức Phật chờ nơi đó.
Nhân cơ hội, Đức Phật giảng giải
bài Ratana Sutta (Tam Bảo Kinh) cho toàn thể đám đông.
[2] Bản Chú Giải ghi rằng người
ta vẽ hình chư Thiên, hoặc đục khắc trên gỗ, rồi làm những bàn thờ nhỏ treo
trên cây và hằng ngày đem lễ vật đến cúng.
[3] Danh từ Ratana có nghĩa là
trân châu bảo ngọc quý giá. Nơi đây danh từ Ratana, bảo vật, hàm ý là Tam Bảo:
Đức Phật, Giáo Pháp và Tăng Già. Theo đúng ngữ nguyên, danh từ
"ratana" gồm ba âm - ra, ta và na. "Ra" là thu hút,
"ta" là vượt xuyên qua và "na" là dẫn đến. Phật, Pháp, Tăng
gọi chung là Ratana, châu báu, bởi vì Tam Bảo có đức hạnh thu hút tâm của bậc
thiện trí; là phương tiện đưa chúng sanh vượt qua đại dương của vòng luân hồi
(Samsara); và dẫn đến các cảnh Trời và Niết Bàn cho những ai tìm nương tựa nơi
Tam bảo.
[4] Danh từ cảnh Trời ở đây bao
gồm luôn cả những cảnh Phạm Thiên (Brahma) từ thấp nhất đến cao nhất -
Akanittha (Bản Chú Giải).
[5] Gọi như vậy vì Ngài đã hoàn
toàn tận diệt mọi ái dục (Bản Chú Giải).
[6] Magga (Đạo) được gọi là
Anantarika Samadhi, tâm định liên tục, không gián đoạn, bởi vì Phala (Quả) theo
sau tức khắc không có thời gian gián đoạn.
[7] Tám vị Thánh Nhân ấy là: (i)
Vị đã chứng đắc Sotapatti, Tu Đà Huờn Đạo, và (ii) Tu Đà Huờn Quả; (iii) vị đã
chứng đắc Sakadagami, Tư Đà Hàm Đạo, và (iv) Tư Đà Hàm Quả; (v) vị đã chứng đắc
Anagami, A Na Hàm Đạo, và (vi) A Ha Hàm Quả, (vii) vị đã chứng đắc Arahant, A
La Hán Đạo, và (viii) A La Hán Quả.
Như vậy tính từng cá nhân thì có
tám vị, tính cặp thì có bốn đôi.
[8] Tức A La Hán Quả.
[9] Indakhila-Inda, có nghĩa
Sakka, Vua Trời Đế Thích. Danh từ Indakhila có nghĩa là trụ cột đã được vững
chắc chôn sâu trong lòng đất, vừa cao vừa vững như trụ cột của Vua Trời Sakka.
Bản Chú Giải ghi rằng những
Indakhila (trụ cột) này được trồng bên trong thành phố để làm đẹp, hoặc bên
ngoài như một dấu hiệu bảo vệ. Thông thường những trụ cột này, hình bát giác,
được xây lên bằng gạch hoặc bằng gỗ tốt. Phân nửa cây trụ được chôn sâu dưới
đất - do đó có thành ngữ: vững chắc như trụ cột Indakhila.
l10] Người đã thành đạt tầng
Thánh đầu tiên (Sotapatti, Tu Đà Huờn) chỉ còn tái sanh nhiều lắm là bảy lần.
[11] Tức lần đầu tiên nhoáng
thấy Niết Bàn.
[12] Trong mười Samyojana, thằng
thúc (kiết sử), tức mười dây trói buộc cột chặt chúng sanh vào vòng luân hồi,
ba thằng thúc đầu được loại trừ.
[13] Thân Kiến, Sakkayaditthi -
sự tin tưởng cho rằng thân này hiện hữu, tức quan niệm có một linh hồn hay tự
ngã thường còn. Đây là một trong ba "Mannana", hay ý niệm, phát sanh
liên quan đến thân. Hai ý niệm kia là Tanha (ái dục) và Mana (ngã mạn) -- Bản
Chú Giải. Buddhist Psychology, trang 257.
[14] Lòng hoài nghi (i) Buddha,
Đức Phật; (ii) Dhamma, Giáo Pháp; (iii) Sangha, Tăng Già; (iv) Giới Luật; (v)
quá khứ,;(vi) vị lai; (vii) quá khứ và vị lại; (viii) Paticca Samuppada, Định
Luật Phát Sanh Tùy Thuộc. Xem Buddhist Psychology, trang 260.
[15] Bốn khổ cảnh là: địa ngục
(niraya), cảnh thú, cảnh ngạ quỷ (Peta) và A-tu-la (Asura).
[16] Abhithanani, sáu trọng
nghiệp bất thiện là: (i) giết mẹ, (ii) giết cha, (iii) giết một vị A La Hán,
(iv) làm chảy máu Đức Phật (v) chia rẽ Tăng Già và (vi) khư khư chấp thủ tà
kiến (Niyata Miccha Ditthi).
[17] Vanappagumbe. Bản Chú Giải
giải thích rằng danh từ này do hai thành phần họp lại, Vane pagumbo, chồi cây
trong rừng. Nơi đây định sở cách (locative) được dùng trong ý nghĩa của chỉ chủ
cách (nominative).
[18] Đây cũng vậy, định sở cách
được dùng trong ý nghĩa chỉ chủ cách.
[19] Cũng như vào lúc đầu mùa Hạ
cây cối đâm ở mọng xinh tươi sáng sủa, Giáo Pháp (Dhamma) với nhiều lời dạy quý
báu, được Đức Phật ban truyền rộng rãi, cũng tươi sáng vinh quang cùng thế ấy.
[20] Một vị A La Hán không còn
tái sanh vì đã tạo nghiệp trong quá khứ. Những hành động của các Ngài được gọi
là Kiriya (hành) không tạo nghiệp vì đã không còn mảy may ô nhiễm tham ái.
[21] Chỉ ngọn đèn được thắp lên
để cúng dường chư Thiên trong thành phố, ngay lúc ấy vừa tắt.
[22] Khi Đức Bổn Sư chấm dứt
thời Pháp thoại và ban rải những tư tưởng an lành hạnh phúc đến dân chúng thành
Vesali, Vua Trời Sakka (Đế Thích) đọc tụng ba câu kệ cuối cùng và bái từ Đức
Phật, cùng với đoàn tùy tùng ra về.
Bản Chú Giải ghi rằng Đức Thế
Tôn thuyết giảng bài Kinh này liên tiếp bảy ngày tại Vesali.