CHƯƠNG I
PHẦN I
TIẾT MỘT
LỜI
PHI-LỘ VÀ PHỤNG-KHUYẾN(2)
Hiện
nay, ......
Người tu
Tịnh-độ(3) càng ngày càng đông... Sở-dĩ như thế, bởi vì môn Niệm-Phật có
đầy-đủ được những yếu-tố sau đây:
1. Thích ứng cả ba căn(4).
2. Gồm tự-lực(5), tha lực(6).
3. Giải thoát ngay trong hiện-kiếp.
4. Hợp với thời-tiết, cơ-duyên(7).
I.
NIỆM-PHẬT THÍCH-ỨNG CẢ BA CĂN.
Các pháp-môn khác, nếu như thấp thì bậc THƯỢNG-CĂN chẳng thích
tu - và nếu như cao tất các bậc TRUNG-CĂN, HẠ-CĂN không kham tu học.
Chẳng hạn như về THIỀN-TÔNG thì đạo-lý vô cùng mầu-nhiệm
cao-siêu, một niệm đi thẳng vào chân-tâm(8) sáng-suốt, ứng-dụng tự-tại,
vượt khỏi đầu sào trăm trượng, như nhạn bay giữa thái-hư dấu-vết chẳng còn
lưu.
Nhưng khúc điệu càng cao, thì người họa lại càng thêm thưa ít.
Nếu chẳng phải là bậc tuệ-căn gieo sẵn, e cho vẽ cọp không
thành, vì thế nên cổ-đức đã dạy:
Chẳng phải căn thượng-thượng,
Dè-dặt chớ khinh-thường...
(Phi thượng-thượng căn,
Thận vật kinh hứa... )
Bởi nếu không phải là bậc THƯỢNG-CĂN triệt-ngộ thiền-cơ thì
chẳng thể nào nhập được ngay vào chân-không(9) mà phần nhiều lại lạc vào
trong lối chấp thiên-không(10). Rồi từ đó bác phá nhân-quả, sự tướng(11)
tăng lòng ngã-mạn, cống-cao.
Về điều nầy trong bài CHỨNG-ÐẠO-CA HUYỀN-GIÁC thiền sư có dạy:
- " Nếu chấp cái không trống-rỗng, rồi bác phá nhân-quả thì
mối ương-họa lan-tràn "...
(Hoát-đạt
không, Bác nhân-quả,
Mảng-mảng, đãng-đãng chiêu ương-họa)....
Thật ra THIỀN-TÔNG rất cần phải duy-trì và phục-hưng cho
chúng-sanh được độ-thoát, an-vui, cho vườn hoa Phật-giáo được thắm-tươi và
đầy đủ màu-sắc hơn... Nếu có các bậc tu THIỀN chân chánh làm lợi-ích cho
mình và cho người, thật cũng rất đáng nên cúi đầu đảnh-lễ - nhưng rất
tiếc, có nhiều kẻ mới vào cửa mầu-nhiệm của THIỀN học, liền chuộng ngay
những huyền-lý cao siêu, vội xem thường các sự:
- Thờ cúng,
- Tu phước,
- Giữ giới,
- Sám hối. vv...
Thậm chí
đến còn bác phá luôn cả các sự:
- Lễ Phật
- Niệm Phật
- Tụng kinh. vv...
cho là
hành-môn thấp nhỏ, là chấp-trước sự-tướng... Cảnh-trạng một kẻ mê đường
dẫn nhiều người đi lạc lối, khiến cho ngay chính những bậc tôn-đức bên
THIỀN-TÔNG trông thấy cũng đem lòng thê-lương cho Phật-pháp, xót-dạ, đau
lòng !
Nếu huyễn-sắc(12) tức là chân-không(13) thì dù cho có tham
THIỀN, niệm PHẬT, tụng KINH ... hay hành-trì tất-cả sự-tướng trong
đạo-pháp cũng đều là chân không. Bậc liễu-đạt(14) tùy-niệm ứng-dụng
tự-tại không dính-mắc, như trái hồ-lô(15) lăn tròn trên mặt nước, can chi
mà phòng-ngại!
Cho nên các bậc Cổ-đức bên THIỀN đã cảnh-giác rằng:
-"
THIỀN-TÔNG nếu đi đúng (đường lối và phương-cách) tất mau chứng-quả
BỒ-ÐỀ, còn nếu đi lạc (lối), lầm (đường) thì đọa vào
địa-ngục mau như tên bắn !".
Các
Pháp-môn cao (như THIỀN) thì phải cần có các bậc THƯỢNG-CĂN tu mới
được sự lợi-ích thiết-thật LÀ NHƯ THẾ VẬY.
Còn riêng về môn TỊNH-ÐỘ thì ngược lại, vì pháp-môn nầy thích
ứng với ba căn-cơ:
1- Bậc THƯỢNG-THƯỢNG căn như các ngài: VĂN-THÙ BỒ-TÁT,
PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT, MÃ-MINH BỒ-TÁT, LONG-THỌ BỒ-TÁT, TRÍ-GIẢ ÐẠI-SƯ và các
bậc cao-đức khác nữa xưa nay, phần nhiều đều tu về môn nầy.
Như trong kinh HOA-NGHIÊM, ngài THIỆN-TÀI đồng-tử khi đi
tham-phỏng (16) ở nơi bậc tri-thức đầu tiên là ngài ÐỨC-VÂN BỒ-TÁT, ngài
ÐỨC-VÂN đã đem môn NIỆM-PHẬT TAM-MUỘI mà truyền dạy(17) ...
Ðến lúc cuối cùng, ngài PHỔ-HIỀN đại Bồ-tát cũng tuyên nói
"MƯỜI ÐẠI NGUYỆN vương", khuyên THIỆN-TÀI và chư-vị Bồ-tát trong Hoa-tạng
Hải-hội niệm Phật hồi-hướng về CỰC-LẠC.(17b)
Do đấy, nên nếu bảo rằng niệm PHẬT là pháp-môn thấp kém chỉ để
cho các hạng tầm-thường, ngu-dốt tu, là quan-niệm rất sai lầm vậy.
Ðến như các bậc hạ-căn, thì trong quyển TỊNH-ÐỘ THÁNH-HIỀN
LỤC(18) đã có ghi chép các sự-tích của những:
- Kẻ ngu-muội, dốt-nát,
- Kẻ phá-giới, phạm-trai,
- Kẻ nghèo khổ, tật-nguyền, ...
- Cho đến các loài điểu-thú, nghe hành theo lời người
dạy, xưng danh-hiệu Phật, biết hồi-tâm, sám-hối, trì-niệm chuyên-thành,
đều được nguyện lực của PHẬT nhiếp-thọ, tiếp-dẫn sanh về Cực-lạc ...
Vì thế cho nên một bậc danh-đức xưa đã khen pháp-môn Tịnh-độ
là:
-
Bảo-phiệt(19) ra khỏi Ta-bà,
Huyền-môn(20) để thành Phật-đạo.
(Xuất
Ta-bà chi bảo-phiệt,
Thành
Phật-đạo chi huyền-môn).
Và cũng nương theo ý đó, Ấn-Quang Ðại-sư(21) đã có câu đối như
sau:
- Bỏ đường tắt Tây-phương, chín giới chúng-sanh, trên khó
thể viên-thành quả-giác.
- Lìa cửa mầu Tịnh-độ, mười phương chư PHẬT, dưới không
toàn độ thoát quần-mê.
Còn nếu
nói theo kinh thì:
- Pháp-môn niệm-Phật, quả thật như chiếc lưới báu cực to,
có thể vớt hết tất-cả các loài cá lớn nhỏ(22) trong
tam-giới, đưa lên bờ Niết-bàn vậy.
II.
NIỆM-PHẬT GỒM TỰ-LỰC VÀ THA-LỰC
Trừ hai pháp-môn TỊNH-ÐỘ và MẬT-TÔNG ra ...
Các pháp-môn khác đều nương vào nơi TỰ-LỰC, tức là sức tu của
chính mình, để cầu giải-thoát.
Còn luận riêng về TỊNH-ÐỘ thì:
- Pháp-môn nầy là một pháp-môn gồm nhiếp luôn cả hai sức
"Tự-lực" và "Tha-lực".
- Tự-lực là sức trì-niệm của riêng mình.
- Tha-lực là sức nhiếp-thọ, hộ-niệm trong hiện-tại và sự
tiếp-dẫn, vãng-sanh của PHẬT khi lâm-chung.(23)
Có người bảo: -"Tu môn niệm PHẬT là hèn-yếu vì chỉ ỷ-lại và
tha-lực".
Ðây là một quan-niệm cạn-cợt, sai-lầm.
Bởi vì:
- Hành-giả tu Tịnh-độ đang khi hành-trì thì:
1. Thân lễ-kính PHẬT - không lễ tạp.
2. Miệng xưng danh PHẬT - không xưng tạp.
3. Ý chuyên tưởng PHẬT - không tưởng tạp.
Và như
vậy tức là nhiếp-tâm từ LOẠN vào ÐỊNH, cho đến cả khi ÐI, ÐỨNG, NẰM,
NGỒI(24), vận-dụng hết cả ba nghiệp THÂN, KHẨU, Ý để hành-trì, cố-gắng hết
sức mình, đó là chứng-minh thực-tế và hiển-nhiên về Tự-lực.
- Như thế, tại sao lại bảo rằng niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ lại
vào tha-lực ?
Cho nên, niệm-PHẬT chính là đem hết tự-lực của mình để cảm
thông với tha-lực của PHẬT, cứu-cánh là dung-hòa TỰ với THA, TÂM và PHẬT,
đi sâu vào trong môn CHÁNH ức NIỆM Tam-muội(25). Bước đầu tiên đã có sự
cảm thông như vậy, thì hành-giả(26) sẽ được Phật phóng quang-minh
thường-trụ nơi đảnh đầu nhiếp-thọ, hiện-tiền được tiêu-trừ tội-chướng, tai
bịnh, phước-huệ lần-lần tăng và khi mãn-phần lại được tiếp-dẫn sanh về
Cực-lạc.
Sỡ-dĩ người xưa, nay khi đề-cập đến môn Tịnh-độ, phần nhiều đều
nhấn-mạnh về Tha-lực, đó là hàm-ý chú-trọng sự tiếp-độ đến chỗ giải thoát.
Vì sao thế ?
- Bởi vì nếu không được sức Phật nhiếp-thọ, tiếp-dẫn, thì đạo
lực tầm-thường của hành-giả không thể nào sanh về cõi Cực-lạc cách đây
mười muôn ức Phật độ (27) được.
Dầu cho
đạo lực cao-siêu của bậc lục-thông La-Hán(28), cũng chỉ ở phạm-vi thấy
biết, dạo đi trong cõi Tam-thiên đại-thiên thuộc thế giới Ta-bà nầy mà
thôi.
- Hơn nữa, nếu hoặc-nghiệp(29) vẫn còn mà không được tiếp-dẫn
vãng-sanh về Cực-lạc, bước lên cảnh-giới Bất thối-chuyển, nương vào nơi
thắng-duyên(30) của cõi ấy mà tiến-tu, tất phải tùy nghiệp chịu cảnh
luân-hồi, không biết bao-giờ mới giải-thoát được !
Vì sự vãng-sanh có điểm rất quan-hệ như vậy, nên Tha-lực của
Tịnh-độ pháp-môn được chú-trọng đến rất nhiều, khiến cho những kẻ nông-cạn
vội nhận lầm rằng pháp-môn nầy chỉ ỷ-lại vào nơi Tha-lực mà thôi.
Ðến đây, bút-giả thấy cần phải nên giải-thích thêm vài ba
nghi-vấn nữa:
Có kẻ hỏi:
- Bậc Bồ-tát chứng vô-sanh nhẫn đã dứt hoặc-nghiệp, thoát khỏi
luân-hồi rồi, cần chi phải cầu sanh vè cõi Cực-lạc ?
