[30]
Trách nhiệm tinh thần
"Chính ta làm cho ta ô
nhiễm,
Chính ta làm cho ta trong sạch." -- Kinh Pháp Cú
Có phải
chính người hành động (tạo nghiệp) gặt quả trong kiếp tương lai? [1]
Nói một cách tuyệt đối rằng
chính người gieo nhân sẽ gặt quả là một cực đoan, mà nói rằng người gieo nhân
và người gặt quả là hai người hoàn toàn khác biệt là rơi vào một cực đoan khác.
Tránh hai cực đoan trên, Đức Phật truyền dạy một Giáo Pháp "Trung
Đạo" căn cứ trên lý Nhân Quả:
"Không tuyệt đối là một
người, cũng không phải là hai người hoàn toàn khác biệt" (Naca so, naca
anno), Đại đức Budhhaghosa viết như vậy trong sách Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi
Magga). Sự biến thể của loài tằm có thể là một thí dụ. Khởi đầu là một cái
trứng. Trứng nở ra tằm. Tằm thành nhộng, nhộng thành bướm và bướm đẻ trứng.
Trong trường hợp nầy, sự biến
thể diễn tiến trong một kiếp sống. Và trong một kiếp sống, bướm không tuyệt đối
giống tằm, mà cũng không hoàn toàn khác. Chỉ có một luồng sống, một diễn tiến
của đời sống, hay một sự liên tục.
Để giải thích điểm nầy, Đại đức
Nagasena dùng thí dụ ngọn đèn dầu thấp trong đêm tối. Ánh sáng của ngọn đèn lúc
đầu không tuyệt đối giống hệt ánh sang của nó lúc về khuya. Tuy nhiên, ánh sáng
lúc đầu hôm và lúc khuya vẫn tùy thuộc nơi cây đèn. Trường hợp nầy cũng vậy,
trong ánh sáng có một sự liên tục. Mỗi giai đoạn trong sự liên tục ấy tùy thuộc
nơi giai đoạn trước kế đó.
-- Nếu không có một linh hồn trường cửu, có thể có trách nhiệm tinh thần
không?
Có thể có, bởi vì có sự liên
tục, hay nói cách khác, có sự giống nhau trong tiến trình biến đổi.
Một em bé trở nên một người
trưởng thành. Người kia không hoàn toàn là em bé, bởi vì các tế bào trong thân
thể người ấy đã hoàn toàn đổi mới, tuy nhiên người kia và em bé cũng không phải
tuyệt đối là hai người, bởi vì cả hai chỉ là hai giai đoạn khác nhau trong tiến
trình của một đời sống. Mặc dầu vậy, cá nhân người kia phải chịu trách nhiệm về
tất cả những hành động của em bé. Dầu tiến trình của đời sống chấm dứt ở một
nơi và biểu hiện lại ở một nơi khác, hay tiến trình ấy diễn tiếp trong một kiếp
sống, yếu tố chánh vẫn là sự liên tục. Thí dụ như người kia là ông A trong kiếp
sống trước và ông B trong kiếp nầy. Với cái chết của ông A, hiện tượng vật chất
và tinh thần do đó nghiệp lực biểu hiện đã tiêu tan. Với cái sanh của ông B một
môi vật mới xuất khởi. Hình thể bề ngoài tuy có biến đổi, nhưng luồng tâm trôi
chảy liên tục (citta santati), không bị cái chết làm gián đoạn, vẫn tiếp tục
diễn tiến, và mang theo tất cả cảm giác do ngũ quan đã thâu nhận.
Một cách mặc ước, ta tự hỏi phải
chăng ông B bị bắt buộc phải chịu trách nhiệm về hành vi của ông A ở kiếp
trước?
Vài người cũng có thể phản đối,
cho rằng ông B không nhớ gì về hành động của ông A hết, sao lại phải chịu trách
nhiệm củavề hành vi của ông A?
Tuy nhiên, trạng thái giống hệt
nhau cũng như trí nhớ có phải là yếu tố chánh yếu trong vấn đề trách nhiệm tinh
thần không? Thí dụ như người kia cố ý giết chết một người và sau đó mất trí,
không còn nhớ gì đến chuyện ấy hết. Người ấy có chịu trách nhiệm về hành động
sát nhân hay không? Sự mất trí nhớ không giúp cho người kia tránh khỏi trách
nhiệm của hành động cố ý sát nhân. Ta lại hỏi: "Hình phạt một người đã mất
trí nhớ thì có ích gì? Người ấy không còn nhớ rằng mình chịu hình phạt nầy vì
đã phạm tội kia. Vậy đâu là công lý?"
Người Phật tử tin tưởng nơi lý
nhân quả, công bình và hợp lý, báo ứng một cách tự nhiên, khách quan, tự động.
Lý nhân quả căn cứ trên Nhân và Quả. Ta không thể coi đó là một hình thức
thưởng hay phạt. Nếu người kia làm một chuyện gì trong lúc ngủ, chẳng hạn như
trong lúc đang ngủ mà đứng dậy đi ra ngoài hành lang, rồi đi trên lan can. Tức
nhiên là ông ta sẽ té xuống đường và trong những trường hợp tương tợ, có thể
gãy tay hay gãy chân. Khi nằm trên giường bệnh, ông không còn nhớ gì đến sự đi
trên lan can, vừa đi vừa ngủ, nhưng dĩ nhiên, ông phải biết hậu quả của việc
làm ấy.
Sự kiện ông không còn nhớ gì đến
hành động trước không thay đổi một tí nào hậu quả của hành động ấy. Cánh tay
gãy, hay một cái chân què, làm cho ông đau đớn vô cùng. Vì lẽ ấy người Phật tử
cố gắng không đi trên lan can hay một nơi nguy hiểm nào khác, trong lúc ngủ hay
lúc thức, để tránh việc làm tổn thương cho chính mình hay gây thương tích cho
người khác ở dưới đất nếu ta té vào người.
Sự quên mất dĩ vãng của mình
không gây trở ngại nào cho sự nhận định khôn ngoan về lối báo ứng của định luật
Nghiệp Báo. Chính nhờ sự hiểu biết lý nhân quả, đã gieo nhân thì phải gặt quả,
lúc nào cũng trong vòng luân hồi, mà người Phật tử cố gắng tu dưỡng tâm tánh
mình.
Chú thích:
[1] Xem "The Questions of
Milinda", phần 1, trang 111; và Dr Dahike, "Budhism and
Science", trang 64.