- Các vị ấy đã có thần-túc thông có thể đi đến vô-lượng
thế-giới thì cần chi phải niệm Phật để cầu sự tiếp-dẫn ?
Xin đáp:
- Theo kinh dạy:
"Sự cất chân lên, để bước xuống của PHẬT, bậc Ðẳng-Giác
Bồ-tát(31) còn không thể hiểu-thấu huống chi hàng Thập-địa Bồ-Tát ư !
Các vị ấy tuy đã dứt kiến, tư, trần-sa hoặc(32) song Vô-minh
hoặc(33) hãy còn, nên cần phải gần-gũi PHẬT để học đạo-pháp thành PHẬT.
Thật ra, chư đại Bồ-tát có hai việc:
1. Trên thì cầu sanh về mười phương Tịnh-độ để học
vô-lượng pháp-môn của Như-Lai.
2. Dưới thì hiện thân đến khắp mười phương uế độ(34) để
giáo-hóa các loài hàm-thức(35).
Pháp-thân của các ngài là pháp-thân thường-trú(36), tuy ở cõi
tịnh mà không lìa cõi uế, và dù ở cõi uế-độ nhưng cũng vẫn không rời khỏi
tịnh-độ(37).
Còn việc Bồ-tát niệm Phật để cầu tiếp-dẫn, thì ví như một người
học-giả đến viếng bậc Thầy của mình, tuy có thể tự-tại đi vào nhà, nhưng
theo lẽ phải xin phép. Còn vị Thầy thì đúng theo tâm-niệm dìu-dắt hàng
hậu-lai của mình, cũng vui vẻ đón tiếp.
Việc như Bồ-tát muốn về Cực-lạc, niệm hồng-danh của Phật để
cần-cầu, và đức Phật tùy bản-nguyện đến tiếp dẫn cũng lại như thế.
Sự tiếp-dẫn của Phật tùy-niệm ứng-hiện, trong một sát na(38) có
thể đồng-thời đến vô-biên thế-giới ở mười phương, tiếp-dẫn số chúng-sanh
nhiều như vi-trần - Việc nầy cũng tựa như gương trăng sáng hiện bóng khắp
các ao, biển, sông, hồ, v.v... đâu có tướng đến, đi và đâu có chi
nhọc-mệt mà phòng-ngại.
III.
NIỆM-PHẬT GIẢI-THOÁT NGAY TRONG HIỆN-KIẾP
Với các pháp-môn tu khác, hành-giả phải dứt trừ hết các
hoặc-nghiệp mới vượt qua khỏi được sự sống-chết, luân-hồi.
Riêng pháp-môn Tịnh-độ thì dù cho hoặc-chướng hãy còn cũng có
thể hiện-đời nương nơi nguyện-lực của PHẬT, đới-nghiệp vãng-sanh, tiến
thẳng lên bờ giải-thoát.
Về điểm nầy, trong bức thư phúc-đáp cho TỊNH-TU pháp sư, ngài
ẤN-QUANG đã nói như sau:
- "Có hai đường tiến đến chổ giải-thoát là:
- THÁNH-ÐẠO.
- VÃNG-SANH.
A.
THÁNH-ÐẠO:
Về THÁNH-ÐẠO đây, tức là con đường tu để chứng lên quả
THÁNH(39) thì không chi bằng tắt và mau lẹ hơn môn "Trực-chỉ thiền"(40).
Nhưng tu Thiền giữa thời buổi mạt-pháp nầy, trong hiện đời chưa dễ gì
ngộ-đạo(41), huống chi là chứng-đạo ư ?
Nếu như không chứng quả, thì trong mười người (tu) đã lạc-lối
hết tám, chín. Bởi vì khi luân hồi sẽ bị nhiều chướng-duyên làm cho
thối-chuyển, dễ mê-muội túc-căn(42). Tu Thiền, nếu chứng được sơ-quả Tu
đà-hoàn, tuy còn 7 lần sanh lên cõi Trời, 7 phen trở lại nhơn-gian, nhưng
sẽ không lo sợ thối-chuyển. Khi chứng đến quả A-LA-HÁN, mới dứt hẳn được
nẻo luân-hồi.
Ngoài ra thì không nhứt-định được.
Có kẻ đời hiện-tại tu-hành rất tốt, kiếp sau được hưởng phước,
lại say đắm theo dục-lạc, tạo nghiệp ác rồi bị đọa vào địa-ngục - Dù cho
năm, ba đời có giữ được thiện-căn, không tạo nghiệp ác đi nữa, song ai có
thể bảo-đảm ở nơi những kiếp về sau lại chẳng gây tạo nghiệp rồi bị đọa
tam-đồ ư ?!
Chẳng nói đâu xa, ngay trong đời hiện-tại, có rất nhiều hành-giả
trước tu-hành siêng-năng, sau sanh biếng-trễ, đạo-tâm dần-dà thối-chuyển,
đến nỗi có kẻ phải hoàn tục ...
Những đời về sau, theo đà mạt-kiếp, Phật-pháp lần-lần suy kém,
bậc thiện tri-thức lại rất khó tìm, sự giải-thoát sẽ còn xa hơn nữa!
Riêng có đường lối vãng-sanh, tức là niệm PHẬT cầu sanh về
Tịnh-độ, thì dù cho hoặc-chướng hãy còn, vẫn có thể nương theo nguyện-lực
tiếp-dẫn của đức A-DI-ÐÀ, vượt ngang qua ba cõi(43), đới-nghiệp thẳng sang
Cực-lạc.
Thật ra, cũng như bên Thiền, giữa thời Mạt-pháp nầy, người tu
Tịnh-độ đến cảnh-giới "SỰ nhứt-tâm bất-loạn"(44) rất là ít có, huống chi
là cảnh "LÝ nhứt tâm"(45) và đi sâu vào " Niệm-Phật Tam-muội"(46)
được !
Nhưng nếu thuở bình-nhựt(47), chuyên cần trì-niệm thì khi
lâm-chung, chủng-tử câu hồng-danh đã huân-tập từ lâu sẽ phát-hiện, liền
khiến cho tạm-thời được nhứt-tâm.
Lúc ấy, chỉ cần gia thêm vào ý-niệm tha-thiết, rủ sạch
trần-duyên, tâm hướng về Liên-quốc, ắt quyết-định sẽ được cảm-thông
tiếp-dẫn.
Khi đã về đến cõi ấy rồi, trên thì có PHẬT, Bồ-tát, dưới đến là
các hàng Thượng thiện-nhơn ... nước chảy, chim kêu, ... nói ra pháp-diệu,
không còn bị các duyên ăn, mặc, ở và sanh-kế (tức là các việc: y, thực,
trụ, hành) làm vướng-bận, sống lâu vô-lượng kiếp, lo chi đạo-quả không
thành.
Pháp-sư đã hỏi, tôi chỉ y theo chỗ thấy, hiểu của cổ-đức và
căn-cứ nơi Phật-lý mà giải-đáp ... "XIN SUY-GẨM KỸ RỒI TÙY-TÂM LỰA CHỌN
..."
Lời giải-đáp trên đây của Ðại-sư, đã vạch rõ chỗ ổn-đáng cùng khó
giải-thoát của thời nay, giữa TỊNH và THIỀN vậy.
IV.
NIỆM PHẬT HỢP THỜI-TIẾT, CƠ-DUYÊN.
Trong thời chánh-pháp(48) và Tượng-pháp(49), con người phần
nhiều nghiệp nhẹ, tâm thuần, hoàn-cảnh sinh-hoạt giữa xã-hội lại đơn-giản
nên có thể tu theo các pháp-môn về Thánh-đạo.
Thời ấy, Thiền-tông đặc-biệt hưng-thạnh, hành-giả căn-cơ sáng,
lẹ ... thấy hoa-nở, ngắm non xanh, nghe gió thổi, suối reo, vv... đều có
thể ngộ-đạo. Nhưng từ thời mạt-pháp(50) trở đi, nhơn tâm khác xưa, sự
sinh-hoạt, tổ-chức giữa xã-hội lần-lần trở nên phức-tạp, căn-cơ người tu
đa phần là bậc Trung, Hạ. Cho nên muốn được bảo-đảm sự giải-thoát, thì
điều cần nhất là phải hướng về pháp hợp với thời-tiết, cơ duyên:
- " ÐÓ LÀ MÔN NIỆM-PHẬT"
Về điều nầy, xin dẫn ra những chứng-liệu như sau:
1. Nơi
kinh "ÐẠI-TẬP NGUYỆT-TẠNG", đức Thích tôn đã có lời huyền-ký rằng:
- "THỜI MẠT-PHÁP, ỨC-ỨC KẺ TU-HÀNH, SONG ÍT CÓ NGƯỜI ÐẮC-ÐẠO,
CHỈ NƯƠNG THEO PHÁP-MÔN NIỆM-PHẬT MÀ THOÁT KHỎI LUÂN-HỒI."
(Mạt-pháp, ức-ức nhơn tu-hành, hẳn nhứt đắc-đạo. Duy y niệm-Phật, đắc độ
sanh-tử).
2. Nơi
kinh "VỘ LƯỢNG-THỌ", Phật cũng bảo:
- "TRONG ÐỜI TƯƠNG-LAI, KHI KINH-ÐẠO DIỆT HẾT, TA DÙNG SỨC
TỪ-BI, THƯƠNG XÓT, RIÊNG LƯU-TRỤ KINH NẦY MỘT TRĂM NĂM. CHÚNG-SANH NÀO
GẶP KINH NẦY, TÙY THEO SỞ-NGUYỆN, CÓ THỂ ÐẮC-ÐỘ." ...
(Ðương-lai
chi thế, kinh đạo diệt-tận, ngã dĩ từ-bi, ai-mẫn, đặc lưu thử kinh, chỉ
trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng-sanh, tri tư kinh giã, tùy-ý sở-nguyện, giai-khả
đắc-độ)
Ðức Như-lai là bậc trí-huệ rộng sâu, vì sao chẳng lưu lại các
pháp-môn kia, mà chỉ lưu lại riêng pháp-môn Tịnh-độ ?
Ðó là thâm-ý của PHẬT đã chỉ rõ-rằng:
- "THỜI MẠT-PHÁP VỀ SAU, ÐƯỜNG TU HỢP VỚI CƠ-DUYÊN CHÚNG-SANH,
CHỈ LÀ MÔN TỊNH-ÐỘ" vậy.
3. Nơi
đoạn minh-giáo của An-lạc Tập, Ðạo-xước thiền-sư có lời bình-luận rằng:
- " NẾU GIÁO-PHÁP HỢP VỚI THỜI-CƠ, THÌ DỄ TU, DỄ NGỘ, NHƯ
GIÁO-PHÁP TRÁI VỚI THỜI-CƠ, TẤT KHÓ TU, KHÓ NHẬP:
Kinh "Chánh-pháp niệm" nói:
- " HÀNH-GIÃ KHI NHỨT-TÂM CẦU-ÐẠO, PHẢI QUAN-SÁT VỀ
PHƯƠNG-TIỆN, THỜI-CƠ, NẾU TRÁI VỚI PHƯƠNG-TIỆN ÐÓ, TẤT BỊ THẤT-LỢI.
Tại sao thế ?
- Như cọ gỗ ướt để tìm lửa thì không thể được vì trái thời, và
như bẻ cây khô để tìm nước, cũng chẳng có thể có, vì không trí-huệ.
Ðức Như-lai đã phân-định năm thời kiên-cố(51) sau khi Ngài
nhập-diệt, mỗi thời là năm trăm năm. Trong các thời chánh-pháp và
Thiền-định kiên-cố thì hành-giã nên chọn môn tu Thánh-đạo, tu Ðịnh-huệ làm
phần chánh, cầu Tịnh-độ làm phụ.
Từ cuối thời Ða-văn kiên-cố bước sang thời Tháp-tự và Ðấu-tranh
kiên-cố về sau nên lấy Tịnh-độ làm phần chánh, tu Thánh-đạo(52) làm phụ".
-------------------------------------
Ngoài những chứng-liệu(53) kể trên, còn có thêm lời huyền-ký
của bậc chơn-tu đắc đạo là Thiên-Như Thiền-sư cùng với những điểm
nhận-định và biện-chứng của các bậc danh-đức xưa nay, mà trong phạm-vi
khái-ước nầy không thể nào nêu ra hết được.
Bên Trung-Hoa từ cuối đời nhà Tống về sau, các bậc Tôn-đức(54)
quan-sát rõ thời-cơ nên đều chuyển lần từ Thiền-tông trở sang xiển-dương
Tịnh-độ. Tuy nhiên lưu-hành hưng-thịnh từ lâu, đã thành ra phong-thái,
nên thường hay xảy ra những sự tranh-đua cao-thấp giữa TỊNH VÀ THIỀN.
Song le, đó chỉ là kiến-chấp nông-nỗi của một số người chưa
quán-triệt được Phật-lý cùng thời-cơ mà thôi, còn các bậc cao-tăng đã
liễu-đạt(55) thì chỉ tùy-duyên mà hộ-trì chánh-pháp, tuyệt không có
tâm-niệm phân-biệt đây kia.
Cứ trung-thật mà luận, thì chúng hữu-tình có nhiều tâm-bệnh
cùng sở-nguyện, cho nên riêng một môn Tịnh-độ vẫn không thể nào phổ-cập và
thích-ứng để hoằng dương chánh-pháp, lợi-ích quần-sanh hết được, vì vậy mà
rất cần sự có mặt của các pháp-môn khác.
Theo thiển-ý(56) thì trong thời Mạt-pháp, hành-giã trong các
tông-khác, tuy là hoằng-truyền bản-môn, nhưng cũng nên nghiên-cứu qua
Tịnh-độ tông và quy-hướng về lối vãng-sanh để bảo-đảm cho sự giải-thoát -
như chư Tôn-đức bên Tông Tào-động, bên ngoài hoằng-hóa Thiền-tông, bên
trong mật tu Tịnh-độ - khi xưa vậy.
Còn người tu Tịnh-độ cũng phải cần học-hỏi thêm nơi các TÔNG
khác ... để thêm tiến-ích cho đường hành-đạo của mình, bởi vì mỗi TÔNG như
những đóa-hoa khác nhau, đều sáng tươi riêng phần đặc-sắc ...
Các lời dẫn-luận trên đây, bút-giã chỉ y theo quan điểm từ-mẫn
lợi sanh của PHẬT và chư Cổ-đức, nêu ra một đường lối tu-tập thích-ứng,
hợp với thời-tiết và cơ duyên mà thôi...
Ở Trung-Hoa, vào thời cận đại(57), có phong-trào chấn-hưng
Phật-giáo do một số danh-tăng và Phật-tử trung-kiên cổ-xúy(58) - Quán-sát
hành-vi lúc sanh-thời và khi lâm-chung của một ít người trong nhóm đó -
thấy có những biểu-tượng mà thường nhơn không thể nào có được - nên các
nhà học-giã của đạo-Phật quả-quyết đó là các bậc Bồ-tát tái-lai để hộ-trì
chánh-pháp.
Trong số hạng các người phi-thường ấy ta thấy:
1.
Dế-Nhàn pháp-sư giảng-kinh khắp nơi, chấn-hưng về Thiên-Thai
tông.
2.
Hư-Vân Thượng-nhơn - Tu chỉnh các danh-lam, thánh-tích của
Phật-giáo, chấn-hưng về Thiền tông.
3.
Ấn-Quang đại-sư - Dùng thơ-tín, kinh, tượng độ vô-số người,
chấn-hưng về Tịnh-độ tông.
4.
Hoằng-Nhứt luật-sư - Nghiêm trì giới-hạnh, soạn thành bộ
"Nam-sơn luật - Uyển Tòng-thư" - chấn-hưng vè luật tông.
5.
Thái-Hư đại-sư - Vận-động cuộc canh-tân Phật-giáo, chấn-hưng
về Duy-thức tông.
6.
Kim-Cang Thượng-sư Hồ-Ðồ Khắc-Ðồ từ Tây-Vức đến -
truyền-dương về Mật-tông.
7.
Dương-Nhân-Sơn Cư-sĩ - trọn đời thành-lập Bang, Hội Phật,
sưu-tầm và vẽ ảnh Phật, Bồ-Tát in ra phổ-biến khắp nơi, khắc bản in lại
"Tam-tạng kinh-điển" để cho chánh-pháp khỏi bị sớm hủy-diệt sau nầy ...
Riêng ngài ẤN-QUANG đại-sư đã đem sự vãng-sanh lúc lâm-chung
của ngài để chứng-minh cho lời nói và các hành-động trong buổi bình-thời
của mình, thì không cần chi phải bình-luận thêm nữa.
Còn Dế-Nhàn pháp-sư thì tuy hoằng dương kinh
Pháp-Hoa, truyền dạy môn Tam-Quán(59), nhưng lúc lâm-chung vẫn theo gót
đấng khai-tổ bản-tông(60) là Thiên-Thai Trí-giã niệm Phật sanh về Cực-lạc.
- Hư-Vân Thượng-nhơn tuy thị-hiện ngộ-đạo, làm
mô-phạm(61) hướng-dẫn hành-giã tu Thiền, song khi gặp hoàn-cảnh, cơ-duyên
cũng vẫn khuyên người niệm-Phật.
- Hoằng-Nhất luật-sư lưu lại bút-tích "Bi-Hân
giao-tập" và khi lâm-chung được Tây-phương Tam-Thánh tới rước.
- Thái-Hư đại-sư tuy hoằng dương Duy-Thức, song
vẫn hằng khen-ngợi mười phương Tịnh-độ, nhưng vì không muốn trái với
ứng-tích của đấng khai-tổ là Di-lặc Bồ-tát, nên hồi-hướng cầu sanh về
Ðâu-suất tịnh-độ(62).
- Thượng-sư Hồ-Ðồ Khắc-Ðồ tuy-truyền pháp "Thánh
cứu-độ Phật mẫu" gồm 21 độ mẫu (tức là 21 hóa-thân của đức Quán-Âm)
để cứu nạn tai cho thời mạt-kiếp, song cũng khuyên hàng đệ-tử đem công-đức
trì-niệm hồi-hướng về Cực-lạc.
- Dương-Nhơn Sơn cư-sĩ lúc mãn phần, ngồi
kiết-già, chắp tay nói với các hàng liên-hữu rằng: - "Bản-nguyện của tôi
cùng đức A-Di-ÐÀ dung-hợp nhau." Rồi niệm Phật mà thoát-hóa.
Như vậy.....
Có phải chăng các bậc danh-đức trên đây, tuy mỗi người làm một
Phật-sự, song đã dùng hoặc bản thân, hoặc lời nói mà ngầm khuyên các hành
giã nên chú trọng về sự giải-thoát, vãng sanh ư ?
V.
LUẬN VỀ NGƯỜI VÀ CẢNH THỜI NAY.(63)
Nói-chung ......
Trên phương-diện hoằng-dương đạo-pháp(64), mỗi Tông (phái
của đạo Phật ta) đều phát-huy lên những đặc-điểm của mình để người học
Phật tùy theo sở-thích mà thu-nhập.
Nhưng bình-tâm thử-nghiệm xét:
- Lúc nầy là thời buổi nào ?
Thời nầy thì:
A.
Luận về người:
- Bên Trung-Hoa(65), khoảng cuối đời nhà Thanh bước sang thời
Dân-quốc(66), Cư-sĩ Cao-Hạt-Niên(67) khi tham-phỏng đạo-pháp nơi các
danh-lam(68), gặp một vị cao-tăng ẩn-tu bảo:
- “Thời nay, trong 100 kẻ ác, mới có một người thiện.
- Trong 100 kẻ thiện, mới có một người hướng về đạo.
- Trong 100 kẻ hướng về đạo mới có một người giữ vững
tâm-nguyện, không thối-chuyển trên bước đường tu-hành ...
Lại nữa, nhớ thuở-xưa ......
Trong lúc phú-pháp(69) cho ngài Huệ-Khả Ðại-sư(70), Tổ Ðạt-Ma
có dạy rằng:
-“ Khoảng 200 năm về sau, người học LÝ thì nhiều, song ngộ LÝ
rất ít.
Người nói Lý thì nhiều, song hành LÝ rất ít.
Người hành LÝ hoặc nhiều, song chứng LÝ rất ít” ......(71)
Nên ý-thức:
Chỉ riêng bước đầu là phần học Phật-lý, có nhiều kẻ nếu chẳng
vướng về “chấp CÓ”, giữ chặt lấy SỰ-TƯỚNG, thì cũng lạc vào “chấp KHÔNG”,
bài-bác nhân-quả !...... Mấy ai là bậc hiểu sâu Phật thừa, liễu ngộ lý:
- “ DIỆU-HỮU TỨC CHƠN KHÔNG
CHƠN-KHÔNG TỨC DIỆU-HỮU ”(72)
Cư-sĩ
tuy mộ-đạo(73), song phải dè-dặt đừng để phải bị sa vào trong “kiến-chấp
đó”.
Cao Hạt-Niên cư-sĩ cũng có hỏi đến chỗ tiến chứng(74) của nhiều
bậc Trưởng-lão(75), tất-cả (các vị đó) thảy đều khiêm-nhường và
thành-thật trình-bày, đại-khái như:
- Nghiệp-chướng nặng,
- Còn nhiều tán-loạn, hôn-trầm,
- Giới-hạnh và oai-nghi kém-khuyết,
- Bước đường tu-hành chưa đạt đến thật-địa(76).
- ... ...
Khi cư-sĩ đề-cập đến những kẻ tự-xưng rằng mình đã chứng-ngộ
thì các vị ấy đều cảnh-giác rằng:
- Theo kinh Lăng-Nghiêm, đức PHẬT có huyền-ký rằng:
Gần thì
thập-thế (mỗi thế có 100 năm - Thập-thế tức là 1000 năm), xa thì
bách-sanh (mỗi sanh có 30 năm - Bách-sanh là 3000 năm), có rất
nhiều ma, ngoại (tà-ma và ngoại-đạo) ám-nhập người tu hoặc ẩn-bóng trong
chánh-pháp ... Thời buổi nầy, nếu có ai tự-xưng mình đã chứng-ngộ, hoặc
bảo rằng mình là PHẬT, TỔ ... hiện-thân, thì các kẻ đó đích-thị là hàng
ma, ngoại”.
.....................
Những điều trình-thuật trên đây chỉ cho chúng ta thấy rằng:
- “ CON NGƯỜI THỜI NAY HOẶC-NGHIỆP VÀ MA-CHƯỚNG QUÁ NHIỀU” vậy.
B. LUẬN
VỀ CẢNH:
Còn nói về CẢNH (hoàn-cảnh và thời-thế ) ngày nay thì
những tai-nạn như:
- Ðộng đất, núi lở, bảo-lụt, trộm-cướp, chiến-tranh, lửa cháy,
hạn-hán, mưa nắng trái thời, sâu trùng phá-hoại, mùa-màng, thất-bát,
dịch-chướng lan-tràn, vv... đã diễn ra ở nhiều nơi, nhiều nước ...
Nhìn đến tương-lai, thì trận thế-chiến thứ ba chắc đâu tránh
khỏi ! ...
- Các phái bên Tiên cũng đều bảo rằng thời-buổi nầy là
thời-buổi mạt-kiếp, có sự thanh-lọc rất rộng-lớn.
- Ðạo Chúa (Công-giáo) cũng nói sẽ có tận-thế trước năm
hai ngàn(2.000)
- Còn riêng bên đạo Phật ta, khi HƯ-VÂN thiền-sư(77) xuất-thần
lên cung trời Ðâu-xuất, được nghe đức DI-LẶC Bồ-tát(78) nói pháp-môn
Duy-Tâm thức định (Duy-thức) ... Nơi đoạn kết-thúc, Bồ-tát đọc một
bài kệ dài, trong ấy có mấy câu sau đây:
... ...
Kiếp-nghiệp đương đầu,
Cảnh-tích phổ-giác.
Khổ-hải từ-hàng,
Vô-linh thối-khước.
... ...
Ðại-ý của đoạn kệ nầy Bồ-tát bảo:
- “... Ở dưới trần-giới, tam tai tiểu-kiếp đã bắt đầu, gồm có
các nạn: -Ðói-khát, tật-dịch và chiến-tranh. Bồ-tát khuyên thiền-sư (Hư-Vân)
và những hành-giả đạo Phật nên làm chiếc thuyền từ (từ hàng) trong
bể khổ, nhắc-nhở chúng-sanh nên thức-tỉnh trước các tai-nạn ấy mà lo
cố-gắng tu-hành, đừng để cho thối-chuyển”...
Nói khái-quát lại:
- Càng đi sâu vào thời mạt-pháp, chúng-sanh thì nghiệp nặng,
thế-giới thì nạn-tai... Cảnh nước lửa lầm-than đã thấy hiện ra trước mắt.
Thời buổi nầy, thật ra còn không nên có sự phân-biệt giữa các
tôn-giáo, huống chi là các tôn-phái trong đạo Phật ư !
Hiện nay các tôn-giáo đều thi nhau dong con thuyền tế-độ giữa
cảnh sóng-gió, trầm-luân:
- Thần-đạo thì độ thuộc-phái(79) trở về cảnh-giới Thần.
- Tiên-đạo thì độ các người có căn Tiên.
- Còn Phật-đạo, tất-nhiên phải khuyên các hữu-duyên nhơn về
nơi Phật-cảnh.
ÐÔI
LỜI KẾT-YẾU.
Qua các đoạn trên ...
Tệ-nhơn(80) đã trình-bày môn Tịnh-độ qua bốn yếu-điểm, luận về
NGƯỜI và CẢNH thời nay cùng khái-lược lên các điều quan-yếu để
phụng-khuyến các bạn đồng tu trong biển mê, tối trầm-luân cùng hướng bước
về nẻo sáng-suốt, an-lành của pháp-môn Tịnh-độ ...
Và đó là phần lý-thuyết ...
Còn phần thực-hành (SỰ) sẽ có nghi-thức ở chương sau.
Trong khi trình-luận, có một vài điểm đề-cập đến giới-hạn giữa
TỊNH và THIỀN, ấy cũng bởi-vì lý-do bất đắc-dĩ và cần-thiết sau đây:
1. Vì có ít vị tu-học Thiền, bài-bác việc tụng-kinh, niệm Phật
qua nhiều điểm, khiến cho đa-số Phật-tử bối-rối, hoang-mang hỏi đến, nên
bất đắc-dĩ phải biện-minh.
2. Vì nương theo gót từ-bi của Phật và chư tôn-đức, đã nói về
pháp tu hợp thời-cơ để làm lợi-ích cho người học-đạo, nên cần-thiết phải
giải-thích.
Bởi-vì nếu:
- Nói pháp (tu) chẳng hợp thời-cơ, tất chúng-sanh sẽ chìm
trong bể-khổ (thuyết-pháp bất đậu-cơ, chúng-sanh một khổ-hải).
*
Thật ra tệ-nhơn tôi rất mến-thích Thiền-tông và có-thể bảo là
có căn-cơ về môn ấy.
Nói mến-thích vì Thiền-tông có những đặc-điểm của nó.
Chẳng-hạn như sau:
- Khi có học-giả đến hỏi một Thiền-sư rằng:
- Thế nào là đạo ?
- Sư đáp:
Một áng khói mây phong cửa động,
Muôn chim về tổ chợt mê đường (81)
Chỉ dùng
hai câu vừa văn-nhã, vừa giản-dị bao-quát để phá những khái-niệm phân biệt
về đạo, đưa vào chân-tâm. Thiền-tông đã tỏa ra một hương vị thanh-thoát
rồi.
Lại như câu chuyện:
...
Khi ngài Pháp-Nhãn hỏi Như-Tắc Thiền-sư rằng:
- Sao chưa từng thấy giám-viện phỏng-đạo ?
Như-Tắc đáp rằng:
- Tôi đã có chỗ sở-nhập do sư Thanh-Lâm khai-thị, vì khi tôi
hỏi:
- Thế nào là đạo ?
Sư Thanh-Lâm đáp:
- Bính-Ðinh đồng-tử đi tìm lửa.
- Ngài Pháp-Nhãn nghe xong, bảo rằng:
- Khá hay, nhưng e ông chưa hiểu, vậy hãy bày-tỏ chỗ
kiến-giải(82) xem sao ?
- Như-Tắc thưa rằng:
- Bính, Ðinh (là hai can trong thập can) thuộc về hành HỎA -
tức là lửa - Ðem lửa đi tìm lửa cũng như chính mình là PHẬT mà lại đi tìm
PHẬT vậy.
Ngài Pháp-Nhãn nói:
- Quả-nhiên Giám-viện hiểu sai rồi !
Như-Tắc nghe chê nhưng không tỏ ra sắc giận chi cả, quay mình
bỏ đi.
Ngài Pháp-Nhãn bảo thị-giả rằng:
- Người nầy nếu trở lại thì cứu được, bằng không chắc chẳng thể
cứu-độ
- TẮC Thiền-sư đi được một đoạn đường, bỗng-nhiên động tâm suy
nghĩ:
- Ông ấy là bậc Thiện tri-thức của 500 vị (tăng), chẳng
lẽ lại đi trêu ghẹo mình sao ?
Liền trở
lại, sám-hối và cầu khai-thị.
Ngài
PHÁP-NHÃN bảo NHƯ-TẮC Thiền-sư đề khởi lại câu hỏi trước.
TẮC
thiền-sư quỳ đảnh-lễ, thưa rằng:
- Bạch Tôn-đức, thế nào là PHẬT ?
PHÁP-NHÃN đáp:
- BÍNH-ÐINH đồng-tử đi tìm lửa.
Nghe
xong NHƯ-TẮC chợt tỏ ngộ.
(Ðến đây người chú-giải xin dừng lại một chút để làm sáng tỏ
lên cái ý-nghĩa của đoạn văn khai-thị nầy hầu cho chư Phật-tử ngộ-nhập vào
trong ý của Tổ-sư, như sau:
1. Trong lần đầu TẮC thiền-sư hiểu lầm câu khai-thị của
THANH-LÂM sư: BÍNH-ÐINH đồng-tử đi tìm lửa, cho nên sanh tâm cao ngạo,
tự-nghĩ rằng mình đã có Phật-tánh sẵn rồi - mình đã là Phật rồi - còn lạy
Phật, niệm Phật, cầu tìm thêm Phật nữa mà làm chi !
(Ðây
gọi là tăng thượng mạn.)
2. Qua lần thứ hai cũng được PHÁP-NHÃN thiền-sư khai-thị lại
câu:
“BÍNH-ÐINH đồng-tử đi tìm lửa” nữa - nhưng lần nầy thì
TẮC thiền-sư lại được mở-mang trí-huệ mà hiểu rằng:
a. BÍNH-ÐINH đồng-tử tuy là đã có lửa sẵn đấy, nhưng
lửa ấy đã bị gió vô-minh thổi tắt từ lâu rồi - Bây giờ phải đi tìm chỗ có
“NGUỒN” lửa mà “MỒI” cho nó cháy lại.
b. Tuy rằng mình có sẵn Phật-tánh đó, nhưng cái
Phật-tánh kia của mình nó đã bị vô-minh, ái-dục vv... vùi sâu xuống dưới
đất đen rồi. Bây giờ cần phải tìm Phật, lạy Phật, tu theo Phật (Cho Lý-Sự
viên-dung) thì Phật-tánh kia mới lộ bày ra được.
Kinh
dạy:
... Trong khi chưa chứng Diệu Bồ-Ðề,
Thời phải tu-hành tất-cả hạnh ...
Tức
là:
- Khi mà mình chưa chứng được Diệu-quả Bồ-đề - chưa thành Phật
- thì các hạnh lớn nhỏ gì cũng phải siêng-cần tu tập hết chớ không được
buông bỏ hay là coi thường bất-cứ một pháp môn nào cả.
Lại
nữa, kinh PHÁP-CÚ dạy:
- Chớ coi thường những điều lành nhỏ (mà không làm) - Phải biết
một giọt nước tuy là nhỏ (xíu) nhưng mà nếu nó cứ mãi nhỏ (xuống) lâu
ngày, thì bình lớn cũng phải đầy.
Cũng thế:
- Nhiều Pháp nhỏ kết lại thành một pháp to (Ðại pháp của
Ðại-thừa) rồi dần-dần sẽ chứng được thành Phật quả.)
@
Lối giải đáp của ngài PHÁP-NHÃN là đáp đúng ngay vào ý-thức tìm
cầu về Phật đã có sẵn của NHƯ-TẮC thiền-sư, hốt-nhiên đưa TẮC sư vào trong
cảnh-giới siêu-thức.
Cảnh-giới tỏ-ngộ ấy sâu hay cạn và như thế nào ... đều không
thể dùng lời nói hay tâm-tư mà có thể đến được, chỉ do đương-nhơn tự biết
lấy, như chính mình thể-nhận khi uống nước hoặc nóng hoặc lạnh mà thôi.
Và đây cũng lại là một hương-sắc thơm đẹp của bên Thiền vậy:
Còn nói: - Có căn về Thiền - vì tệ-nhơn lúc trẻ tuổi còn đang
trên đường học đạo, một hôm đứng tựa gốc cây, bỗng-nhiên muôn niệm đều
tiêu-tan, tâm cảnh thoạt vào cõi rất mực an-tĩnh, nhẹ-nhành, sáng-suốt ...
Cảnh thoát trần ấy không thể diễn-tả được, chỉ kéo dài không đầy năm phút.
Khi hoàn lại trạng thái cũ, tệ nhơn tôi suy-nghĩ và biết đó là
túc-tập(83) về tu Thiền trong một tiền-kiếp nào đó của mình.
Từ ấy tệ-nhơn thường ưa-thích thiền, tư, tĩnh-tọa.
Trên bước đường tu, tuổi càng lớn, sự lịch-duyệt càng sâu, tự
xét mình thiện căn tuy có song hoặc-nghiệp hãy còn nhiều, lối luận-thuyết
cao-siêu cùng sự hiểu biết chút ít về đạo không thể nào đưa đến sự
giải-thoát được - Do đó nên lần-lần hướng về Tịnh-độ, sám-hối, niệm Phật,
cầu nguyện lực Như-Lai hộ trì, tiếp dẫn.
@
Ðến nay, ...........
Thành-thật mà nói:
- Gương tánh hãy còn mờ, gót tu chưa ổn, căn-thân chẳng tịnh,
hạnh-kiểm còn sơ.
- Soi gương Cừ Bá-Ngọc(84), hơn năm mươi vẫn còn thấy lỗi-lầm.
- Hướng gót Triệu-Châu(85), tuổi tám-chục vẫn còn mong học hỏi.
- Với danh-phận xuất-gia, tự thấy còn chưa xứng-đánh, chẳng qua
trên cương-trường, hoằng-hóa, phải cố-gắng đóng cho trọn vai-tuồng của
mình đó mà thôi.
Nhìn về tương-lai,
Xét về bổn-phận,
Xin mượn hai câu thơ sau đây để tự diễn-tả:
Quý Tử áo thô nhiều vẻ thẹn,
Lưu-lang suối cũ luống bàng-hoàng. (86)
Phương-Liên Tịnh-xứ
Liên-Du - Vô-Nhất Tăng.
Thích Thiền-Tâm
Cẩn chí.
Kính-mừng:
ÐỨC-HẠNH rạng-ngời,
Hoằng-khai tông TỊNH,
Giúp đời độ-sanh.
NGÀI nay:
Ðạp lối sen thanh,
Kim-đài thượng-phẩm,
An-lành thiên-thu.
CHÚC-CÂU:
LẠC ÐẠO VÔ-ƯU.
Ðồ-tôn
Ưu bà-di BẢO-ÐĂNG
(Cung-tặng)
TỊNH - ÐỘ THI ......
Thân tàn quang-cảnh có bao mà,
Bọt nước làn sương một sát na !
Gió lạnh riêng thương thu quạnh-quẻ,
Lá khô những xót tuổi suy già.
Tấm lòng để sạch, hư-danh mật,
Tay chuỗi lần theo tiếng PHẬT qua.
Trân-trọng khuyên ai nên gắng-sức,
Chớ cho muôn kiếp lụy TA-BÀ
Liên-Tông
thập nhứt TỔ
THIỆN-HIỀN
Ðại-sư.
--------------
Ghi-chú:
(1)-
Hai câu thơ trên ý nói:
- Ðừng
ngại gian-khổ mà lui chí tu-hành - Kìa chín phẩm sen nơi miền Cực-Lạc vô
cùng rực-rõ và mầu-nhiệm biết bao.
(2)-
Phi-lộ: Là lời nói phụ thêm phần ngoài truyện của một quyển sách
...
- Phụng-khuyến: Lời khuyến-nhắc của người dưới đối với
người trên trước. Ðây chỉ cho ý khiêm-hạ của cố Hòa-thượng soạn-giả đối
với chư Phật-tử, bổn-đạo.
(3)-
Tịnh-độ: Cõi nước thanh-tịnh, đây là chỉ cho cõi nước Cực-lạc của
đức A-DI-ÐÀ Phật. Trái với "uế độ" là cõi nước có ngũ-trược (ác thế)
như cõi Ta-bà nầy của chúng ta là một.
(4)-
Ba-căn: là ba căn-tánh của chúng-sanh trong hàng Tứ-Thánh,
lục-phàm.
a. Thượng-thượng căn: Gồm có các vị đại Bồ-tát như Văn-Thù,
Phổ-Hiền. vv....
b. Thượng Trung-căn: Gồm có các bậc ở ngôi-vị Duyên-Giác.
c. Thượng Hạ-Căn: Gồm có các bậc ở ngôi-vị Thanh-Văn.
Ðây là 3
căn-tánh của các chúng-sanh ở ngôi-vị giải-thoát của hàng Tứ-Thánh.
Sau đây
là 3 căn-tánh của chúng-sanh trong cõi lục-phàm:
a. Thượng-căn: Là căn-tánh của trời, Thần.
b. Trung-căn: Là căn-tánh của Người (nhơn-đạo).
c. Hạ-căn: Là căn-tánh của chúng-sanh nơi nẻo Ðịa-ngục,
ngạ-quỷ, súc-sanh.
Riêng về
nhơn-đạo (nẻo người) căn-tánh cũng được chia ra làm 3 loại:
- Thượng-căn: Như các bậc Tổ-sư đắc đạo.
- Trung-căn: Như các người có trí thông-minh, hiểu biết rõ về
đạo-lý và chăm lòng tu-tập.
- Hạ-căn: Của các người còn nặng-nề và đầy-đủ tham, sân, si,
phiền-não, không chịu tu-hành, không thông đạo-lý.
(5)-
Tự-lực: Tự sức mình tu-tập (như bên Thiền-tông).
(6)-
Tha-lực: Nương nơi sự trợ-lực của chư Phật, chư Bồ-tát gia-hộ.
Pháp-môn Tịnh-độ nầy gồm đủ cả hai phần TỰ-LỰC và THA-LỰC. Vì tự mình
chăm lòng chịu khó niệm-Phật (Tự-lực) và nương nơi nguyện lực
tiếp-độ của đức Phật A-DI-ÐÀ (Tha-lực) trong 48 đại-nguyện vương
của ngài.
(7)-
Hợp với thời-tiết cơ-duyên: Ý nói là vào thời buổi mạt pháp nầy
căn-cơ chúng-sanh hầu-hết đều ở bậc Hạ-căn còn nặng-nề phiền-não.
(8)-
Chân-tâm: Tức là Phật-tánh.
(9)-
Chân không: Là cái không chân-tánh (Thập bát không) của chư
Phật, Bồ-tát.
(10)- Thiên-không: Là cái không nghiêng-lệch, méo-mó trống-rỗng,
sai lầm của ngoại-đạo, tà-giáo.
(11)- Sự-tướng: Tức là phần
trì-niệm (hành-trì) của ta mỗi ngày, như ngày lễ 6 thời, 4 thời, 3
thời vv...
(12)- Huyễn-sắc: là cái có
sắc-tướng: Ðây là chỉ cho cái SỰ.
(13)- Chân-không: Là cái
không có sắc-tướng: Ðây là chỉ cho cái LÝ (chân-lý, tánh-thể).
Câu: "Huyễn-sắc tức là
chân không" đây là chỉ cho:
SỰ và LÝ đều
như nhau (viên-dung).
Bởi vì:
- SỰ
chứng-minh cho LÝ.
- LÝ dẫn
đường cho SỰ.
Như bản-đồ của một bộ máy (vẽ trên
giấy) là LÝ - còn bộ máy (sau khi đã chế-tạo xong) là SỰ - như
vậy thì có thể nói rằng:
Trong bộ máy nầy có đầy-đủ
cả LÝ (thuyết) và SỰ (thực-hành) vậy (như thế mới thành
diệu-dụng được)
Trong đường TU cũng thế,
tức là cái LÝ (thuyết) cần phải đi đôi với cái SỰ (thực-hành)
thì mới THÀNH-ÐẠO và GIẢI-THOÁT được.
(14)- Liễu-đạt: Người hiểu rõ
LÝ và chứng được đạo.
(15)- Trái hồ-lô: Là trái
bầu (già chín và rỗng ruột) người xưa thường dùng để làm bình đựng
nước, đựng rượu hoặc là thuốc (tiên-đơn).
(16)- Tham-phỏng: đi cầu học
đạo-pháp nơi các danh-sư khác (du-phương học đạo).
(17)- Sau khi được ngài
Ðức-Vân Bồ-tát truyền dạy môn Niệm-Phật tam-muội nầy rồi thì THIỆN-TÀI
đồng-tử liền chứng được quả-vị SƠ-TRỤ trong hàng THẬP-TRỤ Bồ-tát.
(17b)- Trong 10 nguyện-vương
nầy có lời nguyện thứ hai như sau:
"Nhị giả xưng-tán Như-Lai"
Nghĩa là: Nguyện thứ hai
là NIỆM PHẬT (xưng-tán Như-lai tức là Niệm Phật).
(18)- Quyển Tịnh-độ
thánh-hiền-lục nầy đã được hai đại tôn-sư của Phật-giáo Việt-Nam ta dịch
ra dưới đề tựa là:
- Ðường về Cực-lạc
(Hòa-thượng Thích Trí-Tịnh - Tu-viện Vạn-Ðức - Thủ-Ðức).
- Mấy điệu sen-thanh
(Hòa-thượng Thích Thiền-Tâm - Phương-Liên và Hương-Nghiêm Tịnh-độ
đạo-tràng - Lâm-Ðồng, Ðà-lạt).
(19)- Bảo-phiệt: là một môn
bảo-kiếp cực-kỳ quý-báu.
(20)- Huyền-môn: pháp-môn tu
học rất là huyền-diệu.
(21)- Ấn-Quang đại-sư: là vị
Tổ thứ 13 trong tông Tịnh-độ.
(22)- Các loài cá lớn nhỏ:
Ðây là ý nói các chúng-sanh từ thượng-căn (cá lớn) - cho đến hạ-căn
(cá nhỏ), đều nhớ nơi pháp-môn Tịnh-độ nầy mà được giải-thoát.
(23)- Lâm-chung: Là mãn phần,
chết.
(24)- Ði, đứng, nằm, ngồi:
Gọi là "Tứ oai-nghi" của người tu-tập. Sở-dĩ gọi là oai-nghi vì qua bốn
cách đi, đứng, nằm, ngồi nầy người khác nhìn vào có thể hiểu được giá-trị
và tâm-tánh của (người) đối-tượng.
(25)- Chánh ức-niệm Tam-muội:
Là một pháp-môn chánh-định chuyên tưởng nhớ đến PHẬT không lúc nào quên.
(26)- Hành-giả: là người
hành-trì, đây là chỉ cho mình trong (khi) đang tu-tập vậy.
(27)- Phật-độ: tức là
thế-giới của một vị Phật - Như cõi Ta-bà gồm có đại-thiên thế-giới (một
ngàn triệu (1 tỷ) châu TỨ thiên-hạ) là (một) Phật-độ của
đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Cực-Lạc thế-giới là Phật-độ của đức A-DI-ÐÀ
PHẬT. vv...
(28)- Lục-thông La-Hán: là
sáu phép thần-thông của bậc A-LA-HÁN, ấy là:
- Thiên-nhãn thông (mắt
thấy phi-thường).
- Thiên-nhĩ thông (tai
nghe phi-thường).
- Thần-túc thông (đi,
đứng và dạo chơi vô-ngại khắp trên hư không xa gần).
- Túc-mạng thông (trí
nhớ biết quá khứ, vị-lai phi-thường).
- Tha-tâm thông (trí
biết được tâm-tưởng của người, vật, thần, tiên, vv... khác).
- Lậu-tận thông (dứt
hết phiền-não, trói-buộc, ngã và ngã sở ...)
(29)- Hoặc-nghiệp: là các
nghiệp-duyên phiền-não (hoặc quá khứ, hoặc hiện-tại) trói buộc.
(30)- Thắng-duyên: là
nhân-duyên cao siêu nhất không còn chi hơn nữa.
(31)- Ðẳng-Giác bồ-tát: là
các Bồ-tát ở vào ngôi-vị Nhất-sanh bổ-xứ như ngài Di-Lặc, Văn-Thù ...
(32)- Kiến đây tức là
"Kiến-hoặc": là cái thấy biết sai lầm của chúng-sanh trong 3 cõi
Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc giới.
Kiến-hoặc nầy là do sự
vọng-chấp của ý-thức mà sanh ra, nên có tên là "phân-biệt hoặc" - do nơi
mê LÝ mà có.
Căn-bản của kiến-hoặc là
do "Thập-sử" phối-hợp với "Tứ-đế" nơi "3 cõi" (Dục-giới - Sắc-giới -
Vô-sắc giới) mà thành, gồm có cả thảy là 88 hoặc - Theo như chi-tiết
sau đây:
a. Thập-sử là:
- Tham,
sân, si, mạn, nghi (5 độn sử).
-
Thân-kiến, biên-kiến, tà-kiến, kiên-thủ kiến, giới-thủ kiến (5 lợi sử).
Mười món "SỬ" nầy nó chỉ-huy và
sai-sử chúng-sanh như là chủ-nhân sai-sử tôi-tớ vậy.
b. Tứ-đế là:
Khổ-đế, tập-đế, diệt-đế, đạo-đế.
c. Ba cõi là:
Dục-giới thiên, Sắc-giới thiên, Vô-sắc giới thiên.
Sau đây là biểu-đồ của 88 món
kiến-hoặc trong 3 cõi:
1. Cõi Dục-giới:
- Khổ-đế
(có đủ 10 món) là: Tham, sân, si, mạn, nghi, thân-kiến, biên-kiến,
tà-kiến, kiên-thủ kiến, giới-thủ kiến.
- Tập-đế (có 7 món)
là: Tham, sân, si, mạn, nghi, tà-kiến, kiên-thủ kiến.
- Diệt-đế (có 7 món):
giống như tập-đế.
- Ðạo-đế (có 8 món)
là: Tham, sân, si, mạn, nghi, tà-kiến, kiên-thủ kiến, giới-thủ kiến.
Như vậy cõi Dục-giới có 32
kiến-hoặc trói buộc chúng-sanh vào trong sanh-tử.
2. Cõi Sắc-giới:
- Khổ-đế (có 9 món)
là: Tham, si, mạn, nghi, thân-kiến, biên-kiến, tà-kiến, kiên-thủ kiến,
giới-thủ kiến. (không có sân).
- Tập-đế: (có 6
món): tham, si, mạn, nghi, tà-kiến, kiên-thủ kiến.
- Diệt-đế: (có 6 món)
giống như ở Tập-đế.
- Ðạo-đế: (có 7 món)
là: Tham, si, mạn, nghi, tà-kiến, kiên-thủ kiến, giới-thủ kiến.
Vậy ở cõi Sắc-giới có cả-thảy là
28 món kiến-hoặc.
2. Cõi Vô-sắc giới:
- Khổ-đế: y như khổ-đế
của Sắc-giới. (có 9 món).
- Tập-đế: y như tập của
Sắc-giới (có 6 món).
- Diệt-đế: y như
Diệt-đế của Sắc-giới (có 6 món).
- Ðạo-đế: y như Ðạo-đế
của Sắc-giới (có 6 món).
Vậy ở cõi Vô-sắc giới có cả thảy
là 28 món kiến hoặc.
Chú-ý:
Nơi 2 cõi Sắc-giới
và Vô-sắc giới không có SÂN vì chư thiên nơi 2 cõi nầy đều sống trong
định, có hỷ, có lạc, nên không khởi ra SÂN-HẬN.
Ở cõi Dục-giới:
- Khổ-đế vì là QUẢ khổ nên
có đủ 10.
- Tập-đế vì đây thuộc về
NHÂN khổ nên chỉ có 7 mà thôi.
- Diệt-đế vì đây thuộc về
QUẢ XUẤT-THẾ nên cũng chỉ có 7.
- Ðạo-đế vì là phần
tu-hành nên chỉ có 8.
Lời chú-thích riêng: Vì 3 cõi
Dục-giới, Sắc-giới, và Vô-sắc giới cũng còn nằm trong vòng sanh-tử và 6
nẻo luân-hồi - chớ chưa được giải-thoát - nên vẫn bị lệ-thuộc vào
"thập-sử" và "Tứ-đế" khi nào thành được A-la Hán trở lên (hoặc như
Duyên-giác ...) thì mới thoát khỏi 10 sử và bốn đế nầy.
TƯ-HOẶC: Còn có tên là
"Câu-sanh hoặc" do nơi mê SỰ (tức là đắm nơi các trần: Sắc, thanh,
hương, vị xúc, ...) mà sanh ra. Goiï là "Câu-sanh hoặc". Sở-dĩ có
tên "Câu-sanh hoặc" nầy là vì hễ có ta là có nó. NÓ với TA đồng sanh ra
một lượt (Câu-sanh).
Phải đắc quả A-LA-HÁN trở
lên mới trừ được các món Tư-hoặc hay là Câu-sanh hoặc nầy được.
Tư-hoặc nầy cũng căn-cứ
vào nơi 10 món kiết-sử mà sanh ra.
Tư-hoặc nầy được
phân-bố ra như sau:
- Dục-giới: Có 4 món
(tư-hoặc) là: Tham, sân, si, mạn.
- Sắc-giới: (có 3 món)
là: Tham, si, mạn (cũng không có sân).
- Vì 2 cõi Sắc-giới và
Vô-sắc giới, thiên-chúng luôn sống trong thiền-định nên không có sân.
Các món Tư-hoặc này
chia ra làm 3 loại:
- Nhiễm nặng quá thì gọi
là bậc THƯỢNG.
- Nhiễm vừa-vừa thì gọi là
bậc TRUNG.
- Nhiễm mõng, nhẹ, ít thì
gọi là bậc HẠ.
- Bậc THƯỢNG nầy cũng
lại chia ra làm 3 loại là:
Thượng-Thượng,
Thượng-Trung-Thượng-Hạ.
- Bậc TRUNG nầy cũng
lại chia ra làm 3 loại là:
Trung-Thượng, Trung-Trung,
Trung-Hạ.
- Bậc HẠ nầy cũng lại
chia ra làm 3 loại là:
Hạ-Thượng, Hạ-Trung,
Hạ-Hạ.
Như vậy là 3 món TƯ-HOẶC
THƯỢNG, TRUNG, HẠ nầy cộng lại gồm có:
9 bậc hay là 9 phẩm - 9
phẩm nầy phối-hợp với 9 địa của 3 cõi DỤC - SẮC - VÔ-SẮC như sau:
a. Dục-giới: Có 1
địa duy-nhất là NGŨ THÚ TẠP CƯ ÐỊA (tức là 5 loài): Trời, người,
địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh - cùng chung nhau ở.
Gồm có: 9 phẩm
Tư-hoặc (3 Thượng, 3 Trung, 3 Hạ)
b. Sắc-giới:
Có 4 địa là:
1. Trời Sơ-thiền -
ly-sanh hỷ-lạc địa: Có 9 phẩm tư-hoặc (như trên).
2. Trời Nhị-thiền -
Ðịnh sanh hỷ-lạc địa: Có 9 phẩm tư-hoặc (như trên).
3. Trời Tam-thiền -
ly-hỷ diệu-lạc địa: Có 9 phẩm tư-hoặc (như trên).
4. Trời Tứ-thiền - Xả
niệm thanh-tịnh địa: Có 9 phẩm tư-hoặc (như trên).
c. Trời Vô-sắc giới:
có 4 địa là:
1. Không vô-biên xứ địa
(có 9 phẩm tư-hoặc Thượng, Trung, Hạ như trên).
2. Thức vô-biên xứ địa
(có 9 phẩm tư-hoặc như trên).
3. Vô sở-hữu xứ địa
(có 9 phẩm tư-hoặc như trên).
4. Phi-tưởng, phi-phi
tưởng xứ địa (có 9 phẩm tư-hoặc như trên).
Như vậy, nhơn tất-cả 9
địa lại thì thành ra có:
- 9 x 9 = 81 phẩm
(hoặc là 81 món) tư-hoặc. Phải đoạn cho hết 81 món tư-hoặc nầy thì
mới thành bậc A la-hán và giải-thoát ra ngoài ba cõi tử-sanh được.
TRẦN-SA HOẶC.
Trần-sa Hoặc: Trần là bụi
- Sa là cát.
Ðây là những cái mê-lầm
nhỏ như cát-bụi, do mê nơi pháp-chấp mà ra. Bởi vì sau khi chứng-quả A-la
Hán, đoạn được kiến-hoặc tư-hoặc (như đã nói ở trên rồi), nếu muốn
thành bậc Ðại-thừa Bồ-tát thì phải đoạn thêm hai cái hoặc Trần-sa và
vô-minh nữa.
Vì bậc A-la Hán dùng
(mắt huệ-nhãn) nhìn ra ngoài thì thấy những cái mê-lầm của chúng-sanh
nhiều như cát-bụi (trần-sa) nên sanh tâm chán-ngán, không muốn ra
hoằng-pháp, lợi-sanh, ôm giữ cái Niết-bàn Tiểu-thừa của mình vừa chứng
được mà vào trong cõi tịch-diệt luôn.
Tại sao vậy ?
Vì quý-vị
"Tiểu-thừa thánh nhơn" chưa hiểu thấu nghĩ-lý:
"THỊ CHƯ PHÁP
KHÔNG TƯỚNG"
Nên còn thấy có pháp (tức là
pháp-chấp) mà mình tu để thủ - Tức là "Tứ-đế" hoặc "Thập nhị
nhân-duyên" vv..., còn thấy có Niết-bàn mình chứng-đắc để nhập-diệt. Vì
thế nên không thể nào thành Bồ-tát và Phật được.
VÔ-MINH HOẶC:
- Vô-minh là không sáng
(tức là tối), là mê lầm, là chưa rõ được bổn-thể chơn-tâm vốn là
"KHÔNG", là vô-tướng, là siêu quá tam thế vv..., Còn hoặc là các sự
trói-buộc là gút-mắt ...
- Ðây là một sự "mê-lầm
nguồn-gốc" của tất-cả các loại mê-lầm, tức là "Ông-tổ" của tất-cả các thứ
điên-đảo, vọng-tưởng vậy. Kinh gọi là "CĂN-BỔN VÔ-MINH". Nó cực-kỳ vi-tế
(nhỏ-nhiệm đến nổi không thể nào thấy, biết hay tưởng-nghĩ được cả)
chỉ có cái TRÍ-HUỆ BA-LA MẬT của Bồ-tát mới nhìn thấy được nó.
Loại "Vô-minh hoặc" nầy
(chỉ thấy, biết được) khi nào đã phá hết tất-cả các "TRẦN-SA HOẶC"
rồi, thì nó mới hiển-hiện ra mà thôi.
Theo cách tu-chứng của
"Ðại-thừa" thì cách phá "VÔ-MINH hoặc" nầy phải lần-lượt trải qua các
giai-đoạn sau đây:
1. Phải hoàn-mãn 10
giai-vị THẬP-TÍN Bồ-tát (Tức là 10 cái đức TÍN (tin) như sau:
Tín-tâm, Niệm-tâm, Tinh-tấn tâm, Huệ-tâm, Ðịnh-tâm, Bất-thối tâm, Hộ-pháp
tâm, Hồi-hướng tâm, Giới tâm, Nguyện tâm) - Chứng được 10 bậc TÍN nầy
thì đã dứt xong được tất-cả các "TRẦN-SA hoặc" rồi. Kế đó ...
2. Qua đến 10 giai-vị
của bậc THẬP-TRỤ Bồ-tát là: Phát-tâm trụ, Trì-địa trụ, Tu-hành trụ,
Sanh quí trụ, Phương-tiện cụ-túc trụ, Chánh-tâm trụ, Bất-thối trụ,
Ðồng-chơn trụ, Pháp-vương tử trụ, Quán-đảnh trụ.
Cứ lên được một bậc TRỤ
(như từ "Phát-tâm trụ" lên "Trì địa trụ", từ "Trì địa trụ"
lên "Tu-hành trụ") vv ... Như vậy thì PHÁ được một phần VÔ-MINH và
chứng được một phần PHÁP-TÁNH (pháp tánh tức là CHƠN-TÁNH gồm có 3 phần
là: PHÁP-THÂN, BÁT-NHÃ, và GIẢI-THOÁT).
Như vậy thì giai-vị
THẬP-TRỤ BỒ-TÁT có 10 lần phá VÔ-MINH, và chứng được 10 phần pháp-thân.
3. Qua đến 10 giai-vị
của bậc THẬP-HẠNH Bồ-tát là: Hoan-hỷ hạnh, Nhiêu-ích hạnh, Vô sân-hận
hạnh, Vô-tận hạnh, Ly si-loạn hạnh, Thiện-hiện hạnh, Vô-trước hạnh,
Tôn-trọng hạnh, Thiện-pháp hạnh, Chơn-thật hạnh.
Cứ lên được một bậc HẠNH
(thí-dụ như từ "Hoan-hỷ hạnh" lên "Nhiêu-ích hạnh", Từ
"Nhiêu-ích hạnh" lên "Vô sân-hận hạnh" vv...) như vậy thì PHÁ
thêm được một phần VÔ-MINH và chứng thêm được một phần PHÁP-TÁNH.
Hoàn-mãn được 10 giai-vị
của THẬP-HẠNH Bồ-tát nầy xong rồi, thì phá thêm được 10 phần VÔ-MINH và
chứng thêm được 10 phần PHÁP-TÁNH nữa.
4. Qua đến 10 giai-vị
THẬP HỒI-HƯỚNG Bồ-tát là: Cứu-hộ chúng-sanh, ly chúng-sanh tướng
hồi-hướng, Bất-hoại hồi-hướng, Ðẳng nhứt-thiết chư PHẬT hồi-hướng, Chí
nhứt-thiết xứ hồi-hướng, Vô-tận công-đức tạng hồi-hướng, Tùy-thuận
bình-đẳng thiện-căn hồi-hướng, Tùy-thuận đẳng quán nhứt-thiết chúng-sanh
hồi-hướng, Chơn-như tướng hồi-hướng, Vô-phược giải-thoát hồi-hướng,
Pháp-giới vô-lượng hồi-hướng.
Cứ lên được một bậc
HỒI-HƯỚNG (thí-dụ như Từ "Cứu-độ chúng-sanh ly chúng-sanh tướng
hồi-hướng" lên "Bất-hoại hồi-hướng", Từ "Bất-hoại hồi-hướng"
lên "Ðẳng nhứt-thiết chư PHẬT hồi-hướng" vv...) như vậy, thì
PHÁ thêm một phần VÔ-MINH và chứng thêm một phần PHÁP-TÁNH.
Hoàn-mãn được 10 giai-vị
THẬP HỒI-HƯỚNG Bồ-tát nầy xong rồi, thì phá thêm 10 phần VÔ-MINH và chứng
thêm được 10 phần PHÁP-TÁNH nữa.
5. Qua đến 10 giai-vị
THẬP-ÐỊA Bồ-tát là: Hoan-hỷ địa, Ly-cấu địa, Phát-quang địa, Diễm-huệ
dịa, Cực nan thắng địa, Viễn-hành địa, Bất-động địa, Thiện-huệ địa,
Pháp-vân địa.
Cứ lên được một bậc ÐỊA
(thí-dụ như từ "Hoan-hỷ địa" lên "Ly-cấu địa" từ "Ly-cấu
địa" lên "Phát-quang địa" vv...) như vậy, thì PHÁ thêm được một
phần VÔ-MINH và chứng thêm được một phần PHÁP-TÁNH.
Hoàn-mãn được 10 giai-vị
của THẬP-ÐỊA Bồ-tát nầy xong rồi thì phá thêm được 10 phần VÔ-MINH và
chứng thêm được 10 phần PHÁP-TÁNH nữa.
6. Lên đến giai-vị
Bồ-tát thứ 51 sau cùng là "ÐẲNG-GIÁC BỒ-TÁT", thì bấy giờ mới dùng cái
trí "KIM-CƯƠNG BÁT-NHÃ" phá "sạch bách" hết cái "sanh-tướng Vô-minh vi-tế"
tối-hậu.
Ðến đây thì hoàn-mãn
tất-cả các hạnh Bồ-tát và :
- CHỨNG ÐƯỢC GIAI-VỊ THỨ
52 Sau cùng hết là:
"NHƯ-LAI, ỨNG-CÚNG,
ÐẲNG CHÁNH-GIÁC".
PHẦN PHỤ GIẢI THÊM:
Xin lưu-ý quý chư hiền-học PHẬT 2
điều sau đây:
1. Hai phần KIẾN-HOẶC
và TƯ-HOẶC nếu như chưa trừ được thì vẫn còn bị chiêu-cảm lấy cái thân
"PHẦN-ÐOẠN SANH-TỬ" (Phần là từng phần, đoạn là từng giai-đoạn)
trong 3 cõi Dục, sắc, vô-sắc. Tức là sau khi chết, bỏ thân nầy rồi thì
đầu thai lại mang thân khác, kiếp khác, đời khác vv...
Thí-dụ như: Thân
Tu-Ðà-Hoàn thứ nhất chết rồi thì đầu thai qua kiếp khác, lấy thân
Tu-đà-hoàn thứ 2 ... cho đến thứ 7 vv..., rồi thân Tu-đà-hoàn thứ 7 chết
đi, kế lại đầu thai nữa lấy thân TƯ ÐÀ-HÀM vv...
(Ðây là nói theo thứ-tự
thông-thường của Tiểu-thừa thánh-nhơn quả-vị", ngoài ra cũng còn có những
trường-hợp đặc-biệt như là từ thân TU-ÐÀ-HOÀN không cần phải chết, liền
chứng luôn quả A-LA-HÁN hiện-tiền như các vị đại A-la-Hán hồi PHẬT còn tại
thế, quý ngài MA-HA-CA-DIẾP, XÁ LỢI-PHẤT, MỤC KIỀN-LIÊN, vv...)
- Còn nếu như dứt trừ xong
được 2 phần KIẾN-HOẶC và TƯ-HOẶC nầy rồi thì không còn phải thọ thân "PHẦN
ÐOẠN Sanh-tử" nữa. Có thể nhập vào VÔ-DƯ NIẾT-BÀN luôn (nếu muốn)
vĩnh-viễn chấm-dứt sự luân-hồi, sanh-tử.
2. Kế nữa nếu như đã
đoạn xong được: TRẦN-SA HOẶC (của THẬP-TÍN) và VÔ-MINH-HOẶC
(từ THẬP-TRỤ trở lên...) thì không còn thọ thân "Phần-đoạn sanh-tử
nữa mà chỉ còn chiêu-cảm (thọ) lấy thân "BIẾN DỊCH SANH-TỬ ngoài ba
cõi (DỤC, SẮC, VÔ-SẮC) thôi.
Thân "BIẾN-DỊCH" tức là
thân biến-hóa để thay-đổi thứ-bậc, giai-vị từ thấp đến cao - Nghĩa là cũng
chỉ dùng có một thân đó mà biến-đổi thành ra thân khác, đẹp hơn,
thắng-diệu hơn, thần-thông, đạo-lực và quả-vị cao hơn chớ không có TỬ nữa
(hết còn lệ-thuộc vào TỬ MA).
Việc nầy cũng giống như
cũng cùng một thân con sâu đó thôi mà biến-đổi thành ra con bướm khác vậy
vv... Dứt TRẦN-SA HOẶC và VÔ-MINH-HOẶC nầy rồi thì thành được các bậc
Quyền-thừa Bồ-tát.
3. Ðoạn sạch hoàn-toàn
hết các VÔ-MINH HOẶC rồi thì thành ra bậc Diệu-giác (tức là PHẬT)
Tóm lại:
- Từ khi phát tâm
Bồ-tát cho đến khi thành PHẬT, phải trải qua:
a. 10 lần phá TRẦN-SA
HOẶC (Ở giai-vị Thập-Tín Bồ-tát).
b. 40 lần pháp VÔ-MINH
HOẶC (Ở giai-vị Thập-Trụ vv... cho đến Thập-địa).
c. 1 lần phá VÔ-MINH sau
rốt (Ở giai-vị Ðẳng-giác Bồ-tát).
d. 1 lần phá VÔ-MINH
tối-hậu (Ở giai-vị Nhất-sanh bổ-xứ Bồ-tát).
Rồi mới thành PHẬT được.
Như vậy thì có:
- 10 lần phá
TRẦN-SA HOẶC,
- 42 lần phá
VÔ-MINH HOẶC,
Cộng lại có cả thảy là 52
lần phá VÔ-MINH (kể cả 10 lần phá TRẦN-SA HOẶC trong đó luôn). Rồi
mới thành PHẬT, ÐẲNG, CHÁNH-GIÁC, ... được vậy.
(Xét như vậy thì biết:
- Từ khi phát tâm
tu-hành cho chí đến khi thành PHẬT phải trải qua một thời-gian cực-kỳ lâu
dài, có khi phải mất đến nhiều hằng-hà sa-số A-tăng kỳ-kiếp, chớ không
phải như gần đây có một loại thiên-ma, ngoại-đạo nói rằng: Cứ đưa đầu cho
nó "Truyền tâm-ấn" rồi bảo-đảm 3 năm sau sẽ được thành PHẬT đâu).
(34)- Uế-độ: Là cõi đầy-đủ
các sự phiền não, ngũ-trược (ác-thế) như cõi Ta-bà của chúng ta đây
là một.
(35)- Hàm-thức: Hàm là ngậm,
Thức là tánh-linh. Ðây là chỉ cho các hữu-tình chúng-sanh có đầy-đủ
thức-tánh phân-biệt (hư-vọng phân-biệt) cũng như chúng ta vậy.
(36)- Thường-trú: Không biến
đổi, còn hoài, bất-sanh, bất-diệt, bất-cấu, bất-tịnh, bất-tăng, bất-giảm
vv...
(37)- Câu nầy ý nói các ngài
vẫn ở một chỗ mà phân-thân đi khắp mười phương để độ chúng-sanh.
(38)- Sát-na: Là 1/90 của một
niệm. Tức là trong một niệm-tưởng ngắn-ngủi của mình có đến 90 cái
"sát-na" - Như vậy thì xét biết thời-gian của cái "sát-na" ấy nó lẹ như
thế nào rồi!
(39)- Quả Thánh: Từ quả Tu
đa-hoàn trở lên như (Tư đà hàm, A na-hàm, A la-hán) thì gọi là
THÁNH của đạo PHẬT.
(40)- Trực-chỉ Thiền: Tôn-chỉ
của Thiền-tông là: "Chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật" (Trực
chỉ là chỉ thẳng).
(41)- Ngộ-đạo: Là thấy rõ
lối đi về (nhưng chưa đắc quả).
(42)- Mê-muội túc-căn: là
quên mất căn tu tiền-kiếp.
(43)- Ba cõi: Dục-giới, Sắc
giới, Vô-sắc giới.
(44)- Sự nhứt tâm bất-loạn:
tức là hành-trì câu niệm-Phật được nhứt-tâm.
(45)- Lý nhứt tâm: tức là
đoạn dứt các phiền-não, kiết-sử trói buộc.
(46)- Niệm Phật tam-muội: là
chỗ chứng-đắc cùng-cực, cao nhất của pháp-môn Tịnh-độ, người chứng được
Tam-muội nầy rồi thì tùy ý muốn thấy đức Phật nào thì Phật ấy hiện thân
cho thấy theo như-ý muốn, hoặc muốn sanh về thế-giới của Phật nào thì Phật
ấy cũng hiện-thân ra tiếp rước.
(47)- Bình nhựt: (đều-đặn)
mỗi ngày.
(48)- Chánh-pháp: Thời-gian
trong vòng 500 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn. Chữ CHÁNH đây có nghĩa là
CHỨNG. Trong thời-kỳ nầy, tuy Phật đã nhập-diệt, nhưng pháp-nghi,
giới-luật còn vững chắc, nên có người hành-trì, có người tu-chứng. Trong
trăm người tu cũng được 70, 80 người giải-thoát.
(49)- Tượng-pháp: Thời-gian
trong vòng 500 năm tiếp sau thời chánh-pháp (1000 năm sau khi Phật nhập
Niết-bàn). Chữ TƯỢNG đây có nghĩa là MƯỜNG-TƯỢNG, Tương-tợ mà thôi.
Thời-kỳ nầy giới-luật, pháp-nghi tu-hành của Phật để lại bị các Ma-tăng
(Ngoại-giáo trá-hình, lẫn-lộn vào trong Phật-giáo để phá rối đạo)
giảng giải sai lầm ... Nên tuy có giáo-lý, có người hành-trì ... song rất
ít người tu-chứng.
Trong 100 người tu may ra
chỉ được 1 hoặc 2 người đắc-đạo.
(50)- Mạt-pháp: Thời-gian 500
năm kế tiếp sau thời-gian Tượng-pháp (1500 năm sau khi Phật nhập
Niết-bàn) trở riết về sau. Chữ MẠT đây có nghĩa là VI-MẠT, là bụi
nhỏ, như chót nhọn của đầu sợi lông, như điểm sương ban sáng ... Thời-kỳ
nầy đạo-pháp suy-đồi, luật-nghi bại-hoại. Tà-ma, ngoại-đạo lẫn-lộn vào
trong Phật-giáo rất nhiều, phá hư Phật-pháp. Tuy rằng giáo lý vẫn còn,
người tu vẫn có, nhưng không một ai chứng-đắc được cả.
(51)- Năm thời kiên-cố:
a. Năm thời:
là 5 thời-kỳ biến-chuyển của Phật-pháp từ thạnh đến suy.
b. Kiên-cố: Ðây
là nói về tâm-niệm của chúng-sanh, vọng-chấp quá bền-chắc, khó nhổ lên,
khó xoay-chuyển nỗi tựa như rể cây quá sâu chắc không nhổ được vậy.
Theo kinh "Ðại-tập
Nguyệt-Tạng", sau khi Phật nhập Niết-bàn, Phật-pháp sẽ lần-lượt trải qua 5
thời-kỳ kiên-cố như sau:
1. Giải-thoát kiên-cố:
(Chánh-pháp).
Sau khi Thế-tôn nhập
Niết-bàn 500 năm đầu-tiên thì đệ-tử của Phật có nhiều vị tu-hành được
chứng-đắc, giải-thoát. Trong 100 người tu cũng có được 70, 80 người đắc
quả. Trong nhơn-gian đầy-dẫy các bậc nhơn-hiền.
2. Thiền-định kiên-cố:
(Tượng-pháp).
Sang đến 500 năm thứ hai,
hàng xuất-gia, tại-gia tuy ít có người chứng-đạo như 500 năm đầu, song vẫn
còn thực-hành y theo lời Phật dạy, đi sâu vào trong cảnh-giới Thiền-định.
Trong 100 người tu cũng có được 7,8 người chứng quả.
3. Ða-văn kiên-cố:
(Mạt-pháp).
Qua đến 500 năm thứ ba,
thì đạo-căn chúng-sanh cạn-cợt hơn trước nhiều. Ða phần chỉ ham thích
giảng-kinh, nói lý ngoài môi-miệng để cầu danh-lợi mà thôi. Trong muôn ức
người tu, họa may lắm mới có vài ba người đắc đạo.
4. Tháp-tự kiên-cố:
Sang qua 500 năm thứ tư
(tức là 2000 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn) - Phật-giáo đồ chỉ thuần
chuyên-chú vào các việc cất chùa to, tháp lớn để cầu phước-báo, chớ không
còn cầu việc giải-thoát nữa. Ức-ức kẻ tu-hành, song không có một ai chứng
đạo.
5. Ðấu-tranh kiên-cố:
Bước sang 500 năm thứ năm
(tức là 2500 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn - chính là thời buổi
bây-giờ đây) - Phật giáo-đồ vì ngã-chấp và tự-ái quá nặng, nên trong
đạo lẫn ngoài đời thường xảy ra nhiều cảnh tranh-đua, tàn-hại, giết-chóc
lẫn nhau. Tam-Bảo không còn đúng theo thiệt-nghĩa nữa.
Kinh nói: "Năm trăm năm
rốt sau ..." Chính là thời kỳ nầy, là hiện nay vậy.
(52)- Thánh-đạo: Tức là
phương-pháp tu-hành để đạt đến quả-vị Thánh. (Tứ-thánh: Thanh-Văn,
Duyên-Giác, Bồ-Tát, Phật).
(53)- Chứng-liệu: Tài-liệu
(kinh-pháp) dẫn ra để chứng-minh.
(54)- Tôn-đức: Các bậc Tổ-sư
đạo-cao, đức-trọng đã bước vào trong cảnh-giới chứng-ngộ rồi.
(55)- Liễu-đạt: Chứng-đắc và
giải-thoát.
(56)- Thiển-ý: Là ý-kiến
thô-sơ, nhỏ hẹp của mình (khiêm-nhượng).
(57)- Thời cận-đại: Là
thời-gian gần đây (vài ba trăm năm trở lại).
(58)- Cổ-xúy: Hô-hào, cổ-động
rầm-rộ ...
(59)- Tam-quán: Tức là quán 3
cái "KHÔNG" sau đây:
- Không quán: Mọi vật đều
là không có thật tánh, mọi pháp đều là Không.
- Giả- quán: Mọi vật và
các pháp đều vô-thưòng, giả-tạm.
- Trung-quán: Là
Trung-đạo - chẳng phải thật cũng chẳng phải giả, chẳng phải có cũng chẳng
phải không.
(60)- Khai-tổ bản-tông: là
người khai-sáng ra một Tông-phái tu-tập.
(61)- Mô-phạm: Người dẫn-đạo,
chỉ dắt đường lối tu-hành.
(62)- Ðâu-suất tịnh-độ: Tức là
nội-viên cung trời Ðâu-Suất nơi Nhất-sanh Bổ-xứ Bồ-tát ở (Ðức Di-Lặc)
- còn ngoại-viên Ðâu-Suất là nơi chư thiên ở thì không được gọi
tịnh-độ được (vì chư thiên nơi cõi trời nầy vẫn còn đắm-say ngũ-dục
lạc).
(63)- Tức là bàn-luận về
nhơn-tâm (lòng người) và hoàn-cảnh, thời thế hiện-tại.
(64)- Hoằng-dương đạo-pháp:
Tức là làm cho đạo-pháp càng ngày càng được phổ-biến rộng-rãi hơn lên -
cho khắp mọi nơi, mọi người đều biết.
(65)- Sở-dĩ chỉ nói bên
Trung-Hoa mà không nói đến Ấn-Ðộ, Tích-Lan ..vv... (hay các xứ khác)
là bởi vì Phật-giáo Ðại-thừa Việt-Nam chỉ ảnh-hưởng nhiều nhất từ nơi
Phật-giáo Trung-quốc mà thôi.
(66)- Tức là thời Cách-mạng
dân-chủ tại Trung-Hoa do Tôn-Văn (Tôn Nhật Tiên) chủ-trương
canh-tân Trung-Hoa thời-đại sau nầy ...
(67)- Cao-Hạt-Niên là tên của
một danh-sĩ Phật-giáo nổi tiếng và được đa-phần Phật-tử thời đó khâm-phục.
(68)- Danh-lam: Chùa nổi
tiếng có bậc cao-tăng đạo-hạnh.
(69)- Phú-pháp: tức là
truyền-pháp, truyền ngội-vị giáo-chủ của mình lại cho một người khác.
(70)- Huệ-Khả Ðại-sư: tức là
nhị-tổ Thần-Quang kế-truyền y-bát tổ-sư (Thiền-tông) từ nơi Ðông-độ
sơ-tổ là Ðạt-Ma tổ-sư.
(71)- Lời dạy nầy ứng với cơ
Phật-giáo đời nay, hầu hết các vị "như-lai sứ-giã" đứng ra
hoằng-đạo đều chỉ có nói lý-thuyết suông căn-cứ trên kinh-điển mà thôi chớ
ít có ai chịu thực-hành y theo lý cả.
(72)- DIỆU-HỮU (là SỰ)
TỨC CHƠN-KHÔNG (là LÝ) - Câu pháp ngữ vô-thượng thậm-thâm nầy ý
dạy: Biết LÝ rồi thì phải áp-dụng lý ấy vào SỰ thực-hành mới có kết quả
được. Thí-dụ như nói: Niệm Phật được Phật rước - thì phải ra trước bàn
Phật quỳ xuống niệm Phật liền - chớ nói suông mà không niệm thì không được
Phật rước vậy.
Trong Bát-nhã Tâm-kinh
dạy:
"SẮC TỨC THỊ KHÔNG - KHÔNG
TỨC THỊ SẮC" câu kinh nầy cùng với câu: DIỆU-HỮU TỨC CHƠN-KHÔNG -
CHƠN-KHÔNG TỨC DIỆU-HỮU" cùng đồng văn, đồng nghĩa với nhau không khác.
Bởi SẮC tức là CÓ, là
DIỆU-HỮU, là SỰ - còn KHÔNG là CHƠN-KHÔNG, là LÝ - Vậy cho nên khi tụng
Bát-nhã đến câu kinh nầy thì phải hiểu ý Quán Tự-Tại bồ-tát dạy rằng:
Hiểu LÝ rồi thì phải
hành-trì SỰ - SỰ và LÝ đi đôi với nhau SỰ tức là LÝ, LÝ tức SỰ vậy.
Người học Phật, tu Phật
triệt-để phải hiểu, phải nhớ và phải thực hành theo lời dạy nầy, nếu không
(thực-hành) thì cũng giống như ăn bánh vẽ mà thôi. (làm sao no
được).
(73)- Mộ-đạo: Mến thương, ưa
thích đạo (Phật của ta).
(74)- Tiến-chứng: tức là tu
tiến và chứng-đạo (tức là chứng LÝ, là đắc-đạo).
(75)- Trưởng-lão: là các bậc
tu-hành cao-hạ, lâu năm, nổi danh về đạo-cao, đức-trọng.
(76)- Thật-địa: tức là
chứng-đắc, chứng-đạo.
(77)- Hư-Vân Thiền-sư: Một vị
cao-tăng chứng-đạo ở bên Thiền-tông vào thời cận-đại Trung-quốc.
(78)- Di-Lặc Bồ-tát: là một
vị Bồ-tát nhất sanh bổ-xứ (một đời nữa sẽ thành Phật), nối-tiếp đức
Thích-Ca Như-lai thành Phật ở cõi Ta-bà nầy vào tiểu-kiếp thứ 10 khi
nhơn-thọ sống đến 80,000 tuổi.
(79)- Thuộc-phái: là các
đệ-tử trực-thuộc trong môn-phái của mình
(80)- Tệ-nhơn: Là người hèn,
xấu. Ðây là danh-từ bày tỏ lên ý khiêm-hạ của Hòa-thượng soạn-giả
(Hòa-thượng Thích Thiền-Tâm).
(81)- Trong hai câu nầy thì
câu thứ nhất:
- Một áng khói mây
phong cửa động.
là ý nói: Vì bị một đám mây khói
vô-minh che mờ chơn tánh - tức là Phật tánh - lấp nẻo giải-thoát đi.
Câu 2: Muôn chim về
tổ chợt mê đường.
Là ý nói: Bởi vì bị vô-minh che mờ,
lấp nẻo giải-thoát như thế, cho nên chúng-sanh bị mê muội chơn-tâm đi, cam
chịu bị ngũ dục vùi sâu vào trong 6 nẻo luân-hồi.
Lại cũng có ý nói rằng:
- Cứ mãi mê tranh-đấu hơn
thua, thấp cao trong đạo (ta hay, người dở vv...) cho nên tu-hành
hoài mà vẫn không chứng đạo được.
(82)- Kiến-giải: Chỗ thấy
biết (của riêng mình).
(83)- Túc-tập: là tập-khí, là
công-phu (tu) của tiền-kiếp còn sót lại.
(84)- Cừ Bá-Ngọc: Tên một văn
nhân, nho-sĩ ... lập tâm sửa đổi tánh hạnh của mình - Ðến năm người được
50 tuổi, vẫn còn than rằng:
- Tôi năm nay 50 tuổi,
ngóộai năm 49 vẫn còn thấy quá nhiều lầm-lỗi.
(85)- Triệu-Châu: Tức là Tổ
Triệu-Châu (Thiền-tông) tám chục tuổi mà vẫn còn học hỏi (đạo
pháp).
(86)- Hai câu thơ trên đây hàm ý
của soạn-giả rằng:
Nghĩ phận mình mang
tiếng là tăng, thừa ơn, lộc của Tam-Bảo mà tu-hành chưa xứng với danh-phận
(người Tăng-sĩ).
Nhớ đến quê nhà An-Dưỡng quốc mà mình cách-biệt đã từ lâu, lòng càng thêm
bàng-hoàng, thương-cảm (tha-thiết mong được sanh về)
---o0o---